Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức hợp tác công tư (ppp) vào ngành điện tại việt nam TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 27 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

THU HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN DƯỚI HÌNH THỨC HỢP TÁC CƠNG TƯ
(PPP) VÀO NGÀNH ĐIỆN TẠI VIỆT NAM
Ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số:62.31.01.06 (mã số mới: 9310106)

TRẦN THANH PHƯƠNG


2

Luận án được hoàn thành tại: Trường Đại học Ngoại thương

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Vũ Thị Kim Oanh
TS. Nguyễn Thị Việt Hoa

Phản biện 1: .............................................................................
............................................................................
Phản biện 2: .............................................................................
............................................................................
Phản biện 3: .............................................................................
............................................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp trường


họp tại Trường Đại học Ngoại thương
Vào hồi

giờ

ngày

tháng

năm 20

Có thể tham khảo luận án tại Thư viện Quốc gia
và thư viện Trường Đại học Ngoại thương


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, năng lượng điện đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế cũng như
đời sống tại tất cả các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, nhu cầu tiêu thụ điện
ngày càng gia tăng do tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế. Vì vậy, đầu tư phát
triển ngành điện đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất điện trở thành một trong những ưu
tiên hàng đầu trong chính sách đảm bảo an ninh năng lượng của Chính phủ Việt
Nam. Nguồn vốn đầu tư này trước đây thường đến từ khu vực công, tuy nhiên,
nguồn vốn công đang ngày càng thu hẹp. Vậy giải pháp đặt ra để giải quyết được
nhu cầu vốn tăng mạnh ở ngành này chính là việc thu hút nguồn vốn tư nhân bao
gồm tư nhân trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của ngành điện đó là địi hỏi nguồn vốn đầu
tư lớn, lợi nhuận thấp, rủi ro cao, thời gian hồn vốn dài v.v. do đó ít có nhà đầu tư

tư nhân muốn chịu trách nhiệm thực hiện tồn bộ một dự án đầu tư điện. Chính vì
vậy, hình thức đầu tư phối hợp cả khu vực cơng và tư hay hình thức PPP - hợp tác
cơng tư (Public Private Partnership) sẽ là giải pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề
thiếu vốn cho ngành điện. Hình thức PPP đã bắt đầu xuất hiện từ những năm 80 của
thế kỷ XX và ngày càng được áp dụng phổ biến, thành công trong lĩnh vực phát
triển cơ sở hạ tầng tại hơn 50 quốc gia trên thế giới suốt gần bốn thập kỷ qua. Hình
thức này đã chứng tỏ được tính hiệu quả trong việc chia sẻ rủi ro, gánh nặng tài
chính với chính phủ; tiết kiệm thời gian, chi phí; tận dụng kỹ năng chun mơn và
chuyển giao cơng nghệ trong q trình thiết kế, mua sắm, thi cơng, vận hành cơng
trình; đổi mới việc cung cấp dịch vụ cơng cộng và góp phần cải thiện mạnh mẽ hệ
thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội.
Như vậy, thu hút các nhà đầu tư tư nhân đầu tư vào ngành điện là nhiệm vụ
quan trọng đối với chính phủ Việt Nam trong thời gian tới để đáp ứng được nhu cầu
điện càng gia tăng cũng như tăng cường sự ổn định của hệ thống điện. Đồng thời,
hình thức PPP được xem là một giải pháp hợp lý để thu hút tư nhân đầu tư vào các
dự án điện tại Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng đầu tư tư nhân dưới
hình thức PPP trong ngành điện Việt Nam hiện nay và các nhân tố ảnh hưởng tới
việc thu hút khối tư nhân đầu tư vào ngành điện dưới hình thức này là điều vơ cùng
quan trọng để đưa ra được những giải pháp phát huy tính hấp dẫn của các dự án
PPP trong ngành điện đối với các doanh nghiệp tư nhân. Chính vì lý do đó, người


4

viết đã lựa chọn đề tài “Thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức Hợp tác Cơng Tư
(PPP) vào ngành điện tại Việt Nam” làm đề tài luận án của mình.
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường thu
hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực phát điện dưới hình thức PPP dựa trên cơ sở xác
định các yếu tố ảnh hưởng tới ý định đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân vào các

dự án PPP sản xuất điện.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đó, luận án có những nhiệm vụ nghiên
cứu sau: Thứ nhất, hệ thống hoá cơ sở lý thuyết về hình thức PPP, ngành điện và
các nhóm nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực phát điện dưới
hình thức PPP; Thứ hai, phân tích thực trạng ngành điện hiện nay ở Việt Nam và
phân tích thực trạng thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP trong lĩnh vực phát
điện; Thứ ba, phân tích thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư của
doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào lĩnh vực phát điện dưới hình thức PPP tại Việt
Nam; Thứ tư, xác định mức độ ảnh hưởng của những nhân tố này tới ý định đầu tư
của nhà đầu tư tư nhân vào lĩnh vực phát điện dưới hình thức PPP; Thứ năm, dựa
trên những phân tích về thực trạng thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP trong
lĩnh vực phát điện tại Việt Nam và thực trạng phân tích định tính và định lượng các
nhân tố nghiên cứu, cùng kinh nghiệm của một số quốc gia, luận án đưa ra các đánh
giá về những thành cơng, hạn chế, từ đó đưa ra giải pháp nhằm tăng cường thu hút
tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực phát điện của Việt Nam dưới hình thức PPP.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động thu hút nhà
đầu tư tư nhân vào lĩnh vực phát điện Việt Nam dưới hình thức PPP và những yếu
tố ảnh hưởng tới hoạt động đó.
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: luận án nghiên cứu cụ thể ở lĩnh vực phát điện và
những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đó. Tác giả lựa chọn lĩnh vực phát điện vì
lý do như sau: ngành điện là một hệ thống gồm ba khâu phát điện, truyền tải và
phân phối điện. Trong đó, ở Việt Nam, khâu truyền tải vẫn được giữ độc quyền nhà
nước để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Khâu phân phối điện mới chỉ thí
điểm chính sách cạnh tranh vào năm 2017 và yêu cầu về vốn chưa thực sự lớn. Chỉ
có khâu phát điện đang gặp khó khăn về vấn đề thiếu vốn và đã có sự tham gia của
khối tư nhân từ năm 1996 và chính thức cho thí điểm cạnh tranh từ năm 2011.


5


Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian: luận án nghiên cứu tại Việt Nam, học hỏi
kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Độ.
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian: luận án nghiên cứu từ năm 2011-2019, bởi
năm 2011 là năm bắt đầu thí điểm thị trường phát điện Việt Nam, là mốc thời gian
quan trọng đánh dấu bước tái cơ cấu toàn bộ ngành điện Việt Nam. Giải pháp của
luận án được đề xuất cho giai đoạn 2020-2030.
5. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận án tiếp cận từ góc độ các cơ quan quản lý của nhà nước trong việc hoạch
định chính sách thu hút nhà đầu tư tư nhân vào các dự án PPP trong lĩnh vực phát
điện. Tiếp cận hệ thống cơ sở lý thuyết về thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức
PPP vào lĩnh vực sản xuất điện tại Việt Nam. Tiếp cận thực tế thông qua điều tra
khảo sát nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến ý định đầu tư của
các nhà đầu tư tư nhân vào các dự án PPP phát điện tại Việt Nam. Nghiên cứu, đánh
giá thực trạng thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP vào lĩnh vực phát điện tại
Việt Nam. Luận án được xác định là nghiên cứu kết hợp giữa loại hình nghiên cứu
mơ tả và nghiên cứu kiểm định.
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Đóng góp về lý thuyết
Xác định và phát triển hệ thống thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến ý định
đầu tư của nhà đầu tư tư nhân vào các dự án PPP trong lĩnh vực sản xuất điện. Đây
có thể coi là nghiên cứu đầu tiên về các nhân tố ảnh hưởng trong lĩnh vực điện lực,
làm cơ sở lý thuyết cho các nghiên cứu khác trong ngành điện tại Việt Nam.
Nghiên cứu sử dụng cả phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để
củng cố mức độ tin cậy của nghiên cứu, do đó nghiên cứu hy vọng sẽ bổ sung
phương pháp luận nghiên cứu trong phân tích về thu hút đầu tư tư nhân trong các dự
án PPP trong lĩnh vực phát điện.
6.2 Đóng góp về thực tiễn
Nhờ những phân tích có cơ sở, luận án đưa ra được các giải pháp thực tế giúp
Chính phủ Việt Nam có thể thu hút được các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào

sản xuất điện dưới hình thức PPP để giải quyết vấn đề thiếu vốn và chia sẻ kỹ thuật
chuyên môn trong việc phát điện nhằm cung cấp một hệ thống điện ổn định hơn cho
Việt Nam.
Nghiên cứu cũng sẽ là tài liệu tham khảo đáng tin cậy cho những ai quan tâm


6

đến vấn đề PPP trong lĩnh vực điện, hay các phương pháp luận nghiên cứu về thang
đo và kiểm định mơ hình nghiên cứu.
Kết cấu của luận án

7.

Ngồi phần mở đầu, kết luận và các danh mục phụ lục khác, luận án được
trình bày theo 5 chương.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THU
HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN DƯỚI HÌNH THỨC HỢP TÁC CƠNG TƯ (PPP)
VÀO NGÀNH ĐIỆN
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài luận án
1.1 Tình hình nghiên cứu về thu hút đầu tư tư nhân vào ngành điện
Luận án đã tổng quan và chỉ ra kết quả nghiên cứu của một số nghiên cứu nước
ngoài và trong nước liên quan đến tình hình thu hút đầu tư tư nhân vào ngành điện,
trong đó phần lớn các nghiên cứu phân tích theo hướng xác định các nhân tố ảnh
hưởng đến thu hút đầu tư tư nhân vào ngành điện. Nổi bật là hai nhóm nhân tố: yếu
tố vĩ mơ và yếu tố thuộc ngành điện.
1.2 Tình hình nghiên cứu về thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP
Luận án đã tổng quan và chỉ ra kết quả nghiên cứu của một số nghiên cứu nước
ngoài và trong nước liên quan đến thu hút đầu tư tư nhân theo hình thức PPP ở các
ngành khác nhau, trong đó hình thức PPP chủ yếu được sử dụng trong lĩnh vực cơ

sở hạ tầng. Hai nhóm nhân tố được đề cập tới trong phần lớn các nghiên cứu là
nhóm nhân tố vĩ mô và nhân tố thuộc dự án PPP.
1.3. Tình hình nghiên cứu về thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP vào
ngành điện
Luận án đã tổng quan và chỉ ra kết quả nghiên cứu của một số nghiên cứu nước
ngoài và trong nước liên quan đến thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP vào
ngành điện. Trong các nghiên cứu này, ba nhóm nhân tố ảnh hưởng chính đã được
xác định đó là: nhóm nhân tố vĩ mơ, nhân tố thuộc ngành điện và nhân tố thuộc dự
án.
1.3 Đánh giá chung về các cơng trình nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu
Đánh giá chung
Như vậy có thể thấy, phần lớn hướng nghiên cứu từ các tác phẩm trên thế giới
và ở Việt Nam là tìm ra các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút các doanh nghiệp tư
nhân đầu tư vào ngành điện dưới hình thức PPP. Đồng thời, xét riêng với nhóm nhà


7

đầu tư nước ngoài, những yếu tố chi phối quyết định đầu tư của họ cũng tương đồng
với nhà đầu tư tư nhân nói chung. Từ các nghiên cứu trên, luận án khái qt hố hệ
thống các yếu tố chính ảnh hưởng tới hoạt động thu hút đầu tư tư nhân vào ngành
điện dưới hình thức PPP theo ba nhóm nhân tố chính: nhân tố vĩ mơ, nhân tố thuộc
ngành điện và nhân tố thuộc dự án.
Khoảng trống nghiên cứu
Từ những đánh giá về tổng quan tình hình nghiên cứu ở trên, có thể khẳng
định rằng cho đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào phân tích cụ thể về thu
hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP trong ngành điện tại Việt Nam và các yếu tố
ảnh hưởng tới việc ra quyết định đầu tư tư nhân trong lĩnh vực phát điện dưới hình
thức PPP. Do đó tiếp cận theo hướng này là một hướng đi mới để tác giả nghiên cứu
chuyên sâu nhằm đưa ra những giải pháp thu hút được các doanh nghiệp tư nhân

tham gia đầu tư vào ngành điện dưới hình thức PPP để thúc đẩy sự phát triển của hệ
thống điện Việt Nam.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH THỨC
HỢP TÁC CƠNG TƯ (PPP)
2.1. Tổng quan về hình thức PPP
2.1.1 Khái niệm
Tổng hợp từ các khái niệm trên thế giới, có thể hiểu Hợp tác cơng – tư là
Hợp đồng giữa cơ quan công và doanh nghiệp tư nhân, đồng ý chia sẻ trách nhiệm
liên quan đến thực hiện, hoạt động và quản lý dự án. Thông qua thỏa thuận này, các
kỹ năng và tài sản của từng khu vực công và tư được chia sẻ để cung cấp một dịch
vụ hoặc cơ sở cho việc sử dụng tài sản cơng nói chung. Sự hợp tác được xây dựng
trên chun môn của mỗi đối tác để đáp ứng được nhu cầu xác định của cộng đồng
thông qua việc phân bổ thích hợp: tài nguyên, rủi ro, lợi nhuận và trách nhiệm. Có
thể hiểu PPP nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của các dự án cơ sở hạ tầng bằng
phương tiện là sự hợp tác lâu dài giữa các khu vực công với các doanh nghiệp tư
nhân.
2.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác công – tư (PPP) gồm cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư tư nhân. Thứ hai, PPP là một cam kết hợp
tác dài hạn, một thỏa thuận pháp lý giữa khu vực công và khu vực tư nhân, nhằm
huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân để tài trợ và kinh doanh các cơ sở hạ tầng


8

vốn thuộc trách nhiệm của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường
từ 10 – 50 năm). Thứ ba, phân bổ hợp lý rủi ro mà mỗi đối tác nhà nước và đối tác
tư nhân phải gánh vác là vấn đề trung tâm và đặc điểm nổi bật nhất của mơ hình
PPP. Thứ tư, PPP là một cách thức tài trợ dự án hiệu quả. Thứ năm, mô hình PPP
tận dụng, tích hợp được lợi thế của cả hai khu vực nhà nước và tư nhân trong cùng

một dự án. Thứ sáu, chất lượng dịch vụ cung cấp từ các hợp đồng PPP được cải
thiện đáng kể.
2.1.3. Các hình thức thực hiện
Thứ nhất, về hợp đồng quản lý và hợp đồng vận hành và bảo dưỡng, đặc
điểm chung là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ cho phép nhà đầu tư/ doanh
nghiệp tham gia vào việc quản lý các hoạt động trong khoảng thời gian ngắn (từ 2-5
năm).
Thứ hai, trong hợp đồng giao thầu hoặc cho thuê, nhà đầu tư/ doanh nghiệp
chịu trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng dịch vụ và cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chịu các khoản đầu tư mới và đầu tư thay thế trong thời gian từ 8-15 năm.
Thứ ba, nhượng quyền, hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (BOT)
và các hợp đồng tương tự có đặc điểm là đều tập trung vào sản phẩm đầu ra.
Nhượng quyền cho phép nhà đầu tư/ doanh nghiệp (người được nhượng quyền)
cung cấp toàn bộ dịch vụ trong một khu vực cụ thể, bao gồm việc điều hành, bảo
dưỡng, thu phí, quản lý, xây dựng và tu bổ hệ thống.
Thứ tư, trong liên doanh, cơ sở hạ tầng cùng được sở hữu và điều hành bởi
khu vực nhà nước và nhà điều hành tư nhân. Trong một liên doanh, các đối tác nhà
nước và tư nhân có thể thành lập một cơng ty mới hoặc tiến hành liên doanh trong
một cơng ty đã có thơng qua việc bán cổ phần cho một hoặc nhiều nhà đầu tư/
doanh nghiệp.
2.1.4. Một số cơ sở lý thuyết về PPP
Quan hệ giữa nhà nước và khu vực tư nhân đã thu hút sự chú ý của các nhà
nghiên cứu trong suốt thời kỳ phát triển kinh tế. Đại diện của các trường phái tư
tưởng kinh tế khác nhau đã có cách lý giải khác nhau về sự cần thiết và bản chất của
mối quan hệ hợp tác giữa hai khu vực này. Tuy nhiên, tất cả các trường phái đều có
kết luận thống nhất về những lợi ích chung cho cả khu vực nhà nước, tư nhân và cả
xã hội khi có sự hợp tác giữa Nhà nước và Tư nhân. Có thể kể tên một số học thuyết
kinh tế cơ bản đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của mối quan hệ hợp tác giữa Nhà



9

nước và Tư nhân như: Kinh tế chính trị cổ điển, Chủ nghĩa Keynes, Chủ nghĩa Tân
thể chế.
2.2. Tổng quan về ngành điện
2.2.1. Khái niệm
Ngành điện là một khái niệm gần gũi trong đời sống bởi sản phẩm của ngành này
- năng lượng điện là một nguồn năng lượng không thể thiếu trong sinh hoạt và sản
xuất. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về ngành điện, tuy
nhiên, về bản chất đều như nhau. Tóm lại, có thể hiểu, ngành điện bao gồm sản
xuất, truyền tải, phân phối điện và bán điện cho công chúng nói chung và các
ngành cơng nghiệp điện nói riêng. Các ngành công nghiệp điện là tổng hợp của tất
cả các ngành công nghiệp liên quan đến việc sản xuất và bán điện, bao gồm nhiên
liệu khai thác, sản xuất, lọc và phân phối.
2.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, ngành công nghiệp điện có sản phẩm đặc biệt là điện năng: đây là
sản phẩm hầu như khơng có khả năng lưu trữ. Thứ hai, ngành cơng nghiệp điện có
mạng lưới điện rộng lớn được liên kết chặt chẽ với nhau. Thứ ba, ngành cơng
nghiệp điện địi hỏi vốn đầu tư rất lớn.
2.2.3. Cấu trúc
Ngành điện là một chuỗi hoạt động gồm ba khâu chính: Sản xuất điện (Phát
điện) – Truyền tải điện – Phân phối điện. Trong đó, khâu phát điện có sự tham gia
đa dạng các nhà đầu tư nhất.
2.2.4. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư trong ngành điện
Cơ cấu nguồn vốn đầu tư trong ngành điện thường đến từ hai nguồn:
- Nguồn vốn từ khu vực nhà nước: Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và Nguồn vốn
từ quỹ Hỗ trợ phát triển Chính thức ODA
- Nguồn vốn khu vực ngồi nhà nước: Nguồn vốn tín dụng thương mại nước ngồi,
Nguồn vốn tín dụng thương mại trong nước, Nguồn vốn đầu tư tư nhân (bao gồm
Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp điện và Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi)

2.3.

Thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP trong ngành điện

2.3.1 Quan niệm về thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP trong ngành
điện
NCS đề xuất khái niệm như sau: Thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP vào
ngành điện là hoạt động kéo các nhà đầu tư tư nhân tham gia đầu tư vào các dự án


10

PPP trong ngành điện nhờ vào sự hấp dẫn của các dự án này, từ đó làm cho khu vực
tư nhân hình thành nên ý định đầu tư.
2.3.2 Sự cần thiết thu hút đầu tư tư nhân vào ngành điện
Thứ nhất, sự tái thiết ngành điện theo xu thế cạnh tranh là xu hướng toàn cầu. Thứ
hai, các dự án của các ngành xây dựng hạ tầng cơ sở nói chung và ngành điện nói
riêng thường địi hỏi lượng vốn đầu tư khổng lồ vượt quá nguồn ngân sách hữu hạn
của Nhà nước. Thứ ba, thu hút tư nhân vào ngành điện giúp tận dụng được những
kỹ năng, công nghệ hiện đại và tính hiệu quả của khu vực tư nhân. Rủi ro được chia
sẻ giữa những đối tác khác nhau. Thứ tư, cùng với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội
nhanh, nhu cầu điện tăng trưởng mạnh mẽ về quy mơ và có sự chuyển dịch trong cơ
cấu tiêu thụ do ảnh hưởng của sự phát triển của nhóm khách hàng cơng nghiệp.
2.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP
trong ngành điện
2.3.3.1Các yếu tố vĩ mô
a. Khung pháp lý
Các nghiên cứu của Boyfield (1992), Stein (1995), Qiao (2001), Young (2009) đều
cho rằng để thu hút các nhà đầu tư vào các dự án PPP, cần hoàn thiện khung pháp lý
đầy đủ, tạo sự thuận lợi cho nhà đầu tư. Môi trường pháp lý tốt không chỉ tạo ấn

tượng tốt cho các nhà đầu tư xem xét đầu tư vào một khu vực, quốc gia mà còn tạo
lợi thế cạnh tranh đáng kể cho khu vực, quốc gia đó so với những địa điểm đầu tư
khác. Đặc biệt, đối với ngành điện, một ngành còn đang chịu nhiều ràng buộc về
phân chia khu vực cơng, tư, việc hồn thiện một khung pháp lý hợp lý đóng vai trị
rất quan trọng. Mơi trường pháp lý có thể hấp dẫn được các nhà đầu tư phải có đầy
đủ các yếu tố sau:
Thứ nhất, các quy định về đầu tư của một nước phải thể hiện được rằng các nhà đầu
tư được tạo điều kiện để tiếp cận thị trường một cách dễ dàng nhất.
Thứ hai, quan trọng nhất đó là các quy định về hợp tác công tư PPP. Mặc dù ADB
đã đưa ra các quy tắc chung cho các nước khi xây dựng khung pháp lý cho mơ hình
hợp tác công tư, song tùy từng điều kiện cụ thể sẽ có những quy định khác biệt phù
hợp với hồn cảnh mỗi nước.
Thứ ba, các ưu đãi và hỗ trợ trong chính sách của Chính phủ cũng là một điều kiện
khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực đầu tư theo hình thức hợp tác
cơng tư PPP.


11

b. Tình hình kinh tế vĩ mơ
Điều kiện kinh tế vĩ mô tại khu vực mà dự án đầu tư được triển khai đóng vai trị
quan trọng trong việc quyết định sự hài lòng của các nhà đầu tư (Mansoor Dailami and
Michael Klein, 1997). Đối với ngành điện, dựa vào việc các chỉ số GDP, tốc độ tăng
trưởng thị trường ở mức cao và ổn định có thể hình dung ra một thị trường tiềm năng,
có nhu cầu tiêu thụ điện lớn hằng ngày để phục vụ cho các nhu cầu của cá nhân cũng
như các nhu cầu sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội.
2.3.3.2Các yếu tố thuộc ngành điện
a. Các nguồn lực kinh tế của ngành
Tareq Mahbub (2019) khẳng định các nguồn lực kinh tế như nguyên vật liệu và
nền tảng cơ sở hạ tầng cũng là các yếu tố giúp thu hút các nhà đầu tư. Đây là nguồn

cung cấp các yếu tố đầu vào cho không chỉ các dự án hợp tác cơng tư mà cịn cho
bất kì một dự án đầu tư nào.
b. Cấu trúc thị trường điện
Rubino (2014), Song (2018) khẳng định mức độ cạnh tranh của ngành điện cũng
quyết định việc khu vực tư nhân có tham gia đầu tư vào ngành này không. Nhiều
quốc gia trên thế giới đã từng hoặc đang gặp phải tình trạng độc quyền của một
hoặc một số doanh nghiệp chủ chốt trong ngành điện, cản trở việc đầu tư tư nhân
vào ngành này. Do đó, việc xây dựng thị trường điện cạnh tranh bước đầu tạo được
môi trường cạnh tranh cơng khai, bình đẳng giữa các đơn vị tham gia và có hiệu
ứng tích cực thu hút vốn đầu tư.
2.3.3.3Các yếu tố thuộc dự án
a. Lợi nhuận dự án (giá điện)
Để thu hút nhà đầu tư tư nhân cho các dự án đầu tư hợp tác công tư PPP ngành
điện, giải pháp chính vẫn là thơng qua chính sách giá (Blackman và Wu, 1998;
EMPEA, 2015). Một khi giá điện phù hợp, các nhà đầu tư trong ngành điện đảm
bảo có lợi nhuận hợp lí, đương nhiên các dự án điện sẽ có đủ sức hấp dẫn, thu hút
đầu tư trong và ngoài nước, khu vực nhà nước cũng như tư nhân. Ngồi ra, chính
sách giá điện hợp lí cịn góp phần giải quyết lâu dài những khó khăn về vốn, từ đó
đảm bảo an ninh cung ứng năng lượng nói chung và cung ứng điện nói riêng cho
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
b. Cơ chế phân bổ đảm bảo rủi ro trong dự án PPP
Cơ chế đảm bảo rủi ro hiệu quả cho khối tư nhân trong các dự án đầu tư hợp


12

tác cơng tư PPP nói chung và đầu tư hợp tác cơng tư PPP ngành điện nói riêng là
nhân tố quan trọng để đạt được thành công của dự án, từ đó thu hút khối tư nhân
vào các dự án PPP sản xuất điện (Blackman và Wu, 1999; Tingting Liu, 2016). Cơ
chế này làm việc trên cơ sở phân bổ rủi ro cho các bên trong hợp đồng và quản lý

rủi ro một cách hợp lý. Mục tiêu của việc phân bổ rủi ro là để cải thiện chất lượng
dịch vụ; giảm chi phí dài hạn của một dự án bằng cách phân bổ rủi ro cho bên tốt
nhất có thể để quản lý một cách hiệu quả nhất về chi phí; chắc chắn về thời gian;
tăng doanh thu và tăng hiệu quả đầu tư thông qua hoạt động hiệu quả.
2.3.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư tư nhân nước ngồi dưới hình
thức PPP trong ngành điện
Ngoài những đặc điểm chung ở trên, các nhà đầu tư nước ngoài bị chi phối
thêm bởi vài đặc điểm riêng của quốc gia chính nước họ như: GDP bình qn đầu
người, trình độ khoa học cơng nghệ,… Một số yếu tố khác cũng có ảnh hưởng tới
nhà đầu tư nước ngoài như: khoảng cách địa lý hay nét tương đồng văn hóa giữa hai
quốc gia.
2.4

Kinh nghiệm thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP vào ngành

điện của một số quốc gia
2.4.1 Trung Quốc
Luận án giới thiệu chung về tình hình tăng trưởng của các dự án PPP trong
lĩnh vực phát điện tại Trung Quốc. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
đó là: Thứ nhất, Trung Quốc chú trọng xây dựng các cơ chế ưu đãi đầu tư cho nhà
đầu tư tư nhân khi tham gia PPP trong ngành điện. Thứ hai, áp dụng đấu thầu cạnh
tranh để lựa chọn nhà đầu tư tư nhân. Thứ ba, có cơ chế chia sẻ rủi ro khá hợp lý.
Thứ tư, hoạt động giám sát dự án PPP trong ngành điện được triển khai chặt chẽ và
được quản lý theo hai cấp: cấp TW và cấp tỉnh, thành phố, nhờ đó, quy chế về PPP
được thay đổi linh hoạt theo điều kiện của từng địa phương
2.4.2 Ấn Độ
Luận án giới thiệu chung về tình hình tăng trưởng của các dự án PPP trong
lĩnh vực phát điện tại Ấn Độ. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam đó là:
Thứ nhất, chính quyền trung ương Ấn Độ đã chủ động xây dựng, hoàn thiện cơ chế
chính sách và các cơng cụ hướng dẫn triển khai mơ hình này trong ngành. Thứ hai,

việc ban hành hồ sơ PPP mẫu xác định rõ ràng vai trò của các bên tham gia trong dự
án PPP, vấn đề phân bổ rủi ro và thu hồi bù đắp chi phí cho thấy sự minh bạch, cẩn


13

trọng khi thiết kế hợp đồng PPP. Thứ ba, chính phủ Ấn Độ đã đưa ra những chính
sách hỗ trợ mang tính ưu đãi rất lớn cho nhà đầu tư tư nhân.
CHƯƠNG 3: QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ
3.1 Quy trình nghiên cứu
3.1.1 Khái quát sơ đồ quy trình nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu của luận án bao gồm 6 bước, đó là: xác định mục tiêu
nghiên cứu, thu thập và tổng quan tài liệu, thu thập dữ liệu nghiên cứu, nghiên cứu
sơ bộ, nghiên cứu chính thức, và báo cáo kết quả nghiên cứu.
3.1.2 Các bước trong tiến trình nghiên cứu của luận án
Luận án giải thích rõ các hoạt động, mục đích của từng bước trong tiến trình
nghiên cứu của luận án.
3.2 Các phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu
3.2.1 Các phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp được thu thập qua phương pháp nghiên cứu tại bàn bằng
cách rà soát các dữ liệu từ các nguồn dữ liệu đã được công bố. Bao gồm Báo cáo
ngành Điện của các doanh nghiệp như EVN, FPT, Vietcombank,… hay từ cơ sở dữ
liệu của doanh nghiệp điều tra thị trường MarketLine, báo của Viện nghiên cứu chính
sách và phát triển truyền thơng. Ngoài ra, luận án cũng sử dụng các dữ liệu thu thập từ
Ngân hàng thế giới, Tổng cục thống kê, Bộ Cơng Thương,..qua các năm từ 2011 đến
2019 về tình hình dự án PPP phát điện, và các số liệu khác để đánh giá về các nhân tố
ảnh hưởng tới thu hút nhà đầu tư tham gia vào các dự án PPP phát điện.
3.2.2 Các phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp của luận án được sử dụng thông qua phương pháp phỏng vấn

chuyên gia và điều tra bảng hỏi.
3.2.2.1 Phương pháp phỏng vấn chuyên gia
Phương pháp phỏng vấn chuyên gia nhằm đánh giá các nội dung (các nhân tố
ảnh hưởng) và các thang đo (câu hỏi) để phục vụ cho nghiên cứu định lượng chính
thức, cũng như đánh giá sơ bộ về ý định đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân vào các
dự án PPP phát điện. Kết quả phỏng vấn: loại bỏ yếu tố Cấu trúc thị trường điện ra
khỏi mơ hình nghiên cứu thực nghiệm.
3.2.2.2 Phương pháp điều tra bảng hỏi


14

Điều tra bảng hỏi nhằm điểm định mơ hình nghiên cứu lý thuyết. Dựa vào
kết quả nghiên cứu để đưa ra các đánh giá và đề xuất giải pháp.
Luận án sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, kỹ thuật chọn mẫu có mục
đích được tiến hành đối với các nhà máy phát điện tại Việt Nam. Bảng hỏi chính thức
có 21 mục hỏi bao gồm 18 mục cho cho thang đo nhân tố ảnh hưởng đến sự sẵn
sàng đầu tư của nhà đầu tư tư nhân, và 3 mục cho biến phụ thuộc. Mỗi mục hỏi
được cho điểm theo thang đo đơn hướng Likert từ 1 đến 5 với quy ước từ hồn tồn
khơng đồng ý (1) đến hồn toàn đồng ý (5). Nội dung của các thang đo được tác giả
tổng hợp từ các nghiên cứu công bố chính thức, phỏng vấn chuyên sâu để điều
chỉnh một số khái niệm cho phù hợp.
Luận án xây dựng bảng câu hỏi điều tra khảo sát các nhà máy điện tư nhân
và tiến hành khảo sát tại 93 nhà máy điện tại các vùng miền của Việt Nam.
3.3 Xử lý thông tin
3.3.1. Các phương pháp kiểm định
- Kiểm định thang đo Cronbach’s Alpha: Là kiểm định cho phép đánh giá mức độ
tin cậy của việc thiết lập một biến tổng hợp trên cơ sở nhiều biến đơn.
- Phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA)
- Phương pháp kiểm định tương quan Pearson

- Phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính đa biến
3.3.2. Các phương pháp phân tích định tính: bao gồm phương pháp tổng hợp và
đối sánh, phương pháp suy luận logic và phương pháp thống kê, mơ hình hóa.
3.4. Mơ hình và giả thuyết nghiên cứu
Mơ hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu ban đầu cũng đã được NCS
đề xuất, trong đó: sáu nhân tố đóng vai trị sáu biến độc lập là Khung pháp lý, Tình
hình kinh tế vĩ mô, Cơ sở hạ tầng, nguồn nguyên liệu, Lợi nhuận, Cơ chế phân bổ
bảo đảm rủi ro đều ảnh hưởng tích cực đến biến phụ thuộc là Ý định đầu tư của nhà
đầu tư tư nhân.
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TƯ NHÂN DƯỚI
HÌNH THỨC PPP VÀO NGÀNH ĐIỆN TẠI VIỆT NAM
4.1.Thực trạng ngành điện Việt Nam
4.1.1. Giới thiệu chung về thị trường điện Việt Nam
Nhìn chung, thị trường điện Việt Nam chính thức thí điểm thị trường phát
điện cạnh tranh, tạo nền tảng cho các bước phát triển thị trường điện trong các giai


15

đoạn tiếp theo với 3 cấp độ: Thị trường phát điện cạnh tranh, Thị trường bán buôn
điện cạnh tranh và Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh.
4.1.2 Thị trường phát điện cạnh tranh ở Việt Nam
4.1.2.1 Đặc điểm chính
Đối tượng tham gia Thị trường phát điện cạnh tranh bao gồm: Bên bán điện là
các đơn vị phát điện đủ điều kiện tham gia thị trường; bên mua điện là đơn vị mua
buôn duy nhất (Công ty Mua bán điện đại diện EVN mua toàn bộ điện năng từ các
đơn vị phát điện và bán buôn cho các TCTĐL); và các đơn vị cung cấp dịch vụ
(Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia có chức năng điều độ hệ thống điện và
điều hành giao dịch thị trường điện, Tổng cơng ty Truyền tải điện quốc gia có chức
năng vận hành lưới truyền tải điện).

4.1.2.2.

Cơ cấu ngành điện trong thị trường phát điện cạnh tranh

Cơ cấu ngành điện không thay đổi lớn về mặt cấu trúc, chỉ thay đổi về việc
bố trí, sắp xếp chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị, cụ thể:
- Thành lập Công ty Mua buôn điện duy nhất theo thiết kế thị trường điện
- Thành lập Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia
- Thành lập các Tổng công ty Phát điện
- Thành lập các Tổng công ty Điện lực
- Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia
4.1.3 Thực trạng thị trường phát điện ở Việt Nam giai đoạn 2011-2019
4.1.3.1Sản lượng điện tại Việt Nam
Nhìn chung, số liệu thống kê cho thấy kể từ khi khởi động thị trường phát điện
cạnh tranh, sản lượng điện mỗi năm đều tăng tưởng đều đặn với tốc độ tương đối
nhanh. Ngoài ra, về cơ cấu sản xuất điện thì EVN và các cơng ty trực thuộc EVN
(EVN GENCO) vẫn là nhóm chủ sở hữu đóng góp nhiều nhất vào tổng sản lượng
sản xuất điện của nhà nước (tổng công suất luôn ở mức lớn hơn 50%). Trụ cột lớn
thứ 2 sau EVN là Tập đồn Dầu khí Việt Nam (PVN). Trụ cột cuối cùng của ngành
điện là Tập đồn Cơng nghiệp Than – Khống sản Việt Nam (Vinacomin). Bên
cạnh ba trụ cột chính cịn có nhóm các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Các
nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu đầu tư vào ngành điện thơng qua hình thức BOT.
Các nhà đầu tư trong nước là nhóm có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ nhất kể từ khi
bắt đầu vận hành thị trường phát điện cạnh tranh.
4.1.3.2. Cơ cấu nguồn năng lượng


16

Nhìn chung nguồn nhiên liệu cho sản xuất điện ở Việt Nam khá đa dạng,

bao gồm cả các loại năng lượng hóa thạch, thủy năng hay các loại năng lượng tái
tạo như năng lượng gió, năng lượng sinh khối… Trong đó, than đá, thủy năng và
khí đốt vẫn là ba loại công nghệ sản xuất điện chiếm phần lớn trong cơ cấu nguồn
năng năng lượng ở nước ta. Nhưng gần đây, có thể thấy nguồn năng lượng tái tạo đã
bắt đầu được sử dụng và tăng dần qua các năm. Điều này phù hợp với xu hướng
chung của thế giới.
4.2

Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP

vào ngành điện Việt Nam
4.2.2 Các yếu tố vĩ mô
4.2.2.1Khung pháp lý
Thứ nhất, khung pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động đầu tư trong lĩnh vực
phát điện đó là Luật đầu tư 2014 và Luật điện lực 2014.
Thứ hai, khung pháp lý về hình thức đầu tư hợp tác công tư PPP ở Việt Nam
mới đây đã có sự xuất hiện của Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư
(6/2020).
Thứ ba, các ưu đãi và hỗ trợ trong chính sách của Chính phủ đối với thu hút
đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP trong ngành điện tại Việt Nam cũng được thực
hiện.
4.2.2.2Tình hình kinh tế vĩ mơ
Về mơi trường kinh tế, với số dân 96 triệu người và tốc độ tăng trưởng GDP
ổn định ở mức trung bình khoảng 7%/năm. Việt Nam là một thị trường tiềm năng
thu hút các nhà đầu tư tư nhân.
Về mức độ ổn định chính trị, trong những năm qua, Việt Nam luôn được xếp
hạng cao về chỉ số hịa bình tồn cầu GPI và ln nằm trong nhóm những nước có
mức độ ổn định cao (năm 2019 Việt Nam đứng thứ 57/163 quốc gia về chỉ số GPI).
4.2.3 Các yếu tố thuộc ngành điện
4.2.3.1Các nguồn lực kinh tế của ngành

a. Cơ sở hạ tầng
Nhìn chung, nhà nước đã có những sự quan tâm nhất định đến xây dựng cơ sở
vật chất, có thể thấy từ con số đầu tư cơ sở vật chất của Việt Nam cao nhất trong khu
vực Đông Nam Á. Điều này sẽ thu hút doanh nghiệp tư nhân vào dự án PPP ngành
điện.


17

b. Nguồn nguyên liệu
Việt Nam được biết đến với nguồn tài nguyên dồi dào và chi phí thấp, đây sẽ
là điểm thu hút các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào dự án PPP ngành điện.
4.2.3.2Cấu trúc thị trường điện
Hiện nay ở lĩnh vực phát điện Việt Nam, các dự án PPP vẫn đang được
hưởng những ưu đãi về cam kết doanh thu của Nhà nước, do đó yếu tố về mức độ
cạnh tranh minh bạch ở thị trường phát điện khơng có ảnh hưởng tới các nhà máy
điện dưới hình thức PPP.
4.2.4 Các yếu tố thuộc dự án PPP
4.2.4.1Giá điện
Nhìn chung, giá điện tại Việt Nam vẫn đang bị áp giá trần và mức giá này
vẫn bị các nhà đầu tư đánh giá là còn thấp, chưa tạo được nhiều lợi nhuận cho nhà
đầu tư. Do đó, đây là yếu tố cản trở các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các dự án
PPP phát điện
4.2.4.2Cơ chế phân bổ đảm bảo rủi ro
Như vậy, có thể thấy các dự án PPP trong ngành điện Việt Nam hay gặp phải 7
nhóm rủi ro chính, trong đó, các rủi ro được phân bổ khá đều cho cả hai bên đối tác
Tư nhân và Nhà nước. Điều này khiến ngành điện tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu
tư tư nhân trong bối cảnh các dự án PPP ở các ngành khác có xu hướng đẩy rủi ro
sang phía Tư nhân nhiều hơn. Tuy nhiên, cơ chế bảo đảm rủi ro cho từng loại rủi ro
trước đây vẫn chưa có quy định rõ ràng, phải đến Luật PPP 2020 mới có điều khoản

về cơ chế bảo đảm rủi ro về doanh thu và chuyển đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, Luật PPP
2020 phải đến 1/1/2021 mới bắt đầu có hiệu lực nên hiệu quả của cơ chế này vẫn
chưa được đánh giá trên thực tiễn. Vì thế, cơ chế bảo đảm rủi ro vẫn đang là một
vấn đề gây trở ngại với nhà đầu tư khi cân nhắc đầu tư vào các dự án PPP phát điện.
4.3 Thực trạng thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP vào ngành điện tại
Việt Nam
4.3.1 Tình hình chung
Số liệu thống kê cho thấy số lượng và quy mô giá trị các dự án đầu tư tư nhân
vào ngành điện Việt Nam trong giai đoạn vừa qua có sự giao động mạnh. Đồng
thời, đầu tư tư nhân vào ngành điện vẫn đang còn nhiều hạn chế về số lượng cũng
như tổng giá trị các dự án đầu tư. Trong đó, quy mơ đầu tư của các dự án nước
ngoài lớn hơn những dự án trong nước; nhưng nhà đầu tư trong nước lại có vai trò


18

quan trọng trong việc cung cấp điện ở các tỉnh vùng sâu vùng xa.
4.3.2 Theo khu vực
Các dự án đầu tư tư nhân vừa và nhỏ hơn thường tập trung ở các tỉnh Miền
Nam Việt Nam do có điều kiện địa lý thuận lợi (nắng gió nhiều và ổn định) để phát
triển ngành điện do Việt Nam có đường bờ biển dài, tập trung chủ yếu ở khu vực
miền Trung. Ngoài ra khu vực Miền Bắc cũng thu hút được nhiều dự án thủy điện.
4.3.3 Theo hình thức
Mơ hình PPP tuy đã phổ biến ở Việt Nam trong ngành điện theo hình thức
chủ yếu là BOO và BOT nhưng cịn quá khiêm tốn và khi triển khai cũng cần những
điều kiện nhất định khác. Vì thế Chính phủ cần đưa ra biện pháp cải thiện để có thể
tận dụng tốt nguồn vốn từ các nhà đầu tư tư nhân nước ngồi cũng như trong nước
một cách hiệu quả và có lợi cho hai bên tham gia nhất.
4.3.4 Theo nguồn năng lượng
Nhìn chung các dự án của nhà đầu tư đang có xu hướng chuyển dịch sang

lĩnh vực năng lượng tái tạo, điển hình là điện gió và điện mặt trời.
4.4 Đánh giá thực trạng thu hút đầu tư tư nhân trong ngành điện Việt Nam
dưới hình thức PPP
4.4.1 Thành cơng đạt được
Một là, số lượng, quy mô giá trị các dự án đầu tư tư nhân đã có những tín
hiệu tăng trưởng tốt; Hai là, chủ thể đầu tư có lĩnh vực kinh doanh đa dạng, tiềm
năng vốn và công nghệ lớn; Ba là, hình thức đầu tư PPP được các nhà đầu tư chủ
yếu lựa chọn trong lĩnh vực phát điện cũng là 2 hình thức chính và phổ biến trên thế
giới đó là BOT và BOO; Bốn là, các nguồn năng lượng chính đều thu hút được các
nhà đầu tư tư nhân.
Có được những thành cơng này là do:
Thứ nhất, về kinh tế, với lượng dân số lớn, tốc độ gia tăng ổn định, Việt
Nam là một thị trường tiềm năng có nhu cầu tiêu thụ điện rất lớn để phục vụ cho
sinh hoạt và sản xuất hàng ngày.
Thứ hai, ổn định chính trị, an ninh xã hội là những ưu điểm nổi trội của Việt
Nam.
Thứ ba, các ưu đãi và hỗ trợ trong chính sách của Chính phủ cũng được
đánh giá là một điểm sáng ở Việt Nam.
Thứ tư, khung pháp lý của Nhà nước đã có nhiều đổi mới, đặc biệt thể


19

hiện qua Luật PPP ra đời vào tháng 6 năm 2020.
4.4.2 Hạn chế
Một là, sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân vào thị trường phát điện còn
hạn chế; Hai là số lượng dự án và giá trị vốn đầu tư tuy đã có sự cải thiện trong thời
gian gần đây nhưng vẫn chưa thực sự nhiều; Ba là hình thức PPP được thực hiện
cịn chưa đa dạng; Bốn là số lượng dự án chậm tiến độ đang chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng các dự án đầu tư;

Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, khung pháp lý của Việt Nam liên quan tới các dự án PPP sản xuất
điện tuy đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực nhưng vẫn còn tồn tại một
số hạn chế nhất định.
Thứ hai, vấn đề về giá điện thấp.
Thứ ba, hiện nay ở Việt Nam chưa có bộ phận chuyên trách quản lý dự án PPP.
Thứ tư, cơ chế đảm bảo rủi ro của dự án cũng là một vấn đề đáng được quan
tâm trong số những nhân tố cản trở nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các dự án
ngành điện.
4.4.

Phân tích kết quả kiểm định thang đo và mơ hình nghiên cứu về các

nhân tố ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân vào lĩnh
vực phát điện dưới hình thức PPP
4.4.1. Điều tra thử nghiệm quy mô nhỏ
Luận án điều tra thử nghiệm với 20 doanh nghiệp và kết quả thu được là loại
bỏ yếu tố Cơ sở hạ tầng khỏi mơ hình nghiên cứu chính thức.
4.4.2. Điều tra chính thức
4.4.2.1.Kết quả đánh giá thang đo Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố EFA
Tác giả tiến hành chạy Cronbach’s Alpha lần lượt cho từng nhân tố, kết quả có
được cho thấy tất cả các hệ số Cronbach’s Alpha của các biến đều có giá trị
Cronbach’s Alpha > 0.6, đảm bảo độ tin cậy và có thể sử dụng trong các phân tích
tiếp theo. Riêng đối với biến quan sát RE4, nếu loại biến này thì hệ số Cronbach’s
Alpha tăng, tuy nhiên do tương quan biến tổng bằng 0,835 vẫn lớn hơn 0,3 và giữ
lại quan sát này thì hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo nguồn nguyên vật liệu vẫn
cao (0,976) do đó tác giả quyết định vẫn giữ lại để đưa vào phân tích nhân tố EFA.


20


Đối với phân tích nhân tố khám phá EFA, các biến quan sát của các nhân tố có
tương quan với nhau xét trên phạm vi tổng thể nên kết quả phân tích EFA thích hợp
sử dụng trong nghiên cứu này.
4.4.2.2 Kiểm tra giả thuyết mơ hình nghiên cứu với phân tích tương quan
Pearson và hồi quy tuyến tính đa biến
Kết quả phân tích tương quan Pearson cho thấy biến sự sẵn sàng đầu tư của
các nhà đầu tư tư nhân có tương quan với các biến cịn lại với mức ý nghĩa p-value
= 0.000, trong đó khung pháp lý và lợi nhuận có mối tương quan với sự sẵn sàng
đầu tư mạnh hơn so với các biến khác, nguồn nguyên liệu và tình hình kinh tế vĩ mơ
lại có mối tương quan ít hơn.
Tiếp theo, ta tiến hành phân tích hồi quy tuyến tính để kiểm tra giả thuyết và
mơ hình nghiên cứu với sự sẵn sàng đầu tư là biến phụ thuộc và các nhân tố khung
pháp lý, lợi nhuận, bảo đảm rủi ro, nguồn nguyên liệu và tình hình kinh tế vĩ mơ là
5 biến độc lập. Kết quả cho thấy R bình phương hiệu chỉnh phản ánh mức độ ảnh
hưởng của các biển độc lập lên sự biến thiên của biến phụ thuộc, trong trường hợp
này 5 nhân tố ảnh hưởng 92,8% sự thay đổi của tính cộng tác, 8,2% là do các nhân
tố khác ngồi mơ hình và sai số ngẫu nhiên. Hệ số Durbin-Watson là 2,029 nằm
trong khoảng 1,636 đến 2,364 nên ko xảy ra hiện tượng tự tương quan chuỗi bậc
nhất. Sau đó tiếp tục kiểm định độ phù hợp của mơ hình nhằm kiểm tra mơ hình hồi
qui này có phù hợp với tập dữ liệu thu thập được và có ý nghĩa ứng dụng hay không
thông qua kiểm định ANOVA như sau: Sig kiểm định F = 0,000 < 0,05 do đó mơ
hình hồi quy có ý nghĩa. Sig kiểm định t hệ số hồi quy của các biến độc lập đều nhỏ
hơn 0,05 do đó các biến độc lập đều có ý nghĩa giải thích cho biến phụ thuộc, khơng
biến nào bị loại khỏi mơ hình. Như vậy 5 biến độc lập đưa vào phân tích hồi quy
đều tác động tỷ lệ thuận tới biến phụ thuộc sự sẵn sàng đầu tư. Dựa vào độ lớn của
hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa Beta, hai nhân tố khung pháp lý và lợi nhuận có ảnh
hưởng nhiều hơn trong khi đó hai nhân tố là nguồn nguyên liệu và tình hình kinh tế
vĩ mơ có ảnh hưởng ít hơn đến sự sẵn sàng đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân Việt
Nam vào các dự án PPP phát điện. Phương trình hồi quy bội được thể hiện dưới

dạng sau:
YDINHDAUTU = -0,135+ 0,287 LOINHUAN + 0,287 KHUNGPHAPLY + 0,16
VIMO + 0,267 PHANBOBAODAMRUIRO + 0,042NGUONNGUYENLIEU


21

Như vậy, các giả thuyết ban đầu đưa ra đều được chấp nhận, cả 5 nhân tố đều
ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đầu tư và 5 nhân tố giải thích được khoảng 92,8% sự sẵn
sàng đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân vào các dự án PPP phát điện.
4.4.2.3. Kiểm định sự khác biệt giữa hai nhóm nhà đầu tư trong và ngoài nước
Kết quả kiểm định cho thấy khơng có sự khác biệt nào về ý định đầu tư giữa hai
nhóm nước Việt Nam và nước ngoài.
4.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sự sẵn sàng
đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân vào lĩnh vực phát điện dưới hình thức PPP
Về các nhân tố ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân
vào lĩnh vực phát điện dưới hình thức PPP
Khung pháp lý
Qua khảo sát cho thấy, tất cả các biến quan sát đều có giá trị trung bình dưới
mức trung bình = 3, chứng tỏ các nhà đầu tư đều đánh giá khung pháp lý hiện tại ở
Việt Nam cho các dự án PPP phát điện chưa tốt.
Lợi nhuận
Kết quả khảo sát chỉ ra các nhà đầu tư cho rằng lợi nhuận có được từ dự án
khơng cao, điều này thể hiện ở giá trị mean của các thang đo chủ yếu nhỏ hơn 3
Điều này do yêu cầu nguồn vốn đầu tư vào các dự án phát điện rất lớn nhưng mức
độ hỗ trợ về vay vốn chưa hợp lý, nguồn thu chưa đủ bù đắp chi phí do mức giá trần
áp dụng vẫn còn thấp
Cơ chế phân bổ bảo đảm rủi ro
Yếu tố đảm bảo rủi ro trong các dự án phát điện ở Việt Nam hiện vẫn đang là một
yếu tố cản trở nhà đầu tư tham gia vào các dự án sản xuất điện. Điều này được thể

hiện khi các nhà đều cho rằng rủi ro ở các dự án điện rất lớn nhưng cơ chế bảo đảm
rủi ro trong các dự án lại chưa được thực hiện hợp lý. Do đó, chính phủ cần phát
huy vai trị của mình trong việc đảm bảo các rủi ro có thể xảy ra trong các dự án
PPP thì mới thu hút được các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các dự án.
Tình hình kinh tế vĩ mô
Yếu tố kinh tế vĩ mô được các nhà đầu tư đánh giá khá tốt khi giá trị mean của
tất cả các thang đo đều có số điểm khá cao. Đây được coi là một tín hiệu đáng mừng
của mơi trường đầu tư Việt Nam với không chỉ ngành điện và các cả ngành khác.
Một nền kinh tế vĩ mô có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu tiêu thụ điện bền
vững và tình hình chính trị ổn định tạo sự tin tưởng với các nhà đầu tư thì khơng chỉ


22

hấp dẫn khối tư nhân đầu tư trong nước vào lĩnh vực sản xuất điện mà còn thu hút
được cả các doanh nghiệp nước ngoài.
Nguồn nguyên liệu
Yếu tố nguồn nguyên liệu tại Việt Nam cũng được các nhà đầu tư trong lĩnh
vực điện đánh giá khá tốt khi nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất điện ở nước ta
được đánh giá dồi dào, dễ tiếp cận. Điều này được lý giải là vì Việt Nam có vị trí
địa lý thuận lợi (thủy điện) và được thiên nhiêu ưu ái với nhiều khoáng sản (nhiệt
điện than) để sản xuất điện. Đặc biệt, khảo sát cũng thể hiện xu hướng chuyển dịch
của các nhà đầu tư sang khai thác các nguồn năng lượng có thể tái tạo, và đối với
Việt Nam, tiềm năng về nguồn NLTT lại đặc biệt phong phú vì vẫn chưa có quá
nhiều nhà đầu tư khai thác nguồn năng lượng này.
Về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự sẵn sàng đầu tư của các nhà đầu
tư tư nhân vào lĩnh vực phát điện dưới hình thức PPP
Về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến sự sẵn sàng đầu tư thì kết quả hồi
quy tuyến tính đa biến cho thấy 5 nhân tố này giải thích được khoảng 92,8% sự sẵn
sàng đầu tư của nhà đầu tư tư nhân, trong đó 2 nhân tố khung pháp lý và lợi nhuận

có ảnh hưởng lớn hơn so với 3 nhân tố còn lại. Trong khi các nghiên cứu trước đây
đều khẳng định những tác động đáng kể của khung pháp lý và lợi nhuận tới sự sẵn
sàng đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân, thì luận án này tái khẳng định vấn đề đó
nhưng có bổ sung và khẳng định nhân tố bảo đảm rủi ro, tình hình kinh tế vĩ mơ và
nguồn nguyên liệu cũng có mức độ ảnh hưởng đến sự sẵn sàng đầu tư của các nhà
đầu tư tư nhân vào các dự án PPP phát điện
CHƯƠNG 5: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ
TƯ NHÂN DƯỚI HÌNH THỨC PPP VÀO NGÀNH ĐIỆN TẠI VIỆT NAM
5.1 Xu hướng đầu tư tư nhân và đầu tư tư nhân vào lĩnh vực phát điện trên thế
giới trong thời gian qua
Nhìn chung, xu hướng đầu tư tư nhân của thế giới trong thời gian qua đang tập
trung vào ngành điện, trong đó, lĩnh vực NLTT là lĩnh vực thu hút nhiều nhà đầu tư
tư nhân nhất.
5.2. Định hướng phát triển năng lượng Việt Nam tới năm 2030, tầm nhìn 2045
Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp đầy đủ năng lượng ổn
định, có chất lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền
vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần bảo vệ


23

môi trường sinh thái. Ngành năng lượng phát triển hài hoà giữa các phân ngành với hạ
tầng đồng bộ và thơng minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN. Xây dựng thị
trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài
nguyên năng lượng trong nước kết hợp với xuất, nhập khẩu năng lượng hợp lý; triệt để
thực hành tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng. Chủ động sản xuất được một số
thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng; nâng cấp, xây dựng lưới điện truyền
tải, phân phối điện tiên tiến, hiện đại. Phát triển nguồn năng lượng tái tạo.
5.3 Các giải pháp tăng cường thu hút đầu tư tư nhân dưới hình thức PPP vào lĩnh

vực phát điện tại Việt Nam
5.3.1 Nhóm giải pháp về khung pháp lý
Yếu tố khung pháp lý là một trong hai nhân tố có tác động mạnh nhất trong các
nhân tố nghiên cứu vì có hệ số Beta lớn nhất (β = 0,287). Đối với nhóm giải pháp này
thì cần thực hiện các nội dung sau:
5.3.1.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động PPP
Về khung pháp lý liên quan tới PPP cần cải thiện các nội dung trong Luật PPP
2020 liên quan tới lĩnh vực đầu tư, quy trình thực hiện dự án, thủ tục thành lập và hoạt
động doanh nghiệp PPP, yêu cầu vốn góp chủ sở hữu, ưu đãi cho nhà đầu tư đề xuất dự
án mới, quy định thời hạn thực hiện các quyết định/thủ tục, quá trình đàm phán kéo dài.
Bên cạnh đó, cần nâng cao hiệu quả quản lý bộ máy chính quyền địa phương để
hỗ trợ doanh nghiệp.
5.3.1.2 Xây dựng cơ chế công khai thông tin trong khuôn khổ pháp lý về điện
Như đã phân tích ở chương 3, các nhà đầu tư hiện vẫn gặp khó khăn trong việc thực
hiện các thủ tục đầu tư vào các dự án phát điện, đặc biệt trong việc tìm hiểu các thơng
tin dự án. Do đó, cần có cơ chế cơng khai thông tin về các dự án điện được phê duyệt
danh mục trong Quy hoạch phát triển điện lực trên các công cụ dễ tiếp cận để các nhà
đầu tư có thể tìm hiểu và nghiên cứu.
5.3.2 Nhóm giải pháp về lợi nhuận
Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy lợi nhuận là một trong hai yếu tố có ảnh hưởng lớn
nhất (hệ số beta = 0,287) đến sự sẵn sàng đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam. Các giải
pháp có thể cải thiện lợi nhuận của nhà đầu tư tư nhân vào các dự án PPP phát điện như
sau:
5.3.2.1 Thay đổi chính sách định giá điện
Do đó, Nhà nước cần thay đổi chính sách định giá điện theo hướng xóa bỏ sự


24

cào bằng, chỉ áp dụng bù giá chéo đối với những doanh nghiệp sử dụng điện một cách

tiết kiệm, hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội. Từ đó, chính sách này sẽ góp phần
nâng cao giá điện, giúp thu hút nhà đầu tư tư nhân vào ngành điện thông qua giá cả, mà
vẫn đảm bảo sự công bằng đối với những người dùng điện.
5.3.2.2 Tạo điều kiện hỗ trợ về tài chính
Về vốn chủ sở hữu, theo điều 77 quy định của Luật PPP thì nhà đầu tư phải
góp vốn chủ sở hữu tối thiểu là 15% tổng mức đầu tư dự án. Luận án đề nghị tỷ lệ góp
vốn chủ sở hữu tối thiểu có thể linh hoạt theo loại dự án.
Về vốn và hỗ trợ của nhà nước, Nhà nước cần thành lập Quỹ phát triển dự án
PPP.
5.3.3 Nhóm giải pháp về phân bổ bảo đảm rủi ro
5.3.3.1 Xây dựng cơ chế đảm bảo rủi ro dự án hợp lý
Cơ chế chia sẻ rủi ro cần được phát triển hơn nữa để có thể bao gồm tất cả rủi ro
phát sinh trong quá trình triển khai dự án PPP, chẳng hạn, do sự kiện bất khả kháng,
thay đổi luật chính sách, biến động giá, giá bán thấp, trong q trình giải phóng mặt
bằng...
5.3.3.2 Bảo đảm cân đối ngoại tệ hợp lý
Điều 81 của Luật PPP hiện nay đã quy định về việc bảo đảm cân đối ngoại tệ,
theo đó, hạn mức bảo đảm cân đối ngoại tệ: không quá 30% doanh thu của dự án bằng
tiền đồng Việt Nam sau khi trừ số chi tiêu bằng đồng Việt Nam. Tuy nhiên, tùy thuộc
vào bản chất và thông số kỹ thuật của một dự án PPP, nhà đầu tư có thể cần ngoại tệ để
nhập khẩu nhiên liệu và ngun liệu thơ, dịch vụ bảo trì và thanh tốn các khoản nợ
nước ngồi cho hoạt động của dự án mà mức này có thể vượt quá 30% tổng doanh thu.
Do đó, người viết đề xuất giới hạn trần về bảo đảm khả năng cân đối ngoại tệ nên được
loại bỏ. Mức trần này sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề xuất và được chính
phủ phê duyệt cho từng dự án trong từng thời kỳ.
5.3.3.3 Cơ chế chia sẻ doanh thu hợp lý cho cả Nhà nước và tư nhân
Theo điều 81 Luật PPP 2020, khi doanh thu thực tế đạt cao hơn 125% mức doanh
thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án
PPP chia sẻ với Nhà nước 50% phần chênh lệch giữa doanh thu thực tế và mức 125%
doanh thu trong phương án tài chính. Khi doanh thu thực tế đạt thấp hơn 75% mức

doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP, Nhà nước chia sẻ với nhà
đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP 50% phần chênh lệch giữa mức 75% doanh thu trong
phương án tài chính và doanh thu thực tế. Tuy nhiên, việc chia sẻ phần tăng/giảm


25

doanh thu này phụ thuộc vào các hạn chế và điều kiện nghiêm ngặt. Do đó, người viết
đề nghị các tỷ lệ bảo đảm cụ thể nên được cân nhắc trên cơ sở từng dự án, tùy từng thời
kỳ.
5.3.4 Nhóm giải pháp về ổn định kinh tế vĩ mô
Thứ nhất, thay vì thúc đẩy tăng trưởng, Chính phủ tập trung vào các giải pháp
tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mơ và duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, qua đó ổn
định tâm lý và thu phục niềm tin thị trường, người tiêu dùng, các nhà đầu tư.
Thứ hai, Nhà nước nên tiếp tục đưa ra các giải pháp về hỗ trợ tín dụng như giảm
lãi suất vay vốn và giãn nợ đối với các khoản vay hiện hữu
Thứ ba, những giải pháp hỗ trợ khác: tạm dừng hoạt động thanh, kiểm tra để
doanh nghiệp tập trung vào phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh kênh
điện tử trong việc trao đổi thông tin với các doanh nghiệp…
5.3.5 Nhóm giải pháp về phát triển nguồn năng lượng
Thứ nhất, phát triển nguồn điện và lưới điện đồng bộ. Thứ hai, thực hiện những
ưu đãi, hỗ trợ khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân sử dụng nguồn NLTT.
5.3.6 Nhóm giải pháp khác
5.3.6.1 Thành lập ban quản lý PPP
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy việc thành lập một bộ phận quản lý giám
sát hoạt động PPP là rất cần thiết. Do đó, một số kiến nghị được đưa ra như sau: Tiếp
tục thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo và xây dựng năng lực có chất lượng cho
các cơ quan chính phủ liên quan, đặc biệt là cán bộ cấp tỉnh. Chính phủ cần tổ chức các
hội thảo nâng cao năng lực tập trung vào các quy định pháp luật mới tại thời điểm thích
hợp để đảm bảo các quy định mới này được thi hành nhất quán bởi các cơ quan Nhà

nước; Tiếp tục xây dựng các quy định thi hành cũng như hướng dẫn dự án nhằm hỗ trợ
các cơ quan nhà nước được ủy quyền trong việc thực hiện dự án…
5.3.6.2 Tổ chức một quy trình đấu thầu đơn giản, minh bạch
Hiện nay, khuôn khổ pháp lý về lựa chọn nhà đầu tư, đặc biệt là đầu tư dưới hình
thức PPP đã được xây dựng. Với đặc thù của ngành điện, các dự án phát điện thường
có yêu cầu về vốn lớn, tiêu chuẩn kỹ thuật về thi công và quản lý cũng cao. Do vậy, các
dự án phát điện nên được triển khai theo hình thức đấu thầu rộng rãi để có thể thu hút
sự quan tâm và từ đó lựa chọn được các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước có năng lực,
kinh nghiệm và tiềm năng vốn vững vàng. Do vậy, nếu bước lựa chọn nhà đầu tư được
thực hiện tốt sẽ đảm bảo giảm thiểu rủi ro chậm tiến độ hoặc thực hiện dự án đầu tư
không hiệu quả ở các giai đoạn sau.


×