Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận Nghiên cứu hoạt động thông tin thư viện trường Cao Đẳng Du Lịch Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.09 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay thơng tin trở thành động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Công tác tổ chức và cung cấp thông tin là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu có tính chất quyết định đến sự phát triển mạnh
mẽ của các quốc gia trên thế giới. Cơng tác thơng tin thư viện có vai trò đặc biệt
quan trọng trong đáp ứng yêu cầu thơng tin cho xã hội cũng như góp phần
truyền bá tri thức của nhân loại. Hiện nay sự nghiệp thư viện ở nước ta đã và
đang được đầu tư phát triển nhằm phục vụ cho sự nghiệp giáo dục và phát triển
xã hội. Đảng và nhà nước ta không ngừng thúc đẩy phát triển sự nghiệp thư viện
ở các tỉnh, thành phố và các trường Đại học, Cao đẳng. Đối với các trường học
nhất là đối với các trường Cao đẳng, Đại học thì thư viện là nơi khơng thể thiếu
cho việc học tập và nghiên cứu. Hiểu được tầm quan trọng của thư viện trường
cao đẳng du lịch Hà Nội đối với toàn thể bạn đọc là cán bộ giảng viên và sinh
viên của trường tôi chọn đề tài “Nghiên cứu hoạt động thông tin thư viện
trường Cao Đẳng Du Lịch Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của mình. Qua đó,
tơi hy vọng những phương hướng và đề xuất , giải pháp của mình có thể giúp
cho việc tổ chức hoạt động thông tin - thư viện trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội
tốt hơn trong giai đoạn mới.
2.

Tình hình nghiên cứu

Thư viện trường học chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong việc góp
phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và là một trong những tiêu chí
phản ánh trình độ phát triển của giáo dục đại học. Hoạt động thông tin - thư viện
được coi là một trong những hoạt động không thể thiếu được trong các cơ sở
đào tạo đặc biệt là các trường đại học, cao đẳng, các viện nghiên cứu…


Từ trước đến nay, đã có nhiều cơng trình, tài liệu nghiên cứu về hoạt động
thư viện tại các trường Đại học và Cao đẳng trong cả nước ở các mức độ và


chun ngành đào tạo khác nhau. Đó là những cơng trình, tài liệu về hoạt động
thư viện ở các trường đào tạo ở trình độ đại học về chuyên ngành sư phạm, về
ngành y, và thư viện tỉnh Quảng Ninh phục vụ du lịch địa phương...
Tiêu biểu là những đề tài sau:
- Huỳnh Văn Bàn (2004) “Tăng cường hoạt động thông tin - thư viện ở
trường đại học Quy Nhơn trong giai đoạn đổi mới giáo dục hiện nay” luận văn
thạc sĩ khoa học thư viện, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thu Hiền (2008), “Nghiên cứu hoàn thiện tổ chức, hoạt động
thư viện trường đại học y Thái Bình”, luận văn thạc sĩ khoa học thư viện, Hà
Nội.
- Vũ Thị Thúy Chinh (2009), “Nghiên cứu hồn thiện tổ chức hoạt động
thơng tin - thư viện của thư viện trường đại học sư phạm Hà Nội 2”, luận văn
thạc sĩ khoa học thư viện, Hà Nội.
- Phan Thị Huệ ( 2004 ), “Tăng cường hoạt động thông tin ở thư viện tỉnh
Quảng Ninh phục vụ du lịch địa phương”, luận văn thạc sỹ khoa học thư viện,
Hà Nội.
Riêng đối với Trung tâm thông tin - thư viện trường Cao đẳng Du lịch Hà
Nội, việc nghiên cứu hoàn thiện hoạt động, đáp ứng nhiệm vụ chính trị của nhà
trường, đáp ứng nhu cầu xã hội trong giai đoạn mới là công việc cần phải triển
khai nhưng cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đề cập đến.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu khảo sát thực trạng hoạt động thông tin - thư viện

của Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, đề xuất các giải
pháp phát triển hoạt động thông tin - thư viện, đáp ứng nhiệm vụ chính trị của
nhà trường trong giai đoạn đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo.


* Nhiệm vụ
- Nghiên cứu vai trò của hoạt động thông tin - thư viện đối với việc nâng
cao chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng hoạt động thông tin - thư viện phục vụ
cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường trong những năm
gần đây.
- Nghiên cứu nhu cầu tin và người dùng tin của thư viện trong giai đoạn
đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo.
- Đề xuất những giải pháp hồn thiện hoạt động thơng tin - thư viện của
Trường Cao đảng Du lịch Hà Nội góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp
ứng được nhu cầu xã hội trong giai đoạn mới.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Hoạt động của Trung tâm thông tin thư viện trường Cao đẳng du lịch Hà
Nội.
5.

Phương pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu tư liệu.
- Khảo sát thực tiễn.
- Phân tích, tổng hợp.
- Kết cấu của đề tài

6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Tiểu luận làm sáng tỏ vai trò của hoạt động thông tin - thư viện trong sự
nghiệp đào tạo ngành Du lịch nói chung và nâng cao chất lượng đào tạo và
nghiên cứu khoa học Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội nói riêng.
Tiểu luận đề xuất những biện pháp khả thi, góp phần hồn thiện hoạt động
thơng tin - thư viện của Trung tâm thông tin- thư viện Trường Cao đẳng Du lịch
Hà Nội.


Kết quả nghiên cứu của tiểu luận sẽ là góp một nhỏ phần làm tăng cơ sở
khoa học nhằm giúp nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, chất lượng
phục vụ trong hoạt động du lịch, và là cơ sở quản lý và điều hành Trung tâm
thông tin- thư viện.
7.

Bố cục

Chương 1 : Khái quát về thư viện trường Cao đẳng Du Lịch Hà Nội
1.1
Hà Nội
1.2
1.3

Vài nét về lịch sử phát triển của thư viện Cao Đẳng Du Lịch
Chức năng và nhiệm vụ
Người dùng tin


Chương 2 : Hoạt động của trung tâm thông tin – thư viện trường Cao đẳng
Du lịch Hà Nội

2.1
2.2

Cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động
Thực trạng hoạt động của thư viện trường Cao đẳng Du Lịch

Hà Nôi
2.2.1
Nguồn lực thông tin
2.2.2
Công tác xử lý tài liệu :
- Công tác tổ chức kho sách
- Công tác bổ sung tài liệu
- Công tác xử lý phân tích tài liệu
2.2.3
Các sản phẩm và dịch vụ thơng tin
- Tổ chức các sản phẩm thông tin
- Tổ chức các dịch vụ thông tin
Chương 3 : Nhận xét và kiến nghị
3.1 Một số tồn tại, hạn chế
3.2 Kiến nghị, giải pháp


Chương 1 :
Khái quát về thư viện trường Cao đẳng Du Lịch Hà Nội

1.1


Vài nét về lịch sử phát triển của thư viện Cao Đẳng Du

Lịch Hà Nội
Là trường quốc gia đầu tiên của ngành Du lịch Việt Nam đào tạo và bồi
dưỡng nghiệp vụ khách sạn - du lịch với gần 40 năm hoạt động, cho tới nay


trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội (CĐDLHN) đã có những thành tích đáng kể
trong cơng tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch. Chặng đường hình
thành và phát triển của nhà trường trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với các mốc
thời gian chính là giai đoạn từ năm 1972- 1995, giai đoạn từ 1995- 2003 và giai
đoạn từ năm 2003 cho đến nay.
Mặc dù trường được thành lập từ năm 1972 nhưng hơn hai mươi năm sau
(1996), Trung tâm thông tin - thư viện của trường mới ra đời với tên gọi Trung
tâm tin học - tư liệu và thư viện.
Năm 2003 nhà trường tách ra thành hai trung tâm: Trung tâm ứng dụng
công nghệ thông tin và Trung tâm thông tin - thư viện. Trung tâm thông tin - thư
viện là đơn vị trực thuộc CĐ DLHN, có chức năng giúp Hiệu trưởng trong cơng
tác quản lý thông tin, tư liệu và thư viện của nhà trường.
Trung tâm thông tin - thư viện được nhà trường giao nhiệm vụ:
- Cung cấp đầy đủ lượng giáo trình, bài giảng phục vụ cho giáo viên, sinh
viên và học sinh tránh tình trạng dạy chay học chay.
- Xây dựng mơ hình, quy mơ, quy chế hoạt động của thư viện phù hợp với
nhịp độ phát triển, đáp ứng nhu cầu dạy và học, các hoạt động nghiên cứu khoa
học của cán bộ - giáo viên, học sinh - sinh viên trong nhà trường.
- Tổ chức sưu tầm, in ấn, phát hành giáo trình, bài giảng, tài liệu tham
khảo, các ấn phẩm khác phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường.
- Tổ chức thu thập và quảng cáo các thông tin tư liệu về các hoạt động theo
định hướng của nhà trường.

- Thực hiện công tác bảo quản lưu trữ các tư liệu, tài liệu của nhà trường
thuộc trung tâm quản lý.
- Thực hiện các nhiệm vụ liên quan được quy định trong Quy chế tổ chức
và hoạt động của nhà trường và các nhiệm vụ khác do Hiệu trưởng giao.


1.2

Chức năng và nhiệm vụ

Trung tâm thông tin - thư viện được nhà trường giao nhiệm vụ:
- Cung cấp đầy đủ lượng giáo trình, bài giảng phục vụ cho giáo viên, sinh
viên và học sinh tránh tình trạng dạy chay học chay.
- Xây dựng mơ hình, quy mơ, quy chế hoạt động của thư viện phù hợp với
nhịp độ phát triển, đáp ứng nhu cầu dạy và học, các hoạt động nghiên cứu khoa
học của cán bộ - giáo viên, học sinh - sinh viên trong nhà trường.
- Tổ chức sưu tầm, in ấn, phát hành giáo trình, bài giảng, tài liệu tham
khảo, các ấn phẩm khác phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường.
- Tổ chức thu thập và quảng cáo các thông tin tư liệu về các hoạt động theo
định hướng của nhà trường.
- Thực hiện công tác bảo quản lưu trữ các tư liệu, tài liệu của nhà trường
thuộc trung tâm quản lý.
- Thực hiện các nhiệm vụ liên quan được quy định trong Quy chế tổ chức
và hoạt động của nhà trường và các nhiệm vụ khác do Hiệu trưởng giao.
1.3

Đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin tại trường Cao

đẳng Du lịch Hà Nội
Người dùng tin (NDT) là yếu tố cơ bản của mọi hệ thống thơng tin. Đó là

đối tượng phục vụ của công tác thông tin tư liệu. NDT vừa là khách hàng của
các dịch vụ thông tin, đồng thời họ cũng là người sản sinh ra thông tin mới. Việc
tổ chức triển khai hoạt động TT-TV đều nhằm mục đích cuối cùng là làm thế
nào để thỏa mãn nhu cầu của NDT. Và mức độ sử dụng thư viện của NDT chính
là thước đo chính xác, hiệu quả hoạt động của một thư viện. Chính bởi vậy,
nghiên cứu hệ thống TT- TV không thể không nghiên cứu đặc điểm NDT.


NDT tại thư viện trường CĐDLHN là tập thể cán bộ lãnh đạo, cán bộ
giảng dạy, sinh viên của nhà trường. Trên cơ sở nhu cầu tin của các đối tượng
NDT, có thể chia thành ba nhóm chính :
Nhóm cán bộ lãnh đạo quản lý: Gồm có Ban giám hiệu, trưởng phó
các khoa, các phịng ban chức năng.
Nhóm này tuy số lượng không lớn nhưng đặc biệt quan trọng. Họ vừa là
người dùng tin vừa là chủ thể thông tin ở trường. Những cán bộ lãnh đạo vừa
thực hiện chức năng quản lý công tác giáo dục đào tạo, vừa là người xây dựng
các chiến lược phát triển của trường. Nhu cầu thơng tin của nhóm này rất phong
phú. Do cường độ lao động của nhóm này cao nên việc cung cấp thơng tin phải
cơ đọng, súc tích. Hình thức phục vụ thường là các bản tin nhanh, các tin vắn,
tóm tắt tổng quan, tổng luận. Phương pháp phục vụ chủ yếu dành cho nhóm đối
tượng này là phục vụ từ xa, cung cấp đến từng người theo những yêu cầu cụ thể.
Phần lớn cán bộ quản lý của CĐ DLHN, ngồi cơng tác lãnh đạo quản lý
họ cịn tham gia công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Vì vậy, ngồi
những thơng tin về đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước thì nhóm này
cũng rất cần các thơng tin, tài liệu có tính chất chun sâu về các lĩnh vực
chuyên môn như các cán bộ giảng dạy khác.
Nhóm cán bộ nghiên cứu, giáo viên : Ðây là nhóm có hoạt động
thơng tin năng động và tích cực nhất. Họ là chủ thể của hoạt động thông tin,
cung cấp thông tin qua hệ thống bài giảng, các bài báo, tạp chí, các cơng trình
nghiên cứu khoa học được công bố, các đề xuất, các dự án, các đề tài, các kiến

nghị. Ðồng thời họ cũng chính là những người dùng tin thường xuyên, liên tục
của trung tâm TT- TV.
Thơng tin cho nhóm này có tính chất chun ngành, có tính chất lý luận và
thực tiễn.Hình thức phục vụ nhóm này là các thơng tin chun đề, thơng tin
chọn lọc, thông tin tài liệu mới, thư mục chuyên đề, thông tin chọn lọc về


chuyên ngành cũng như lý luận sư phạm và văn hóa xã hội. Thơng qua nhóm
NDT này cán bộ thư viện có thể thu thập ý kiến, những thơng tin có giá trị cao
về lĩnh vực họ đang nghiên cứu hoặc có thể trao đổi để tham gia ý kiến về sản
phẩm thông tin của thư viện như: thông báo sách mới, …..
Nhóm học sinh - sinh viên : Ðây là những chủ thể thông tin đông
đảo, biến động nhất trong trường, bao gồm sinh viên cao đẳng, trung cấp, nghề
và liên thông. Họ chiếm đa số NDT trong trường. Họ là người thường xuyên sử
dụng các sản phẩm và dịch vụ thông tin của thư viện. Nhu cầu tin của họ tương
đối lớn, ngồi thơng tin chun ngành được đào tạo họ cịn cần những loại
thơng tin khác để nâng cao tri thức như tài liệu về văn hóa, văn học, khoa học
công nghệ, khoa học xã hội, pháp luật... Hình thức phục vụ cho nhóm đối tượng
này chủ yếu là thông tin phổ biến về những tri thức cơ bản dưới dạng sách giáo
khoa, giáo trình, sách tham khảo hoặc một số ít là bài viết trong tạp chí, những
luận án, luận văn có tính chất cụ thể, trực tiếp phục vụ cho môn học và ngành
học đào tạo.


Chương 2 : HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM
THÔNG TIN - THƯ VIỆN TRƯỜNG CAO ĐẲNG DU LỊCH HÀ
NỘI

2.1 Cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động
Trung tâm Thơng tin - Thư viện là đơn vị trực thuộc Trường Cao đẳng

Du lịch Hà Nội, có chức năng giúp Hiệu trưởng trong công tác quản lý thông
tin, tư liệu và thư viện của nhà trường. Thư viện được trường Cao đẳng Du
Lịch Hà Nội cung cấp kinh phí hoạt động. Thư viện của nhà trường có mặt bằng
rộng, với diện tích sử dụng 386m2, khơng gian thơng thống và n tĩnh Số


lượng cán bộ, chuyên viên của Trung tâm là 8 người, được cơ cấu thành 2 tổ
chuyên môn: Tổ Thông tin - Phát hành và Tổ Thư viện.
Tổ phát hành: nhiệm vụ in ấn, phát hành tất cả các bài giảng, giáo trình
tới học sinh thơng qua đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Hàng năm Tổ phát hành
hàng nghìn cuốn tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy của nhà trường. Số
lượng giáo trình, bài giảng phát hành ngày càng phát triển . Ngồi ra cịn phát
hành cho các đơn vị bạn những giáo trình được phép lưu hành rộng rãi.
Tổ thư viện: được phân công bổ sung tài liệu, tổ chức vốn tài liệu, phục
vụ bạn đọc. Thư viện có một phịng đọc sức chứa 120 chỗ ngồi, được chia thành
hai không gian đọc dành cho giáo viên và không gian đọc dành cho sinh viên.
Hàng năm, thư viện được nhà trường đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, mua bổ
sung tài liệu để phục vụ việc dạy, học tập, nghiên cứu của giảng viên, cán bộ
viên chức và học sinh, sinh viên.
Đội ngũ cán bộ : Số lượng cán bộ của thư viện bao gồm 8 cán bộ trong đó:
+ 01 cán bộ có trình độ tiến sĩ
+ 01 cán bộ có trình độ thạc sĩ
+ 06 cán bộ tốt nghiệp đại học
Độ tuổi của cán bộ thư viện không trẻ ( khoảng từ 35- 58) , khơng đồng
đều. Đây là một mặt cịn hạn chế về cán bộ tại trung tâm thông tin - thư viện.
Cán bộ thư viện luôn bị điều chuyển đến rồi lại điều chuyển đi làm cho Trung
tâm luôn bị động về con người.
Hiện nay, nhà trường chưa quan tâm nhiều đến đời sống của nhân viên.
Cán bộ thư viện chưa được phụ cấp chế độ độc hại, mức lương tăng thêm thấp
nhất trường, được xếp cùng bậc với nhân viên tạp vụ. Đây là một vấn đề khiến

cho cán bộ thư viện chưa thật sự gắn bó với nghề, họ chỉ coi đây là nơi trung
chuyển cơng tác, khi có cơ hội sẵn sàng chuyển đi. Chính vì vậy mà thư viện


khơng có cán bộ tâm huyết với nghề và có thâm niên cao trong công tác thư
viện.
2.2

Thực trạng hoạt động của thư viện trường Cao đẳng Du

Lịch Hà Nội
2.2.1

Nguồn lực thơng tin

2.2.1.1 Loại hình tài liệu
Từ khi thành lập đến trước năm 2003 nguồn tài liệu còn hạn chế cả về số
lượng cũng như chất lượng. Trong giai đoạn này, tài liệu chuyên ngành về du
lịch rất ít. Việc xây dựng nguồn lực thông tin trong thời kỳ này hầu như chưa
được chú trọng. Nhà trường chưa có giáo trình giảng dạy, chủ yếu là những tài
liệu chuyên ngành được dịch từ tiếng Anh sang và được nhà trường in, phát
hành cho giáo viên, sinh viên làm tài liệu tham khảo.
Từ năm 2004, nhà trường đã cho viết và in giáo trình để phát hành cho sinh
viên. Do đó, số lượng giáo trình, tài liệu đã được tăng lên. Trung tâm khơng tiến
hành cho mượn giáo trình mà thực hiện bán trực tiếp giáo trình cho học sinh,
sinh viên. Với 8 chuyên ngành học và gần 10.000 học sinh, sinh viên chính quy
cũng như đào tạo liên thơng, tại chức, thì khả năng đáp ứng đầy đủ giáo trình
của Trung tâm khơng thể trọn vẹn, chỉ có thể thỏa mãn 70% số giáo trình cho
sinh viên mà thơi. Tuy nhiên, đó cũng là con số đáng kể khẳng định sự phát
triển của Trung tâm trong khả năng đáp ứng nhu cầu thơng tin, phục vụ cho q

trình nghiên cứu, học tập của sinh viên.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà công nghệ thông tin đang phát triển hết
sức mạnh mẽ, kéo theo nó là khối lượng thơng tin ngày càng to lớn và phong
phú, đòi hỏi thư viện trường CĐDLHN luôn phải chú trọng đến công tác phát
triển vốn tài liệu.
Vốn tài liệu (thống kê ngày 26 tháng 6 năm 2015)


Tổng số đầu sách có trong trung tâm là 9.878 cuốn với 22.134 bản
40 đầu báo, tạp chí tiếng Việt.
67 luận án, luận văn thạc sĩ với 67 bản
Nhìn chung, các tài liệu của thư viện là các tài liệu trang bị cho sinh viên
những kiến thức cơ bản, có hệ thống về các mơn học trong trường. Do đó tài
liệu của phịng bán giáo trình là cơng cụ cần thiết nhất và cơ bản nhất trong suốt
quá trình đào tạo của nhà trường và cũng là nguồn tài liệu được quan tâm sử
dụng nhiều nhất.
2.2.1.2 Nội dung vốn tài liệu
Nguồn tài liệu của trường CĐ DLHN phản ánh nhiều nội dung nhưng tập
trung chủ yếu ở các lĩnh vực du lịch, khách sạn.
Sách, Giáo trình của thư viện chủ yếu là do giáo viên các khoa trong
trường biên soạn. Đó là các tài liệu chuyên ngành hẹp được đào tạo trong
trường như: nấu ăn, khách sạn, nghiệp vụ lễ tân,... Ngồi giáo trình nhà trường
biên soạn, trung tâm cũng nhập giáo trình của các nhà xuất bản như: Nhà xuất
bản giáo dục, chính trị quốc gia, Đại học kinh tế quốc dân,...Đó là các tài liệu
thuộc các ngành khoa học cơ bản như triết, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội,
lịch sử Đảng, luật, kinh doanh.
Báo tạp chí: Tuy khơng có số lượng lớn nhưng đóng góp làm phong
phú nội dung tài liệu. Nguồn báo chủ yếu là tiếng Việt. Đây là những đầu báo
chuyên ngành du lịch, khách sạn và một số đầu báo có nội dung tổng hợp mang
tính chất thơng tin về đời sống kinh tế- xã hội như báo Nhân dân, báo Hà nội

mới…đáp ứng nhu cầu văn hóa giải trí và nâng cao hiểu biết và mọi mặt xã hội
cho bạn đọc, đồng thời thơng qua đó tun truyền mọi chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước đến cán bộ và sinh viên trong nhà trường.


Luận án và các cơng trình NCKH các cấp: Là loại tài liệu được bạn
đọc rất quan tâm, nhưng do việc thu nhận chưa triệt để nên còn để thất thoát rất
nhiều. Nội dung các tài liệu này là các cơng trình nghiên cứu về chun ngành
du lịch và khách sạn và các lĩnh vực bổ trợ cho chuyên ngành chính mà trường
giảng dạy.
Các đề tài NCKH hiện có tại thư viện khơng nhiều và khơng thường xun
do chưa có các quy định hợp lý nên việc thu nhận những tài liệu đó cịn chưa
được làm thường xun và kịp thời. Đây là những tài liệu chuyên ngành nghiên
cứu sâu, rất có ích và được đơng đảo bạn đọc quan tâm, trong khi khả năng đáp
ứng loại tài liệu này của thư viện lại rất thấp.
Tài liệu tra cứu: là loại tài liệu trong hệ thống kho sách của thư viện
gồm có các loại: bách khoa tồn thư, từ điển, cẩm nang, sổ tay đề cập tới mọi
lĩnh vực, vấn đề khác nhau trong đời sống kinh tế, xã hội.
2.2.2 Công tác xử lý tài liệu
2.2.2.1 Công tác tổ chức kho sách
Nói tới thư viện là người ta nói tới kho sách. Công việc tổ chức kho sách là
công việc phía sau của hoạt động thư viện nhưng để đưa thư viện vào thực tế sử
dụng thì địi hỏi phải tổ chức kho sách một cách khoa học, hợp lý và hiệu quả.
Để tổ chức lưu giữ, bảo quản và khai thác được nguồn tài liệu thì cơng tác
tổ chức kho sách là công việc tất yếu và bao giờ cũng được quan tâm hàng đầu.
Việc tổ chức kho sách có ý nghĩa quyết định hiệu quả hoạt động của thư viện.
Bởi, tổ chức kho sách có tốt thì mới có thể quản lý được nguồn thơng tin - tư
liệu có trong thư viện, tạo được cơ sở dữ liệu về sách và tiện dụng cho cơng tác
tìm kiếm thơng tin.
Trung tâm TT- TV trường CĐ DLHN là một bộ phận trực thuộc của

trường, nằm trong khuôn viên trường, với diện tích chỉ có 386m2 bao gồm cả


diện tích phịng đọc sách, phịng nghiệp vụ và diện tích dành cho kho sách.
Chính bởi thế, kho sách của trung tâm hiện nay chỉ có 14 giá sách. Với số lượng
sách lên tới 22134 bản thì hầu hết các giá sách rất chật hẹp và khơng cịn nhiều
khoảng trống dành cho lượng sách mới bổ sung. Sách trên giá chủ yếu là các
loại sách tham khảo. Riêng giáo trình và tập bài giảng do hiện nay chỉ thực hiện
công tác bán cho học sinh, sinh viên nên số lượng có trong kho mượn của thư
viện rất ít.
- Nhiệm vụ chính của cơng tác kho
+ Tiếp nhận sách và các dạng tài liệu khác, xử lý kỹ thuật theo nghiệp vụ
thư viện, nhập vào kho theo chức năng của từng loại hình tài liệu.
+ Đối với các loại sách tham khảo, đề tài nghiên cứu khoa học của cán bộ,
sinh viên tốt nghiệp của trường cán bộ làm công tác thủ thư có trách nhiệm tổ
chức xử lý cho sách. Sau khi sách được nhập kho, sẽ được sắp xếp theo đúng
quy tắc thư viện để đảm bảo cho việc phục vụ được nhanh chóng, chính xác.
+ Theo định kỳ, kho sách sẽ được thống kê, điều tra về nội dung và tình
trạng vốn tài liệu. Những tài liệu hư hỏng nhẹ như rách bìa, long trang sẽ được
tu sửa tại chỗ. Những tài liệu đã lỗi thời, thông tin khơng cịn cập nhật, phù hợp,
thừa bản sẽ được lập danh sách để thanh lọc, giải phóng kho tàng.
Kho sách được sắp xếp, chia thành 2 mảng, theo loại hình dịch vụ:
Tài liệu rộng rãi: phục vụ cho mọi đối tượng bạn đọc, có thể là giảng viên,
cán bộ, cũng có thể là sinh viên, học sinh trong trường.
Tài liệu hạn chế: giới hạn đối tượng phục vụ, chỉ bao gồm cán bộ nghiên
cứu có cơng văn u cầu tìm kiếm, sử dụng thông tin từ kho sách. Những loại
tài liệu này chủ yếu là các báo cáo, tài liệu hội nghị, hội thảo, các đề tài nghiên
cứu khoa học.



Đối với mảng giáo trình, tập bài giảng hiện nay chưa có nhiều trong kho do
thư viện chưa thực hiện mở cửa phịng mượn giáo trình. Những giáo trình, bài
giảng được nhập về từ các nhà xuất bản hay giáo trình do chính Trung tâm phát
hành ra để bán cho sinh viên. Số lượng giáo trình cũng rất nhiều nhưng phát
hành ra là bán hết do nhu cầu sử dụng giáo trình học trong các chuyên ngành
của sinh viên là rất lớn. Đây là những giáo trình chun mơn phục vụ cho
chuyên ngành học của sinh viên
2.2.2.2 Công tác bổ sung tài liệu
Thư viện trong trường học đóng một vai trị hết sức quan trọng. Nó có tác
động tích cực trong nhiều hoạt động khác nhau của nhà trường, bao gồm điểm
số, khả năng học tập độc lập và tự mở rộng kiến thức của sinh viên. Các chương
trình thư viện hiệu quả và mạnh mẽ sẽ dẫn đến kết quả học tập tốt hơn bất kể
điều kiện kinh tế xã hội hay là trình độ dân trí của người lớn tại cộng đồng đó.
Sự hợp tác, kết hợp giữa giáo viên và cán bộ thư viện có ảnh hưởng tích cực đến
việc học tập của học sinh, đặc biệt là về mặt chuẩn bị giáo trình, bổ sung tài liệu
của thư viện, việc cung cấp các cơ hội phát triển nghề nghiệp cho giáo viên.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Một môi trường phong phú về tài liệu in có
chất lượng sẽ dẫn tới việc học sinh chăm đọc hơn một cách tự giác, và việc đem
lại kết quả khả quan hơn trong học tập. Số lượng tài liệu mượn từ thư viện có
liên quan mật thiết đến khả năng đọc của NDT. Việc lồng ghép chương trình
giảng dạy về kiến thức thơng tin vào chương trình học của sinh viên sẽ giúp cải
thiện khả năng của sinh viên cả về kỹ năng tìm kiếm thơng tin cũng như kết quả
học tập. Khi thư viện trường học hợp tác với thư viện công cộng về các mặt như
hợp tác bổ sung, hợp tác cung cấp dịch vụ tham khảo sẽ dẫn tới những kết quả
đáng khả quan hơn nữa. Các thư viện trường học có thể tạo ra sự thay đổi tích
cực đối với sự tự tin của sinh viên, khả năng học tập độc lập và tinh thần trách
nhiệm về việc học của bản thân.


Để làm được việc này, thư viện cũng cần được bổ sung tài liệu một cách

đầy đủ, phù hợp với nhu cầu giảng dạy, học tập và giải trí của giáo viên và sinh
viên. Do đặc thù thư viện trường học là gắn liền với hoạt động giảng dạy nên
đòi hỏi tài liệu phải ln cập nhật theo chương trình các ngành đào tạo của
trường. Vì thế, cơng tác bổ sung vốn tài liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng hoạt động của thư viện, quyết định tới khả năng đáp ứng hay không đáp
ứng được nhu cầu tin của giảng viên, cán bộ cũng như sinh viên của trường.
Muốn vậy, trung tâm phải có kế hoạch bổ sung tài liệu cụ thể. Công việc bổ
sung bao gồm các khâu chính sau: xây dựng chính sách và kế hoạch bổ sung;
tiếp cận các nguồn tài liệu; chọn hình thức và phương thức bổ sung.
+ Xây dựng chính sách và kế hoạch bổ sung
Là hoạt động đầu tiên, là cơ sở giúp cho việc bổ sung tài liệu được đảm
bảo và thực hiện có hiệu quả. Trong một năm, một học kỳ của năm học, công
tác thư viện phải đưa ra được dự kiến nguồn tài liệu cần bổ sung vào thư viện là
bao nhiêu? Nguồn tài liệu bổ sung bao gồm những loại tài liệu nào, dự trù kinh
phí về lượng tài liệu muốn có. Sau khi bảng chính sách và kế hoạch bổ sung tài
liệu được hoàn chỉnh sẽ được lãnh đạo nhà trường xem xét, duyệt và cấp kinh
phí cho nó. Bản chính sách và kế hoạch bổ sung tài liệu chính là căn cứ để cán
bộ thư viện có thể tiếp cận tới những nguồn tài liệu có thể thu thập về cho thư
viện.
Hình thức và phương thức bổ sung vốn tài liệu đa dạng: mua của các nhà
xuất bản, các cơ quan, tổ chức hoạt động về sách có uy tín, nhận lưu chiểu các
tài liệu nội sinh, trao đổi với các cơ quan, tổ chức có nguồn tài liệu phù hợp
hoặc nhận biếu, tặng của cá nhân, tổ chức.
Nắm bắt được vai trò quan trọng của công tác bổ sung nguồn thông tin
trong hệ thống dây chuyền tổ chức thông tin, tuy nhiên một thực trạng khơng có
dấu hiệu khởi sắc ở trung tâm thông tin - thư viện của trường Cao đẳng Du lịch


Hà Nội là hoạt động bổ sung vốn tài liệu cịn nhiều vấn đề bất cập. Trước hết,
đó là cơng tác xây dựng kế hoạch bổ sung. Cán bộ thư viện tiến hành dự trù

nguồn tài liệu cần bổ sung trong một năm trường cần thu thập thêm bao nhiêu
tài liệu, tài liệu cần thu thập là những tài liệu nào nhưng khi trình hiệu trưởng
thì khơng được duyệt. Cơng tác bổ sung trở nên thụ động. Thêm vào đó, nguồn
kinh phí dành cho bổ sung cịn q nhỏ hẹp. Đã có thời kỳ, trong nhiều năm liền
thư viện khơng cập nhật thêm tài liệu nào. Kho sách ngày càng nghèo nàn về
nội dung, thiếu thốn về số lượng. Khoảng 3 năm trở lại đây hoạt động bổ sung
đã phát triển hơn. Bên cạnh đó, nguồn tài liệu cịn được bổ sung từ các tài liệu
nội sinh như luận án, tài liệu nghiên cứu khoa học do cán bộ trong trường thực
hiện. Song đối với một trung tâm TTTV nếu chỉ bổ sung đơn thuần sách giáo
trình thì chưa đủ để tạo nên hiệu quả hoạt dộng cho trung tâm. Để có một nguồn
lực thơng tin chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu học tập, giảng dạy và nghiên cứu
khoa học của đội ngũ cán bộ, giảng viên, sinh viên trong tồn trường khơng thể
khơng bổ sung các sách tham khảo và các tài liệu khác. Bởi giáo trình là những
sách có kiến thức về ngành học, nó chỉ cung cấp những thông tin cơ bản, ở dạng
ngắn gọn nhất. Trong hoạt động giảng dạy, cũng như học tập, đặc biệt là trong
nghiên cứu khoa học, muốn nắm chắc một vấn đề, hiểu rộng và hiểu sâu về vấn
đề đó thì cần phải có những kiến thức tổng hợp hơn về nhiều lĩnh vực. Và NDT
chỉ có thể có được những kiến thức đó khi sử dụng nguồn tài liệu từ sách tham
khảo. Tuy nhiên hiện nay số đầu sách tham khảo cịn q ít, chỉ hơn 100 sách
trong một năm, chưa đủ để có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng tài liệu của
bạn đọc. Những tài liệu này chủ yếu được bổ sung bằng hình thức mua từ một
số nhà xuất bản có uy tín cịn hoạt động bổ sung bằng nguồn trao đổi chưa thực
hiện.
Ngoài ra, hàng năm trung tâm nhận lưu chiểu các tài liệu nội sinh, ngồi
các đầu sách giáo trình do trung tâm phát hành là các đề tài nghiên cứu khoa
học được nghiệm thu của cá nhân, tập thể giảng viên tham gia nghiên cứu khoa


học. Trung bình một năm có 20 đề tài nộp cho trung tâm, tài liệu trong các cuộc
hội thảo, hội nghị có sự tham gia của trường, tạp chí chun ngành và các lĩnh

vực liên quan đến du lịch, khách sạn.
Các tài liệu phục vụ cho mục đích giải trí và nâng cao hiểu biết cho người
dùng tin là: Các sách chính trị xã hội, sách văn học, và các loại báo, tạp chí của
cơ quan trung ương xuất bản. Ngồi ra cịn có các tài liệu nghiệp vụ thư viện
phục vụ cho chính cán bộ thư viện, đây là một phần nhỏ nhưng rất quan trọng
để cho cán bộ thư viện có điều kiện tiếp cận bổ sung kiến thức mới về lĩnh vực
thư viện học. Bên cạnh dạng tài liệu là sách, thư viện còn bổ sung các dạng tài
liệu khác như: băng, đĩa nhưng do mới thực hiện nên số lượng cịn q ít.
Thư viện cũng chú ý tạo nguồn bổ sung sách ngoại văn, chủ yếu là các thứ
tiếng: Anh, Trung, Pháp phục vụ cho việc nâng cao ngoại ngữ của sinh viên
cũng như việc tìm kiếm các nguồn thơng tin bổ ích qua các sách, báo của các
nước, của giảng viên, cán bộ trong trường. Nguồn tài liệu này tuy không nhiều
và thường xuyên nhưng đã góp phần làm phong phú vốn tài liệu của trung tâm.
2.2.2.3 Cơng tác xử lý, phân tích nội dung tài liệu
Công tác biên mục sách: Biên mục sách là một trong những khâu
nghiệp vụ khá quan trọng để tạo điều kiện thành lập cơ sở dữ liệu về mỗi quyển
sách. Việc biên mục là công đoạn thứ hai sau khi sách được nhập vào kho. Một
quy trình biên mục gồm có những cơng việc sau: Xử lý hình thức; Xử lý nội
dung tài liệu.
- Xử lý hình thức: là việc xác định những yếu tố về tài liệu như nhan
đề, tác giả, lần xuất bản, các yếu tố xuất bản (nơi xuất bản, nhà xuất bản,
năm xuất bản) và mơ tả vật chất (kích cỡ, số trang, minh họa, những số
tiêu chuẩn…); Một trong các yếu tố trên sẽ là yếu tố quyết định những
yếu tố nào trong thành phần mơ tả có thể là căn bản cho việc truy cập tài


liệu, xác định hình thức thích hợp đối với tác giả và nhan đề được chọn
làm tiêu đề mô tả.
- Xử lý hình thức: Tại trung tâm TT- TV của trường CĐ DLHN hiện
nay, đã tiến hành làm công tác mơ tả hình thức, nhưng chưa áp dụng phần

mềm mà hồn tồn thực hiện thủ cơng và sử dụng tiện ích của công cụ
excel trong máy tính để tạo dựng những cột, phục vụ cho việc làm thư
mục thông báo sách mới.
Biên mục đề mục hay mô tả nội dung: là quá trình xác định các tiêu đề đề
mục cho một tài liệu. Người làm biên mục tìm những tiêu đề tiêu biểu tốt nhất
cho tài liệu bằng những từ hay cụm từ lấy trong một khung tiêu đề đề mục có
sẵn hoặc tự định ra tiêu đề đề mục để phản ánh đúng nội dung của tài liệu cần
biên mục.
Việc biên mục đề mục nhằm mục đích cung ứng sự tra tìm theo chủ đề đối
với tất cả những tài liệu liên quan đến chủ đề đó, giúp quá trình tìm tin được
nhanh chóng và chính xác.
Phân loại tài liệu: Thực hiện phân loại sách là nhằm sắp xếp các đề
tài một cách có hệ thống. Nguyên tắc phân loại trong thư viện là tập hợp các tài
liệu trên kệ theo môn loại hay theo nội dung chủ đề với mục đích tập trung tài
liệu có nội dung liên quan với nhau theo một trật tự thích hợp, cung cấp hình
thức tiếp cận kho tài liệu (khi thư viện tổ chức kho mở), tổ chức mục lục phân
loại hay mục lục vị trí (là mục lục cơng vụ để quản lý kho sách và phục vụ công
việc phát triển tư liệu). Như vậy, công tác phân loại được xem như nắm vị trí
chủ đạo trong khâu nghiệp vụ thư viện. Phân loại có chi tiết và chính xác mới
tạo điều kiện cho độc giả tiếp cận kho sách dễ dàng và có thể tìm thấy các tài
liệu có cùng nội dung nằm gần nhau.
Tuy nhiên, tại trung tâm TT- TV của trường hiện nay, do nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan nên chưa tổ chức kho sách mở. Hình thức tổ chức kho
sách vẫn chỉ là việc sử dụng kho đóng cổ điển, sắp xếp tài liệu theo số đăng ký


xếp giá kết hợp các hình thức khác như: kích cỡ, ngơn ngữ nên vai trị của cơng
tác phân loại trở nên mờ nhạt, thậm chí có thể coi là bị bỏ qua. Và cũng như
công tác biên mục đề mục, chưa có tài liệu nào trong trung tâm được tiến hành
phân loại. Thực tiễn công tác phân loại tài liệu chỉ là việc sắp xếp theo các loại

hình tài liệu mà thơi như: giá sách giáo trình, giá sách tham khảo và một phần
riêng về các tạp chí, luận văn, luận án, đề tài khoa học…
Công tác bảo quản tài liệu : Tài liệu là những sản phẩm vật chất rất
dễ bị xâm hại và hư hỏng cho dù chúng có được cấu thành từ bất cứ chất liệu gì
đi nữa thì các yếu tố khách quan như ánh sáng, tia cực tím, nhiệt độ và độ ẩm,
sự xâm nhập của côn trùng, nấm mốc, thảm hoạ tự nhiên, các tác nhân hố học
đều có thể gây ra gây hư hại đến tài liệu. Bên cạnh đó, các yếu tố chủ quan như
việc sử dụng tài liệu chưa đúng cách, di chuyển kho tàng, bảo quản tài liệu
không hợp lí thì cũng đều ảnh hưởng và làm hư hại tài liệu.
Thực tiễn công tác bảo quản kho sách của trung tâm TT- TV của trường
CĐ DLHN cũng còn những hạn chế nhất định. Diện tích kho sách rất nhỏ hẹp,
thư viện khơng có máy hút ẩm, khi vào mùa mưa bị dột, và có chuột do kho
sách đặt tại tầng trên của phòng thực hành khoa bếp. Cơ sở vật chất của kho
sách đã được đầu tư khang trang hơn, có điều hồ nhiệt độ. Tuy nhiên, cơng tác
bảo quản sách của trung tâm mới chỉ làm thủ công với những hoạt động đơn
giản như: nhân viên tự quét bụi cho sách, lau giá. Đối với những sách hỏng
cũng chỉ xử lí hình thức bên ngồi như đóng lại bìa sách, gáy sách cho chặt để
sách khỏi tuột trang. Từ khi thành lập cho tới nay, kho sách không được định kỳ
xử lí chống mối, mọt cách đặt các hộp chống mối, và đặt bẫy chuột. Ngoài các
thao tác bảo quản thủ công trên, hiện nay trung tâm chưa áp dụng biện pháp tiên
tiến nào để gìn giữ nguồn thông tin tư liệu quý giá của trường.
2.2.3 Các sản phẩm và dịch vụ thông tin
2.2.3.1 Tổ chức các sản phẩm thông tin


* Hệ thống mục lục dạng phiếu
Hệ thống mục lục (hay thường gọi là mục lục tra cứu) là tập hợp các đơn vị
phiếu mục lục được sắp xếp theo một trình tự nhất định, phản ánh nguồn tin của
một hay một nhóm cơ quan thơng tin - thư viện.
Mục lục là công cụ chủ yếu giúp người dùng tin xác định được vị trí sắp

tài liệu trong kho. Mục lục là sản phẩm của q trình biên mục. Khơng có hệ
thống mục lục thì khơng thể tra cứu và tìm sách trong thư viện.
Mục lục được định dạng bằng các phiếu mục lục chính là phiếu miêu tả thư
mục về tài liệu và tạo nên một điểm truy nhập tới tài liệu được phản ánh. Phạm
vi bao quát hay đối tượng phản ánh của một hệ thống mục lục là tài liệu dưới
những hình thức khác nhau của một hay nhiều cơ quan thông tin - thư viện. Ðối
với các thư viện, mục lục này được gọi là mục lục thư viện.
Hệ thống mục lục phiếu của Trung tâm TT- TV trường CĐ DLHN được đặt
ngay trong phòng đọc sách của thư viện, tiện dụng cho độc giả khi tới đọc sách
có thể tra cứu đầy đủ các đầu sách muốn tìm.
Về nguyên tắc, hệ thống mục lục được phân thành mục lục chữ cái và mục
lục phân loại. Hệ thống mục lục này được làm theo các nội dung khi cán bộ thủ
thư thực hiện việc xử lý sách. Ở trường CĐ DLHN, hiện nay tồn tại tủ mục lục
chữ cái và tủ mục lục phân loại gồm một số yếu tố: nhan đề, tác giả, nhà xuất
bản, năm xuất bản, số trang. So với sự phát triển công nghệ thông tin hiện nay,
nhiều thư viện đã áp dụng tin học trong việc xây dựng mục lục online thì hệ
thống mục lục phiếu trở nên lỗi thời khơng đáp ứng được nhanh chóng và kịp
thời nhu cầu tra cứu thông tin của bạn đọc. Hàng ngày, khi bạn đọc tới thư viện
vẫn phải mất rất nhiều thời gian tra tìm thủ cơng qua hệ thống mục lục phiếu,
mất nhiều thời gian và khả năng tra tìm thơng tin tổng hợp theo một chủ đề trở
nên khó khăn. Sách được chuyển về kho sẽ được phân loại sơ bộ từng chuyên


ngành lớn ứng với môn loại tri thức của bảng phân loại; phân kho; xử lý hình
thức: mơ tả, dán nhãn. Do nhân lực cịn hạn chế nên chỉ có hai cán bộ thực hiện
công việc này, đôi khi cán bộ thư viện kiêm nhiệm các cơng việc khác thì chỉ có
một người làm mà thơi.
Riêng hệ thống mục lục phiếu của Trung tâm đã có hơn 20.000 phiếu mục
lục. Nếu xét theo cấu tạo hệ thống mục lục, Trung tâm hiện có loại mục lục đó
là mục lục chữ cái (MLCC) và mục lục phân loại (MLPL). Hiện nay, Trung tâm

mới bố trí một tủ mục lục do chưa có phịng riêng phục vụ dịch vụ mượn sách
về nhà. Thư viện có một kho sách dùng chung cho cả mượn đọc tại chỗ và
mượn về nhà.
Trung tâm được thành lập từ nhiều năm nay nhưng kinh phí chi cho hoạt
động của Trung tâm cịn nghèo nàn. Do đó, nếu thay đổi toàn bộ kho sách với
hàng chục ngàn bản phải tổ chức lại kho sách sẽ mất một khoản kinh phí lớn và
nhiều cơng sức của cán bộ thư viện. Vì vậy, hiện nay kho tài liệu tổ chức dưới
hình thức kho kín có từ trước. Người dùng tin khi đọc các thông tin được in trên
phiếu mục lục sẽ biết một số các thông tin về tài liệu như tên tác giả, tên tài liệu,
nhà xuất bản…. Bên cạnh đó hệ thống mục lục cịn giúp người dùng tin quyết
định lựa chọn hoặc không lựa chọn một tài liệu cụ thể nào đó.
Việc in hệ thống mục lục chưa được tiến hành in trên máy, vẫn viết tay và
ở dạng truyền thống. Về chất lượng mục lục: thông qua việc khảo sát sự thoả
mãn nhu cầu tin của người dùng tin, kết hợp với khảo sát ngẫu nhiên, có được
kết quả như sau: Qua điều tra cho thấy có tới (42,5%) người dùng tin cho rằng
chất lượng hệ thống mục của Trung tâm là tốt, còn lại chất lượng trung bình là
(57,5%).
Để xây dựng tủ mục lục cho sách và tài liệu, Trung tâm TT- TV đã áp dụng
bảng quy tắc mô tả ISBD và áp dụng bảng phân loại 19 lớp theo nghiệp vụ thư
viện mà các thư viện đã áp dụng từ lâu.


Ưu điểm của hệ thống mục lục phiếu của Trung tâm:
+ Có khả năng linh hoạt khi Trung tâm tiến hành loại bỏ tài liệu cũ và bổ
sung tài liệu mới thì cũng có thể thay thế các phiếu mục lục của sách
+ Hệ thống mục lục này có thể giúp NDT dễ dàng trong việc sử dụng và
xác định các điểm tra cứu đến một hay một nhóm tài liệu cụ thể
Nhược điểm của hệ thống mục lục phiếu:
+ Cồng kềnh, khó luân chuyển. Do đó hệ thống mục lục cần có một diện
tích để sắp xếp các tủ mục lục sao cho thuận tiện khi NDT có nhu cầu sử dụng,

nhưng NDT lại mất thời gian lên thư viện tra tìm vì tủ mục lục chỉ có thể đặt ở
thư viện mà thơi.
.+ Chi phí để làm một hệ thống mục lục tốn kém, vừa phải đặt làm tủ mục
lục, vừa mua mẫu phiếu để mô tả tài liệu, tra cứu lâu và phải đánh máy lại để
làm thư mục thông báo sách mới, thư mục in.

*Thư mục
Thư mục cũng là một sản phẩm TT- TV mà phần chính là tập hợp các biểu
ghi thư mục (có hoặc khơng có tóm tắt, chú giải) được sắp xếp theo một trật tự,
xác định, phản ánh các tài liệu có chung một hay một số dấu hiệu về nội dung
hay hình thức.
Ðối tượng chủ yếu được phản ánh trong thư mục là tài liệu nói chung. Xuất
phát từ nội dung của vốn tài liệu, đặc điểm NDT và nhu cầu tin trong trường,
Trung tâm TT- TV trường CĐ DLHN đã biên soạn và xuất bản các loại thư mục
sau:
+ Thư mục giới thiệu sách mới


Ðây là loại thư mục được tổ chức biên soạn thường xuyên theo định kỳ
hàng tháng. Trong đó phản ánh toàn bộ tài liệu mới được bổ sung về Trung tâm.
Công việc biên soạn thư mục này do tổ thư viện đảm nhiệm. Sách mới được
giới thiệu là những sách mới được bổ sung về thư viện. Công việc này khơng
làm theo định kỳ mà sau đợt bổ sung thì sẽ làm bản thông báo sách mới. Trong
mỗi môn loại, tài liệu lại được sắp xếp theo vần chữ cái ABC theo tên tác giả
hay tên sách.
Các yếu tố được mô tả trong thư mục bao gồm:
. Tên tài liệu
. Tên tác giả
. Năm xuất bản, nơi xuất bản
. Ký hiệu xếp kho

Thư mục giới thiệu sách mới của Trung tâm không phải là một ấn phẩm
độc lập nên không có lời nói đầu, khơng có mục lục, khơng có bảng tra. Nhưng
nhờ có thư mục này mà tài liệu mới bổ sung về Trung tâm được phổ biến đầy
đủ, kịp thời tới người dùng tin trong trường, giúp họ nhanh chóng có được
những tài liệu cần thiết phục vụ cho học tập và nghiên cứu khoa học.
+ Thư mục chuyên đề
Là ấn phẩm được biên soạn không định kỳ tại thư viện nó phụ thuộc vào
các vấn đề nảy sinh do chuyên môn hoặc phụ thuộc vào số lượng tài liệu thu
thập được để có thể thành được một chuyên đề. Loại thư mục này mang tính
chuyên sâu, hỗ trợ chủ yếu cho công tác giảng dạy và NCKH của cán bộ quản
lý và cán bộ giảng dạy nhà trường. Nhìn chung loại hình này cũng được nhiều
NDT quan tâm và sử dụng, đặc biệt là NDT là cán bộ lãnh đạo.
2.2.3.2 Tổ chức các dịch vụ thông tin


×