Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước – Bài học kinh nghiệm từ triều Trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

………../………..

…/…

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TẠ HỒNG HẢI

PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC – BÀI HỌC KINH NGHIỆM
TỪ TRIỀU TRẦN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Hà Nội – 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
………../………..

BỘ NỘI VỤ
…/…

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TẠ HỒNG HẢI


PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC – BÀI HỌC KINH NGHIỆM
TỪ TRIỀU TRẦN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG

Hà Nội – 2020


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng em.
Các cứ liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn khơng trùng lặp với bất kỳ
cơng trình khoa học nào có liên quan đã được cơng bố.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Hoàng Hải


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo Học viện Hành chính
Quốc gia, các thầy cô là giảng viên của các khoa, các thầy cô của Ban Quản
lý đào tạo sau đại học đã giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập chương trình
cao học tại học viện. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
PGS.TS Lê Thị Hương là người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo,

hướng dẫn và giúp đỡ em nghiên cứu hoàn thành luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Quản lý công.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Hoàng Hải


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

QLNN

Quản lý nhà nước

DCTT

Dân chủ trực tiếp

DCDD

Dân chủ đại diện

QCCC

Quân chủ chuyên chế

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐND


Hội đồng nhân dân


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM
CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ...................... 8
1.1. Các khái niệm cơ bản ............................................................................. 8
1.2. Mục đích, u cầu, nội dung, hình thức phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong quản lý nhà nước ................................................................ 17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong quản lý nhà nước................................................................................ 28
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 33
Chƣơng 2: VƢƠNG TRIỀU TRẦN VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH TRỌNG DÂN, THÂN DÂN TRONG TRỊ QUỐC VÀ ĐIỀU
HÀNH CHÍNH SỰ ........................................................................................ 34
2.1. Sự hình thành và phát triển của triều Trần trong tiến trình lịch sử Việt
Nam ............................................................................................................. 34
2.2. Tư tưởng trọng dân, thân dân trong trị quốc và điều hành chính sự của
triều Trần ..................................................................................................... 39
2.3. Những thành cơng và hạn chế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc của triều Trần trên nền tảng tư tưởng trọng dân, thân dân ................. 61
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 74
Chƣơng 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA TRIỀU TRẦN VÀ
NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO VỀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ

CỦA NHÂN DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ..................................................................................................... 76
3.1. Bài học kinh nghiệm của Triều Trần ................................................... 76
3.2. Những giá trị tham khảo của Triều Trần về phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay ....................... 81
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98
PHỤ LỤC 1 .................................................................................................. 101
PHỤ LỤC 2 .................................................................................................. 102


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt là trung tâm của hệ thống chính
trị, mang trong mình bản chất giai cấp và tính xã hội. Trải qua nhiều giai đoạn
lịch sử khác nhau, từ hình thái nhà nước sơ khai đến nhà nước xã hội chủ
nghĩa, hoạt động quản lý của nhà nước ngày càng được chú trọng hơn trên cả
phương diện lý luận khoa học và thực tiễn. Với việc làm rõ hơn vai trò, chức
năng của nhà nước, khoa học quản lý nói chung và khoa học hành chính nói
riêng cũng đi sâu nghiên cứu từng yếu tác động đến quản lý nhà nước trong
đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của người dân với tư cách vừa là chủ thể của
quyền lực nhà nước vừa là đối tượng quản lý của nhà nước.
Trên thế giới ngay từ thời kỳ văn minh Hy Lạp cổ đại khái niệm “dân
chủ” đã được các nhà chính trị học, triết học như Platon, Aristote đề cập, tuy
còn sơ khai và chưa đầy đủ song đây cũng là sự khẳng định bước đầu về vai
trò của người dân trong quản lý nhà nước và công việc cộng đồng.
Ở Việt Nam, với đặc thù của nền văn minh nông nghiệp, ngay từ buổi
đầu dựng nước người Việt đã xây dựng được tinh thần đoàn kết gắn bó chặt
chẽ trong cộng đồng, đó đã trở thành sợi dây kết nối bền chặt toàn dân tộc, tư

tưởng trọng dân, thân dân, yêu dân và vì dân được kế thừa và phát huy, trở
thành tư tưởng chính trị chiến lược xuyên suốt mọi thời kỳ lịch sử, mọi hình
thái nhà nước của dân tộc ta. Nhìn lại lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước có thể thấy rằng lòng dân và vận nước là hai phạm trù có mối quan
hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau, lòng
dân quyết định vận nước và quay trở lại vận nước có lên thì lịng dân mới n.
Kể từ khi cách mạng tháng tám thành công, nhà nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa ra đời, nhân dân Việt Nam đã được thừa nhận và khẳng định
vị trí chính trị và vai trị đầy đủ của mình đối với nhà nước, quyền lực nhà

1


nước thuộc về nhân dân, nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân,
nhân dân có quyền làm chủ vận mệnh quốc gia và chính bản thân mình. Hiến
Pháp năm 2013 tại khoản 1 Điều 28 đã nêu rõ: “Cơng dân có quyền tham gia
quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà
nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”. Trong điều kiện nước
ta hiện nay, khi mà xã hội ngày càng phát triển, đời sống của nhân ngày một
nâng cao thì nhu cầu tham gia vào các hoạt động chính trị xã hội của người
dân ngày càng lớn, trong đó đặc biệt là cơng tác quản lý nhà nước và cũng chỉ
có sự tham gia tích cực, hiệu quả của người dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân mới đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Ngược dòng thời gian hơn 700 năm đã có một triều đại phong kiến đưa
tư tưởng trọng dân, thân dân và như cách nói của chúng ta ngày nay là phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lên đến đỉnh cao với nhiều tư tưởng tiến bộ,
đi trước thời đại đó là vương triều Trần với những thành tựu chói sang trên tất
cả các mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, qn sự. Vương triều Trần với 175
năm trị vì đã để lại cho chúng ta ngày nay những bài học sâu sắc và có giá trị
lớn lao trong quản lý nhà nước, xây dựng nhà nước và nhất là việc chú trọng

vai trò tiên quyết của nhân dân đối với thành công của nhà nước. Nhận thấy
đây là một vấn đề có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trong phát huy
quyền làm chủ của nhân dân đối với công tác quản lý nhà nước, tác giả quyết
định lựa chọn đề tài: “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý
nhà nước – Bài học kinh nghiệm từ triều Trần” làm đề tài luận văn chuyên
ngành quản lý cơng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Một số các cơng trình nghiên cứu, cuốn sách, sản phẩm khoa học có liên
quan đến đề tài luận văn có thể kể đến như sau:

2


- Cuốn sách Đông A Nhân Kiệt [4] do tác giả Hoàng Dương Chương –
Trịnh Thị Nga sưu tầm và biên soạn, NXB Văn hóa Dân tộc - 2011. Cuốn
sách đã nêu lên những cá nhân tiêu biểu, kiệt xuất của triều Trần dưới góc
nhìn đa chiều, đặc biệt là sự đánh giá, ghi nhận rất lớn về tư tưởng chính trị
trong đó có nội dung rất lớn về tấm lòng yêu nước, thương dân của các bậc
quân vương, tể phụ. Thơng qua tìm hiểu về từng cá nhân kiệt xuất có thể tìm
thấy điểm chung trong tư tưởng chính trị của chính quyền trung ương dưới
triều Trân, đặc biệt là những nhân vật quan trọng trong bộ máy chính quyền.
- Cuốn sách Tư Tưởng Chính Trị “Dân là gốc” [25] trong Lịch Sử Việt
Nam, do Thiếu tướng, PGS.TS. Lê Văn Thắng – TS. Nguyễn Văn Tuân (đồng
chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật, 2018. Cuốn sách là sự khái quát
chiều dài lịch sử đất nước ta suốt hàng nghìn năm, cơng cuộc dựng nước và
giữ nước đã lấy tư tưởng “dân là gốc” làm tôn chỉ, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh tư tưởng này được phát huy cao độ dưới thời nhà Trần. Đây là một cơng
trình khoa học được đầu tư công phu, với giá trị rất lớn về mặt lý luận.
- Cuốn sách Tư Tưởng Việt Nam Thời Trần [28] do TS. Trần Thuận biên
soạn, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, cuốn sách là sự nhìn nhận đánh

giá tư tưởng thời Trần ở một không gian rộng hơn tuy nhiên vẫn tập trung lớn ở
tinh thần đoàn kết nhân dân, lấy sức mạnh lòng dân là căn bản, là động lực đưa
quốc gia, dân tộc phát triển. Trên cơ sở nghiên cứu tổng thể tư tưởng Việt Nam
thời Trần tác giả đã làm rõ và đi sâu đối với hệ tư tưởng chính trị làm nền tảng
cho công cuộc trị nước với việc đề cao vai trò của nhân dân.
- Cuốn sách Tư Tưởng Chính Trị Thời Trần: Nội Dung, đặc điểm và ý
nghĩa lịch sử [6] của tác giả TS. Nguyễn Thị Thùy Duyên, NXB Chính Trị
Quốc Gia Sự Thật, 2017. Đây có thể nói là cơng trình khoa học có nội dung
gần nhất đối với đề tài luận văn khi mà đối tượng nghiên cứu chính ở đây là
tư tưởng chính trị, tác giả đã đi sâu khai thác, nghiên cứu đa chiều, trên nhiều

3


phương diện về tư tưởng chính trị thời Trần, làm nổi bật các giá trị cốt lõi có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất cao.
- Cuốn sách Thời Đầu Nhà Trần [19] của tác giả Ngô Văn Phú, NXB
Trẻ - NXB Giáo dục Việt Nam, cuốn sách với những căn cứ lịch sử và khoa
học đáng tin cậy là nguồn tư liệu quan trọng về các sự kiện lịch sử, nhân vật
lịch sử tất cả đều hướng đến nội dung cốt lõi xuyên suốt chiều dài lịch sử
vương triều Trần đó là sự gần gũi giữa chính quyền với nhân dân, giữa quý
tộc với tầng lớp bình dân. Nghiên cứu giai đoạn đầu của triều Trần cũng là
quá trình đi sâu tìm hiểu bản chất, nguồn gốc của tư tưởng thân dân trong
chính sách trị nước của họ Trần
- Cuốn sách Chăm lo lợi ích, hạnh phúc và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, NXB Chính trị
Quốc gia, 2019. Cuốn sách chọn lọc 12 bài viết của các nhà lãnh đạo, quản lý,
nhà nghiên cứu nhằm góp phần làm rõ thêm tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh trong việc chăm lo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Luận án Tiến sĩ Triết học: Bệnh quan liêu trong hệ thống chính trị và

phương hướng khắc phục để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân Việt Nam
hiện nay, tác giả Trần Quang Minh. Luận án là cơng trình khoa học nhiều tâm
huyết đã làm sáng tỏ thực trạng bệnh quan liêu trong hệ thống chính trị,
ngun nhân, tác hại của nó và đề ra phương hướng, giải pháp khắc phục để
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Cuốn sách Quyền làm chủ của nhân dân [9], tác giả Trần Hiệu, NXB
Sự thật, 1969. Nội dung của cuốn sách khái quát quá trình bảo đảm và mở
rộng quyền làm chủ của nhân dân. Chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của nhà nước xác định nội dung các quyền dân chủ của nhân dân. Những
thiếu sót cần phải khắc phục, những việc làm để phát huy tốt quyền làm chủ
của nhân dân.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài từ việc nghiên cứu làm rõ mối quan hệ
giữa nhà nước và nhân dân, cũng như những bài học của triều Trần trong việc
phát huy sức mạnh của nhân dân để áp dụng vào tình hình thực tế cơng tác
quản lý nhà nước hiện nay, phát huy hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân đối
với quản lý nhà nước, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước, về dân chủ,
quyền làm chủ của nhân dân, vai trò của nhân dân trong quản lý nhà nước.
- Hệ thống hóa những bài học, những giá trị tư tưởng của triều Trần đối
với việc phát huy sức mạnh của nhân dân, chính sách trọng dân, thân dân.
- Đánh giá tổng thể và chi tiết đối với những bài học từ triều Trần trong
việc xây dựng mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, trên cơ sở đó rút ra
những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn nhằm phát huy quyền làm chủ

của nhân dân trong quản lý nhà nước ở việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong thời đại nhà Trần.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: tìm hiểu và làm rõ nội dung về các chính sách
trọng dân thân dân dưới thời đại nhà Trần
- Phạm vi về thời gian: từ năm 1225 đến năm 1399 là khoảng thời gian
trị vì của vua vương triều Trần
- Phạm vi về không gian: bối cảnh nước Đại Việt dưới sự trị vì của triều Trần

5


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện
chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. Trong
đó, phương pháp duy vật lịch sử được dùng để xác lập, khẳng định mốc thời
gian lịch sử cụ thể gắn với quá trình hình thành và phát triển của vương triều
Trần. Phương pháp duy vật biện chứng nhìn nhận vấn đề phát huy quyền làm
chủ của nhân dân dưới triều đại nhà Trần trong đặc biệt gắn liền mối quan hệ
giữa thời kỳ lịch sử và trình độ phát triển.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp được tác giả vận
dụng trong hầu hết các nội dung của luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn
đề lý luận về phát huy quyền làm chủ của nhân dân tương ứng với từng thời
kỳ lịch sử
- Phương pháp lịch sử: tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu này nhằm

xác định mốc thời gian, bối cảnh lịch sử quan trọng dưới triều đại nhà Trần.
- Phương pháp đánh giá: được sử dụng để đánh giá một cách khác
quan không thiên lệch đối với những biện pháp, chủ trương, chính sách của
triều Trần trong việc phát huy vai trò của nhân dân trong quản lý đất nước và
xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về dân
chủ, quyền làm chủ của nhân dân, cũng như chỉ rõ sự phát triển của tư tưởng
trọng dân trong một giai đoạn lịch sử.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
giảng dạy, nghiên cứu liên quan đến lịch sử hành chính nhà nước.

6


- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cơ quan
quản lý nhà nước đặc biệt là chính quyền các cấp trong việc xây dựng cơ chế,
biện pháp để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để
nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong quản lý nhà nước
Chương 2: Vương triều Trần và việc thực hiện chính sách trọng dân,
thân dân trong trị quốc và điều hành chính sự
Chương 3: Những bài học kinh nghiệm của triều Trần và giá trị tham
khảo về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước ở Việt
Nam hiện nay


7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ
CỦA NHÂN DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Quản lý nhà nước
Quản lý là hoạt động gắn liền với tổ chức xã hội, ngay từ hình thái xã
hội sơ khai nhất của lồi người, nhu cầu về quản lý và được quản lý đã xuất
hiện. Trong quá trình tồn tại và phát triển con người phải thực hiện nhiều
công việc mà bản thân sức lực một người hoặc một vài người không thể thực
hiện được như săn bắn thú lớn, chống lại kẻ thù, thiên tai, từ đó xuất hiện nhu
cầu phải có sự quản lý để thống nhất hành động, phối hợp chặt chẽ giữa các
cá nhân, tập hợp sức mạnh lớn nhất của cộng đồng, các tù trưởng, tộc trưởng,
người đứng đầu gia đình có thể nói là những nhà quản lý đầu tiên trong xã
hội. Cùng với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, q trình
phân cơng lao động bắt đầu diễn ra, tính chun mơn hóa trong sản xuất, trao
đổi và lưu thơng hàng hóa càng địi hỏi sự quản lý tập trung và hiệu quả đến
từng ngành nghề, từng lĩnh vực, con người cần có sự quản lý để thực hiện
những cơng việc có tính phức tạp hơn với trình độ cao hơn.
Quản lý là hoạt động có chủ đích, có định hướng của chủ thể quản lý
tác động lên đối tượng quản lý để thực hiện một mục tiêu nhất định. Quản lý
xuất hiện cùng với tổ chức, có tổ chức là phải có sự quản lý nhằm hướng mọi
nỗ lực, cố gắng của các thành viên trong tổ chức thực hiện mục tiêu chung.
Các yếu tố trong quản lý bao gồm:
- Chủ thể quản lý: Là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có
thể là cá nhân hoặc tổ chức.
- Khách thể quản lý: Là các quy luật, quá trình, hành vi chịu sự điều
chỉnh của chủ thể quản lý


8


- Đối tượng quản lý: Là nhân tố tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản
lý. Tùy theo đặc điểm, tính chất của mỗi đối tượng quản lý khác nhau, có thể
chia thành các dạng quản lý khác nhau
- Mục tiêu quản lý: Là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất
định do chủ thể quản lý quyết định.
Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị của xã hội có giai cấp, có lãnh
thổ, dân cư và chính quyền độc lập có khả năng đặt ra và thực thi pháp luật,
chính sách nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Như vậy về mặt
bản chất nhà nước ra đời để thực hiện chức năng quản lý xã hội, quản lý một
quốc gia, để thực hiện chức năng này nhà nước nắm trong tay quyền lực chính
trị đặc biệt đó là quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước có địa vị cao nhất,
bao trùm lên toàn bộ lãnh thổ, chi phối tác động đến mọi mặt của đời sống,
không ai, không tổ chức nào đứng trên quyền lực nhà nước.
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý đặc biệt do nhà nước thực hiện,
sử dụng quyền lực nhà nước tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội với
mục tiêu duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, do bộ máy nhà nước
thực hiện thông qua việc ban hành chính sách và pháp luật, quản lý nhà nước
có phạm vi tác động trên tồn bộ lãnh thổ của một quốc gia.
1.1.2. Dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân
Dân chủ là một phạm trù lịch sử xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã
hội loài người, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, hình thái xã hội đầu tiên
của nhân loại, “dân chủ” xuất hiện với việc mọi thành viên trong cộng đồng
đều có quyền lợi bình đẳng như nhau đối với của cải, vật chất, được phân chia
đồng đều các chiến lợi phẩm từ săn bắn, hái lượm, thủ lĩnh của bộ lạc, thị tộc
là những người được tất cả tơn kính và bầu lên, với ý nghĩa nguyên thủy đó,

“dân chủ” trở thành một phương thức tồn tại, một nguyên tắc sống của xã hội

9


cộng sản nguyên thủy. Mỗi cá nhân được bình đẳng về quyền lợi, được đối xử
như nhau khơng có sự phân chia, khơng có đặc quyền, đặc lợi, quyền lực
thuộc về mọi người. Cùng với sự phát triển của trình độ sản xuất, xã hội bắt
đầu có sự phân chia giai cấp và hình thành nên hình thái nhà nước đầu tiên –
nhà nước chiếm hữu nô lệ, quyền lực công, quyền lực chung của cộng đồng
lúc này bị tha hóa và nằm trong tay giai cấp thống trị, “dân chủ” trên phạm vi
tồn xã hội biến mất, bất bình đẳng xã hội xuất hiện, trải qua nhiều giai đoạn
phát triển của lịch sử, với các hình thức nhà nước khác nhau, nhân dân tiếp
tục đấu tranh giành lấy quyền dân chủ.
Về mặt học thuật, lần đầu tiên dân chủ được nhắc đến như một thuật
ngữ chính trị và được biểu hiện dưới một chế độ chính trị là thời Hy Lạp cổ
đại tại thành bang Athens, “dân chủ” tiếng anh là Democratic xuất phát từ
tiếng Hy Lạp tức “là quyền lực nhân dân”, được thể hiện qua mơ hình dân chủ
Athens với việc nhân dân tham gia biểu quyết các vấn đề của nhà nước, các
quyết đinh đưa ra trên cơ sở số đông. “ Sau khi vua Alcemaeon bang hà vào
năm 753 trước Thiên chứa giáng sinh (TCN), Athens được tổ chức theo dân
chủ nghị viện: công dân được quyền nghị viện, nhưng chức vụ thẩm phán vẫn
dành cho quý tộc. Đến thế kỷ thứ V(TCN), Athens hoàn tồn theo thể chế dân
chủ trực tiếp. Mọi cơng dân đều trực tiếp tham gia việc nước: nghị luận, bàn
cãi, bầu bán, biểu quyết,v.v…Do đó, Athens được coi là nơi có chế độ dân
chủ đầu tiên, nơi mà mọi người dân đều được tham gia chính sự.”[1,tr9]. Như
vậy trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại lần đầu tiên “dân chủ” xuất hiện với tư cách
là một chế độ chính trị mà ở đó mọi cơng dân có quyền tham gia bàn bạc, biểu
quyết và quyết định các công việc của nhà nước, tuy nhiên dân chủ ở đây còn
bị hạn chế về đối tượng khi mà phụ nữ và nô lệ không được thực hiện quyền

biểu quyết và bàn bạc.

10


Ở phương Đông, Nho giáo nguyên thủy sớm đưa ra tư tưởng : “Dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quý nhất, rồi đến đất nước, cuối
cùng mới là vua), đây là tư tưởng rất gần gũi với tư tưởng dân chủ, coi trọng
vai trò, vị trí của nhân dân, đưa nhân dân vào vị trí trung tâm của quyền lực
chính trị. Tuy nhiên, tư tưởng này dần dần bị tha hóa, biến đổi để phù hợp với
quyền lợi của giai cấp thống trị.
Theo Từ điển Tiếng Anh Oxford, “dân chủ” cũng để chỉ một hình thức
nhà nước, trong đó mọi thành viên đều tham gia vào việc ra quyết định về các
vấn đề của mình, thường bằng cách bỏ phiếu để bầu người đại diện trong
quốc hội hoặc thể chế tương tự.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Thường thức Chính trị
(1953) “dân chủ tức là dân là chủ”, người chỉ rõ “Ở nước ta chính quyền là
của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân là ơng chủ nắm chính quyền.
Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân
chủ”. Như vậy thơng qua quan điểm rất ngắn gọn về dân chủ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu lên hai nội dung quan trọng của “dân chủ”, thứ nhất dân chủ
tồn tại với tư cách là quyền của nhân dân, quyền được làm chủ chính quyền,
làm chủ nhà nước, làm chủ chế độ, quyền lựa chọn, xây dựng nên cơ quan
dân cử. Thứ hai, dân chủ là một chế độ chính trị, một hình thức nhà nước khi
có sự tham gia của tất cả quần chúng nhân dân trong việc xây dựng, điều hành
hoạt động của nhà nước, nhà nước đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân.
Giữa “dân chủ” và “quyền làm chủ của nhân dân” có nhiều nội dung
tương đồng thậm chí được sử dụng thay thế cho nhau, song về mặt nội hàm cần
làm rõ ý nghĩa của khái niệm “ quyền làm chủ của nhân dân” từ đó có cách sử

dụng chuẩn xác. Dân chủ là một khái niệm rất rộng, vừa để chỉ một quyền của
công dân, vừa chỉ một thể chế chính trị, vừa mang ý nghĩa xã hội, văn hóa, dân

11


chủ trong đời sống chính trị, dân chủ trong đời sống kinh tế, văn hóa xã hội.
“Quyền làm chủ của nhân dân” là một khái niệm rất cụ thể, nội hàm rất rõ ràng,
quyền làm chủ là làm chủ chính quyền nhà nước, quyền tham gia vào các công
việc của nhà nước, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, nhân dân làm
chủ vận mệnh của bản thân, làm chủ vận mệnh của đất nước. “Quyền làm chủ
của nhân dân” là một khái niệm gắn liền với sự ra đời của nhà nước dân chủ
nhân dân và sau này là nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ phong kiến và
thực dân đế quốc, nhân dân ta khơng có quyền làm chủ, số phận, địa vị chính
trị của nhân dân là con số không, nhân dân chịu sự áp bức, bóc lột của thực
dân, phong kiến, nhân dân khơng có quyền lực chính trị, chịu kiếp sống nơ lệ,
quyền lực nhà nước, chính quyền nhà nước lúc này là chính quyền của giai cấp
thống trị, chính quyền của số ít. Khi nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa ra
đời, nhân dân thực sự có quyền làm chủ, trực tiếp xây dựng nên chính quyền
các cấp, bầu ra đại biểu đại diện cho quyền và lợi ích của chính mình, nhà nước
là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên hiện nay cùng với sự mở
rộng quyền làm chủ của nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân không chỉ được
nhắc đến trong lĩnh vực chính trị mà cịn trong nhiều các lĩnh vực khác, trong
khuôn khổ luận văn chuyên ngành quản lý công, quyền làm chủ của nhân dân ở
đây là quyền làm chủ của nhân dân gắn với hoạt động quản lý nhà nước.
1.1.3. Mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân
Nhà nước là một hiện tượng xã hội ra đời cùng với sự phân chia giai cấp
trong xã hội, nhà nước là một tổ chức, một thiết chế quyền lực đặc biệt, có bộ
máy cưỡng chế, đảm bảo quyền lợi của giai cấp thống trị. Mối quan hệ giữa
nhà nước và nhân dân thay đổi theo từng chế độ, hình thái nhà nước khác nhau

xoay quanh bản chất của nhà nước gồm tính giai cấp và tính xã hội. Tính giai
cấp thể hiện ở việc nhà nước là công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm
quyền, thơng qua việc ban hành pháp luật nhà nước điều chỉnh hoạt động của

12


xã hội và mọi cá nhân theo ý chí của giai cấp cầm quyền. Tính xã hội thể hiện
ở việc nhà nước đại diện cho người dân thực hiện, giải quyết các cơng việc
chung, các vấn đề của tồn xã hội, thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại.
Đối với các kiểu nhà nước bóc lột, tồn tại giai cấp thống trị và bị trị,
mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân là mối quan hệ cai trị, lệ thuộc, tính
giai cấp rất rõ rệt và là đặc điểm nổi bật thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước
và nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội, thu thuế, đề ra các chính sách, pháp
luật với nội dung chính là đề cao và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền,
nhân dân được hưởng một số quyền nhất định nhưng nhìn chung đều nhằm
phục vụ cho lợi ích của nhà nước, lợi ích của số ít, nhân dân đóng góp của cải
vật chất và nguồn lực để vận hành bộ máy nhà nước song khơng có quyền
tham gia hoặc quyền tham gia vào công việc của nhà nước bị hạn chế.
Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, tính giai cấp và tính xã hội hịa
quyện, thống nhất với nhau, nhà nước là nhà nước của nhân dân, đại diện cho
ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của toàn thể nhân dân, nhân dân trực tiếp
tham gia làm chủ chính quyền nhà nước, điều hành bộ máy nhà nước thông
qua cơ quan dân cử. Mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân lúc này là mối
quan hệ qua lại, gắn bó với nhau. Nhân dân lập nên nhà nước, nhà nước là nhà
nước của dân, do dân, vì dân, quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân,
nhân dân đóng thuế, cung cấp nguồn lực vật chất để vận hành bộ máy nhà
nước, nhân dân thực hiện sự quản lý, điều hành của nhà nước, thực hiện các
chủ trương, chính sách và tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật do
nhà nước ban hành, nhân dân trực tiếp hiện thực hóa mọi ý tưởng quản lý của

nhà nước, cùng nhà nước quản lý và điều hành đất nước. Về phía nhà nước,
nhà nước thực hiện quản lý xã hội, duy trì sự ổn định và trật tự xã hội, giải
quyết các vấn đề của người dân, phục vụ đời sống nhân dân, tham gia cung
ứng các dịch vụ công, chăm lo đời sống nhân dân, mọi hoạt động của nhà

13


nước đều hướng đến quyền và lợi ích chính đáng của đại bộ phận nhân dân.
Giữa nhà nước và nhân dân có mối quan hệ rất chặt chẽ, sự ủng hộ, tín nhiệm
của nhân dân quyết định hiệu lực hiệu quả của quản lý nhà nước, ngược lại
nhà nước hoạt động có hiệu quả, cơng bằng, khách quan và nghiêm minh thì
sẽ góp phần nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân, củng cố niềm tin và
sự ủng hộ của nhân dân đối với nhà nước.
Ngày nay trên thế giới với sự phát triển nhanh của xã hội, mọi nhà
nước đang chuyển đổi tính chất hoạt động, từ quản lý, cai trị sang phục vụ,
người dân có sự tham gia đầy đủ và sâu rộng hơn vào đời sống chính trị, tham
gia tích cực hơn vào hoạt động quản lý của nhà nước.
Đối với nhà nước Việt Nam hiện nay, mối quan hệ với nhân dân được
thể hiện qua nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp tri
thức, tức là cũng đại diện cho đại bộ phận nhân dân lao động, Đảng giữ vai
trò lãnh đạo, đề ra các chủ trương, đường lối định hướng cho sự phát triển
chung của đất nước, Đảng là hạt nhân của hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn
diện nhà nước và xã hội. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, ban hành
pháp luật, chính sách, quản lý tập trung, thống nhất mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội với mục tiêu cuối cùng là sự phát triển của đất nước và đời sống của
nhân dân. Nhân dân làm chủ chính quyền nhà nước, xây dựng nên chính
quyền và bộ máy nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của mình thơng qua
kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước, thông qua tham gia vào xây dựng

chính sách và pháp luật, tham gia vào các công việc chung của xã hội.
1.1.4. Quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước
Quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước được pháp luật
thừa nhận và quy định rõ trong Hiến Pháp 2013, Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp
quy định:

14


“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức”,
Nội dung Điều 2 hiến Pháp nhấn mạnh hai nội dung quan trọng, thứ
nhất nhà nước ta do nhân dân làm chủ, thứ hai với việc thừa nhận tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp đã nhấn mạnh vị trí của nhân dân
là người nắm giữ quyền lực, trong đó có quyền hành pháp mà cụ thể là quản
lý nhà nước.
Quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục được khẳng định tại Điều 3
Hiến pháp:
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, mọi người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Đối với vấn đề quản lý nhà nước, Điều 28 Hiến Pháp 2013 quy định:
1. Cơng dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia
thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa
phương và cả nước.
2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và

xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị
của công dân.
Như vậy Hiến Pháp 2013 văn bản luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã làm khẳng định rất rõ những
nội dung quan trọng sau:

15


Thứ nhất, nhân dân có quyền làm chủ, quyền làm chủ thể hiện ở việc
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân xây dựng nên chính
quyền, nhà nước là của dân, do dân và vì dân.
Thứ hai, nhà nước bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ ba, trong quản lý nhà nước, công dân có quyền tham gia quản lý
nhà nước và xã hội, nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để công dân tham
gia quản lý nhà nước và xã hội. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói
chung, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước nói
riêng đã trở thành một nội dung bắt buộc, được thừa nhận và đảm bảo thực
hiện, được quy định rõ ràng, cụ thể trong văn bản luật có tính pháp lý cao nhất
là Hiến pháp.
1.1.5. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước
“Phát huy” theo nghĩa Hán Việt tức là làm cho phát triển hơn, làm cho
rộng lớn, sáng rõ hơn. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là làm cho quyền
làm chủ của nhân dân được thực hiện sâu rộng hơn, thiết thực hơn, để nhân
dân thực sự làm chủ trong các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước là để
nhân dân sử dụng quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước một cách
hiệu quả hơn, nhân dân tham gia tích cực, chất lượng hơn vào cơng tác quản
lý của nhà nước, được đóng góp tham gia ý kiến và quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước.

Quản lý nhà nước xét về mục tiêu khơng có gì khác ngồi tạo ra lợi ích
cho nhân dân, bảo đảm quyền lợi chính đáng của nhân dân, các vấn đề quản
lý đều xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của nhân dân phát sinh trong đời sống xã
hội. Chính vì vậy, nhân dân phải được tham gia vào quản lý nhà nước, phải
được phát huy quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước. Phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước phải đảm bảo sự tham

16


gia sâu rộng của mọi tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi, ngành nghề, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân phải có biện pháp, phương thức phù hợp với
trình độ phát triển của xã hội, phù hợp với văn hóa, phong tục tập qn. Nếu
khơng phát huy hoặc phát huy khơng có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân
đối với quản lý nhà nước, thì các hoạt động quản lý sẽ mang tính chất chủ
quan, duy ý chí, thiếu tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả bị giảm sút.
Như vậy, “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà
nước” là việc nhà nước ban hành chính sách, pháp luật và cơ chế nhằm tạo
điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tham
gia đóng góp tích cực vào cơng tác quản lý nhà nước, thể hiện vai trò của
nhân dân đối với hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
1.2. Mục đích, u cầu, nội dung, hình thức phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong quản lý nhà nƣớc
1.2.1. Mục đích phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý
nhà nước
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước hướng
tới các mục đích sau đây:
- Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đây là mục đích
cốt lõi và quan trọng nhất và cũng là mục đích hướng đến của quản lý nhà
nước. Quyền làm chủ của nhân dân chỉ thực sự có ý nghĩa khi quyền làm chủ

đó quay trở lại phục vụ đời sống của nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ và
được đảm bảo quyền lợi nhờ quyền làm chủ đó. Trong quản lý nhà nước,
nhân dân có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện quyền làm chủ song chủ thể
đưa ra quyết định quản lý cuối cùng vẫn là nhà nước, các ý kiến, tâm tư
nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân có được thực hiện hay khơng nằm ở
việc quyết định quản lý được thực hiện như thế nào.

17


- Tập trung, huy động sức mạnh, trí tuệ tồn dân trong công tác quản lý
nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước là một vấn đề rất quan trọng, được quan tâm hàng đầu trong
thực hiện, triển khai các quyết định quản lý, các văn bản pháp luật. Để đảm
bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có sự
tham gia mạnh mẽ và sâu rộng của toàn dân, hội tụ trí tuệ và sức mạnh của
nhân dân trong cơng tác quản lý nhà nước. Vấn đề quản lý dù có phức tạp,
khó khăn đến đâu nếu có sự tham gia, đóng góp trí tuệ từ đơng đảo quần
chúng nhân dân, nếu có sự ủng hộ, hỗ trợ và thực hiện tích cực từ phía nhân
dân thì vấn đề đó chắc chắn sẽ được giải quyết một cách có hiệu quả. Thực
tiễn công tác quản lý nhà nước cho thấy nhiều vấn đề phức tạp trong quản lý
nhà nước tồn tại trong thời gian dài, giải quyết không triệt để, nguyên nhân
lớn nằm ở việc chưa huy động được sự tham gia tích cực từ phía nhân dân.
Nhân dân là chủ của đất nước, làm chủ đời sống kinh tế xã hội, nhân dân là
lực lượng lao động của xã hội, là chủ thể sáng tạo nên các giá trị kinh tế,
chính trị, văn hóa, giáo dục, các vấn đề quản lý khơng có vấn đề gì tách rời
đời sống nhân dân và cũng chỉ có nhân dân là chủ thể hiểu rõ nhất bản chất
của các vấn đề xã hội, vấn đề là cần làm gì và bằng cách nào để huy động sức
mạnh trí tuệ và nguồn lực to lớn nơi nhân dân vào công tác quản lý nhà nước.
- Góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,

do dân và vì dân. Bản chất nhà nước ta đã được Hiến Pháp 2013 khẳng định
rất rõ đó là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân. Bản chất của nhà nước gắn liền và thống nhất với quyền
lợi của nhân dân, nhà nước mang bản chất của nhân dân, là nhà nước của dân,
do nhân dân xây dựng nên và hoạt hoạt động vì quyền lợi của nhân dân.
Chính vì vậy xây dựng nhà nước pháp quyền và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân là hai nội dung có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhà nước pháp
quyền là cơ sở để bảo vệ bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, phát huy

18


quyền làm chủ của nhân dân thì mới xây dựng và củng cố vững chắc chính
quyền nhà nước từ trung ương đến địa phương. Để thực hiện xây dựng và
củng cố nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân, cần chú trọng đặc
biệt hoạt động lập pháp, xây dựng, ban hành và thực thi văn bản quy phạm
pháp luật trong đó nhấn mạnh vai trị của người dân, luật pháp được xây dựng
trên cơ sở ý kiến đóng góp của nhân dân, được nhân dân thực hiện và bảo vệ
quyền lợi của nhân dân.
- Từ việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân hướng đến nâng cao
chất lượng đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước
với mục đích cao nhất đó là sử dụng quyền lực đó quay trở lại phục vụ đời
sống nhân dân, đời sống nhân dân được nâng cao, được cải thiện thì có nghĩa
là quyền làm chủ đã được phát huy hiệu quả. Bên cạnh đó phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước phải hướng đến xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người dân, mọi tầng lớp, ngành nghề, dân
tộc, tôn giáo và vùng miền đều được bảo đảm quyền làm chủ, đều được thực
hiện quyền làm chủ, khơng có sự phân biệt, khơng có đặc quyền, đặc lợi. Phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước phải đi liền với nâng

cao trình độ dân trí, phát triển văn hóa, giáo dục, đấu tranh chống các hành vi
kì thị chủng tộc, phân biệt đối xử, thực hiện đoàn kết toàn dân.
1.2.2. Yêu cầu phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý
nhà nước
Thứ nhất, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước
phải dựa trên nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải tuân thủ nghiêm
túc các quy định của pháp luật. Quyền làm chủ của nhân dân phải được khẳng
định, thừa nhận, và thể chế hóa thành các quy định pháp luật, phải được tuyệt
đối tuân thủ, áp dụng triệt để, phải có quy định rõ ràng về cơ chế bảo đảm, bảo

19


×