Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.99 KB, 28 trang )

UBND QUẬN THANH XN

-------***-------



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VIẾT ĐOẠN VĂN 
NGẮN CHO HỌC SINH LỚP 2

Mơn
Cấp học 
Tên tác giả
Đơn vị cơng tác
Chức vụ

: Tiếng Việt
: Tiểu học 
: Lại Thị Quỳnh Hoa
: Trường TH Khương Đình
: Giáo viên

NĂM HỌC 2018 ­ 2019


MỤC LỤC
                                              

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I.


LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Giáo dục có vai trị hết sức quan trọng đối với sự  tồn tại và phát triển 
của một dân tộc cũng như tồn thể nhân loại. Giáo dục tác động đến cấu trúc 
xã hội, 
đến các bộ phận đồng thời giáo dục là động lực thúc đẩy sự  phát triển 
kinh tế xã hội. Vì thế  từ  trước đến nay Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan 
tâm đến cơng tác giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu để  xây dựng và 
phát triển đất nước.
Đất nước ta đang bước vào thời kì đổi mới với quyết tâm cơng nghiệp 
hố, hiện đại hố đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu “ Dân giàu nước  
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ văn minh”. Để thực hiện được điều đó địi 
hỏi mỗi chúng ta phải có một nguồn lực, vừa có tài, vừa có đức, vừa có tri  
thức cuộc sống. Nơi tạo ra những nền móng vững chắc cho q trình học tập 
của mỗi con người chính là trường Tiểu học. Muốn vậy địi hỏi nhà trường 
phải khơng ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. Việc nâng cao chất lượng 
2 |   2 2


dạy học trong các nhà truờng nói chung và trường Tiểu học nói riêng là vấn  
đề trọng tâm của hoạt động giáo dục trong nhà trường.Vì đây là cấp học nền 
móng: “Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc  
dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí đức, thẩm mĩ 
và thể  chất cho trẻ  em nhằm hình thành cho học sinh nhân cách con người 
Việt Nam xã hội chủ  nghĩa”. Trong các mặt giáo dục  ở  Tiểu học thì Tiếng 
Việt là cơng cụ  giúp các em giao tiếp, nhận biết được vốn kiến thức của  
nhân loại thành trí thức của riêng mình. Thơng qua Tiếng Việt giúp các em 
nhận thức được các mơn học khác. Chẳng hạn, muốn giải một bài tốn thì 
điều đầu tiên là các em phải đọc đầu bài sau đó bằng tư duy sự hiểu biết về 
mơn học, các em trình bày bài giải qua nói, viết, giúp cho người khác hiểu  

được bài làm của mình.
        Trong trường Tiểu học, mơn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng  
đối với học sinh bởi  nó là mơn học cung cấp cho các em những kiến thức cần 
thiết trong giao tiếp hàng ngày. Nó giúp các em phát triển tồn diện, hình 
thành  ở  các em những cơ  sở  của thế  giới khoa học, góp phần rèn luyện trí  
thơng minh, hình thành tình cảm, thói quen đạo đức tốt đẹp của con người 
mới.
       Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ  đẻ. Dạy học Tiếng Việt 
giúp các em hình thành 4 kĩ năng cơ  bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân mơn Tập  
làm văn trong mơn Tiếng Việt hội tụ  đủ  cả  4 kĩ năng trên. Nó là phân mơn 
tổng hợp tồn bộ  kiến thức đã học ở trong tuần từ các phân mơn: Tập đọc, 
Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu.  Đối với học sinh lớp 2 thì 
đây là một phân mơn khó. Bởi  ở  lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu  
biết cịn hạn hẹp. Bên cạnh đó, cịn có một số khó khăn khách quan như điều 
kiện hồn cảnh sống của học sinh  ở địa bàn dân cư  lao động nghèo, gia đình 
khơng có điều kiện quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngơn ngữ  kém, việc 
tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh nghèo vốn từ  ngữ,…. Điều này  ảnh  
hưởng đến việc học tập nói chung, học phân mơn Tập làm văn nói riêng.Với 
mục tiêu rèn học sinh  ở  cả  bốn kỹ  năng nghe, đọc, nói, viết trong đó kĩ 
năng viết “một đoạn văn ngắn" là u cầu cơ  bản khá trọng tâm  ở  phân 
mơn Tập làm văn lớp 2.
          Phân mơn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kĩ  
năng nói và viết. Thế nhưng hiện nay, đa số các em học sinh lớp 2 đều rất sợ 
học phân mơn Tập làm văn vì khơng biết nói gì? Viết gì? Ngay cả  bản thân 
3 |   2 2


giáo viên đơi khi cũng khơng tự tin lắm khi dạy phân mơn này so với các mơn 
học khác. 
          Trong chương trình Tập làm văn lớp 2, ngay từ  đầu năm học, các em  

được làm quen với đoạn văn và được rèn kĩ năng viết đoạn văn từ  3 đến 5  
câu. Tơi dự  giờ  thăm hỏi một số  lớp, tơi nhận thấy các em cịn lúng túng, 
nhiều học sinh làm bài chưa đạt u cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết,  
dùng từ sai, cách chấm câu cịn hạn chế  có em viết khơng đúng u cầu của 
đề  bài  hoặc có những bài  làm  đảm bảo về  số  câu nhưng viết khơng  đủ 
ý.Việc dạy cho học sinh viết đoạn văn chính là q trình giáo viên khơi dậy  
sự  hiểu biết và cảm nhận của các em về  người, vật và cuộc sống xung 
quanh. Điều đó địi hỏi giáo viên dạy cho học sinh có cách tổ  chức, sắp xếp 
câu, ý sao cho lơgic, cách sử  dụng từ chính xác và hay khi viết. Song thực tế 
chỉ ra rằng một số học sinh lớp 2 khó nhận thức được việc sắp xếp ý (cảm  
nhận của mình) theo trật tự  đúng. Vốn sống của các em cịn hạn chế, do đó 
khi diễn đạt học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Sự  sắp xếp tổ chức câu trong 
đoạn cịn rời rạc. Các câu độc lập về nội dung chưa có sự liên kết và lơgic … 
Đơi khi các em cịn viết câu khơng rõ ý, từ  lặp lại nhiều…  Là một giáo viên 
đứng lớp nhiều năm, tơi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế  nào để  giúp các 
em thực hiện được mục tiêu đã đề  ra? Bản thân tơi ln cố  gắng để  tìm ra 
những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh.
             Xuất phát từ  những lí do trên tơi đã lựa chọn và viết Sáng kiến kinh  
nghiệm với đề  tài:  “  MỘT SỐ  BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG  
VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN CHO HỌC SINH LỚP 2  ” nhằm góp phần nâng 
cao chất lượng dạy­học phân mơn Tập làm văn lớp 2.

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

        ­ Đề tài góp phần khắc phục được hạn chế về cách viết một đoạn văn ngắn 
với câu văn cộc lốc, khơng đúng ngữ pháp, hay câu văn khơng rõ ràng, sự sắp xếp  
các câu văn khơng lơgíc...Qua đó bồi dưỡng lịng say mê u thích con người, cảnh  
vật  xung quanh  các em.
         ­ Góp phần vào đổi mới cách dạy tiếng Việt, giúp học sinh có kĩ năng  
viết đoạn văn ngắn trong phân mơn Tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy  

tính cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
4 |  2 2


          ­ Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách 
học của trị. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thơng qua cách  
tổ chức câu, ý sao cho lơgíc, cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết.
 III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
        ­Tìm hiểu thực tế để  đánh giá tình hình viết văn của học sinh, tìm hiểu  
ngun nhân dẫn đến tình trạng học sinh gặp khó khăn khi học phân mơn Tập  
làm văn .
      ­Từ  những lý luận và kinh nghiệm thực tế để  đưa ra các biện pháp giúp 
học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn. 
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
         ­ Đề tài được thực hiện trong các giờ Tập làm văn với 30 học sinh lớp  
2E của Trường Tiểu học.
­ Nội dung, chương trình, Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, đặc biệt là 
phân mơn Tập làm văn lớp 2 và một số tài liệu tham khảo.
­ Một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong 
giờ Tập làm văn.
V. THÀNH PHẦN THAM GIA NGHIÊN CỨU: 
­ Phạm vi nghiên cứu: 
         Với khn khổ  của một Sáng kiến kinh nghiệm, tôi nghiên cứu vấn 
đề:  “MỘT   SỐ   BIỆN   PHÁP   NÂNG   CAO   CHẤT   LƯỢNG   VIẾT   ĐOẠN  
VĂN NGẮN CHO HỌC SINH LỚP 2” . Trong đó làm sáng tỏ  một số  vấn 
đề về lý luận và thực tiễn về việc dạy­học phân mơn Tập làm văn lớp 2.
           Qua đó đưa ra một số  biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn 
ngắn đượ c tốt. 
­ Đối tượng điều tra, khảo sát, thực nghiệm
Nghiên cứu khảo sát thực trạng khối lớp 2 hiện nay nói chung, học sinh lớp  

2A4 Trường Tiểu học nói riêng. Về kỹ năng viết đoạn văn cũng như tính tích  
cực , tự giác, sáng tạo… của học sinh trong q trình học tập. 
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
  ­ Trong q trình thực hiện đề tài này tơi đã sử dụng một số phương pháp 
nghiên cứu sau: 
1. Phương pháp điều tra:
5 |  2 2


     ­ Mục đích để tìm hiểu các phương pháp dạy học của giáo viên; tìm 
hiểu tính tích cực nhận thức của học sinh.
2. Phương pháp thực nghiệm:
     ­ Dạy thực nghiệm tại lớp 2 A4 để đối chiếu kiểm nghiệm, đánh giá 
hiệu quả nghiên cứu.
 3. Phương pháp trực quan:
 ­ Tìm hiểu nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập…
      ­ Trao đổi với giáo viên – học sinh để tìm hiểu thực trạng dạy – học mơn Tập  
làm văn.
VII. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Stt
1

Thời gian
Tháng đầu

2

Cuối học kỳ 1

3


Cuối năm học

Nội dung
­Nghiên   cứu   chương   trình 
SGK,   SGV,   tài   liệu   tham 
khảo để nắm được nội dung, 
mức   độ   yêu   cầu   của   môn 
Tập làm văn.
­   Nghiên   cứu   phương   pháp 
dạy   viết   đoạn   văn   ngắn 
nhằm phát huy tính tích cực 
nhận thức của học sinh.
­ Dạy thực nghiệm theo biện 
pháp đã đề xuất.

Biện pháp
Thu thập tài liệu, lấy ý 
kiến giáo viên.

Tự nghiên cứu, rút kinh 
nghiệm

Thực hiện hồn thành báo cáo Tổng kết, viết SKKN

PHẦN II. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI 
        ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
I.

CƠ SỞ LÍ LUẬN 


        Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, các em vừa chuyển hoạt 
động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Các em hiếu động, ham chơi, sự tập  
trung cho học tập và chú ý chưa cao. Tư duy của các em nặng về trực quan cụ 
6 |   2 2


thể, tư duy trừu tượng chưa phát triển. Do đó, khi tổ chức dạy học, giáo viên  
phải linh hoạt sáng tạo thì mới có hiệu quả.
         Như chúng ta đã biết, ở lớp 1 học sinh mới chỉ dừng lại  ở mức độ  tập 
nói hoặc viết câu có nội dung theo chủ  đề  bài học hoặc tìm tiếng nói có âm 
vần vừa học. Các em được ghép tiếng và nói những câu đơn giản, riêng lẻ có 
nội dung gần gũi với cuộc sống của các em hoặc ở các bài tập đọc. Đến lớp 2 
các em đã phải viết đoạn từ 1 đến 3 câu rồi cao hơn từ 4 đến 5 câu kể về một 
sự việc đơn giản mình cũng chứng kiến (tham gia) hoặc tả sơ lược về người, 
vật xung quanh các em. Ở học kỳ I, chủ yếu các em được viết đoạn từ 3 đến  
5 câu kể về người thân như: Cơ giáo, ơng, bà, anh, chị, em và rộng hơn là tồn 
thể gia đình. Song đến học kỳ II các em được viết đoạn tả con vật (chim ), tả 
cảnh (biển), tả cây cối, tả người (ảnh Bác Hồ). Tuần 34 và 35 học sinh được 
kể về những việc làm mà bản thân chứng kiến hoặc tham gia ….
­ Xen kẽ giữa các bài tập có u cầu kể (tả) nói trên có 2 dạng bài kể (tả)  
con vật được viết đầy đủ song sáo trộn trật tự câu nhằm mục đích củng cố về 
liên kết câu, gắn kết ý …
­ Mở đầu ngay ở tuần 1, sách giáo khoa đã giới thiệu cách kể  theo nội  
dung tranh sau đó viết thành đoạn. Đây chính là hình thức giúp học sinh vận 
dụng linh hoạt kỹ năng vốn hiểu biết khi học phân mơn kể  chuyện vào viết  
đoạn văn ngắn.
     ­ Ở tiểu học nhất là lớp 2, Tập làm văn là một trong những phân mơn  
có tầm quan trong đặc biệt (  ở   lớp 1 các em chưa được học,  lên lớp 2 học 
sinh mới bắt đầu được học, được làm quen ).

Mơn tập làm văn giúp học sinh có kỹ năng sử dụng Tiếng Việt được phát  
triển từ  thấp đến cao, từ  luyện đọc cho đến luyện nói, luyện viết thành bài 
văn theo suy nghĩ của từng cá nhân. Tập cho các em ngay từ  nhỏ  có những 
hiểu biết sơ đẳng đó cũng là rèn cho các em tính tự lập, tự trọng. Con người  
văn hóa sẽ  hình thành từ  các em từ  những việc nhỏ  nhặt, tưởng như  khơng  
quan trọng đó.
Làm văn có nghĩa là tạo lập văn bản. Nhiệm vụ chính của phân mơn Tập  
làm văn là rèn luyện cho học sinh kỹ năng tạo lập văn bản. Ở đây thuật ngữ “  
văn bản” được dùng để  chỉ  sản phẩm hồn chỉnh của lời nói trong một hồn 
cảnh giao tiếp cụ  thể. Đó khơng nhất thiết là một bài văn gồm nhiều câu; 
nhiều đoạn; cũng khơng nhất thiết phải  ở  dạng viết; càng khơng phải chỉ  là  
loại văn kể chuyện hay miêu tả theo phong cách nghệ thuật. Trong hồn cảnh  
7 |  2 2


giao tiếp cụ thể, sản phẩm lời nói mà một người tạo lập được có thể  chỉ  là  
một câu chào, một lời cảm  ơn hay một vày dịng thăm hỏi, chúc mừng trên 
tấm thiếp….Đối với lớp 2, dạy Tập làm văn là trước hết là rèn luyện cho học 
sinh kỹ năng phục vụ học tập và giao tiếp hàng ngày, cụ thể là:
      *Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn,  
xin lỗi, u cầu, khẳng định, phủ định, tán thành………
         *Dạy một số  kỹ  năng phục vụ  học tập và đời sống, như  :khai bản tự 
thuật ngắn, viết những bức thư  ngắn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập 
danh sanh sách học sinh, ………..
Cuối cùng cũng như  các phân mơn và mơn học khác, phân mơn Tập làm 
văn, thơng qua nội dung dạy học của mình, có nhiệm vụ trao dồi cho học sinh 
thái độ  ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong cơng việc, bồi dưỡng  
những tình cảm lành mạnh cho các em
* Nội dung các bài học về Tập làm văn ở lớp 2 giúp các em thực hành rèn  
luyện các kỹ năng nói, viết,nghe phục vụ cho học tập và giao tiếp hàng ngày,  

cụ thể :
    ­ Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu : chào hỏi, tự giới thiệu, cảm  
ơn, xin lỗi….
    ­ Thực hành về kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày, như : viết 
bản tự thuật ngắn, lặp danh sách học sinh, tra mục lục sách, ……….
    ­ Thực hành rèn kỹ năng  diễn đạt ( nói, viết ),như  : kể về người thân, tả 
biển, tả cây cối, ……
    ­ Thực hành rèn kỹ năng nghe : 
Với cách biên soạn này, giờ dạy Tập làm văn trở nên linh hoạt hơn, gắn với  
cuộc sống đời thường hơn và giúp học sinh hứng thú trong học tập.

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.Thuận lợi: 
­ Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, Hội cha mẹ học sinh.
­ Lớp học khang trang, cơ sở vật chất đầy đủ.
8 |  2 2


­ Học sinh đúng độ tuổi tương đối đồng đều, các em có đủ sách giáo khoa và 
đồ dùng học tập.
2.Khó khăn:
          Do đặc điểm tình hình địa phương là vùng nơng thơn, điều kiện kinh tế 
khó khăn nên việc học của các em ít được phụ huynh quan tâm, cịn phó mặc 
cho giáo viên. Do vậy, gây khơng ít khó khăn cho giáo viên, địi hỏi người giáo 
viên phải tìm mọi cách để giúp đỡ các em. Qua thực tế giảng dạy và làm cơng 
tác chủ  nhiệm nhiều năm, tơi nhận thấy rằng, muốn học sinh viết tốt đoạn  
văn, trước hết học sinh phải viết đúng u cầu và nhận thức được tầm quan 
trọng của mơn Tập làm văn.
3.Thực trạng
a)Về kiến thức trong sách giáo khoa:

        Nói chung kiến thức trong sách giáo khoa được sắp xếp một cách hợp lí, 
lơgic đi từ đơn giản đến phức tạp, từ cách nhìn thực tế đến sự vận dụng vốn  
sống, vốn hiểu biết để viết đoạn văn. Học sinh được dạy các kĩ năng kể (tả) 
đơn giản. Song khơng phải kể  lại hoặc tả  lại câu chuyện cảnh vật theo nội  
dung bài tập đọc dựa vào lời kể  (tả) của tác giả  mà các em được kể  (tả)  
những gì có và diễn ra trong cuộc sống xung quanh. Điều này đã phát huy tính 
tích cực, chủ  động, sáng tạo của học sinh trong kĩ năng viết đoạn. Do đó, ta 
có thể  khẳng định rằng: Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 đặc biệt chú trọng tới 
rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh.
  b) Những khó khăn hạn chế khi dạy học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn.
          Về phía giáo viên:
 ­ Một số giáo viên chưa coi trọng việc rèn viết đoạn văn cho học sinh  
cách dạy của giáo viên cịn đơn điệu, lệ  thuộc một cách máy móc vào sách  
giáo viên, hầu như  rất ít sáng tạo, chưa linh hoạt, chưa cuốn hút được học 
sinh. Cách dạy của giáo viên có phần  khn mẫu. 
Ví dụ: Khi dạy học sinh bài Tập làm văn tuần 20 “  Tả  ngắn về  bốn  
mùa ". Giáo viên đã hướng dẫn gợi mở các câu hỏi theo sách giáo khoa: 
 + Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm ?
 
 (Mùa hè bắt đầu từ tháng tư trong năm).
+ Mặt trời mùa hè như thế nào ?
  (Mặt trời mùa hè rất chói chang).
+ Cây trái trong vườn như thế nào ?
9 |  2 2


(Cây trong vườn có rất nhiều hoa quả ).
+ Học sinh thường làm gì trong dịp nghỉ hè ?
(Học sinh thường được vui chơi trong dịp nghỉ hè).
         ­ Giáo viên chưa vận dụng kỹ năng tả  “ Mùa Xn" của bài tập 1 vào 

hướng dẫn bài tập 2. Sự  dập khn máy móc như  vậy dẫn đến bài viết của 
học sinh là bốn câu thiếu lơgíc và sáng tạo, khơng phát huy được tính tích cực  
của học sinh.
         ­ Khi trao đổi với giáo viên dạy lớp 2 về cách hướng dẫn học sinh làm 
bài tập "Viết đoạn văn ngắn", đa số giáo viên đều trả lời rằng:
        Bước 1: Học sinh đọc u cầu bài .
        Bước 2:  Giáo viên nêu u cầu của bài: Viết đoạn văn từ  3 đến 5 câu,  
các câu phải liên kết với nhau .
        Bước 3 : Học sinh viết vào vở .
        Bước 4 : Chấm chữa lỗi. 
           + Gọi 1 hoặc 2 học sinh đọc bài viết.
           + Giáo viên chấm bài, chữa một số lỗi sai về câu từ .
            ­ Với cách hướng dẫn như trên học sinh khó có thể nhận ra nội dung 
đoạn viết cần có những gì ? Liên kết câu như thế nào ? Cách diễn đạt làm sao  
cho thốt ý… Đến bước 4 chấm lỗi như vậy chưa có kết quả  thiết thực đối  
với học sinh vì đối tượng học sinh lớp 2 các em dễ  nhớ  nhưng nhanh qn. 
Do đó, cái sai của học sinh vẫn được lặp lại trong bài.
         Về phía học sinh
       ­Các em học sinh lớp 2 vốn sống cịn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt cịn  

rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết văn câu cịn cụt lủn. Hoặc câu có  
thể  có đủ  ý nhưng chưa có hình  ảnh. Các từ  ngữ  được dùng về  nghĩa cịn 
chưa rõ ràng. Việc trình bày, diễn đạt ý của các em có mức độ  rất sơ  lược, 
đặc biệt là khả năng miêu tả.
­ Học sinh có hứng thú trong giờ  Tập làm văn song chủ  yếu tập trung 
vào các bài tập làm miệng với các u cầu nói lời cảm ơn, xin lỗi, đáp lại lời  
khẳng định, phủ  định… Học sinh thích thú nói về  các con vật, người, quang  
cảnh và những gì diễn ra xung quanh. Song vốn từ các em cịn chưa nhiều, kỹ 
năng diễn đạt bằng ngơn ngữ  viết của học sinh cịn hạn chế  nên đơi khi các  
em chưa nhận ra được sự khác biệt giữa các ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết.

           Ví dụ: Khi học bài tập làm văn tuần 10: Dựa theo lời kể bài 1 hãy viết  
một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) kể về ơng, bà hoặc người thân của em.
10 | 2 2


          Bài viết của học sinh :" Bà em đã lên 65 tuổi rồi .  Da mịn màng. Tóc dài 
óng ả. Bà cho em ăn bánh. Bà rủ em đi chợ sau đó hai bà cháu lại đi chơi."
        ­ Học sinh thường viết theo ý hiểu bằng ngơn ngữ của mình cho nên câu  
văn chưa giàu hình ảnh, dùng từ chưa phù hợp.
         Ví dụ: Cũng viết đoạn văn ngắn kể về ơng, bà hoặc người thân ở  bài 
tập làm văn nói trên có một học sinh viết:  "Ơng đã già, 70 tuổi. Nghề  là thợ xây. 
Hơm nào ơng cũng đi tập thể dục vào sáng sớm."
­ Một số  bài viết của học sinh cịn lộn xộn về  câu, ý, dùng từ  chưa 
đúng vào văn cảnh, câu rời rạc thiếu sự liên kết.
         Ví dụ:  Đây là đoạn văn của một học sinh khi viết đoạn văn tả về một 
lồi chim mà em thích ( Tập làm văn tuần 21) như sau:
        " Những ngày đi học về em cảm thấy rất nhớ nó. Mỏ nó mượt và nó hót  
rất hay. Em rất thương nó và nó đẹp. Bộ lơng nó mượt. Hình dáng của con bồ 
câu rất thích thú".
          ­ Đơi khi học sinh viết câu dùng cụm từ  so sánh để  diễn tả  nội dung  
song sự so sánh ấy rất khập khiễng. 
         Ví dụ
 
 :     Khi viết đoạn văn kể về bà có em viết : "Da mặt bà em nhăn nheo  
như quả bưởi héo".
            Có em lại viết “Mỗi khi bà cười để  lộ  vài chiếc răng sữa trơng rất  
dun.”
­ Một lỗi nữa mà học sinh hay mắc là trả  lời theo kiểu nắp đi cho 
nên câu văn thiếu sự hấp dẫn, sinh động. 
 V í dụ

    : Khi dạy bài Tập làm văn tuần 8 để viết đoạn văn kể về cơ giáo 
(thầy giáo)  cũ của em sách giáo khoa có mấy câu hỏi gợi  ý  trong đó có câu 
hỏi: 
+ Tình cảm của cơ đối với học sinh như thế nào?
+ Em nhớ nhất điều gì ở cơ ( thầy)?
+ Tình cảm của em đối với  thầy (cơ) như thế nào?
Có em viết như sau : Tình cảm của cơ đối với em rất tốt. Em nhớ nhất 
điều là cơ giáo rất dịu dàng và viết chữ rất đẹp.  Tình cảm của em đối với cơ 
rất kính trọng.
 c) Ngun nhân của thực trạng 
­ Do học sinh chưa có kỹ năng quan sát.
    Do tâm lý lứa tuổi, do chưa được rèn luyện thường xun nên các em chưa  
có cách quan sát cụ thể chi tiết. Các em chỉ quan sát thống qua, hời  hợt, thậm 
11 | 2 2


chí có em cịn khơng để ý đến đối tượng cần quan sát. Thêm vào đó khả năng  
tưởng tượng cịn hạn chế, thiếu vốn sống thực tế. Do vậy khi vi ết đoạn văn 
cịn có những câu văn lạc lõng khơng sát thực với u cầu của đề bài.
­ Chưa biết dùng từ, đặt câu
Vốn từ của học sinh lớp 2 cịn nghèo nàn, chưa hiểu hết nghĩa của từ  , chưa  
hiểu nhiều về cấu tạo của câu nên khi  viết đoạn văn các em cịn  nhiều hạn  
chế. Các em khơng  biết viết thế  nào, viết từ đâu để thành một đoạn văn. 
­ Chưa  có kỹ năng sắp xếp câu thành đoạn.
   Từ chỗ nói chưa  thành câu, nói câu cộc lốc nên khi viết các em bị chi phối  
nhiều. Hơn nữa các em cịn khơng biết viết câu nào trước, câu nào sau, viết  
chưa thành câu đã chấm hết câu, viết xuống dịng tùy tiện do vậy nhiều  bài 
văn của các em viết khơng thành đoạn theo dung u cầu.
d) Tiến hành khảo sát.
        ­ Sau khi dạy xong bài tập làm văn tuần 8 tơi khảo sát  lớp tơi dạy với đề 

bài như sau :
  Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cơ giáo lớp 1 
của em. 
Thời gian: 15 phút
Kết quả khảo sát như sau:
Sè lượng vµ %
Líp

SÜ sè

2

33

Hồn thành 
Hồn thành
tố t
10
(30,3%)

18
55,0%)

Chưa hồn 
thành
5
(15,1%)

­ Khi viết đoạn văn kể về cơ giáo, các em thường bộc lộ các điểm yếu sau:
  + Về cách diễn đạt như: Từ bị lặp nhiều, dùng từ khơng chính xác. Ví dụ có  

em viết :"Cơ giáo em tên là Hồng. Cơ Hồng có dáng người cao, cơ Hồng có 
mái tóc dài, cơ Hồng có đơi bàn tay rất khéo viết chữ  rất đẹp...". Hay có em 
viết: Cơ giáo em có đơi mắt to trịn xoe như hai hịn bi.
+ Câu khơng rõ nghĩa, câu khơng đủ  bộ  phận, các câu trong đoạn văn 
cịn lộn xộn, viết đoạn văn mang tính chất trả lời câu hỏi. Ví dụ có em viết :  
"Cơ giáo em dạy lớp 1. Có nụ  cười tươi. Em rất u q cơ. có hàm răng  
trắng. cơ giảng dễ hiểu. Em rất q cơ".... 
12 | 2 2


+ Có em viết đoạn văn theo cách trả  lời nắp đi như  sau: Tình cảm  
của cơ đối với em rất tốt.
       ­ Trước thực trạng đó tơi đã tìm tịi, tham khảo nghiên cứu và đưa ra một 
số biện pháp cụ thể.
III. MƠ TẢ, PHÂN TÍCH MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ HƯỚNG DẪN HỌC 
SINH LỚP 2 VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN .
 1.Rèn các kỹ năng cơ bản cho học sinh viết đoạn văn ngắn.
      Giáo viên cần chú trọng việc rèn viết đoạn văn ngắn cho học sinh. Cần 
coi đây là cơng việc có vị trí quan trọng trong chương trình Tiếng Việt lớp 2.  
Vì có viết đoạn văn tốt thì học sinh mới có nền tảng vững chắc để  học văn 
sau này.
a) Tạo cho học sinh có thói quen quan sát:
           Giáo viên u cầu học sinh có thói quen quan sát những sự  vật hiện 
tượng xung quanh  để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì qua thực  
tế đơi khi tơi cho các em một bài tập tả về cảnh  biển, có em bảo là con chưa 
bao giờ nhìn thấy biển. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên  
ở nơng thơn nên các em khơng nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế giáo viên cũng 
cần sưu tầm những phim  ảnh để  có thể  trình chiếu cho các em, cho các em  
quan sát về cảnh biển, … hoặc vào dịp nghỉ hè các em hay được bố mẹ cho đi 
tham quan tắm biển, nhân đó, giáo viên có thể  u cầu học sinh quan sát kỹ 

để có ý tưởng cho tập làm văn tả cảnh biển. 
b) Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh:
          Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ 
phong phú.   Mà vốn từ  đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận  
dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người 
cung cấp.Mà cung cấp  ở  đâu? Tơi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều.  
Mỗi chủ đề  của mơn Tiếng Việt thì mơn tập đọc  đều có những bài văn, bài 
thơ  nói về  chủ để  đó. Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả 
lời thành câu đủ  ý và chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập  
làm văn.  Từ đó học sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ  ngữ  đẹp và ghi  
nhớ sau này vận dụng. 
Ví dụ :   qua bài Tơm Càng và Cá Con học sinh rút ra được đoạn văn tả về chú  
Cá Con trong bài “Con vật thân dẹt, trên đầu có đơi mắt trịn xoe, tồn thân 
phủ  một lớp vẩy bạc óng ánh”.  Vốn từ  cịn có trong phân mơn luyện từ  và  
13 | 2 2


câu. Giáo viên có thể cho các em chơi trị chơi, thi đua tìm từ ngữ tả về chú cá. 
Các em sẽ rất hứng thú và tìm được rất nhiều từ. 
      Để hỗ  trợ  cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh : Nhiều từ 
ngữ  gợi tả, từ  láy, từ  tượng thanh, tượng hình … Ví dụ  : Mặt biển xanh và 
rộng thành mặt biển xanh   ngắt và rộng mênh mơng.   Nối các câu văn lại 
thành những từ ngữ liên kết  như : và, thì, nếu, vậy là …. 
         Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ  nhiều lần mà phải thay  
những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự ,  ví dụ: Bác Hồ thành Bác, 
Người…  
thay những từ  ngữ  thơng thường thành những từ  ngữ  trau chuốt hơn. Ví dụ:  
buổi sáng thành  buổi sớm mai, buổi bình minh. 
Ví dụ:  Sau khi thành lập sơ đồ, có thể các em sẽ thành lập một đoạn văn như 
sau : “Nhà em có ni một chú gà . Nó có bộ  lơng màu đỏ  tía. Nó gáy rất to. 

Em rất u nó”. 
           Giáo viên có thể khuyến khích học sinh là “con làm đúng nhưng chưa  
hay. Từ những ý tưởng ban đầu của con, chúng ta sẽ hình thành một đoạn văn 
hay hơn nhé : “Chú gà trống nhà em trơng mới oai vệ làm sao ! Tồn thân nó 
phủ một lớp lơng vũ màu đỏ  tía. Sáng sáng, trống tía nhảy tót lên ụ  rơm đầu 
hè mà rướn cổ gáy vang ị ó o. Mỗi khi đi học về, em thường rải cho nó một ít  
thóc và vuốt ve cái đi dài, cong cong của nó”. Khi đó, học sinh sẽ thấy được 
vẫn là ý tưởng cũ nhưng đoạn văn đã được lột xác, thêm thắt những từ  ngữ 
trau chuốt hơn làm cho đoạn văn đẹp hơn, nghệ thuật hơn. 
           Giáo viên có thể sưu tầm những bài văn hay và đọc cho học sinh nghe 
để học sinh học hỏi. Trưng bày những bài văn hay của các bạn trong lớp để 
các em noi gương. Tập ghi chép những từ hay ý đẹp. Từ  đó, vốn từ  của các  
em sẽ ngày càng nhiều, càng phong phú hơn.
c) Giúp học sinh nắm chắc bố cục của đoạn văn:
            Tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục 3 phần : mở bài (giới 
thiệu), thân bài (nội dung), kết luận (tình cảm) và lập sơ đồ trước khi làm tập 
làm văn. Tơi xin gợi ý một cách lập sơ đồ thơng qua một trị chơi “em và chú  
gà” như sau : 
Ví dụ :  Khi tả một chú gà, giáo viên cho hai em lên sắm vai, một em là “chú  
gà”, một em là “người tả”. Cùng lúc đó, giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ  trên 
vở nháp. 
14 | 2 2


“Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà “nhà em có ni một  
chú gà” 
Cịn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tà : “tơi có bộ lơng nhiều màu sắc. 
Tơi có cái màu trên đầu. Tơi gáy rất to …” 
Người tả  lúc này nói về  tình cảm của mình đối với chú gà : “Em 
thường rải thóc cho gà ăn …” 

­ Sau khi nghe tả  và quan sát xong các em thành lập ra một sơ  đồ  như 
sau :
Chú gà ở nhà em

a

Gáy to  

Mào đỏ 
Con gà

Lơng nhiều màu  

Ăn thóc   
Em u mến chú gà   

­ Từ đó các em đã nắm được đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển thành  
một đoạn văn. Hoặc ta có thể  cho em hình thành một đoạn văn qua trị chơi  
“tiếp sức”. 
­ Từ sơ đồ  đã thành lập ở  trên, giáo viên u cầu học sinh tạo thành câu,  cứ 
thể nối tiếp nhau thành lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo viên có thể ghi  
lại trên bảng, thế là đã có bốn đoạn văn mẫu. Có thể câu văn lúc ấy cịn lủng 
củng nhưng ta có thể sửa chữa. 
2.Trang bị cho học sinh về vốn từ  và kĩ năng viết đoạn văn ngắn
  a) Cung cấp vốn từ
            Mỗi đoạn văn là cả một thực tế sinh động diễn ra xung quanh các em. 
Song có được đoạn văn theo u cầu của bài là cả một q trình học sinh phải  
tư duy, phân tích, tổng hợp, sắp xếp….
* Giáo viên cần trang bị cho học sinh một số từ thuộc chủ đề  hoặc phù hợp  
với văn cảnh.

            Ví dụ:  
15 | 2 2


         ­ Tả nắng của mùa hè: nắng chói chang, nắng gắt gỏng, nắng như thiêu 
như đốt…
        ­ Tả về tiếng hót của chim: hót líu lo, hót véo von, hót vang lừng …
        ­ Tả về hình dáng người.
             + Thân hình : mảnh khảnh, gầy gị, béo trịn, thon thả …
             + Nước da : đen sạm, trắng hồng, bánh mật, xanh xao, ngăm đen …
             + Mái tóc: đen bóng, óng mượt, bồng bềnh, loăn xoăn….
       +  Khn mặt:  Trái xoan, đầy đặn, trịn trịa, xương xương, vng 
vức....
* Giáo viên đưa một số câu văn hay đến với học sinh một cách tự nhiên  
khơng gị ép.
Ví dụ:  
   ­ Khi dạy học sinh viết đoạn văn tả cảnh biển tuần 26 giáo viên gợi 
mở : 
            Câu “Những cánh buồm đủ  màu sắc được nắng sớm chiếu vào sáng 
rực lên, trơng xa như những đàn bướm bay lượn giữa trời xanh cùng với cánh 
chim hải âu”. Có thể trả lời cho câu hỏi nào? (Trên mặt biển có những gì ?)
b) Về kĩ năng
         * Để có kĩ năng viết đoạn văn tốt giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng 
nói gãy gọn, trọn vẹn ý, khơng nói câu cụt.
            Ví dụ: Khi tả  về  con chim mà em u thích có học sinh nói:  “Chim  
chích ch cứ sáng sớm, trên cây dừa nhà em nó đậu rồi nó hót”.
   Hoặc khi nói về  tình cảm của cơ giáo với học sinh khơng nên nói: 
"Tình cảm của cơ đối với em rất tốt", mà phải nói: "Cơ giáo rất u q  
chúng em..."
 * Giáo viên cần phải phân tích cho học sinh: 

Ý của em nói: "Cứ  vào thời điểm buổi sáng,  ở  trên cây dừa nhà em có 
một con chim chích ch đến và hót ”. Vậy em cần nói cho gãy gọn và hay 
hơn: “Sáng nào cũng vậy, chim chích ch lại bay đến đậu trên cây dừa nhà 
em, cất tiếng hót líu lo”.
           * Giáo viên nhắc nhở học sinh lưu ý giữa ngơn ngữ  nói và ngơn ngữ 
viết. Khi viết đoạn văn dẫn lời nói của người khác em phải cho trong ngoặc  
kép.

16 | 2 2


         Ví dụ : ­ Muốn kể lại lời nói của Dì trong đoạn viết về người thân của 
em, cần phải viết trong ngoặc kép như: Dì em bảo: “Cháu cứ  lấy kẹo ra mà 
ăn ".
     ­ Việc rèn cho học sinh viết đoạn cần tạo điều kiện phát huy tính 
tích cực, chủ  động của học sinh. Phải làm sao cho mỗi đoạn văn là một cơ 
hội sáng tạo cho học sinh thâm nhập, quan sát, phân tích từ thực tế.
          * Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước thật tốt bài học,  
tiết học  hơm sau.
           Ví dụ: 
            ­ Khi dạy học sinh viết 2 đến 3 câu về lồi chim mà em thích.
        Từ hơm trước giáo viên u cầu mỗi học sinh quan sát kỹ  con chim 
trong thực tế  mà mình u thích. Cụ  thể  là : Các bộ  phân đầu, mình, chân, 
hoạt động, tiếng hót… của chim.
3. Các  bước tiến hành dạy học sinh viết đoạn văn ngắn
            Bài tập viết đoạn văn ngắn là loại bài sản sinh lời nói. Học sinh  
tập viết đoạn văn là tập sản sinh lời nói, văn bản. Vì vậy, giáo viên cần dựa 
vào các bước sau để hướng dẫn học sinh làm bài tâp .
      * Bước 1: 
     ­ Xác định u cầu bài.

              + Học sinh nêu u cầu bài tập. 
              + Giáo viên phân tích u cầu.
           ­ Định hướng học sinh viết. 
               + Tả (kể) về ai (cái gì) ?
               + Viết mấy câu ? 
               + Viết với tình cảm như thế nào ?
               +  Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
             ­ Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa u cầu cao với bố cục một  
bài văn như lớp 4 ­ 5, cũng chưa có khái niệm lập dàn ý. Song với đoạn viết  
từ  3 đến 5 câu với 2 đến 3 ý cũng cần sự  sắp xếp ý.  Ở  học kỳ  I học sinh  
được kể về những người thân thiết với mình như: Cơ giáo, thầy giáo, ơng, bà,  
anh, chị, em… Do đó giáo viên nên gợi ý học sinh trước tiên tự  giới thiệu về 
người đó (Tên là gì?, mối quan hệ  với bản thân?). Tiếp đó là hình dáng, tính 
cách, cơng việc hoặc ý thích của người kể và cuối cùng là tình cảm của học  
sinh đối với người mình kể.
17 | 2 2


 ­ Sang học kỳ II, học sinh được tả  về một số  con vật, cảnh vật xung  
quanh mình. Đầu tiên cần gợi mở  cho học sinh giới thiệu về vật (cảnh vật)  
định tả. Chi tiết nổi bật của cảnh, vật đó. Cuối cùng là tình cảm của bản thân  
đối với cảnh vật và con vật đó…
­ Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn.  Ở  khâu này học sinh 
bộc lộ  rất rõ nhược điểm về  tư  duy cách viết câu, sử  dụng từ. Giáo viên  
khơng nên làm thay cho học sinh mà nên trang bị  một số  tình huống, một số 
cách dùng từ, một số  cách liên kết phù hợp với nội dung đoạn viết để  học 
sinh vận dụng viết bài.
            * Bước 2: Học sinh viết bài vào vở.(Trước khi viết vào vở  cho học 
sinh nêu miệng bài văn)
           * Bước 3: Chấm bài, chữa lỗi.

        ­ Học sinh đổi chéo vở đọc bài, sửa câu từ, nhận xét bài lẫn cho nhau.
        ­  Giáo viên u cầu một số học sinh đọc bài viết của mình và đọc bài  
viết đã được bạn sửa (câu, từ) trước lớp. Học sinh dưới lớp nhận xét sửa 
chữa bổ sung.
         ­ Giáo viên chấm và chữa một số lỗi cơ bản (từ, câu, ý).
          ­ Giáo viên đọc đoạn văn mẫu mà giáo viên đã chuẩn bị  để  học sinh  
tham khảo.
           Ví dụ: Khi dạy học sinh viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa  
hè, giáo viên cần hướng dẫn theo các bước như sau:
            Bước 1: Xác định u cầu bài. Định hướng học sinh viết.
         ­ Học sinh đọc u cầu bài: “Hãy viết từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè”.
          ­ Giáo viên phân tích u cầu.
          ­ Hướng dẫn  học sinh định hướng viết.
         + Viết đoạn gồm mấy câu? (Viết đoạn từ 3 đến 5 câu).
         + Viết về cái gì? (Viết về mùa hè).
          ­ Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
          + Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm?
            (Mùa hè bắt đầu từ tháng 4 trong năm).
          + Mặt trời mùa hè như thế nào?  
             (Mặt trời mùa hè rất chói chang).
          + Cả hai câu trên cho em biết về thời điểm và nét tiêu biểu của mùa 
nào? (Đó là mùa hè).
           ­ Giáo viên khẳng định đây là ý 1 của bài.
18 | 2 2


          + Bà Đất nói về mùa hè như thế nào?
            (Mùa  hè cho ta trái ngọt hoa thơm).
           + Vậy câu nói của Bà Đất có thể  trả  lời được cho câu hỏi nào trong  
bài? (Cây trái trong vườn như thế nào?).

           ­ Đây chính là ý 2 của đoạn viết.
           + Em có thích mùa hè khơng? (Có).
           + Vì sao? (Vì mùa hè em khơng phải đi học mà được nghỉ hè).
           + Học sinh thường làm gì vào dịp nghỉ hè?
             (Học sinh được đi tham quan, thắng cảnh, thăm ơng bà…).
           ­ Đây chính là ý 3 của đoạn viết.
           + Đoạn viết có mấy ý? (3 ý)
          ­ Giáo viên giảng mùa hè đến khiến cho cây tươi tốt trái trĩu cành và 
học sinh được nghỉ hè.
         + Ý nào là kết quả của ý nào đem tới? (ý 2 và ý 3 là kết quả của ý 1 đem 
tới).
Vậy đoạn văn có thể viết :
Ý1­­­­­ Ý2­­­­­­­ Ý3
     Hoặc: Ý1­­­­­ Ý3­­­­­­­ Ý2
     Hoặc: Ý1­­­­­ Ý3 lồng Ý2
         + Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Với 3 ý này học sinh  
có thể phát triển mỗi ý thành 1 hoặc 2 câu. Từ câu này sang câu khác phải có 
sự liên kết tránh lặp lại từ ý này phát triển tiếp ý kia.
         * Giáo viên gợi ý:
           Với ý 1 nói về thời điểm và đặc điểm tiêu biểu của mùa hè các em cần  
lưu ý khơng nên lặp lại từ mùa hè trong 2 câu liên tiếp. Khi viết về ánh nắng 
mặt trời nên dùng cách so sánh như: Nắng như  thiêu như  đốt, nắng cháy da 
cháy thịt, nắng chang chang, nắng rát cả mặt…
        + Ánh nắng mùa hè em đã cảm nhận bằng những giác quan nào?
            (Em đã cảm nhận bằng mắt, da…).
         + Em có ngửi thấy mùi hương của hoa khơng? (Có).
         + Có được ăn hoa quả trong mùa hè khơng? (Có).
         + Đó là hương, vị ta cảm nhận được bằng gì?
                (Cảm nhận được bằng mũi và lưỡi).
          +Vậy với nội dung ý 2 các em cần lưu ý điều gì? (Em cần đội mũ 

nón…)
19 | 2 2


          Tóm lại: Khơng nhất thiết cứ mỗi câu hỏi viết được một câu trong 
đoạn văn. Cần  viết với sự cảm nhận bằng nhiều cách: Nhìn, ngửi, ăn… xen 
lồng với tình cảm của bản thân về mùa hè.
          Bước 2: Học sinh làm bài vào vở.
             ­ Giáo viên hướng dẫn cách trình bày một văn bản. Khi bắt đầu viết 
đoạn cách lề một ơ, viết hết câu này tiếp sang câu khác, ý này tiếp sang ý kia,  
viết hết đoạn mới xuống dịng.
            ­ Khi học sinh làm bài giáo viên quan sát giúp đỡ những học sinh yếu.
          Bước 3: Nhận xét, chữa lỗi:
            ­ Học sinh đổi chéo bài, đọc bài viết của bạn sau đó nhận xét về cách  
trình bày, sửa câu, từ sai có trong đoạn viết.
            ­ Một số học sinh đọc bài viết của mình, đọc câu bạn đã sửa giúp. Học 
sinh khác góp ý bổ sung.
            ­ Giáo viên chấm bài, chữa một số lỗi cơ bản (từ, câu, ý).
            ­ Giáo viên đọc đoạn văn mẫu cho học sinh tham khảo. 
 4. Các bước tiến hành dạy thực nghiệm:
            ­ Xây dựng kế hoạch bài dạy Tập làm văn lớp 2. Các bài có u cầu 
viết đoạn: Tuần 8, tuần 10, tuần 11, tuần 13, tuần 15, tu ần 16, tu ần 20, tu ần  
21, tuần 26, tuần 28, tuần 31, tuần 33, tuần 34.
             ­ Dạy thực nghiệm lớp 2A4.
  5. Kết quả thu được:
Sau một thời gian áp dụng biện pháp nói trên trong việc dạy học sinh  
viết đoạn văn ngắn, tơi đã kiểm tra học sinh để lấy số liệu sau:

    Lần 1 :  Tuần 15 
       Đề  bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu nói về  anh , chị, em 

ruột của em ( hoặc anh, chị, em họ của em).
      Thời gian làm bài :15 phút
      Đối tượng 63 học sinh của lớp 2A4.
      Kết  quả đạt được như sau:
Sè lượng vµ %
Líp

SÜ sè

Hồn thành 
Hồn thành
tố t
20 | 2 2

Chưa hồn 
thành


2

63

38
(23,94%)

28
17,64%)

7
(4,41%)


  Lần 2: Tuần 27 
         Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn (từ 4 đến 5) câu nói về con vật mà 
em u thích.
        Thời gian: 15 phút
         Đối tượng 63 học sinh của lớp 2A4
      Kết  quả đạt được như sau:
Sè lượng vµ %
Líp

SÜ sè

2

63

Hồn thành 
Hồn thành
tố t
41
(25,83%)

16
10,8%)

Chưa hồn 
thành
6
(3,78%)


         ­ Nhìn vào các bảng kết quả  trên cho thấy cách tổ  chức học sinh viết 
đoạn ngắn theo hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh có kĩ năng viết đoạn 
văn chắc chắn, thành thạo, chất lượng đoạn văn viết của học sinh tăng lên rõ  
rệt qua từng đợt kiểm tra tại lớp thực nghiêm. 
­ Mặt khác qua q trình dạy thực nghiệm trên lớp 2 A4 tơi thấy giờ học 
diễn ra sơi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói 
hơn cả  là hiện tượng nói câu khơng rõ nghĩa, khơng trọn ý khơng cịn nữa. 
Học sinh đã biết dùng những từ  ngữ  giàu hình  ảnh, câu viết khá sinh động. 
Khi viết về các con vật và con người xung quanh mình. Thời gian hồn thành 
đoạn viết trong các lần kiểm tra cũng tốt hơn . Điều đó chứng tỏ  cách dạy 
viết đoạn văn theo hướng đã trình bày  ở  trên đã đem lại kết quả  đầy khả 
quan, cần được phát triển để thực sự nâng cao chất lượng viết đoạn nói riêng 
và học Tiếng Việt nói chung cho học sinh lớp 2.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN

21 |   2 2


       Viết đoạn văn ngắn ­  Đây là dạng bài nịng cốt trong mơn Tập làm văn  
lớp 2. Nó địi hỏi  ở  người học vốn sống hàng ngày, vốn từ  phong phú, đơi  
mắt quan sát tinh tường,óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy khi dạy  
dạng bài này giáo viên cần nắm rõ tâm lí lứa tuổi học sinh:   Ở  lứa tuổi này 
học sinh nhìn nhận sự  việc thế  nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có 
em tỉ  mỉ  quan sát , có em rất  hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh khi con 
muốn viết bất cứ cái gì thì các con cần  hiểu rõ về cái đó. Con phải tìm hiểu  
thơng tin về cái đó. Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cơ hay quan sát thực tế,  
qua đọc sách báo.Giáo viên cần phối hợp những phương pháp và hình thức 
dạy học sao cho đảm bảo với mục tiêu.
      Qua thời gian tìm hiểu, nghiên cứu nội dung chương trình, đánh giá thực  

trạng, tìm ra ngun nhân tơi đã mạnh dạn đưa  ra một số biện pháp giúp học  
sinh lớp 2 viết doạn văn ngắn mà theo cá nhân tơi việc đó là rất cần thiết và 
trong q trình thực hiện tơi đã thu được kết quả  khả  quan.  Đa số các em đã 
biết cách viết đoạn văn với những câu rõ nghĩa, đủ ý của đoạn viết theo u 
cầu của đề bài. Từ việc giảng dạy,  theo dõi kết quả học tập của học sinh từ 
các bài kiểm tra định kì tơi thấy: học sinh đã có  những hứng thú  nhất định  
khi học mơn Tập làm văn và nhất là khi tiếp xúc với bài tập viết đoạn văn  
ngắn.
       Những kết quả trên đã cho thấy những  biện pháp trên là thiết thực , hiệu 
quả. Tuy nhiên thực tế cho thấy khơng có biện pháp nào là hồn chỉnh, là tối 
ưu, điều quan trọng là người giáo viên phải   biết lựa chọn, vận dụng các 
biện pháp sao cho hài hịa hợp lí thì q trình giảng dạy sẽ đạt hiệu quả cao.
1­Bài học kinh nghiệm 
Qua q trình nghiên cứu phương pháp dạy học sinh viết  đoạn văn 
ngắn cho học sinh lớp 2, tơi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm sau:
­ Trước hết người giáo viên phải tâm huyết với nghề, ln tìm tịi, học  
hỏi, trao  dổi kiến thức, cập nhập với những vấn đề  mới của xã hội để  có 
phương pháp dạy phù hợp.
­ Nắm chắc nội dung chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 2 nói 
chung và phân mơn Tập làm văn nói riêng.  Đặc biệt cần nắm chắc, hiểu rõ 
những vấn đề, kiến thức đổi mới của Tiếng Việt 2 so với chương trình cải  
cách giáo dục. Từ  đó có những sáng tạo, cải tiến về  mặt phương pháp sao  
cho phù hợp với từng bài dạy cụ thể, từng đối tượng học sinh.
22 | 2 2


­ Cần xác định rõ mục đích, u cầu của bài dạy, các bước dạy viết 
đoạn văn ngắn cho học sinh.
­ Thường xun dự giờ, quan sát, tìm hiểu thực tế để rút ra ưu, nhược 
điểm của phương pháp giảng dạy mình đang thực hiện từ đó có hướng khắc 

phục.
­ Phải có phương tiện tối thiểu cần thiết phục vụ bài giảng như: Tranh 
minh hoạ, bảng phụ. Song cần lưu ý rằng: Hãy sử dụng triệt để  đồ dùng sẵn  
có như: tranh minh hoạ trong sách giáo khoa, cảnh tự nhiên xung quanh trẻ….
         ­ Dạy học bằng phương pháp trên khơi dậy hứng thú học tập lịng say  
mê ham thích học hỏi của học sinh, cần làm cho học sinh cảm thấy mỗi giờ 
học như  một buổi đi thăm quan, khám phá những điều mới lạ  có trong cuộc  
sống xung quanh các em khơng nên gị ép các em theo một khn thước nhất  
định mà cần phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh.
2­Điều kiện áp dụng 
­ Qua nghiên cứu thực trạng dạy ­ học viết đoạn văn ngắn ở lớp 2, tơi 
thấy việc rèn học sinh kĩ năng viết đoạn văn là việc làm vơ cùng quan trọng. 
Cơng việc này địi hỏi người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo song cũng cần  
kiên trì, chịu khó trong suốt q trình giảng dạy Tập làm văn nói chung và dạy  
học sinh viết đoạn văn nói riêng. Việc dạy học sinh viết đoạn văn theo hướng 
nêu trên đã đem tới sự tiến bộ vượt bậc khơng chỉ ở riêng phân mơn Tập làm  
văn mà trong các giờ kể chuyện ngơn ngữ kể của các em cũng sát thực và giàu 
hình ảnh hơn…
3­Phạm vi áp dụng 
­ Kinh nghiệm này có thể áp dụng cho dạy viết đoạn văn cho học sinh 
tiểu học nói chung và với học sinh lớp 2 nói riêng  ở  tất cả  các trường Tiểu  
học trong tồn huyện.
4­ Những hạn chế của đề tài
Vấn đề viết đoạn văn ngắn với học sinh lớp 2 là vấn đề  rộng, vì thời  
gian có hạn nên tơi mới đưa ra được một số  kinh nghiệm, cụ  thể  là đưa ra  
một số ví dụ cụ thể của một số dạng bài có thể  phần nghiên cứu của tơi có 
thể  cịn hạn hẹp chưa phong phú , sâu sắc.  Trên đây là một vài biện pháp, 
nhưng qua thực tế áp dụng ở trường tơi trong năm học vừa  qua. Bản thân tơi 
cũng có nhiều cố gắng nhưng so với u cầu cao về Tập làm văn nên đề  tài 
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định.

5. Hướng tiếp tục nghiên cứu                 
23 |  2 2


 Trong thời gian tới tơi sẽ tiếp tục nghiên cứu, trải nghiệm  để đưa ra được 
nhiều biện pháp tối ưu hơn góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy mơn 
Tập làm văn ở tiểu học nói chung và ở lớp 2 nói riêng.

II­ MỘT SỐ KHUYẾN  NGHỊ 
* Đối với cấp trên:
­ Tổ chức nhiều chun đề  “Đổi mới phương pháp dạy học” hơn nữa 
cho các lớp giáo viên cùng học tập. 
­ Khuyến khích giáo viên sử dụng giáo án điện tử trong q trình giảng dạy.
­ Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh.
­ Nhà trường cùng địa phương tạo điều kiện cơ  sở  vật chất cho các em học  
tập tốt hơn.
­  Đề  nghị  nhà trường cho phép triển khai vận dụng đề  tài trong tồn tổ  để 
đánh giá hiệu quả của đề tài một cách chắc chắn. 
 * Đối với giáo viên :
­ Thường xun tìm tịi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, nghiên 
cứu các tài liệu, sách giáo khoa… để nâng cao tay nghề.
­ Thường xun kiểm tra đánh giá theo đúng  việc đọc, vết của học sinh  
và ghi nhận kết quả học tập của các em dù là một tiến bộ rất nhỏ.
* Đối với phụ huynh:
­ Mua đủ đồ dùng học tập cho các em, động viên khuyến khích cho các  
em đọc thêm truyện, sách, báo…
­ Thường xun quan tâm tới việc học ở nhà của các em.
­ Kết hợp chặt chẽ  với nhà trường để  tạo điều kiện cho các em học  
tập được tốt hơn.
   * Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng vào thực tế, với năng lực  

và kinh nghiệm của bản thân tơi đã trình bày cụ  thể:  “  Một số  biện  pháp  
nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2”. Với mong 
muốn nâng cao chất lượng mơn Tập làm văn giúp học sinh có kĩ năng viết 
24 | 2 2


đoạn văn ngắn trong phân mơn Tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy tính 
cực, chủ  động sáng tạo. Từ  cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp 
phần đổi mới cách học của trị. Phát huy hết khả  năng tự  phát hiện của học  
sinh thơng qua cách tổ chức câu, ý sao cho lơgíc, cách sử dụng từ chính xác và 
hay khi viết. 
Ý tưởng thì lớn song kinh nghiệm bản thân cịn hạn chế  khơng sao  
tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được sự  đóng góp ý kiến của  
các cấp lãnh đạo, của Ban giám hiệu trường Tiểu học, của các bạn bè đồng 
nghiệp nhiệt tình góp ý bổ sung thêm để kinh nghiệm của tơi được hồn thiện 
hơn  và  đề  tài này được hồn thiện hơn nữa,  tơi sẽ  tiếp tục nghiên cứu để 
chất lượng học mơn Tập làm văn của học sinh ngày càng cao hơn. 
       Tơi xin trân trọng cảm ơn !
                                                      
                                                    Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết.
Khơng sao chép nội dung của người khác.
                                                   NGƯỜI VIẾT
                                                                                  
       

                                                                         
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT
1

2
3

TÊN TÁC GIẢ
Bùi Văn Huệ
Đỗ Xn Thảo­
Lê Hữu Thỉnh
Lê Phương Nga

TÊN TÁC PHẨM
NXB­NƠI­NĂM
Giáo trình Tâm lý học Tiểu  NXBĐHSP­HN­2003
học
Giáo trình Tiếng Việt 2
NXBĐHSP­HN­2003
Phương pháp dạy học 
Tiếng Việt ở Tiểu học 2

25 | 2 2

NXBĐHSP­HN­2009


×