Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Người Phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ quan điểm giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 118 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––

TRẦN THỊ NHUNG

NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1




2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––

TRẦN THỊ NHUNG

NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC


NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NHO THÌN

THÁI NGUN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2




3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3
3. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 8
4. Mục đích nghiên cứu........................................................................................ 8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................... 9
6. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................ 9
7. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 9
8. Bố cục luận văn ..............................................................................................10
NỘI DUNG ................................................................................................................... 11

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU
NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC TỪ
QUAN ĐIỂM GIỚI .............................................................................. 11
1.1 Khái niệm giới (gender) ................................................................................11
1.2 Quan điểm văn hoá về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại ..............................13
1.3 Nữ giới trong văn học viết Việt Nam trước thế kỷ XVI ....................................30
1.4 Thân thế và thời đại Nguyễn Dữ ...................................................................33
CHƢƠNG 2. NGƢỜI PHỤ NỮ CHÍNH DIỆN LÝ TƢỞNG TRONG
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC .................................................................... 35
2.1 Ngoại hình ....................................................................................................35
2.2 Ngơn ngữ ......................................................................................................39
2.3 Tâm lý...........................................................................................................45
2.4 Cách ứng xử, hành động................................................................................51
2.5 Số phận .........................................................................................................60
2.6 Những lời bình giá về người phụ nữ ..............................................................65
CHƢƠNG 3. NGƢỜI PHỤ NỮ PHẢN DIỆN TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ...... 72
3.1 Ngoại hình ....................................................................................................72
3.2 Ngơn ngữ ......................................................................................................78
3.3 Tâm lý...........................................................................................................86
3.4 Cách ứng xử, hành động................................................................................90
3.5 Số phận .........................................................................................................97
3.6 Những lời bình giá về người phụ nữ ............................................................ 101
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
110

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3





1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Người phụ nữ chiếm một nửa nhân loại, hiển nhiên họ có vai trị, vị trí to
lớn trong đời sống gia đình và xã hội. Nghiên cứu người phụ nữ trong văn học vì
thế đã trở thành một hướng nghiên cứu rất phổ biến và phát triển trên thế giới.
Mặc dù nam giới và nữ giới có vai trị tương đương và quan trọng như nhau
trong cuộc sống nhưng có một thực tế là tương quan giữa người phụ nữ với người đàn
ông trong lịch sử văn hóa và văn học lại khơng phải khi nào cũng bình đẳng. Trong lịch
sử, có một thời kỳ lâu dài, xã hội phương Đơng nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng
vận hành theo kiểu xã hội nam quyền, người đàn ông đã thống ngự nữ giới và áp đặt các
chuẩn mực của họ về cái đẹp, về hành vi, về đức hạnh cho người phụ nữ, bất cơng bất lợi
cho người phụ nữ và có lợi cho nam giới. Trong văn học, ở những thế kỷ đầu tiên của
nền văn học viết Việt Nam, kiểu nhân vật độc chiếm là những người đàn ông, họ có thể
là các thiền sư, các nho gia hay có thể là đạo sĩ. Thảng hoặc nếu ở đôi ba trường hợp có
sự hiện diện của nhân vật người phụ nữ thì họ thường bị nhìn qua lăng kính của tư tưởng
nam quyền, coi người phụ nữ như là nguồn gốc của sự cám dỗ, có thể đe dọa cơng phu tu
trì đạo đức của nhà tu hành, đe dọa lý tưởng “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của thánh
nhân qn tử. Một số cơng trình nghiên cứu gần đây đã nêu nhận xét về ảnh hưởng của
tư tưởng nam quyền đến vấn đề người phụ nữ trong văn học trung đại. Nhưng hiện hãy
cịn rất ít nghiên cứu phân tích cụ thể những ảnh hưởng của tư tưởng này đến việc xây
dựng hình tượng người phụ nữ như một hiện tượng nghệ thuật trong thời kỳ văn học này.
Luận văn của chúng tôi với đề tài về Người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ
quan điểm giới cố gắng góp phần nhỏ bé để làm đầy khoảng trống đó.
Nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam có thể thấy một sự thật khơng thể
phủ nhận là dù nhìn nhận theo quan điểm nào đi nữa, nhân vật văn học giai đoạn từ

thế kỷ X đến thế kỷ XV chủ yếu là nam giới. Thánh tông di thảo tuy viết khá nhiều
về người phụ nữ nhưng vấn đề tác giả của tập tác phẩm này hiện chưa được giải
quyết triệt để. Một số thi nhân trong lịch sử văn học từ thế kỷ X đến thế kỷ XV có
đề cập đến người phụ nữ song dưới dạng thức thơ và q ít để có thể từ đó khái quát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1




2

lên một ngun tắc thi pháp có tính hệ thống. Vì vậy, chúng ta có rất ít dữ kiện để
tìm hiểu xem xét toàn diện cơ chế chi phối của tư tưởng nam quyền đến việc xây
dựng nhân vật người phụ nữ. Trong bối cảnh “văn hóa giới” đặc biệt đó, Truyền kỳ
mạn lục có một vị trí đặc biệt. Trong tổng số 20 truyện của tồn tập, có đến 11
truyện xây dựng hình tượng người phụ nữ - một tỉ lệ hiếm thấy trước đó. Chưa bao
giờ mà nhân vật người phụ nữ lại xuất hiện dày đặc như thế trong văn học trung đại
Việt Nam. Do đó, chọn nghiên cứu tác phẩm này, chúng ta có được những căn cứ tư
liệu đa dạng, phong phú để tìm hiểu hai kiểu loại nhân vật phụ nữ dưới cái nhìn của
nhà Nho vốn thiên về mối quan tâm đến giá trị đạo đức theo chuẩn mực Nho giáo:
nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Là một nhà Nho, Nguyễn Dữ hiển nhiên mang quan điểm mỹ học Nho gia vốn coi
cái đẹp là cái đạo đức, cái gì phù hợp với đạo đức theo quan niệm Nho gia là cái đẹp còn
những yếu tố thiên về đời sống bản năng tự nhiên là xấu và bị xem thường. Vì thế, những
người phụ nữ được ông xây dựng với cảm hứng ca ngợi là điển hình cho kiểu người phụ nữ
tuân thủ các chuẩn mực người phụ nữ công dung ngơn hạnh, trinh tiết, trinh liệt, trong
trường hợp do địi hỏi của tình huống ứng xử có thể lấy cái chết để chứng minh hay bảo vệ

cho đạo đức này. Trái lại, người phụ nữ phản diện thường là những người có lối sống tự do,
nhất là tự do yêu đương, nhiều khi là tình yêu mang yếu tố thân xác đậm nét. Tuy nhiên, một
tác giả văn học lớn ln có tinh thần nhân đạo cao cả. Nguyễn Dữ trong khơng ít trường hợp,
dù là vơ thức hay có ý thức, đã khơng chỉ tái hiện hình tượng người phụ nữ trinh liệt với cảm
hứng ngợi ca mà còn cố gắng chỉ ra bi kịch và sự bất công của xã hội nam quyền và sự hy
sinh đầy xót xa của những người phụ nữ ấy. Mặt khác, khi miêu tả với tinh thần phê phán
những người phụ nữ tự do, bng thả trong tình u, vơ thức hay hữu thức, nhà văn lại đưa
những dịng ngợi ca cơng khai quyền sống của người phụ nữ về thân xác. Cho nên, chọn
nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục còn là chọn một trường hợp mà tác giả nhà Nho vừa tuân thủ
những nguyên lý đạo đức - thẩm mỹ Nho gia, lại vừa có thể phá vỡ những nguyên lý ấy ở
mức độ nhất định để đến với cái nhìn nữ quyền trong phạm vi mà thời đại cho phép.
Từ những lí do trên, chúng tơi chọn nghiên cứu đề tài Người phụ nữ trong
Truyền kỳ mạn lục nhìn từ quan điểm giới.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2




3

2. Lịch sử vấn đề
Nắm được lịch sử vấn đề nghiên cứu để tìm ra lối đi riêng là một việc làm
quan trọng không thể thiếu khi thực hiện đề tài Người phụ nữ trong Truyền kỳ
mạn lục nhìn từ quan điểm giới - đặc biệt, trong tình hình nghiên cứu Truyền kỳ
mạn lục qua các giai đoạn ngày càng có bước phát triển cả về lượng và chất, càng
ngày càng trở nên bề bộn theo thời gian. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy, nghiên cứu về
người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục cũng là một đề tài có bề dày lịch sử. Ở đây,

chúng tôi chỉ đề cập những cơng trình tiêu biểu.
Bùi Kỷ có thể được coi là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên bàn luận về
vấn đề người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục với Lời giới thiệu Truyền kỳ mạn lục (bản dịch
của Trúc Khê Ngô Văn Triện xuất bản năm 1940). Trong lời giới thiệu này, khi nêu chủ đề
từng truyện, Bùi Kỷ đã có một vài đánh giá sơ lược về người phụ nữ. Tuy nhiên, quan điểm
đạo đức thẩm mỹ của Bùi Kỷ trong bài viết này khá phức tạp, khi thì ơng phê phán thuyết
“Tịng phu” của Nho gia, khi lại đứng trên lập trường nhà Nho để nhìn nhận nhân vật.
Nhận xét về chủ đề các truyện có người phụ nữ tiết liệt, Bùi Kỷ thể hiện khá rõ thái
độ phê phán thuyết “Tịng phu”. Ơng nhận xét: “Truyện 2 (Chuyện người nghĩa phụ ở
Khoái Châu) và truyện 16 (Chuyện người con gái Nam Xương): Tả rõ phụ nữ ở xã hội cũ,
dù ăn ở thủy chung với chồng thế nào, cũng chịu một thân phận hèn kém: Một đằng vì thua
bạc mà gán vợ, một đằng vì ngờ vực hão huyền để vợ phải quyên sinh. Đáng giận thay cái
thuyết “Tòng phu” đã làm hại bao nhiêu bạn quần thoa trong bao nhiêu thế kỷ!” [60.234].
Đối với nhân vật nữ vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến, Bùi Kỷ tuy khơng
phân tích rõ nhưng lại tỏ thái độ khơng đồng tình với những hành vi của họ. Ông
cho rằng: “Truyện 3 (Chuyện cây gạo), cũng như truyện 5 (Chuyện kỳ ngộ ở Trại
Tây), truyện 11 (Chuyện u qi ở Xương Giang): có ý bài xích những thói đắm
đuối trong vịng tình dục của bọn thiếu niên” [60.234]. Đương nhiên, “bọn thiếu
niên” mà nhà nghiên cứu nói đến ở đây gồm cả nhân vật nam và nữ.
Ngoài ra, ở các truyện cịn lại có nhân vật nữ, Bùi Kỷ chủ yếu nghiêng về vấn đề xã
hội. Ông nhận định: Truyện 6 (Chuyện đối tụng ở Long cung) “bài xích quỷ thần”, truyện 7
(Chuyện nghiệp oan của Đào Thị) “vạch trần những hành động bất bình của bọn đội lốt thầy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3





4

tu”, còn truyện 14, 18 (Chuyện nàng Tuý Tiêu và Chuyện Lệ Nương) “Tả nông nỗi luân lạc
của người phụ nữ, một đằng vì tên cường quyền chiếm đoạt làm cho rẽ thuý chia uyên, một
đằng vì bọn ngoại xâm lăng lồn áp bức, làm cho bình rơi trâm gẫy…” [60.235].
Điểm qua có thể thấy, trong những lời định giá này, tiêu chí để Bùi Kỷ đánh giá nhân
vật nữ về cơ bản vẫn là tiêu chí đức hạnh của nhà Nho. Tuy có đề cập đến thân phận thấp hèn
của người phụ nữ trong tương quan với nam giới, nhắc đến bất cơng trong đạo “Tam tịng”
nhưng nhà nghiên cứu không nhấn mạnh những đặc điểm này mà chú ý nhiều hơn đến ngợi
khen, thương xót những người phụ nữ tiết hạnh và phê phán những người phụ nữ sống vượt
khn phép Nho gia. Trường nhìn của Bùi Kỷ ít nhiều đã bao hàm vấn đề giới khi ông đặt
người phụ nữ trong tương quan với người đàn ông để phê phán thuyết “Tòng phu”, bảo vệ
người phụ nữ, nhưng về cơ bản ông vẫn đứng từ quan điểm đạo đức Nho gia để nhìn nhận họ.
Tương đối thống nhất với quan điểm đánh giá của Bùi Kỷ là quan điểm
đánh giá của cố Giáo sư Bùi Duy Tân. Trong bài nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục,
một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán, Bùi Duy Tân thể hiện thái
độ ngợi khen những người nghĩa phụ tiết liệt, đáp ứng chuẩn mực Nho gia; đồng
thời ông phê phán những người phụ nữ dám chủ động đi tìm tình u và hạnh phúc
ái ân, khơng sống theo chuẩn mực Nho gia yêu cầu. Nhà nghiên cứu khẳng định:
“Trong Truyền kỳ mạn lục, đối lập với những nhân vật phản diện, tiêu cực, đại biểu
cho những cái xấu xa, Nguyễn Dữ đã xây dựng những nhân vật có nhiều mặt tích
cực… nàng Nhị Khanh thì đảm đang, tiết liệt, Lệ Nương, Dương Thị, Túy Tiêu thì
thủy chung với người yêu, với chồng… Và tuy những nhân vật ấy thường thể hiện
phẩm chất cao qua khuôn trung, hiếu, tiết, nghĩa, nhưng thực chất thì lại phản ánh
những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, và phần nào thể hiện những yêu
cầu của nhân dân về đạo lý làm người và những mối quan hệ cần xây dựng trong
gia đình và xã hội…” [21.517]. Ơng cho rằng những hành động táo bạo và phóng
túng của kiểu người phụ nữ như Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, Đào Hồng
Nương, Liễu Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây là “xa lạ với quan niệm
lành mạnh về cuộc sống, về tình u nam nữ trong truyện Nơm bình dân, trong văn

nghệ dân gian” [21.519].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4




5

Nhận xét về chủ đề của các truyện có người phụ nữ, Bùi Duy Tân chú ý đến vấn
đề hiện thực xã hội và luân lý Nho gia. Ông nhận xét: “Truyện người nghĩa phụ ở Khoái
Châu, Truyện người con gái Nam Xương phản ánh tình cảnh đáng thương của người phụ
nữ trong xã hội cũ: đảm đang, tình nghĩa mà vẫn phải chịu số phận oan nghiệt. Truyện
Từ Thức lấy vợ tiên miêu tả một mối tình thơ mộng giữa một nàng tiên mang nặng tình
người với một kẻ đã treo ấn từ quan, ở nơi bồng lai tiên cảnh. Truyện Lệ Nương là bi
kịch về một mối tình chung thủy trong bối cảnh đất nước ngoại xâm. Các truyện Nghiệp
oan của Đào Thị, Nàng Túy Tiêu, Cây gạo, Truyện kỳ ngộ ở trại tây… thì lại miêu tả
những mối tình trái với đạo lý Nho gia” [21.518].
Lý giải nguyên nhân gây ra bi kịch của người phụ nữ, Bùi Duy Tân nhấn
mạnh sự suy đồi của xã hội, đặc biệt là sự hoành hành của thế lực đồng tiền: “Trong
Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Nhị Khanh là nạn nhân của một người
người chồng, vì chơi bời và ham tiền mà để vợ rơi vào tay Đỗ Tam, một tên lái
bn giàu có, quỷ quyệt. Trong Truyện cây gạo, Trình Trung Ngộ là một gã phú
thương ở đất bắc, si mê tình ái đến nỗi bỏ mạng. Truyện yêu quái ở Xương Giang
thì kể về gã phú thương họ Phạm, bỏ tiền ra mua một cô gái nhỏ có nhan sắc để làm
việc dâm ơ. Những tên lái buôn ấy dựa vào thế lực đồng tiền để tác phúc, tác họa,
vung vãi bạc vàng để thỏa mãn khoái lạc vật chất. Lối sống của chúng tiêu biểu cho
chất trụy lạc của tầng lớp thị dân hư hỏng và của cả giai cấp phong kiến lúc đương

thời. Nguyễn Dữ đã làm đúng khi thẳng tay đả kích lối sống ấy” [21.514].
Có thể thấy, khi nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, nhà
nghiên cứu Bùi Duy Tân cơ bản vẫn đứng từ góc nhìn xã hội học. Ở bài viết của mình, nhà
nghiên cứu nghiêng về khảo sát hoàn cảnh xã hội để lý giải các hiện tượng văn học và hầu như
chưa đặt ra vấn đề nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ trong tập tác phẩm này từ góc nhìn giới.
Nguyễn Phạm Hùng cũng là một trong những nhà nghiên cứu quan tâm đến đề
tài người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục. Trong bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng
tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, ông đã đưa ra một số nhận định về vấn đề
người phụ nữ trong tập truyện này. Nhà nghiên cứu đánh giá: “Tựu chung, lần đầu tiên
trong văn học Việt Nam, người phụ nữ đã xuất hiện rầm rộ như thế ở Truyền kỳ mạn lục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5




6

với cả diện mạo, tâm hồn, tình cảm, nhu cầu và khát vọng, với số phận của mình… Nếu
như trước đây, hình ảnh người phụ nữ q tộc có đi vào sáng tác của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Húc v.v.. thì thường cũng mới chỉ dừng lại ở sự nhận thức trên bình độ tâm lý,
cịn ở đây, nó là một đối tượng nhận thức, đối tượng thẩm mỹ trọn vẹn, thành vấn đề
người phụ nữ trong văn học…” [14.499]. Ông nhấn mạnh bi kịch của nhân vật nữ, nêu ra
những nguyên nhân phá hủy khát vọng hạnh phúc chân chính của người phụ nữ để
khẳng định lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ: “… Người phụ nữ, hoặc vì chiến tranh phong
kiến tàn khốc mà phải chịu thiệt thòi, khổ sở (Truyện Lệ Nương), hoặc vì kẻ quyền thế
độc ác xảo trá mà phải chịu cảnh “rẽ thúy chia uyên” (Truyện nàng Túy Tiêu); hoặc vì
nam quyền phong kiến mà phải chịu chia lìa (Truyện người thiếu phụ Nam Xương)…

Những khao khát hạnh phúc chân chính của người phụ nữ thường dẫn họ đến chỗ chết,
và thường tự tận… Cái chết đeo đuổi hầu hết các số phận phụ nữ trong Truyền kỳ mạn
lục. Dường như đó là giải pháp phổ biến, và cũng là giải pháp cuối cùng của tác giả khi
giải quyết vấn đề này - đó là cái bế tắc đến cùng cực của Nguyễn Dữ trước những vấn đề
con người trong xã hội đó. Rất ít số phận phụ nữ trong tác phẩm của ơng được sống sót,
và sự sống sót đó hầu như cũng khơng đem lại một hứa hẹn tươi sáng nào!” [14.498-499].
Nói chung, những phát hiện của Nguyễn Phạm Hùng về nhân vật nữ trong
Truyền kỳ mạn lục trình bày trong bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã đóng góp thêm tiếng nói trong lịch sử nghiên
cứu vấn đề này. Qua bài viết, nhà nghiên cứu đã khẳng định vị trí đặc biệt của
Truyền kỳ mạn lục trong tiến trình văn học ở đề tài người phụ nữ và chỉ ra tinh thần
nhân đạo của Nguyễn Dữ khi viết về họ. Tuy nhiên, những nhận xét của Nguyễn
Phạm Hùng cịn khá sơ lược, chưa mang tính chất chuyên khảo. Hơn nữa, một số
nhận định của ông thiên về ca ngợi mà không thấy hạn chế nhất định trong những
hình tượng này cũng như trong tư tưởng Nguyễn Dữ. Chẳng hạn, ông đánh giá: “…
Một quan niệm mới về việc phản ánh con người đã xuất hiện. Truyền kỳ mạn lục là
như vậy. Nó ca ngợi vẻ đẹp của con người, cả về vật chất và tinh thần. Những hình
ảnh da thịt hồng hào, tươi tốt, hở hang rất dễ gặp trong tác phẩm này. Những dục
vọng, ước muốn thốt ra ngồi sự tỏa chiết của tư tưởng Nho gia về “tu, tề, trị,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6




7

bình” với người qn tử, “cơng, dung, ngơn, hạnh” đối với người phụ nữ phong

kiến cũng rất dễ gặp ở đây. Con người, đó khơng phải là những tấm gương chói lịa
về các anh hùng, liệt nữ lưu danh sử sách mà là những con người của đời sống thực
tế sơi động, cay nghiệt” [14.501]. Nhận định này có phần cực đoan, bởi lẽ, tuy
Nguyễn Dữ đã có nhiều điểm nhân văn tiến bộ hơn so với nhà Nho đương thời
nhưng những nhân vật của ông ở một chừng mực nhất định vẫn được khen, chê theo
tiêu chí Nho gia, những khát vọng mang hơi hướng vật chất trong truyện khơng
được Nguyễn Dữ cơng khai ca ngợi, thậm chí ít nhiều cịn bị ơng phê phán.
Nguyễn Đăng Na cũng là một người dành nhiều tâm huyết với vấn đề người
phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục. Ở bài viết Truyện ngắn trong sự phát triển của văn
xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, nhà nghiên cứu chia nhân vật nữ trong Truyền
kỳ mạn lục thành ba kiểu là nhân vật nữ “có thể gọi là hạnh phúc” (Tuý Tiêu trong
Chuyện nàng Tuý Tiêu, Dương Thị trong Chuyện đối tụng ở Long cung), nhân vật
nữ “sống hiếu hạnh nết na, chuẩn mực mọi điều” (Lệ Nương trong Chuyện Lệ
Nương, Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Vũ Nương trong
Chuyện người con gái Nam Xương…) và nhân vật nữ “sống tự do phá phách” (Nhị
Khanh trong Chuyện cây gạo, Đào Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị,
Đào Hồng Nương, Liễu Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây…). Để đưa ra
những phân tích và nhận định về người phụ nữ, nhà nghiên cứu đã tiếp cận nhân vật
từ hai góc độ chính là thi pháp học và xã hội học. Ngồi ra, ơng đã ít nhiều đứng từ
góc độ nữ giới để nhìn nhận số phận người phụ nữ, phê phán Trương Sinh là
“chồng ngu”, “chồng ghen tuông”, “chồng phũ phàng”, phê phán Trọng Quỳ là
“chồng chó lợn”... Tuy nhiên, ở cơng trình này, nhà nghiên cứu cũng chưa đặt ra
vấn đề nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ từ góc độ giới một cách có chủ định.
Tác giả Tồn Huệ Khanh trong cơng trình Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết
truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam cũng đề cập đến một số nhân vật nữ
trong Truyền kỳ mạn lục, phân loại họ vào nhân vật của hai kiểu truyện là truyện kỳ
qi và truyện diễm tình. Cơng trình này đã giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn
về sự giao thoa giữa tác phẩm truyền kỳ của các quốc gia vùng văn hóa Hán. Tuy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7




8

nhiên vì chỉ xác định mục tiêu là phân tích nhân vật theo mơ-típ nên nhà nghiên cứu
này chưa quan tâm đến phương diện giới tính nữ của các nhân vật nữ. Những tri
thức về văn hóa giới ở Việt Nam thời trung đại cũng chưa được Toàn Huệ Khanh
vận dụng để lý giải hình tượng người phụ nữ.
Tóm lại, hầu hết các cơng trình nghiên cứu đã có về Truyền kỳ mạn lục
chưa đặt vấn đề nghiên cứu hệ thống nhân vật nữ từ góc nhìn giới tính của họ.
Trường quan sát của những nhà nghiên cứu này không hoặc ít bao hàm vấn đề giới.
Điều này khiến cho nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục đôi khi bị nhìn nhận thiên
lệch về vấn đề giai cấp hoặc đạo đức mà mờ nhạt về đặc điểm giới. Chính vì thế mà
luận văn hy vọng góp phần nhỏ xới lên hướng nghiên cứu giới của nhân vật nữ
trong Truyền kỳ mạn lục, góp phần giúp người đọc thấy thêm những phương diện
khác của nhân vật nữ trong tập truyền kỳ này.

3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi là người phụ nữ trong Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ.
Để có cái nhìn đầy đủ, khách quan hơn chúng tôi chọn nghiên cứu thêm người
phụ nữ trong một vài tác phẩm văn học Việt Nam trung đại và tư liệu lịch sử, tư liệu văn
hoá để so sánh khi cần thiết. Một số tư liệu tiêu biểu là: Truyện Kiều - Nguyễn Du, Cung
oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm khúc - Đặng Trần Côn, Gia huấn ca
- Nguyễn Trãi, Đại Việt sử ký tồn thư, Lê triều hình luật, Đại Nam thực lục.


4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục từ góc độ xem
xét việc tác giả miêu tả, đánh giá, lý giải các phương diện giới tính nữ của chúng.
Qua đó làm nổi bật sự chi phối của quan điểm giới trong thời trung đại như một vấn
đề văn hóa quan trọng đến nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ, đến quan
niệm nghệ thuật về người phụ nữ.
Luận văn cũng quan tâm chỉ ra một số biểu hiện có thể có của tư tưởng nữ quyền,
biểu hiện rõ rệt của tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa của nhà Nho Nguyễn Dữ khi viết về phụ
nữ, tất nhiên là tư tưởng nữ quyền ở mức độ ban đầu mà thế kỷ XVI cho phép, gợi ý.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8




9

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài như: khái
niệm giới; quan điểm văn hóa về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại; nữ giới trong
văn học viết Việt Nam trước thế kỷ XVI; thân thế và thời đại Nguyễn Dữ.
- Phân loại, phân tích, cắt nghĩa hai kiểu phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục từ
góc nhìn giới: Người phụ nữ chính diện lý tưởng và người phụ nữ phản diện. Tìm
hiểu sự chi phối của quan điểm giới thời trung đại đến nghệ thuật xây dựng hai kiểu
phụ nữ này qua ngoại hình, ngơn ngữ, tâm lý, cách ứng xử hành động, số phận của
họ và cách bình giá của người trần thuật, của tác giả lời bình về họ.
Như một số nghiên cứu đã chỉ rõ, Truyền kỳ mạn lục chịu ảnh hưởng khá
sâu sắc của Tiễn đăng tân thoại. Tuy nhiên trong khn khổ một luận văn Thạc sĩ,

chúng tơi chưa có điều kiện so sánh hình tượng người phụ nữ trong hai tác phẩm
này. Hy vọng đây sẽ là đề tài của một cơng trình nghiên cứu khác.

6. Nội dung nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục qua ngoại hình,
ngơn ngữ, tâm lý, cách ứng xử hành động và số phận của họ; đồng thời tìm hiểu và
lý giải cách miêu tả, cách nhìn nhận, bình giá của tác giả về những yếu tố đó ở hai
kiểu người phụ nữ: người phụ nữ chính diện lý tưởng và người phụ nữ phản diện.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chính là: Phương pháp tiếp cận văn hóa học, Phương pháp thống kê, Phương pháp
hệ thống và Phương pháp so sánh.

7.1 Phương pháp tiếp cận văn hóa học
Chúng tơi vận dụng phương pháp tiếp cận văn hố học để giải mã hình tượng người
phụ nữ, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng. Bởi lẽ, xã hội Việt Nam truyền thống
(chúng tôi nói đến xã hội người Kinh chịu ảnh hưởng Nho giáo chứ không bàn đến xã hội
của các tộc người ít hay không chịu ảnh hưởng Nho giáo) nếu xét từ quan điểm giới là xã hội
nam quyền, một kiểu xã hội trong đó, các chuẩn mực đạo đức của người nữ do người nam
áp đặt (ví dụ chỉ có người phụ nữ phải giữ gìn trinh tiết, chỉ được phép lấy một chồng cịn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9




10


người nam lại không bị hạn chế, không bị ràng buộc bởi phạm trù này, người nam có quyền
chủ động hơn người nữ trong tình u, hơn nhân trong khi người nữ phải đóng vai trị bị
động). Quan điểm văn hoá này đã chi phối đến cách xây dựng người phụ nữ chính diện lý
tưởng và người phụ nữ phản diện trong Truyền kỳ mạn lục, đến cách tả, cách kể về họ.

7.2 Phương pháp thống kê
Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để khảo sát, thống kê nhân
vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, từ đó phân loại nhân vật, tìm hiểu tính cách, số phận người
phụ nữ cũng như nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật nữ trong tác phẩm này. Ngồi
ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp thống kê để xử lý thông tin trong các tư liệu lịch sử,
tư liệu văn học được sử dụng để chứng minh các luận điểm đã đưa ra.

7.3 Phương pháp hệ thống
Là một trong những yếu tố cấu thành chỉnh thể tác phẩm, nhân vật người phụ nữ
được xem xét trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống nhân vật, với cốt truyện, giọng
điệu, kết cấu… Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống nhằm mục đích giúp cho việc
tìm hiểu người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục đạt cái nhìn sâu sắc, đầy đủ hơn.

7.4 Phương pháp so sánh
Để thấy được các mối liên hệ đa dạng, đa chiều cũng như nét chung, nét
riêng độc đáo của nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, luận văn sử dụng phương
pháp so sánh. Chúng tôi dự kiến sẽ so sánh người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục
với người phụ nữ trong một số truyện Nôm và khúc ngâm tiêu biểu của Văn học
Việt Nam trung đại thế kỷ XVIII, người phụ nữ trong một vài tác phẩm văn học
đương đại và trong các tư liệu lịch sử đã chọn làm đối tượng nghiên cứu.

8. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai
trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tìm hiểu người phụ nữ trong

Truyền kỳ mạn lục từ quan điểm giới
Chương 2: Người phụ nữ chính diện lý tưởng trong Truyền kỳ mạn lục
Chương 3: Người phụ nữ phản diện trong Truyền kỳ mạn lục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10




11

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI
Để nghiên cứu nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục với tư cách là “người
nữ” trong bối cảnh văn hoá giới thời trung đại, luận văn triển khai một số vấn đề lý
luận về giới, phần nào tái hiện những quan điểm văn hóa về nữ giới trong xã hội
nam quyền ở Việt Nam, đồng thời phác thảo diện mạo văn học Việt Nam trước thế
kỷ XVI xét về phương diện giới. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn giúp chúng
tơi có nền tảng cơ bản để nghiên cứu đề tài.
1.1 Khái niệm giới (gender)
Giới là một thuật ngữ khoa học được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Những
hướng tiếp cận không giống nhau với vấn đề giới đã cho ra đời số lượng định nghĩa
khá phong phú về thuật ngữ này. Tuy nhiên, chúng tơi khơng đi sâu phân tích từng
định nghĩa mà chỉ hướng tới đưa ra một quan niệm đáng tin cậy nhằm làm chỗ dựa
trong tiến trình nghiên cứu.
M.L. Andersen - một giáo sư xã hội học định nghĩa giới như sau: “Giới liên
quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông đợi được tạo nên với hai giới

tính. Trong khi con trai và con gái là những yếu tố sinh học thì việc trở thành một
phụ nữ hay một nam giới là một quá trình văn hóa” [54.40].
Nếu như định nghĩa của M.L. Andersen nhấn mạnh giới như một cấu trúc văn
hóa - xã hội thì định nghĩa sau đây lại chú ý đến mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới:
“Giới là những khác biệt giữa nữ giới và nam giới trong cùng hộ gia đình, trong và giữa
các nền văn hóa, là cấu trúc xã hội - văn hóa có thể biến đổi theo thời gian. Những khác
biệt này được phản ánh trong các vai trò, trách nhiệm, khả năng tiếp cận các nguồn lực,
những sức ép, những ưu tiên, các nhu cầu, nhận thức và quan điểm… được thấy trong cả
hai giới. Do vậy, giới không đồng nhất với phụ nữ mà được xem là cả nữ giới và nam
giới cùng những mối quan hệ tương tác của họ” [54.41].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11




12

Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam định nghĩa: “Giới là phạm trù chỉ quan
niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ. Xã hội tạo ra gán cho
trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc điểm giới khác nhau. Bởi
vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi được” [33].
Một số định nghĩa trên đây về giới cho phép ta hình dung cách tiếp cận đa
dạng về thuật ngữ này. Tuy nhiên, chúng tơi nhất trí với quan điểm cho rằng: “Khái
niệm giới không chỉ đề cập đến nam và nữ mà cả mối quan hệ giữa nam và nữ. Trong
mối quan hệ ấy có sự phân biệt về vai trị, trách nhiệm, hành vi hoặc sự mong đợi mà
xã hội đã quy định cho mỗi giới. Những quy định/mong đợi xã hội này phù hợp với các
đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và tơn giáo; vì thế nó ln biến đổi theo các

giai đoạn lịch sử và có khác biệt giữa các cộng đồng, xã hội” [54.42].
Giới do vậy là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và
những đòi hỏi, yêu cầu đối với nam và nữ. Nó là sản phẩm của xã hội - văn hóa.
Trong đời sống hằng ngày, thuật ngữ giới (gender) thường bị dùng lẫn lộn
với giới tính (sex). Thực chất đây là hai phạm trù tương hỗ nhưng khơng đồng nhất.
Nếu giới tính chỉ nhấn mạnh đến tính (nam/nữ) (Trung văn dịch là tính biệt) thì giới
nhấn mạnh đến sự phân biệt nam/nữ trên cả phương diện xã hội (dịch sang Trung
văn có nghĩa là xã hội tính biệt - giới tính nam/nữ xét trên phương diện xã hội). Sự
khác biệt này đã được Robert Stoller chỉ rõ: “Trong khi giống gắn liền với đặc điểm
sinh lý, giới là yếu tố do văn hoá quy định, gồm toàn bộ những phản hồi được điều
kiện hố đối với cái nhìn của xã hội về tính cách của nam và nữ” [43].
Như vậy, khái niệm giới mà chúng tôi sử dụng không những chỉ phương
diện giới tính và giải thích người đàn ơng và phụ nữ ở khía cạnh sinh lý mà cịn
quan tâm đến cả phương diện văn hóa - xã hội của họ như trong mối quan hệ gia
đình, quan hệ nam nữ.
Nghiên cứu về giới không phải xu hướng mới trong lịch sử nhân loại học.
Nó có thể đã được nói đến từ thời cổ đại cả ở phương Đông lẫn phương Tây. Paul
Rakita Goldin, tác giả cuốn Văn hóa giới ở Trung Hoa thời cổ đại khẳng định “Các
học giả Trung Hoa cổ đại đã bàn luận tới giới tính cơng khai và nghiêm túc như một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12




13

trong những đề tài quan trọng nhất của sự nghiên cứu con người” [81.1]. Quả thực,

cho đến nay, khoa học về giới đã được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực:
Người ta nghiên cứu giới theo quan điểm sinh lý, chỉ ra sự khác biệt về cấu tạo cơ
thể, về sức khoẻ, về tính dục giữa nam và nữ để ứng dụng vào y học, sinh học…
Người ta cũng có thể nghiên cứu giới theo quan điểm xã hội để ứng dụng trong
phân công lao động xã hội giữa nam và nữ, giải quyết vấn đề ngành nghề cho nam
và nữ, so sánh và cân đối thu nhập giữa nam và nữ, đo lường độ tuổi nghỉ hưu phù
hợp cho nam và nữ… Giới cũng có thể được nghiên cứu trong tâm lý học để chỉ ra
được đặc trưng dị biệt trong tâm lý giữa phái nam và phái nữ…. Giới cũng có thể
được nghiên cứu theo quan điểm văn hố để chỉ ra cái nhìn về giới của nam và nữ
đối với nhau, chỉ ra địa vị gia đình và xã hội của nam giới và nữ giới v.v..
Trong nghiên cứu văn học, người ta có thể vận dụng phương pháp nghiên
cứu giới của nhân vật văn học để tìm hiểu các kiểu hình tượng nam/nữ. Chẳng hạn,
nhân vật người anh hùng Võ Tòng trong bộ tiểu thuyết chương hồi Thủy hử nổi
tiếng khi được quan sát từ góc nhìn giới sẽ bộc lộ đặc điểm và cũng là hạn chế của
quan niệm anh hùng cổ trung đại: người anh hùng nghĩa hiệp, tài năng nhưng lại
thiếu tình yêu người đẹp, thậm chí lạnh lùng đến tàn bạo đối với người phụ nữ có
tình u phóng túng. Hay nghiên cứu nhân vật phụ nữ như nàng Kiều trong Truyện
Kiều từ quan điểm giới, người ta có thể thấy quan niệm trinh tiết nghiệt ngã của
Nho giáo đã trói buộc nàng Kiều, khiến nàng mang mặc cảm tội lỗi vì mình khơng
cịn trong trắng, và từ chối sống tình vợ chồng với Kim Trọng sau mười lăm năm ly
biệt, chờ đợi. Qua đó, hiểu được một cách tồn diện những nguyên nhân dẫn đến
bất hạnh của Kiều, từ nguyên nhân xã hội đến nguyên nhân thuộc về quan niệm giới.
Nói khác đi, vấn đề giới giúp cho việc nhận thức nhân vật toàn diện hơn. Trước đây,
nhân vật nam/nữ thường chỉ được nhìn theo quan điểm giai cấp, áp bức hay bị áp
bức, theo quan điểm đạo đức, đáng khen hay đáng chê thì với điểm nhìn giới, chúng
ta thấy thêm những phương diện khác của nhân vật.
1.2 Quan điểm văn hoá về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại
1.2.1 Quan điểm đề cao “Tam tòng”, “Tứ đức”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13




14

Có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ đại, kể từ khi du nhập vào Việt Nam, tư tưởng
“Tam tòng” đã thực sự trở thành nghiêm lệnh gây ra nhiều bất lợi cho nữ giới. Trong Gia
ngữ, tư tưởng này được giải thích như sau: “Người phụ nữ là những người nghe theo sự dạy
bảo của người đàn ông. Bởi vậy, đối với họ, khơng có sự tự chủ vốn có mà chỉ có đạo “Tam
tịng”. Khi cịn nhỏ theo cha và những người anh trai trong gia đình, khi đã kết hôn họ đi
theo chồng và khi chồng chết họ đi theo con trai của mình mà khơng tái giá” [79.90]. Trong
Lễ ký, “Tam tịng” được nói đến với nội dung tương tự: “Người phụ nữ là những người đi
theo người đàn ơng suốt cuộc đời của mình: Khi cịn nhỏ theo cha và những người anh trong
gia đình, khi đã kết hôn họ theo chồng, và khi chồng chết họ theo con trai của mình. Người
chồng ở đây có nghĩa là người chu cấp. Anh ta sử dụng sự hiểu biết của mình để chỉ đạo dẫn
dắt những người khác” [79.90]. Như vậy, tư tưởng “Tam tòng” thực chất là luật lệ nhằm bó
buộc người phụ nữ, địi hỏi sự phục tùng của người phụ nữ đối với đàn ông trong suốt ba
giai đoạn của cuộc đời. Nó là tư tưởng thể hiện đậm đặc địa vị thấp hèn và thân phận phụ
thuộc của người phụ nữ trong xã hội nam quyền.
Ở Việt Nam thời trung đại, tư tưởng “Tam tịng” đã ăn sâu vào tiềm thức
của tồn xã hội. Ngồi phần tích cực là giúp người phụ nữ tự rèn mình theo tiêu
chuẩn để hướng tới cái đẹp thì “Tam tịng” đã tạo ra áp lực buộc chặt người phụ nữ
vào những khuôn phép khắc nghiệt, khiến họ phải chịu nhiều khổ đau, bất hạnh.
Trước lúc theo chồng, người phụ nữ phải phục tùng uy quyền tuyệt đối của
người cha, nghe theo lời giáo huấn của cha mà khơng có quyền nêu chính kiến hay
sống theo sở nguyện và khát vọng cá nhân. Điều người cha yêu cầu chủ yếu ở người
con gái không phải là tài năng, sắc đẹp hay khát vọng riêng tư của cô ta mà là những

phẩm hạnh đã được tổng kết trong những cuốn sách huấn đạo giới nữ. Người cha cũng
là người quyết định tồn bộ việc hơn nhân của con gái, người phụ nữ “khơng có quyền
tự do đối với việc hơn nhân của mình mà hồn tồn do cha mẹ sắp đặt” [66].
Khi về nhà chồng, người phụ nữ bị bó buộc bởi quan niệm “xuất giá tịng phu”.
Quan niệm này buộc người phụ nữ khi lấy chồng phải hoàn toàn phục tùng chồng, tuân
theo mệnh lệnh của chồng mà khơng có u cầu ngược lại. Luật pháp phong kiến chỉ cho
phép người vợ được bỏ chồng trong ba trường hợp hãn hữu quy định trong Lê triều hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14




15

luật - Bộ luật tiến bộ nhất thời phong kiến và “ít nhiều đề cập đến một số quyền lợi của
người phụ nữ trong xã hội và trong gia đình” [5]. Ba trường hợp đó là: “Phàm chồng đã
bỏ lửng vợ năm tháng khơng đi lại (vợ được trình với quan sở tại và quan xã làm chứng)
thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì hạn một năm. Vì việc quan đi xa thì khơng theo luật này.
Nếu đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ của mình thì phải tội biếm (Điều 308)”;
“Con gái thấy chồng chưa cưới có ác tật có thể kêu quan mà trả đồ sính lễ” và “con rể
lăng mạ cha mẹ vợ, đem thưa quan, cho ly dị (Điều 322)” [5]. Tuy nhiên, ngay trong bộ
luật được coi là có nhiều biểu hiện nhân đạo và bênh vực cho quyền lợi phụ nữ này,
những quy định mang tính nam quyền, bất lợi cho người phụ nữ vẫn thể hiện rõ nét. Bộ
luật qui định về “thất xuất” (bảy trường hợp người chồng được phép bỏ vợ), nhưng đây
lại là những điều mà người vợ dễ mắc phải. Khắt khe hơn Lê triều hình luật là Luật Gia
Long. Bộ luật này cho phép người chồng và gia đình nhà chồng tự tiện bỏ người vợ,
không cần ra trước công môn, chỉ cần giấy bỏ vợ, nếu người vợ có tội “thất xuất”: vơ tự

(khơng có con trai), dâm dật (lẳng lơ), bất sự công cô (không thờ phụng cha mẹ chồng),
khẩu thiệt (lắm điều), đạo thiết (ăn trộm), đố kỵ (ghen tng), ác tật (có bệnh đặc biệt)
(Điều 108). Nhưng cũng chính trong bộ luật này, khơng hề có một điều lệ nào cho phép
người vợ được bỏ chồng. Những quy định bất công này khiến cho người phụ nữ trong
xã hội phong kiến nam quyền dẫu lấy phải người chồng khơng ra gì vẫn phải nhẫn
nhục chịu đựng, phải “cắn răng chịu khổ” mà không được lên tiếng kêu than, khơng
được ly hơn. Gia huấn ca có những câu thể hiện rõ quan niệm một chiều này:
Chữ "tùy" là phận đàn bà,
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngồi.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc,
Hay gặp người cờ bạc lưu niên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm,
Dần dà uốn mãi may mềm được chăng!
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân.
(Gia huấn ca)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15




16

Quan niệm “Tịng phu” là quan niệm một chiều, vì thế người phụ nữ nếu có
chút biểu hiện lẳng lơ thì bị kỳ thị, bị dè bỉu cịn người đàn ông lại có quyền lấy
năm thê bảy thiếp một cách ngang nhiên hợp pháp mà không bị chê trách, không bị
đánh giá về đạo đức, thậm chí cịn được khuyến khích:

Dây bìm cho tựa cành vàng,
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu "đường cái" xưa nay cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,
Lấy về hầu hạ nhà ta,
Thêm hịe, nẩy quế có là con ai?
(Gia huấn ca)
Lợi dụng thuyết “Tòng phu”, giai cấp phong kiến thống trị ở một số triều
đại còn đề ra luật lệ bức người phụ nữ chết theo chồng để thỏa mãn lịng ích kỷ nam
giới. Đại việt sử ký tồn thư có một số đoạn ghi chép lại hiện tượng này. Ở triều Lý
Nhân Tơng có hiện tượng Hồng thái hậu họ Dương và bảy mươi sáu người thị nữ
bị bức tử chết theo vua Lý Thánh Tơng: “Hồng thái hậu họ Dương, tơn Hồng thái
phi làm Linh Nhân hồng thái hậu. Linh Nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà
khơng được dự chính sự, mới kêu với vua... Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu
và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng
Thánh Tông” [19.436]. Hiện tượng tương tự là việc các cung nữ buộc phải lên giàn
hỏa thiêu để chết theo vua Lê Nhân Tông: “Ngày Ất Dậu (tháng 12 năm 1127), vua
bắt đầu ngự điện Thiên An coi chầu, xuống chiếu cho các quan bỏ áo trở. Ngày hôm
ấy vua ngự giá đi Na Ngạn xem các cung nữ lên dàn thiêu để chết theo Đại Hành
Hoàng Đế” [19.482]. Và một trường hợp khác là việc các phi tần bị bắt tự tử theo
Thành Vương: “Đinh Sửu [1457]... Tháng 2, ngày mồng 1, nhà Minh phế vua Cảnh
Thái là Thành Vương như cũ, cho về ở Tây cung. Tháng ấy, ngày 19, Thành Vương
mất. Ban lụa hồng cho các phi tần, bắt phải tự tử để chôn theo Thành Vương”
[19.1425]… Một số sự việc trên đây chính là minh chứng tiêu biểu cho sự bất công,
vô nhân đạo của luật “Tịng phu” nếu nó bị lợi dụng đến mức cực đoan.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16





17

Tư tưởng “Tam tịng” khơng chỉ u cầu người phụ nữ “tòng phụ”, “tòng phu”
mà còn đòi hỏi họ phải “tòng tử” khi người chồng qua đời. Đây là luật lệ thể hiện thái độ
không tán đồng việc người phụ nữ tái giá. Vì vậy, khi tái giá, người phụ nữ khơng chỉ bị
phê phán về phẩm hạnh mà cịn bị tước đi những quyền lợi chính đáng: “Một người đàn
bà chết chồng thì luật bắt phải ra tay khơng, giao gia tài cho bên chồng, dầu của ấy là của
vợ chồng đồng công mà tạo lập ra cũng mặc. Chồng chết, có con trai mà đi lấy chồng để
kiếm phương kế nuôi con, sau lại về ở với con trong nhà chồng trước, luật cũng khơng
nhìn người đàn bà ấy là vợ người chồng trước nữa, chết đi, không được thờ chung với
chồng vào từ đường” [24] . Quan niệm u cầu người phụ nữ “tịng tử” chính là nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng sùng bái người đàn bà thủ tiết mà chúng tơi sẽ nói rõ hơn khi
phân tích quan niệm của xã hội nam quyền về trinh tiết người phụ nữ.
Bên cạnh quan niệm về “Tam tòng”, xã hội nam quyền còn áp đặt cho người
phụ nữ chuẩn mực về “Tứ đức”: công, dung, ngôn, hạnh. Công được hiểu là sự khéo léo
của người phụ nữ trong những cơng việc gia đình như thêu thùa, khâu vá, nội trợ, ni dạy
và chăm sóc con cái; dung là vẻ đẹp hình thức đoan trang; ngơn tức là lời nói dịu dàng,
khiêm nhường cịn hạnh tức là những phẩm chất như yêu thương chồng con, giàu lòng
nhân ái, đức hy sinh, son sắt thuỷ chung… Trong xã hội nam quyền “Tứ đức” đã trở thành
tiêu chí quan trọng khơng thể thiếu ở người phụ nữ đức hạnh:
Phận làm gái này lời giáo huấn,
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh.
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là mặt ngọc trang nghiêm,

Không tha thiết, khơng chiều lả tả.
Ngơn là dạy trình thưa vâng dạ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17




18

Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
(Gia huấn ca)
Tuân theo công, dung, ngôn, hạnh, người phụ nữ phải học hỏi, làm theo
mong muốn của nam giới từ cách nấu nướng, may vá sao cho khéo léo:
Đồ ăn thức nấu cho vừa,
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.
Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,
Cũng học dần thói cách người ta,
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
(Gia huấn ca)
Đến cách điểm trang dung mạo sao cho đoan trang, không được mỹ miều, chải chuốt:
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,
Hình dung đừng ve vuốt ngắm trơng,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng khơng ra gì?

(Gia huấn ca)
Rồi cách nói năng sao cho dịu dàng, hồ mục:
Nói đừng chau mặt, chau mày,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Sách có chữ "nhập gia vấn húy",
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
(Gia huấn ca)
Và cách ứng xử sao cho cung phụng, nhu thuận người chồng:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18




19

Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
Đạo chồng sánh quân thân chi đạo.
(Gia huấn ca)
Bên cạnh mặt tích cực không thể phủ nhận, “Tứ đức” xét cho cùng vẫn
mang tính chất “thiên vị” nam giới. Nó khơng mang lại cho người phụ nữ quyền lợi
mà chỉ buộc thêm vào họ những nghĩa vụ nặng nề. Tuân theo “Tứ đức”, người phụ
nữ bị kìm hãm trong khơng gian gia đình, khơng có điều kiện hoạt động trong
khơng gian xã hội. Họ chỉ được khen ngợi khi là người nội trợ khéo, là dâu thảo, vợ

hiền nhưng không được khuyến khích phát triển tài năng. Li-Hsiang trong cơng
trình nghiên cứu Khổng giáo và người phụ nữ - một cách giải thích triết học đã
khẳng định: “Khơng giống như nam giới, người phụ nữ tài năng và có học thức
khơng được chính thức ra ngồi xã hội để triều đình có thể sử dụng, để tài năng, và
học vấn của họ có thể được khẳng định. Do khơng có cơ hội được chứng minh, trình
độ học thức cao của người phụ nữ thường bị coi là một sự dư thừa và vơ dụng
khơng mang tính xã hội, khơng phù hợp với tính chất giới hoặc những điều tốt đẹp
được mọi người chấp nhận” [79.113]. Rõ ràng không phải người phụ nữ khơng có
đủ tài năng để hoạt động trên lĩnh vực giáo dục và chính trị mà chính thành kiến
phái tính đã tạo một rào cản vững chắc để kìm toả họ. Những sử liệu thời phong
kiến để lại cho đến nay về giáo dục ở Việt Nam hầu như không để lại tên tuổi người
phụ nữ nào. Trong lĩnh vực chính trị, người phụ nữ duy nhất trong lịch sử Việt Nam
tham gia vào cơng việc nhiếp chính là Chiêu Thánh cơng chúa - Lý Chiêu Hồng.
Song ngay trong cuộc đời của người phụ nữ này cũng chứa đựng những chi tiết thể
hiện quan niệm coi thường nữ giới của người xưa. Chiêu Hồng được kế vị ngơi cha
thực ra chỉ là trường hợp bất đắc dĩ. Sử gia Ngô Sĩ Liên đã nhấn mạnh chi tiết
“Bệnh của vua ngày càng tăng mà khơng có con trai để giữ nghiệp lớn” [19.598]
dường như là một dụng ý để giải thích cho sự việc khác lẽ thường này.Trong tư
tưởng của sử gia và toàn vương triều đương thời, việc một người con gái làm hồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19




20

đế là “không phải lẽ” cũng giống như việc Võ hậu và Lữ hậu ở Trung Quốc lên ngôi là

nguyên nhân dẫn đến xã tắc loạn lạc. Vì vậy, cùng với việc ghi chép sự kiện, Ngơ Sĩ
Liên có thêm lời bình: “Nếu khơng may mà khơng có con thì chọn con của người tơng
thất ni làm con mình để nối giữ nghiệp lớn, đó cũng là một cách xử trí trong lúc biến
vậy. Lý Nhân Tơng đã làm như thế rồi, Huệ Tông sao không xét việc cũ mà làm theo,
lại để đến sau lúc bệnh tật mới lập con gái mà truyền ngơi cho, thế có phải lẽ khơng?
Các quan bấy giờ khơng ai nghĩ gì đến xã tắc để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ
hậu và Vũ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hồng nhường ngơi cho họ Trần, ấy là
người có tội với họ Lý” [19.599]. Quan niệm coi thường nữ giới và mong muốn kìm
tỏa người phụ nữ trong phạm vi gia đình thể hiện khá rõ qua lời bình này.
Tóm lại, đề cao “Tam tòng”, “Tứ đức” ở người phụ nữ là một trong những
đặc điểm quan trọng trong hệ thống quan điểm văn hóa về nữ giới ở Việt Nam thời
trung đại. Quan điểm này yêu cầu một chiều ở người phụ nữ sự phụ thuộc nam giới
hoàn toàn và phải rèn mình theo tiêu chí nam giới u cầu mà không yêu cầu ngược
lại ở người đàn ông. Bên cạnh một vài nét tích cực có thể chấp nhận được, “Tam
tòng” “Tứ đức” về cơ bản là hệ thống tư tưởng gây ra nhiều bất công, bất lợi cho
người phụ nữ, đặc biệt khi nó bị nam giới lạm dụng, yêu cầu đến mức cực đoan.
Theo tiêu chí của nhà Nho, những người phụ nữ chính diện lý tưởng thường là
những người tn theo cơng thức “Tam tịng”, “Tứ đức” như đã phân tích trên đây,
ngược lại những người phụ nữ không tuân theo chuẩn mực nghiêm ngặt này bị Nho
gia coi là người phụ nữ phản diện. Xây dựng hình tượng người phụ nữ trong Truyền
kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ chưa thoát khỏi ảnh hưởng của tư tưởng này.
1.2.2 Quan điểm đề cao trinh tiết
Chữ “trinh” thực chất nói đến “cái nết” tốt đẹp của người phụ nữ. Nó mang
ý nghĩa chủ quan và do bản thân người phụ nữ tự nguyện thực hành. Tuy nhiên,
trong xã hội nam quyền, “trinh” đã bị yêu cầu từ phía khách quan, bị nam giới uốn
nắn thành “cái tiết”. Theo học giả Phan Khôi, “Trinh không phải là cái nết thuộc về
khách quan, mà là cái nết thuộc về chủ quan. Mình vì cái ý chí, cái phẩm giá của
mình mà giữ trinh… Như vậy, trinh là một cái nết” [24], cịn “Tiết khác với nết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20




21

Tiết là một cái dấu tỏ ra mình đã làm hết bổn phận của mình đối với người mà mình
thuộc về. Một người đàn bà chết chồng, không lấy chồng khác, mà gọi là tiết phụ,
cũng chẳng khác nào một bề tơi chết vì vua mà gọi là tử tiết hay là tận thần tiết” [24].
Theo cách hiểu này, nếu “trinh” được đánh giá là cái nết thì việc một người phụ nữ có
quyền đi lấy chồng khác vẫn khơng bị gọi là “thất trinh”, miễn là chị ta vẫn giữ được
đoan chính cịn nếu “trinh” được hiểu là “cái tiết” thì người phụ nữ lấy chồng khác bị
coi là “thất tiết”, là xấu xa. Trong xã hội nam quyền, “trinh” không được đánh giá như
“cái nết” mà lại bị xem xét nghiêm ngặt như “cái tiết” nên đã gây ra nhiều sức ép cho
người phụ nữ, tước đi của họ những quyền lợi chân chính.
Trình Di - một học giả Tống Nho đã tuyên bố quan điểm ấy trong câu chuyện sau:
“Có kẻ hỏi: Theo lẽ, hình như khơng nên lấy đàn bà góa, thế nào?
Y Xuyên tiên sinh (tức Trình Di) đáp rằng: Phải! Phàm lấy vợ,
để sánh với mình; nếu lấy người đàn bà thất tiết để sánh với mình, thì mình
cũng là thất tiết.
Lại hỏi: Người đàn bà ở góa mà bần cùng khơng cậy nhờ ai
được thì có nên tái giá khơng?
Đáp rằng: Chỉ có người đời sau sợ chết đói mới có cái thuyết ấy.
Song le, chết đói là sự rất nhỏ, cịn thất tiết là sự rất lớn!” [25]
Theo lời Trình Di mà suy thì đàn bà góa dầu đói đến nỗi chết đi nữa cũng ở
vậy mà chịu chết chứ không được lấy chồng khác, nếu lấy chồng khác thì thất tiết,
mà thất tiết là sự “cực đại”, là việc hệ trọng hơn cả sinh mệnh. Câu chuyện này là
minh chứng điển hình cho quan niệm khắt khe của Nho gia về trinh tiết, thể hiện cái

nhìn “điển chế hóa” với người đàn bà quả phụ của các học giả Tống Nho.
Dưới sức ép của quan điểm văn hóa này, người phụ nữ góa bụa đi lấy chồng
khác sẽ bị đánh giá về mặt đạo đức, bị xã hội, đặc biệt là nhà Nho xem thường.
Ngược lại, những người phụ nữ cố gắng tuẫn tiết, thủ tiết sẽ được ngợi ca, nêu
gương. Vì thế, những câu chuyện và chiếu dụ biểu dương tiết phụ xuất hiện ở hầu
hết những cuốn sử chính thống cũng như các cuốn liệt truyện nước Việt thời trung
đại. Đại Việt Sử ký tồn thư có những đoạn ghi chép mang tính chất như vậy, tiêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21




22

biểu là đoạn ghi chép về liệt phụ Mỵ Ê: “Giáp Thân, [1044]... Tháng 9, ngày mồng
1, đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự. Khi đến hành điện Ly
Nhân, sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê là phi của Sạ Đẩu sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê
phẫn uất khôn xiết, ngầm lấy chăn quấn vào mình nhảy xuống sơng chết. Vua khen
là trinh tiết, phong là Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân. Sử thần Ngơ Sĩ Liên nói:
Phu nhân giữ nghĩa khơng chịu nhục, chỉ theo một chồng cho đến chết, để toàn vẹn
trinh tiết của người đàn bà. Người làm tôi mà thờ hai vua tức là tội nhân đối với phu
nhân. Vua khen là trinh tiết, phong làm phu nhân để khuyến khích người đời sau là
đáng lắm” [19.405]... Việt sử thông giám cương mục cũng có những đoạn tương tự:
“Năm 1295... Chồng Lê Thị Ta là Phạm Mưu, sang sứ bên Nguyên bị bệnh mất. Thị
Ta nghe tin, thương khóc ba ngày, khơng ăn uống gì, rồi chết. Sự đó tâu về triều.
Nhà vua ban cho bạc và lụa để biểu dương tiết nghĩa của Lê thị... Năm 1437, biểu
dương tiết phụ họ Lê ở Quốc Oai vì thành tích: có nhan sắc, góa bụa sớm, khơng có

con, vẫn ở lại nhà chồng giữ việc thờ cúng đến trọn đời… Năm 1465, biểu dương
tiết phụ họ Nguyễn ở Nam Sách vì thành tích từ khi chồng chết, ở góa khơng có
điều tiếng gì” [58.135]... Chính sách biểu dương người tiết phụ, liệt nữ có lẽ phát
triển nhất ở triều Nguyễn, khi triều đình phong kiến này áp dụng dường như nguyên
bản những luật lệ hà khắc của triều Thanh - Trung Quốc vào Việt Nam. Nếu như
dưới triều Thanh, “việc giữ tiết hạnh của các góa phụ đã trở thành tín ngưỡng truyền
thống được tôn thờ và được ghi nhận bằng pháp luật chính thức” [79.136] thì tình
hình tương tự cũng diễn ra ở Việt Nam thời Nguyễn. Đã có trên dưới 280 tiết phụ
được nêu khen trong Đại Nam thực lục - Cuốn quốc sử của triều đại này. Trong số
đó có những tấm gương “tiết hạnh kỳ dị” đến mức nếu đặt trong bối cảnh văn hóa
hiện đại sẽ trở thành giả tạo và nực cười. Họ, người thì “cắt tóc giả điên”, người thì
“bơi nhọ nồi vào mặt” để khơng phải lấy chồng khác, người thì “cắt ngón tay thề
giữ tiết”, người thì “thắt cổ chết theo chồng”, người thì “gieo mình xuống sơng tự
tử”... tất cả đều nhằm chứng minh cho cái “tiết” mà xã hội nam quyền u cầu. Một
vài ví dụ điển hình: “Biểu dương người đàn bà trinh tiết là Phan Thị… Phan Thị là
vợ lẽ tiến sĩ Đinh Nho Hoàn. Đinh Nho Hoàn vâng mệnh đi sứ Trung Quốc, chết ở

Số hóa bởi Trung tâm Học .
Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang khơng nói nhiều. Ngơn
ngữ của nàng tuy khơng táo bạo và thẳng thắn đề cập đến vấn đề hoan lạc ái ân như
Nhị Khanh hay Hồng Nương, Nhu Nương nhưng những câu nói của nàng lại được
cố ý tổ chức theo mơ-típ ngơn ngữ mang nhiều nét trí trá, ranh mãnh của một hồn
ma, khiến người nghe dù có sắt đá cũng phải ỉu mềm. Lời nói của nàng luôn mang
giọng điệu ngọt nhạt tinh quái: “Thiếp vốn người ở Phong Châu, cha mẹ làm nghề
buôn hàng tấm. Không may bị quân cường đạo giết người cướp của, cha mẹ thiếp
đều hồn chơn bụng cá, xương gửi lịng sơng. Cịn lại tấm thân yếu ớt trơ trọi này
thốt khỏi miệng hùm lần lên bờ sơng, tìm vào nhà dân ở đậu. Hôm qua nhân ra bờ
sông hái dâu cho bà chủ, chợt đi qua chỗ gặp nạn cũ, bất giác đau xót mà ngồi đây
khóc lóc đến giờ” [60.123].: “Chiếc thân trơi nổi, nào có đáng tiếc gì đâu, chỉ hận
một điều là hài cốt cha mẹ, chưa vớt lên được để đem về mai táng… Nếu vậy thật là

lòng trời. Ngài quả giúp cho được như thế, thật là cái ơn cốt nhục sinh tử. Thiếp dù
có nát thân báo đền cũng đều khơng dám quản…” [60.123]. Có khi lời nói của nàng
lại mang nét đanh đá, quyết liệt không giống với kiểu ngôn ngữ chuẩn mực, điềm
đạm, nhu thuận của người phụ nữ đạo đức lý tưởng: “Anh chàng huyễn thuật này ở
đâu ly gián vợ chồng ta, chia rẽ nhà của ta!” [60.125]. Cũng như những nhân vật nữ
bị coi là phản diện khác, hành động và lời nói của Thị Nghi ln được miêu tả gắn
với những cử chỉ như “khép nép lau ráo nước mắt rồi nói”, “lại khóc nói”, “mừng rỡ
nói”, “cả giận, lấy gậy đập vỡ cái chai rồi mắng”… Những cử chỉ kèm lời này hầu
như khơng có ở nhân vật nữ chính diện lý tưởng.
Tóm lại, nếu như trong văn học trung đại nói chung, ngơn ngữ nhân vật
thường bị lẫn với ngơn ngữ tác giả thì ngơn ngữ của những nhân vật nữ phản diện
trong Truyền kỳ mạn lục bước đầu đã có cá tính riêng. Ngơn ngữ của họ là thứ ngơn
ngữ mang tính chất táo bạo, chủ động, ranh mãnh và vượt ngồi khn phép Nho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

85




×