Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Phụ nữ dân tộc thiểu số huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên với công cuộc xây dựng nông thôn mới (20082014)_compressed

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.56 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐOÀN THỊ THU VÂN

PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ HUYỆN PHÚ LƯƠNG
TỈNH THÁI NGUYÊN VỚI CÔNG CUỘC
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2008-2014)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Thái Nguyên - 2016

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ i
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................. ii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 4
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỊA BÀN
NGHIÊN CỨU ...................................................................................................... 8
1.1. Khái quát về huyện Phú Lương.................................................................. 8
1.1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ........................................................ 8
1.1.2. Các thành phần dân tộc ..................................................................... 14
1.1.3. Điều kiện về kinh tế - xã hội ............................................................. 12
1.2. Về phụ nữ dân tộc thiểu số huyện Phú Lương ......................................... 14
1.3. Tổng quan về chương trình xây dựng nông thôn mới ……………… ....18
1.2.1. Một vài khái niệm ............................................................................. 20
1.2.2. Về chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới .......... 22
Chương 2: CƠNG CUỘC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN PHÚ


LƯƠNG TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ SỰ THAM GIA CỦA PHỤ NỮ ............ 27
DÂN TỘC THIẾU SỐ (2008-2014) ................................................................... 27
2.1. Công tác tuyên truyền, vận động xây dựng nông thôn mới ................... 29
2.2. Tham gia phong trào thi đua yêu nước và phong trào của tổ chức Hội. .. 38
2.3. Xây dựng quê hương, xây dựng nơng thơn mới ...................................... 45
Chương 3: ĐÁNH GIÁ VAI TRỊ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ ...... 51
HUYỆN PHÚ LƯƠNG TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG CÔNG CUỘC XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2008-2014) .......................................................... 51
3.1. Góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn .............. 51
3.2. Góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
phụ nữ nông thôn............................................................................................. 55
3.3. Đổi mới và xây dựng các hình thức sản xuất dịch vụ ở nông thôn ......... 63
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 72

2


PHỤ LỤC ............................................................................................................ 77

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước người phụ nữ Việt
Nam có vai trị hết sức quan trọng, dù trong bất cứ hồn cảnh nào cũng ln
xứng đáng với Tám chữ vàng: “Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm
đang”. Đặc biệt là đối với phụ nữ dân tộc thiểu số họ cũng ln là những người
có đóng góp rất lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng, bảo vệ và xây dựng đất

nước. Ngày nay, khi đất nước đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa thì người phụ nữ dân tộc thiểu số càng phát huy được vai trị của mình.
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn nước ta đã có những bước thay đổi đáng kể.
Đáng chú ý nhất là trong công cuộc xây dựng nông thôn mới cũng không thể
thiếu vắng vai trò của những người phụ nữ. Đặc biệt tại huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên những người phụ nữ dân tộc thiểu số đã và đang khẳng định vai trị
và sự ảnh hưởng to lớn của mình đối với công cuộc này.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ những
người phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã có những đóng góp to lớn.
Trong những năm qua, cùng với việc triển khai thực hiện các chương trình,
chính sách dân tộc, cơng tác đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ là người dân tộc
thiểu số luôn được các cấp ủy Đảng quan tâm lãnh đạo và đã đạt được những kết
quả quan trọng. Huyện Phú Lương đã tập trung đào tạo, xây dựng đội ngũ cán
bộ là người dân tộc thiểu số, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số. Đội ngũ cán bộ
là phụ nữ dân tộc thiểu số đã phát huy được vai trị của mình, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Vai trị đó lại được
khẳng định một lần nữa trong quá trình đổi mới và phát triển của địa phương.
Đặc biệt trong “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới” tại
huyện Phú Lương đến năm 2014 đã đạt được những thành công bước đầu. Để
đạt được kết quả đó khơng thể khơng nhắc tới sự đóng góp và vai trị của những
người phụ nữ dân tộc thiểu số.
4


Chính vì vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề phụ nữ dân tộc thiểu số với
công cuộc xây dựng nông thôn mới tại huyện Phú Lương từ năm 2008 đến năm
2014 nhằm vạch ra những ưu điểm, hạn chế, yếu kém để rút kinh nghiệm trong
giai đoạn tiếp theo. Vì vậy tơi chọn đề tài nghiên cứu: “Phụ nữ dân tộc thiểu số
huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên với công cuộc xây dựng nông thôn

mới (2008-2014)”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số nói chung có nhiều
cơng trình khoa học và nhiều hội thảo đã được mở ra. Các cơng trình khoa học
này đã nêu lên và đánh giá về vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước.
Ngoài ra trong quá trình thực hiện luận văn tơi đã đi thực tế tại tất cả các
xã trong chương trình xây dựng nơng thơn mới của huyện Phú Lương để nắm
bắt tình hình, thu thập thơng tin, tư liệu. Đây chính là nguồn tư liệu sát với thực
tế nhất trong quá trình nghiên cứu.
Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu về
phụ nữ dân tộc thiểu số với công cuộc xây dựng nông thôn mới tại huyện Phú
Lương, tỉnh Thái Nguyên.
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu q trình tham gia cơng cuộc xây dựng nông
thôn mới của phụ nữ dân tộc thiểu số tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Khi chọn nghiên cứu đề tài này tôi một lần nữa muốn khẳng định vai trò
của những người phụ nữ Phú Lương trong lịch sử nói chung, trong thời kỳ xây
dựng và phát triển đất nước nói riêng, nổi bật lên là vai trò to lớn của lực lượng
phụ nữ người dân tộc thiểu số.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
5


Tập trung tìm hiểu hoạt động của phụ nữ dân tộc thiểu số tại huyện Phú
Lương, tỉnh Thái Nguyên trong các phong trào thuộc chương trình xây dựng
nơng thơn mới. Từ đó khái qt được tầm quan trọng, vai trị to lớn của những

người phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn không gian: huyện Phú Lương với diện tích 36.894,65 ha, gồm
16 đơn vị hành chính, trong đó có 14 xã thuộc chương trình xây dựng nơng thơn
mới.
Giới hạn thời gian: Từ khi Nghị quyết số 26-NQ/TW ra đời (5/8/2008) tại
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đến hết năm 2014.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
- Các văn kiện của Đảng, Nghị quyết, Quyết định của Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên, của Huyện Ủy và Ủy ban nhân dân huyện Phú Lương.
- Các Kế hoạch, chương trình, báo cáo của Hội Liên hiệp phụ nữ huyện
Phú Lương.
- Các Kế hoạch, báo cáo của Ban chỉ đạo Xây dựng nông thôn mới của
huyện Phú Lương.
- Các văn bản của phòng Dân tộc huyện Phú Lương.
- Các biểu thống kê, báo cáo của Chi cục thống kê và của Trung tâm Dân
sốvà Kế hoạch hóa gia đình huyện Phú Lương.
- Tài liệu thu thập được tại địa phương.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện Luận văn này tôi đã sử dụng phương pháp lịch
sử kết hợp với phương pháp logic, phương pháp thống kê, so sánh. Phương pháp
lịch sử và phương pháp logic được vận dụng để tái hiện quá khứ, những sự kiện
đã diễn ra thông qua tư liệu, đồng thời nhìn nhận vấn đề một cách tồn diện,
khách quan. Phương pháp so sánh được vận dụng nhằm so sánh sự phát triển
nông thôn tại huyện Phú Lương trong các thời điểm khác nhau nhằm làm rõ vấn
6


đề nghiên cứu. Việc so sánh nền kinh tế của địa phương trước và sau khi triển

khai Nghị quyết số 26/NQ-TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; so sánh
các tiêu chí xây dựng nơng thơn mới trên địa bàn huyện trong các năm là cơ sở
đánh giá kết quả đến thời điểm nghiên cứu của phong trào xây dựng nông thôn
mới tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
Để phản ánh chân thực vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số huyện Phú
Lương với công cuộc xây dựng nông thơn mới trong q trình nghiên cứu đề tài
tơi sử dụng triệt để phương pháp điền dã dân tộc học. Thời gian thực hiện đề tài
tơi đã có dịp đi đến các xóm, bản có nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số sinh sống.
Qua những lần đi thực tế đã thấy được sự đóng góp to lớn của những người phụ
nữ nói chung, phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương, đặc biệt là trong công cuộc xây dựng nơng thơn mới.
5. Đóng góp của đề tài
- Đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về phụ nữ dân tộc thiểu số với
công cuộc xây dựng nông thôn mới tại tỉnh Thái Nguyên nói chung và huyện
Phú Lương nói riêng.
- Luận văn này hồn thành sẽ góp phần cho việc khẳng định vai trò của
phụ nữ dân tộc thiểu số trong công cuộc xây dựng nông thôn mới tại huyện Phú
Lương đến năm 2014. Từ đó có thể rút ra những kinh nghiệm quý báu để áp
dụng vào giai đoạn tiếp theo của công cuộc này.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và tài liêu tham khảo, Luận văn
này gồm có 3 chương nội dung:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Công cuộc xây dựng nông thôn mới ở Phú Lương và sự tham
gia của phụ nữ dân tộc thiểu số (2008-2014).
Chương 3: Đánh giá vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong công cuộc
xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên (2008-2014)

7



Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về huyện Phú Lương
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Từ ngày 01/01/1997, tỉnh Bắc Thái được chia tách thành 2 tỉnh: Bắc Kạn
và Thái Nguyên, Phú Lương là 1 trong 9 huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh
Thái Nguyên. Sau khi tỉnh Thái Nguyên được tái lập, Phú Lương là một huyện
miền núi trực thuộc, vị trí nằm ở phía Bắc tỉnh Thái Nguyên. Phía Bắc: giáp với
huyện Chợ Mới - tỉnh Bắc Kạn; phía Nam, Đơng Nam: giáp với thành phố Thái
Ngun; phía Tây: giáp với huyện Định Hóa; phía Tây Nam: giáp với huyện Đại
Từ; phía Đơng: giáp với huyện Đồng Hỷ.
Với diện tích 368,94 km2, dân số trên 107 nghìn người, gồm 16 đơn vị
hành chính (14 xã, 02 thị trấn). Tồn huyện có 07 xã thuộc diện kinh tế xã hội
đặc biệt khó khăn và xã An tồn khu thuộc diện được hưởng Chương trình
135/CP của Chính phủ.
Đặc điểm địa hình: Phú Lương là huyện có địa hình tương đối đa dạng,
độ cao trung bình so với mặt biển từ 100 – 400m.
Mật độ sông suối: Phú Lương có mật độ sơng suối lớn (bình qn
0,2km/km2), trữ lượng thủy văn cao, đủ cung cấp nước cho sản xuất và sinh
hoạt của dân cư trong huyện.
Khí hậu: Mang tính nhiệt đới gió mùa, với hai mùa nóng - lạnh rõ rệt. Tài
nguyên rừng: Phú Lương là huyện miền núi thấp có diện tích đất lâm nghiệp
chiếm tỷ lệ lớn. Tổng diện tích đất lâm nghiệp của huyện hiện nay là 17.246 ha,
chiếm 46,7% tổng diện tích đất tự nhiên tồn huyện.
Tài ngun khống sản và vật liệu xây dựng: Phú Lương có mỏ than, mỏ
đá và đất cao lanh.
Phú Lương là huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Thái Nguyên, là địa phương có
nhiều lợi thế về khai thác khống sản, vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản,
du lịch - dịch vụ. Với diện tích tự nhiên 368,94 km2, 16 đơn vị hành chính gồm

8


2 thị trấn và 14 xã. Huyện có điều kiện thuận lợi về giao thơng để giao thương
hàng hóa như tuyến Quốc lộ 3, Quốc lộ 1B … nối kết Phú Lương với các tỉnh
Bắc Kạn, Cao Bằng, Tuyên Quang; đặc biệt là điểm nối với tuyến đường cao tốc
Hà Nội - Thái Nguyên, đây là điều kiện tốt để phát triển kinh tế - xã hội. Trong
những năm gần đây, Phú Lương đã khai thác tốt những thế mạnh của mình để
đạt được những kết quả kinh tế đáng ghi nhận.
Về sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 11%; tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn huyện năm 2012
đạt 254 tỷ đồng. Đến nay trên địa bàn huyện có 23 làng nghề được cấp Bằng
cơng nhận, 1.123 cơ sở sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp. Các cơ sở
sản xuất, các làng nghề đã đi vào hoạt động có hiệu quả, thu hút 5.500 lao động
ở khu vực nông thôn. Các ngành công nghiệp chủ lực của huyện là khai thác
khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nơng lâm sản, cơ khí sửa chữa,
may mặc. Trong những năm qua, đã thu hút đầu tư được nhiều dự án đầu tư vào
địa bàn như nhà máy may Banpo, nhà máy gạch Tuynel Phú Lộc…
Về đầu tư xây dựng cơ bản: Công tác đầu tư xây dựng được quan tâm và
thực hiện tốt việc vận động, thu hút đầu tư, các chương trình, dự án đầu tư trên
địa bàn đều triển khai thực hiện công khai, dân chủ và minh bạch. Tập trung xây
dựng, nâng cấp các cơng trình giao thơng, thuỷ lợi, y tế, giáo dục, xây dựng kết
cấu hạ tầng nông thôn. Từ năm 2010 đến nay đã đầu tư 73 cơng trình với tổng
mức đầu tư trên 437,6 tỷ đồng. 100% xóm đã có đường ơ tơ đến trung tâm xóm.
Hệ thống điện lưới đã được đầu tư nâng cấp, từng bước đáp ứng được nhu cầu
sử dụng của nhân dân; đã xây dựng mới 36 trạm biến áp với 51 km đường dây
các loại, tổng mức đầu tư 150 tỷ đồng; 98% số hộ dân được sử dụng điện lưới
quốc gia.
Về nông lâm nghiệp, thủy sản: Nông nghiệp là ngành kinh tê chủ yếu của
huyện. Giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp, thuỷ sản tăng bình quân 7,4%. Sản

lượng lương thực cây có hạt năm 2012 là 41.826 tấ n. Diện tích và sản lượng các
loại cây màu ngày càng nâng cao, góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên diện
9


tích đất canh tác. Giá trị sản xuất bình qn trên một ha đất canh tác đến năm
2012 đạt 63 triệu đồng. Sản lượng chè năm 2012 đạt 41.580 tấn; sản lượng tăng
14,7%; chất lượng, giá trị sản phẩm chè được nâng lên, huyện đang tập trung
xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chè có uy tín được khẳng định trên thị
trường như: chè Thác Dài, Khe Cốc - Tức Tranh, Phú Nam - Phú Đô, chè Vô
Tranh...Trong 3 năm đã trồng mới và trồng lại 521ha chè, bình quân mỗi năm
trồng được 173ha, nâng tổng diện tích chè lên 4.377 ha trong đó chè kinh doanh
là 4.063 ha (so với toàn tỉnh đứng thứ 2). Những năm gần đây trên địa bàn
huyện đã thực hiện tốt việc trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc. Việc giao
đất giao rừng cho dân được thực hiện một cách triệt để. Đặc biệt, việc phát triển
lâm nghiệp của địa phương cùng với các dự án phát triển lâm nghiệp đã thúc đẩy
sự tham gia thực hiện việc trồng rừng và bảo vệ rừng của tồn thể nhân dân.
Chăn ni được đầu tư phát triển mạnh theo hướng trang trại chun
mơn hố cao. Giá trị ngành chăn ni tăng bình qn 6%, năm 2012 đạt 90,6
tỷ đồng; sản lượng thịt hơi các loại năm 2012 đạt 10.585 tấn, tăng 4,6% so
với năm 2010. Diện tích mặt nước đã được đầu tư để nuôi trồng thuỷ sản, sản
lượng nuôi trồng năm 2012 đạt 579 tấn. Công tác bảo vệ và phát triển rừng
thực hiện có hiệu quả trong 3 năm trờ ng đươc̣ 3.019 ha, bình quân mỗi năm
trồng được 1.006ha, ổn định tỷ lệ độ che phủ của rừng là 45%. Công tác bảo
vệ rừng được tăng cường. Sản lượng gỗ khai thác từ năm 2010 đến nay đạt
73.469m3. Hiện có 30 hợp tác xã, các hợp tác xã kinh doanh có hiệu quả, giá
trị sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã đạt doanh thu từ 700 triệu đến 1,6
tỷ đồng.
Về cơng tác giải phóng mặt bằng : Cơng tác tuyên truyền, vận động nhân
dân ủng hộ chủ trương thu hồi đất giải phóng mặt bằng, vận động nhân dân

hiến quyền sử dụng đất giải phóng mặt bằng xây dựng đường giao thơng nơng
thơn và các cơng trình xây dựng, lập phương án dự toán và chi trả tiền bồi
thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng theo đúng quy định [19, Tr.2].

10


Thương mại - Dịch vụ: Tiếp tục phát triển du lịch theo hướng khai thác
các tiềm năng hiện có, gắn phát triển du lịch với hoạt động dịch vụ, nâng cao
các loại hình du lịch như Du lịch tâm linh, Du lịch về nguồn, Du lịch sinh thái.
Quy hoạch khu trưng bày giới thiệu các sản phẩm như: Bánh chưng, chè các
loại và các sản phẩm đặc sản khác của địa phương. Xây dựng mơ hình mẫu của
các làng nghề để giới thiệu quy trình trồng, chế biến chè để phục vụ và thu hút
du khách.
Cơ sở hạ tầng: Về mạng lưới điện: Thực hiện tốt chương trình nâng cấp,
cải tạo lưới điện nông thôn giai đoạn 2012-2015 đảm bảo cung cấp điện ổn định
và có chất lượng cho sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh, đảm bảo an toàn và giảm
tổn thất điện năng. Trong 2 năm qua, cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp tiếp tục
quan tâm việc cấp điện cho các xóm vùng sâu, vùng xa chưa có điện. Hiện nay,
trên địa bàn huyện có 144 trạm biến áp; tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an
toàn từ các nguồn điện đạt trên 80%; hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật
của ngành điện đạt 75%. Tồn huyện có 14/16 xã có hệ thống điện đạt tiêu
chuẩn.
Về mạng lưới giao thơng nơng thơn: Phú Lương có điều kiện thuận lợi về
giao thông để giao thương hàng hóa như tuyến Quốc lộ 3, Quốc lộ 1B, với tổng
chiều dài gần 40km, nối kết Phú Lương với các tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng, Tuyên
Quang; đặc biệt là điểm nối với tuyến đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên.
Đường tỉnh lộ chạy qua địa bàn huyện có chiều 15km. Phú Lương cịn có mạng
lưới giao thơng nơng thơn khá dày đặc với 545,8 km (gồm 125,4km đường liên
xã và 420,4 km đường liên thơn, liên xóm).

Đường liên xã: tổng chiều dài 125,4 km, với các tuyến đường chính như:
Đường Đu - Khe Mát; Đu - Yên Lạc; Giang Tiên - Phú Đô - Núi Phấn; Yên
Ninh - Yên Trạch - Phú Tiến; Đường QL3 - Phấn Mễ - Tức Tranh; QL3 - Bến
Giềng - Vô Tranh; Dốc Võng - Trại Giam - Vô Tranh; Gốc Bàng đi Làng Hin Phấn Mễ; Yên Đổ - Yên Lạc; Ôn Lương - Phú Tiến; Phủ Lý - ATK - Hợp Thành

11


.... Hệ thống giao thông được tập trung đầu tư, nâng cấp, mở rộng đảm bảo cho
việc đi lại và giao thương hàng hóa của người dân.
Về mạng lưới thủy lợi: Hệ thống thủy lợi được tập trung cải tạo, nâng cấp
cơ bản đảm bảo đáp ứng yêu cầu tưới tiêu, phục vụ sản xuất và dân sinh; đã kiên
cố hóa được 122,54 km kênh mương và nâng tổng số km kênh mương trên địa
bàn toàn huyện là 386 km kênh mương dẫn nước và kênh mương nội đồng;
nhiều trạm bơm được đầu tư xây mới, sửa chữa, nâng cấp; hệ thống thủy lợi đã
đảm bảo tưới tiêu chủ động đạt trên 50% diện tích đất nơng nghiệp. Tiếp tục xây
dựng hồn chỉnh và cứng hóa hệ thống kênh mương nội đồng để đảm bảo cung
cấp cho tưới tiêu [19, Tr.3].
Những điều kiện về tự nhiên và tình hình kinh tế của huyện Phú Lương
nói trên có tác động khơng nhỏ đến công cuộc xây dựng nông thôn mới tại địa
phương trong giai đoạn này.
1.1.2. Các thành phần dân tộc
Trên địa bàn huyện Phú Lương có trên 107 nghìn người, bao gồm 08 dân
tộc chủ yếu cùng chung sống, trong đó tỷ lệ người Kinh chiếm 56,08%; người
dân tộc thiểu số chiếm 43,92%. Nhân dân các dân tộc trong huyện sống đan xen,
tương hỗ, tạo thành một cộng đồng thống nhất. Với tổng dân số của huyện là
107 nghìn người, đây là lực lượng lao động dồi dào, góp phần to lớn trong việc
phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Trong số các dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn, dân tộc Tày chiếm tỷ lệ
cao nhất với 23,34% tổng dân số; sống tập trung trong các xóm, bản, phân bố

đều ở các xã, thị trấn trên địa bàn. Dân tộc Sán Chay (gồm người Sán Chí và
Cao Lan) chiếm 11,08% tổng dân số, sinh sống tập trung ở các xã Tức Tranh,
Yên Lạc, Phú Đô. Dân tộc Nùng chiếm 5,54% tổng dân số, sống tập trung nhiều
tại xã Động Đạt, Cổ Lũng, thị trấn Đu, Sơn Cẩm. Dân tộc Sán Dìu chiếm 4,32%
tổng dân số, tập trung nhiều tại xã Sơn Cẩm, Cổ Lũng, Phấn Mễ. Dân tộc Dao
chiếm 2,9% tổng dân số, phân bố ở nhiều nơi, số đông tập trung tại các xã Yên
Đổ, Yên Ninh, Động Đạt. Dân tộc Mông chiếm 0,38% tổng dân số, sinh sống
12


tập trung tại các xã Phú Đô, Động Đạt. Dân tộc Hoa chiếm 0,3% tổng dân số,
sống tập trung ở xã Động Đạt, Yên Đổ, thị trấn Đu. Ngoài ra, trên địa bàn huyện
cịn có nhiều dân tộc khác sống xen ghép như: Dân tộc Mường, Thái, Vân Kiều,
Trại, Xê Đăng, Rơ Rá, Xa Rá, Tà Ôi… song số lượng rất ít trong tổng dân số
của huyện. Trong q trình tồn tại và phát triển, đồng bào các dân tộc trong
huyện đã xây dựng cho mình những truyền thống tốt đẹp trong lao động, sản
xuất, và giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, ln nêu cao tinh thần đồn kết, tương
thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong đời sống, phát huy truyền thống lao động cần
cù, sáng tạo, luôn biết tự vươn lên và tạo dựng những giá trị văn hoá trong cộng
đồng các dân tộc [37, Tr.1].
Trong những năm qua, cùng với sự quyết tâm của cấp uỷ, chính quyền các
cấp, sự cố gắng, nỗ lực của các cấp, các ngành và cán bộ, nhân dân, kinh tế của
huyện tiếp tục phát triển và đạt mức tăng trưởng khá, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế xã hội hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch. Cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dần
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ; tập trung phát triển theo
4 vùng trọng điểm; phát triển sản xuất theo hướng hàng hoá, phát huy tốt tiềm
năng, thế mạnh của từng vùng. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, môi
trường được quan tâm. Công tác giáo dục - đào tạo, giới thiệu việc làm; cơng tác
văn hố thể thao, thực hiện chính sách xã hội đạt nhiều kết quả. Quốc phòng,
quân sự địa phương, an ninh trật tự được giữ vững.
Cơng tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn huyện được

quan tâm chỉ đạo, đảm bảo đúng chính sách, đúng đối tượng, góp phần tích cực
trong cơng tác giảm nghèo và từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân. Nhân dân các dân tộc trong huyện ln đồn kết, gắn bó, giúp
nhau phát triển kinh tế, chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước và các quy định của địa phương. Mặt trận tổ quốc,
các đồn thể ln sát cánh, cùng cấp ủy, chính quyền chăm lo đời sống nhân dân.

13


1.1.3. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Toàn huyện có 16 xã, thị trấn với tổng dân số là dân số trên 107 nghìn
người, có 08 dân tộc chủ yếu, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 40,3%. Lao động
trên địa bàn huyện, hầu hết đã được phổ cập trung học cơ sở, chủ yếu là lao
động ở nông thơn có đức tính lao động cần cù chịu khó, đây là nguồn nhân lực
dồi dào để tăng cường phát triển kinh tế - xã hội huyện, cung cấp lao động cho
các doanh nghiệp và xuất khẩu lao động, tuy vậy lao động nông thôn rất cần
được đào tạo kỹ năng lao động để tiếp cận được với tiến trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước, hội nhập được với thế giới và khu vực.
Triển khai đồng bộ các giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện, đặc biệt là chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, gắn với các
phong trào do ngành giáo dục phát động; thực hiện giáo dục tri thức với giáo dục
đạo đức lối sống. Duy trì kết quả phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học
cơ sở; từng bước thực hiện đạt chuẩn phổ cập giáo dục bậc trung học.
Cơng tác văn hố, thể thao, phát thanh truyền hình ngày càng dược quan
tâm. Chất lượng, tỷ lệ gia đình, cơ quan, làng bản văn hóa ngày càng tăng, đời sống
tinh thần của người dân được nâng lên. Công tác bảo tồn di sản văn hóa được chú
trọng, việc trùng tu, tơn tạo các di tích lịch sử, văn hố được quan tâm; phục dựng
thành công một số nghi thức, lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc và các điểm
di tích trên địa bàn.

Ma ̣ng lưới y tế từ huyện đế n cơ sở đươ ̣c củng cố , cơ bản đáp ứng đươ ̣c
nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Tích cực đơn đốc thực hiện xây dưṇ g
y tế xã đa ̣t chuẩ n quố c gia, đến nay, có 14/16 xã, thị trấn đa ̣t chuẩ n quốc gia về
y tế.
Triển khai thực hiện kịp thời các chế độ, chính sách đối với người có
cơng, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt công tác quản lý
nhà nước về các hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng. Tích cực kiểm tra, hướng dẫn
việc xây dựng, tổ chức hoạt động tại các cơ sở tôn giáo theo quy định.

14


Ðẩy mạnh cải cách hành chính, thýờng xuyên thực hiện rà sốt thủ tục
hành chính để kịp thời điều chỉnh, bổ sung, trong đó trú trọng đến các thủ tục
hành chính được thực hiện thơng qua cơ chế “một cửa” ở huyện và xã, thị trấn
theo Quyết định 93 của Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện tốt cơng tác cải cách
thủ tục hành chính liên quan đến cơng tác thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng
phục vụ trong công tác giải quyết các thủ tục liên quan đến phát triển doanh
nghiệp. Tạo mọi điều kiện tốt nhất hỗ trợ cho các doanh nghiệp khi thực hiện dự
án đầu tý tại huyện. Tăng cường gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp, tháo gỡ
khó khãn, thúc đẩy phát triển sản xuất cho doanh nghiệp.
Các biện pháp an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; vận
động nhân dân tham gia phòng ngừa, tố giác, ngăn chặn tội phạm và tệ nạn xã
hội. Chủ động nắm chắc tình hình, nhất là tình hình liên quan đến tơn giáo, dân
tộc. Đẩy mạnh tấn công truy quét các loại tội phạm; bồi dưỡng, xây dựng lực
lượng công an, đặc biệt là cơng an xã có bản lĩnh vững vàng, nắm chắc chuyên
môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Tăng cường tuyên
truyền, kiểm tra, xử lý và thực hiện đồng bộ các giải pháp đảm bảo an tồn giao
thơng. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội
trên địa bàn.

Với lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế và văn hóa xã hội, trong những
năm qua, Phú Lương đã từng bước phát triển và đạt được nhiều thành tựu. Kinh
tế liên tục có mức tăng trưởng cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích
cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông
lâm nghiệp thuỷ sản. Giá trị sản xuất công nghiệp, thu ngân sách hàng năm đều
tăng trên 20%; nông nghiệp phát triển khá và đi vào chiều sâu, giá trị các sản
phẩm được nâng lên. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng lên. Điều đó có sự đóng
góp cơng sức khơng nhỏ của những người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc
thiểu số trên địa bàn huyện.

15


1.2. Phụ nữ dân tộc thiểu số ở huyện Phú Lương
Để khẳng định vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế, lần đầu
tiên vào năm 1970 nhà kinh tế người Đan Mạch là Ester Boserup với cuốn “Vai
trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế” (1970) được coi là người đầu tiên
đặt lại vấn đề về cách nhìn nhận vai trị của người phụ nữ. Những năm qua, bình
đẳng giới ở Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn. Các tầng lớp phụ nữ,
trong đó có phụ nữ dân tộc thiểu số đã phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo
trong học tập, lao động và cơng tác, giành nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần quan trọng xây dựng gia đình
no ấm, hạnh phúc và sự phát triển chung của đất nước. Để đạt được kết quả đó
có phần đóng góp của những cán bộ nữ dân tộc thiểu số. Họ đã phát huy năng
lực, chủ động, tập trung nguồn lực cho công tác vận động phụ nữ dân tộc thiểu
số: Vận động cán bộ, hội viên phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận và thực hiện hiệu
quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động hội; khuyến khích huy động nguồn nội lực của từng
địa bàn, từng nhóm đối tượng.

Trên địa bàn huyện Phú Lương tính đến năm 2014 có 54.854 người là phụ
nữ. Trong đó phụ nữ là người dân tộc thiểu số chiếm khoảng trên 60% tổng số
phụ nữ trên toàn huyện. Lực lượng phụ nữ dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện
Phú Lương chủ yếu tập trung ở lứa tuổi lao động, từ 15 đến 35 tuổi. Đây chính
là lực lượng lao động chủ yếu của các gia đình. Trong tổng số phụ nữ dân tộc
thiểu số trên địa bàn huyện, phụ nữ là người dân tộc Tày và dân tộc Nùng chiếm
đa số, họ sống ở hầu hết các xã, thị trấn tên địa bàn huyện. Tuy nhiên tập trung
chủ yếu vẫn là ở các xã Ôn Lương, Phủ Lý, Hợp Thành. Tiếp theo phụ nữ là
người dân tộc Sán Chay, Cao Lan sống chủ yếu ở 3 xã Tức Tranh, Phú Đô, Yên
Lạc. Các xã ở phía Nam của huyện chủ yếu là người dân tộc Sán Dìu.
Trong lịch sử của dân tộc người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu
số luôn gương cao ngọn cờ đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền
của Tổ quốc. Phụ nữ dân tộc trên địa bàn huyện Phú Lương cũng đã tham gia
16


tích cực trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ
cứu nước. Các phong trào đấu tranh của nhân dân trong huyện Phú Lương diễn
ra sôi nổi, trong đó những người phụ nữ ln là hậu phương vững chắc cho
chồng, con lên đường đi chiến đấu để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ của
quê hương, đất nước.
Trong suốt quá trình lịch sử của dân tộc, những người phụ nữ dân tộc
thiểu số ln có tinh thần nồng nàn yêu nước, sẵn sàng hy sinh, đấu tranh để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, khi đất nước đang trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa lực lượng phụ nữ dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện
Phú Lương cũng đã và đang đóng góp một phần cơng sức trong sự nghiệp phát
triển đât nước nói chung và sự phát triển của huyện Phú Lương nói riêng.
Phụ nữ dân tộc thiểu số ngày càng phát triển và khẳng định được vị trí của
mình trong gia đình cũng như ngồi xã hội. Phụ nữ dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện Phú Lương có đẩy đủ khả năng tham gia vào các hoạt động phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương. Tỷ lệ nữ dân tộc thiểu số được tiếp cận với dịch
vụ y tế, tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số dành thời gian để xem ti vi/ nghe đài, tỷ lệ
nữ dân tộc thiểu số tốt nghiệp trình độ Trung cấp chuyên nghiệp trở lên đều tăng
so với những năm trước đây. Đội ngũ trí thức và lao động kỹ thuật nữ người dân
tộc thiểu số ngày càng tăng lên, họ đang có mặt ở nhiều vị trí chính trị, kinh tế
trọng yếu của địa phương. Đây là một bước tiến đáng kể về bình đẳng giới, về
tạo quyền năng cho phụ nữ trong xã hội. Phụ nữ dân tộc thiểu số đã thực sự
đóng góp sức mình vào cơng cuộc xây dựng và phát triển của địa phương.
Trình độ học vấn của phụ nữ dân tộc thiếu số tại huyện Phú Lương có
trình độ Tiểu học chiếm 34,3%, trình độ Trung học cơ sở chiếm 37,2; 28,5% đạt
trình độ học vấn từ Trung học phổ thông trở lên. Về trình độ chun mơn của
cán bộ người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện đạt trình độ từ Trung cấp
chuyên nghiệp trở lên đạt 75%, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số đạt
trình độ từ Trung cấp chuyên nghiệp trở lên đạt 100% theo đúng chuẩn quy
định. Do được Đảng và Nhà nước quan tâm hỗ trợ các Chương trình, Dự án
17


nông nghiệp, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về khoa học, kỹ thuật, cùng
với tinh thần học hỏi, nghiên cứu cho nên lực lượng phụ nữ dân tộc thiểu số trên
địa bàn huyện có trình độ chun mơn kỹ thuật khá cao [22, Tr.2].
Công tác phụ nữ dân tộc - tôn giáo được chú trọng, quan tâm phát triển hội
viên trong phụ nữ có đạo. Hiện nay, hội viên phụ nữ là người dân tộc có 7.308
chị. Nhìn chung, hội viên phụ nữ dân tộc, tơn giáo tích cực sinh hoạt Hội và
tham gia các phong trào thi đua, chấp hành tốt các quy định tại địa phương.
100% hội viên phụ nữ dân tộc - tôn giáo đăng ký thực hiện phong trào thi đua
“Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Nhân các lễ trọng của tôn giáo và tết cổ truyền của người dân tộc, Hội Liên hiệp
phụ nữ huyện đã tổ chức đến thăm và tặng quà chúc mừng các gia đình khó
khăn, gia đình chính sách.

Trên địa bàn toàn huyện Phú Lương theo điều tra đến hết năm 2014 có 97
đối tượng là phụ nữ đang cai nghiên trong các cơ sở cai nghiện, trong đó có
khoảng 45% là phụ nữ dân tộc thiểu số. Có trên 1.000 phụ nữ mắc các bệnh xã
hội, trong đó có khảng 20% là phụ nữ người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện.
Đây cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến các hoạt động của phụ nữ dân
tộc thiểu số trong công cuộc xây dựng quê hương, xây dựng nông thôn mới [16,
Tr.3].
Theo điều tra tại các địa phương trên địa bàn huyện Phú Lương phụ nữ
dân tộc thiểu số chủ yếu lao động trong ngành chăn ni, trồng trọt, kinh doanh,
dịch vụ. Do vậy đây chính là lực lượng lao động có vai trị hết sức quan trọng
trong hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp của địa phương. Vì thế cần phải nâng
cao năng lực trong sản xuất đối với phụ nữ nói chung và đối với phụ nữ dân tộc
thiểu số nói riêng. Tỷ lệ phụ nữ tham gia lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ chủ yếu
là những người có điều kiện thuận lợi về đường giao thông, gần các cơ quan,
trường học, gần chợ, …. Tại một số xã phụ nữ dân tộc thiểu số còn tham gia vào
việc điều hành sản xuất, điều này cho thấy vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số đã
được nâng lên, khơng cịn bất bình đẳng như trước nữa. Ngày càng có nhiều phụ
18


nữ là người dân tộc thiểu số thành đạt trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học,
chính trị và xã hội. Điều đó cho thấy phụ nữ dân tộc thiểu số ngày càng có vai
trị quan trọng hơn trong các lĩnh vực của xã hội.
Phụ nữ nói chung và phụ nữ dân tộc thiểu số tại huyện Phú Lương nói
riêng luôn nhận được sự quan tâm của các ngành, các cấp. Đặc biệt là trong các
hoạt động tiếp cận khoa học kỹ thuật và kiến thức về nông nghiệp, khuyến nông.
Thông tin về khoa học kỹ thuật, kỹ thuật khuyến nông thường xuyên được
truyền tải đến lực lượng phụ nữ dân tộc thiểu số thông qua hội nông dân, hội
phụ nữ, cán bộ khuyến nông phụ trách các xã, thị trấn, thơng qua các phương
tiện thơng tin đại chúng.

Tình hình tư tưởng của cán bộ, hội viên và quần chúng phụ nữ là người
dân tộc thiểu số tương đối ổn định, phấn khởi, tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng
trước những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của huyện đạt được. Các tầng
lớp phụ nữ dân tộc thiểu số tích cực tham gia các phong trào thi đua và thực
hiện có hiệu quả các chương trình cơng tác trọng tâm của Hội, phấn khởi tham
gia các hoạt động của địa phương, tích cực hưởng ứng Cuộc vận động "Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; tổ chức các hoạt động chào
mừng thành công Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI, nhiệm kỳ 2012
– 2017, có nhiều cơng trình, hoạt động chào mừng 104 năm Quốc tế phụ nữ
8/3, 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 84 năm thành lập Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam ….
Tại các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Phú Lương công tác tư vấn, hỗ trợ
hơn nhân, gia đình đối với phụ nữ dân tộc thiểu số được đẩy mạnh. Nhiều mơ
hình được duy trì và nhân rộng, thu hút các nhóm phụ nữ tham gia, trong đó nổi
bật là mơ hình câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc, câu lạc bộ gia đình
khơng có tệ nạn xã hội, nhóm tín dụng tiết kiệm lồng ghép truyền thông dân
số/sức khỏe sinh sản gắn với bình đẳng giới, mơ hình phụ nữ tham gia bảo vệ
môi trường gắn với cuộc vận động "Phụ nữ cả nước thực hiện vệ sinh an toàn
thực phẩm vì sức khỏe gia đình và cộng đồng", mơ hình câu lạc bộ liên thế hệ tự
19


giúp nhau, … bước đầu đáp ứng nhu cầu của phụ nữ nói chung và của phụ nữ
dân tộc thiểu số ở địa phương nói riêng.
Bên cạnh những thuận lợi nói trên, phụ nữ dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện Phú Lương cịn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế của địa
phương nói chung và của từng gia đình nói riêng. Các xã thuộc huyện cơ bản là
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa cho nên phương tiện thơng tin nghe nhìn và
sách báo đến với người dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế, do vậy việc lao động
nữ dân tộc thiểu số tiếp cận và nắm bắt các thông tin kỹ thuật về chăn nuôi,

trồng trọt cịn gặp nhiều khó khăn. Phụ nữ dân tộc thiểu số thiếu những kỹ năng
lao động và thiếu tự tin ngay cả trong gia đình của mình.
Mặt khác, trong những năm qua cũng có một số diễn biến phức tạp trên
địa bàn như: Một số phụ nữ là người dân tộc thiểu số đi làm ăn xa và lao động
trái phép tại Trung Quốc; nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra; ô
nhiễm môi trường; tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp; việc di dời, giải tỏa, đền bù
giải phóng mặt bằng cịn nhiều bất cập. Vụ sạt nở tại bãi thải số 3 mỏ than Phấn
Mễ; ô nhiễm môi trường tại khu vực khai thác khống sản trên địa bàn huyện và
đặc biệt là tình hình thời tiết hạn hán lâu ngày dẫn đến mùa vụ bị thiệt hại đã ảnh
hưởng đến một bộ số bộ phận khơng nhỏ của gia đình nói chung và các gia đình
là người dân tộc thiểu số nói riêng trên địa bàn. Đặc biệt là sự kiện Trung Quốc
ngang nhiên hạ đặt Giàn khoan Hải Dương 981 trái phép tại vùng thềm lục địa và
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã gây sự bất bình và phản đối của cán bộ
hội viên phụ nữ dân tộc thiểu số trong huyện đối với Trung Quốc.
1.3. Tổng quan về chương trình xây dựng nơng thơn mới
1.3.1. Một vài khái niệm
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, khái niệm về nông thôn được diễn
giải là phần lãnh thổ của một nước hay một đơn vị hành chính nằm ngồi lãnh
thổ đơ thị, có mơi trường tự nhiên, hồn cảnh kinh tế xã hội, điều kiện sống khác
biệt với thành thị và dân cư chủ yếu làm nông nghiệp [44, Tr.306].

20


Trong điều kiện Việt Nam, nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội
thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ
sở là Ủy ban nhân dân xã.
Đơ thị hố nơng thôn là khái niệm phái sinh trong thời đại công nghiệp
hóa – hiện đại hóa; đó là q trình từng phần nơng thơn chuyển hố thành thành
thị. Trong q trình đó, lối sống thành thị được phổ biến cho nơng thơn một

cách có quy hoạch, gắn liền với q trình các ngành phi nông nghiệp, xây dựng
hệ thống nhà ở, các cơng trình cơng cộng, các tiện nghi sinh hoạt [44, Tr.273].
Nông thôn là một khái niệm biểu đạt một hệ thống quần cư nông nghiệp,
một cộng đồng xã hội mà chủ thể là nông dân, sinh kế gắn với hai nguồn tài
nguyên đất và lao động với những đặc trưng riêng biệt như một xã hội nhỏ,
trong đó có đầy đủ các yếu tố, các vấn đề xã hội và các thiết chế xã hội. Nông
thôn được xem xét như một cơ cấu xã hội, trong đó có hàng loạt các yếu tố, các
lĩnh vực nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nông thôn Việt Nam đương đại đã và đang có những sự thay đổi nhất
định so với làng xóm trước đây. Vai trị của gia đình đã dần dần nổi trội hơn.
Truyền thống gia tộc tuy vẫn còn giữ được ảnh hưởng, nhưng do ngày nay,
người dân nơng thơn do xu hướng thốt li ra các thành phố lớn hoặc di cư đến
những vùng khác có điều kiện sinh sống làm ăn thuận lợi hơn. Cũng do việc di
cư mà thành phần dân cư của làng xã ngày nay đa dạng hơn, tính chất cùng
huyết thống cũng đã bị giảm mạnh. Vai trị của chính quyền xã hiện nay được
công nhận là nằm trong hệ thống quản lý nhà nước đã và đang dần dà làm mất đi
vai trị truyền thống làng theo kiểu cũ.
Nơng thơn Việt Nam hiện đại được định nghĩa dễ hiểu là nông thôn mới.
Nội hàm của nông thôn mới được diễn giải là khu vực nơng thơn: (1) có kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội từng bước hiện đại; (2) cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp,
dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; (3) xã hội nông
thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; (4) môi trường sinh thái
21


được bảo vệ; (5) an ninh trật tự được giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần
của người dân ngày càng được nâng cao.
Trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
nơng thơn đang đi vào q trình đơ thị hố theo hướng phát triển xanh và bền

vững. Bộ mặt nông thôn mới đang thay đổi ngày càng rõ nét. Để nhận dạng đầy
đủ và khách quan bộ mặt nông thôn hiện nay cần tới một cách nhìn mới, đó là
góc nhìn đa chiều về phát triển nông thôn truyền thống.
Những yêu cầu cơ bản là phát triển toàn diện các mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội là mục tiêu hướng tới. Trong từng giai đoạn việc cộng đồng lựa
chọn những lĩnh vực ưu tiên đem lại hiệu quả thiết thực.
1.3.2. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới là một chương
trình tổng thể phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phịng ở các địa
phương. Xây dựng nông thôn mới là cốt lõi của việc thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X về nơng nghiệp, nơng dân,
nông thôn. Thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước để phát triển khu
vực nông thôn. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xây dựng
nơng thơn mới chính là một cuộc cách mạng phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị, sự tham gia của người dân, giúp người dân nhận thức rõ trách
nhiệm, quyền lợi nhằm chủ động tham gia, tích cực thực hiện xây dựng nơng
thơn mới.
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu khá toàn
diện và to lớn. “Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng
sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, đảm bảo vững
chắc an ninh lương thực quốc gia, một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao
trên thị trường quốc tế. Kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng công
nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, bộ mặt nhiều vùng nông thôn
22


thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông
thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống

chính trị ở nơng thơn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát
huy. An ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội được giữ vững”. Vì thế chính trị
của giai cấp nơng dân ngày càng được nâng cao [39, Tr.3].
Tuy nhiên, nước ta hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp. Phát triển nơng
nghiệp, nơng thơn đã, đang và sẽ cịn là mối quan tâm hàng đầu. Nghị quyết Đại
hội địa biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định mục tiêu: “Xây dựng nông
thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, cơng bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển
ngày càng hiện đại”.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, ngày 5/8/2008 Hội nghị lần thứ bảy
Trung ương (Khóa X) cho ra đời Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn.Nghị quyết đã nêu rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước ta:
Thứ nhất, nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và
lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phịng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc và bảo vệ mơi trường sinh thái của đất nước.
Thứ hai, các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải
quyết đồng bộ, gắn với q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông
dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nơng thơn mới gắn với xây
dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn
bản, phát triển tồn diện, hiện đại hóa nơng nghiệp là then chốt.
Thứ ba, phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
23



chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và
biển, khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho
phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thon; phát huy cao nội
lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển
nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nơng dân [39, Tr.4].
Thứ tư, giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ
của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội; trước hết phải khơi dậy tinh thần yêu
nước, tự chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nơng
thơn ổn định, hịa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản
sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới, nâng cao đời sống nông dân [39, Tr.5].
Để thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008
về việc xây chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nơng nghiệp, nơng
dân, nơng thơn. Chương trình hành động được xây dựng với các mục tiêu cụ thể
nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Trung ương.
Thứ nhất, xây dựng nền nơng nghiệp phát triển tồn diện theo hướng hiện
đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh cao, đạt mức tăng trưởng 3,5-4%/năm, bảo đảm vững chắc an ninh lương
thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
Thứ hai, tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ
phận nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao
thu nhập của dân cư nông thôn.
Thứ ba, nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của cư dân
nông thôn, tạo điều kiện để nông dân được hưởng lợi nhiều hơn từ quá trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
24



Thứ tư, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, xây dựng
nông thôn mới bền vững theo hướng văn minh, hiện đại, giàu đẹp, bảo vệ môi
trường xung quanh [39, Tr.17].
Thứ năm, nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, thực hiện
các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu tồn cầu [39, Tr.18].
Có thể nói chương trình thực hiện mục tiêu Quốc gia về xây dựng nơng
thơn mới là chương trình mang tính tổng hợp, tồn diện. Bao gồm tất cả các lĩnh
vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, đời sống của nhân dân, …. Nhằm
cụ thể hơn trong bước đầu thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia Thủ tướng
Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nơng thơn mới giai đoạn 2010-2020 trên cả nước.
Để thuận tiện cho việc kiểm tra, đánh giá các nội dung trong chương trình
xây dựng nơng thơn mới tại các địa phương Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định số 491/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nơng thơn mới bao gồm
19 tiêu chí: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch; Giao thông; Thủy lợi, Điện,
Trường học; Cơ sở vật chất văn hóa; Chợ nơng thơn; Bưu điện; Nhà ở dân cư;
Thu nhập; Hộ nghèo; Cơ cấu lao động; Hình thức tổ chức sản xuất; Giáo dục; Y
tế; Văn hóa; Mơi trường; Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh; An ninh
trật tự xã hội.
Trong quá trình triển khai Chương trình xây dựng nơng thơn mới, các địa
phương, căn cứ vào thực tế địa bàn, có thể mềm hố một số chỉ tiêu trên cơ sở
vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Đồng thời ban hành Kế
hoạch tổ chức thực hiện Phong trào thi đua “cả nước chung tay xây dựng nông
thôn mới”. Mục đích là phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc
tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trực tiếp tham gia thực hiện thắng lợi chủ
trương xây dựng nông thôn mới.
Xây dựng nông thôn mới luôn được xác định là nhiệm vụ quan trọng của
cả hệ thống chính trị và tồn xã hội trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy trong

Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: Tiếp tục triển khai
25


×