CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mở bài
Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng
lâu dài, gian khổ, vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách và giành được những
thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách
thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa
dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến
chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại
thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ
quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của cơng cuộc đổi mới, tiến hành cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn
Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện ra
đời đã mở đầu một thời đại mới của cách mạng Việt Nam, thời đại vẻ vang nhất
trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đó là kết quả
của cả một q trình vận động lịch sử khách quan, kết hợp biện chứng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam; là kết quả nỗ lực, hi sinh, phấn đấu của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và những người yêu nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ và hy sinh
anh dũng, giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và mang tính thời đại sâu
sắc: 15 tuổi, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật
đổ ách thống trị của phát xít, thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; với thắng lợi oanh
liệt của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cả nước thống
nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo trải gần 30 năm đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, ổn định chính trị, tăng cường
quốc phịng - an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có nhiều tiến bộ. Những
thành tựu vĩ đại của sự nghiệp cách mạng nước ta 80 năm qua đã chứng minh sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
CMXH là sự cải biến căn bản một chế đội xã hội, là sự thay thế một chế độ xã
hội này bằng một chế độ xã hội khác tiến bộ hơn, phù hợp hơn với quy luật phát
triển của lịch sử nhân loại.
1
CMXHCN là một cuộc cách mạng xã hội nhằm mục tiêu thay thế chế độ tư bản
chủ nghĩa đã lỗi thời bằng một chế độ xã hội mới, phù hợp với quy luật phát triển
lịch sử, đó là chế độ xã hội XHCN tiến lên CSCN.
Theo nghĩa rộng: CMXHCN là một q trình cải biến cách mạng tồn diện,
triệt để, sâu sắc, lâu dài, gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Bắt đầu từ khi GCCN lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động đập
tan bộ máy thống trị của GC bóc lột, giành lấy chính quyền, thiết lập nhà nước của
GCCN và nhân dân lao động.
Giai đoạn 2: Giai đoạn cơng nhân sử dụng chính quyền mới làm cơng cụ chủ
yếu để cải tạo chế độ xã hội cũ, xây dựng xã hội XHCN và CSCN. Quá trình này
chỉ hoàn thành khi xã hội mới được xây dựng xong và phát triển một cách vững
chắc.
Theo nghĩa hẹp: CMXHCH là cao trào đấu tranh chính trị của GCCN nhằm lật
đổ sự thống trị của GCTS, giành lấy chính quyền về tay tay GCCN.
- CM dân chủ tư sản:
Cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ: đó là một cuộc cách mạng xã hội do giai
cấp tư sản tiến hành nhằm đánh đổ sự thống trị của chế độ chuyên chế phong kiến,
thiết lập chế độ dân chủ tư sản.
Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới: là cuộc cách mạng xã hội do GCCN lãnh
đạo, nhằm đánh đổ sự thống trị của chế độ chuyên chế phong kiến, thiết lập chế độ
dân chủ nhân dân, tạo điều kiện chuyển biến lên CMXHCN
Cách mạng dân tộc dân chủ là cuộc cách mạng dân chủ do một giai cấp tiến bộ
hoặc một tầng lớp tiến bộ (là giai cấp hoặc tầng lớp trung tâm) của dân tộc lãnh
đạo, nhằm đánh đổ sự thống trị của thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc - tự
do – dân chủ của nhân dân.
Theo Lê – nin để cuộc CMDCTS kiểu mới và CMDTDC tiếp tục phát triển lên
CMXHCN, cần có các điều kiện sau:
ĐK thứ nhất: Cần thiết phải giữ vững vai trò lãnh đạo của GCCN thơng qua
chính Đảng của nó trong suốt cả q trình cách mạng. Đảng cộng sản ln giữ
vững và nâng cao được năng lực lãnh đạo
ĐK thứ hai: Cần thiết phải xây dựng và củng cố vững chắc khối liên minh chiến
lược giữa GCCN, GCND và tầng lớp trí thức trong cả q trình cách mạng.
ĐK thứ ba: Nhà nước dân chủ nhân dân được thiết lập sau cách mạng dân tộc
dân chủ, phải từng bước chuyển sang thực hiện chức năng của Nhà nước chuyên
chính vo sản, trong đó chức năng tổ chức và xây dựng chế độ xã hội mới là chức
năng chủ yếu.
Phải tạo lập được các điều kiện vật chất cần thiết, đặc biệt là lực lượng sản xuất
cho bước chuyển và mở rộng các mối quan hệ quốc tế.
2
- CM dân tộc dân chủ:
+ Theo Mác và Anghen: Cách mạng vô sản (giải quyết vấn đề giai cấp) ở chính
quốc giành được chính quyền, thì đương nhiên các dân tộc thuộc địa sẽ được giải
phóng.
+ Theo Lênin: Cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới. Tuy nhiên, Lênin vẫn nhấn mạnh một chiều đến sự tác động
của cách mạng vơ sản ở chính quốc đối với cách mạng ở các nước thuộc địa đặt
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vơ sản chính quốc và cách mạng
giải phóng dân tộc chỉ có thêr giành thắng lợi khi cách mạng vơ sản ở chính quốc
thắng lợi. Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ sẽ tiến lên xây dựng
CNXH.
+ Theo quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng ta xác định: Cách mạng ở Việt
Nam luôn song song hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ; dân tộc và giai cấp; độc lập
dân tộc và CNXH. Đảng ta xác định, mâu thuấn cơ bản, cốt lõi và sâu xa nhất của
cách mạng Việt Nam là giải quyết vấn đề dân tộc.
2. Nội dung, động lực cách mạng xã hội chủ nghĩa
a) Nội dung
Cuộc CMXHCN là cuộc cách mạng toàn diện diễn ra trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Là một quá trình hoạt động tự giác, chủ động sáng tạo, có ý
nghĩa lịch sử của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, của GCVS
nhằm cải tạo triệt để xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên mọi phương diện.
Trên lĩnh vực chính trị: Nội dung cốt lõi của cuộc CMXHCN là đưa nhân dân
lao động từ địa vị bị thống trị lên địa vị làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước và trở
thành chủ thể xây dựng chế độ xã hội mới. GCCN phải đập tan bộ máy thống trị
của GCTS, giành lấy chính quyền về tay giai cấp mình. Phải xây dựng nhà nước
mới là nhà nước thực sự mang bản chất GCCN, thực sự của dân, do dân, vì dân.
Thực hiện dân chủ hóa về chính trị trong tồn bộ đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế: Nội dung cơ bản của cuộc CMXHCN là phải đưa nhân
dân lao động từ địa vị bị bóc lột trở thành chủ thể xây dựng nền kinh tế mới
XHCN. Phải từng bước cải biến chế độ sở hữu tư nhân TBCN, thay thế chế độ sở
hữu đó bằng chế độ sở hữu XHCN theo các hình thức và bước đi phù hợp. Phải
đẩy mạnh phát triển LLSX, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân
dân. Việc phát triển LLSX, nâng cao NSLĐ là nội dung quyết định sự thành công
của CMXHCN trên lĩnh vực kinh tế. Phải áp dụng từng bước chế độ phân phối
XHCN, áp dụng nguyên tắc phân phối theo lao động ở giai đoạn thấp và áp dụng
nguyên tắc phân phối theo nhu cầu ở giai đoạn cao.
Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa – xã hội: Nội dung cốt lõi của cuộc CMXHCN
là cải biến căn bản phương thức sinh hoạt tinh thần của toàn xã hội. Phải xác định
rõ địa vị làm chủ của nhân dân lao động trong quá trình sáng tạo và hưởng thụ các
thành quả văn hóa. Phải từng bước giải phóng về mặt tinh thần cho nhân dân lao
3
động thoát khỏi sự chi phối của các tư tưởng lỗi thời, các yếu tố, các dịng văn hóa
lạc hậu, khơng phù hợp với tiến trình và mục tiêu của cách mạng XHCN. Phải làm
cho ý thức hệ tư tưởng của GCCN (Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh) giữ vai trị chủ đạo trong tồn bộ đời sống xã hội.
b) Phân tích rõ Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
* Những động lực cơ bản
Cuộc CMXHCN nhằm mục tiêu giải phóng GCCN và các tầng lớp nhân dân la
động khác. CMXHCN là một sự nghiệp cách mạng mang tính quần chúng rộng rãi,
được thực hiện dưới sự lãnh đạo của GCCN, thơng qua chính đảng của nó. Vì vậy,
đơgnj lực cơ bản của cuộc cách mạng là khối đại đoàn kết dân tộc – trong đó cơng
nhân – nơng dân – trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác giữ vai trò nòng
cốt.
GCCN là động lực chủ yếu, là giai cấp lãnh đạo CMXH chủ nghĩa. Thứ nhất:
GCCN tiêu biểu cho PTSX mới (là đại biểu cho cả LLSX tiên tiến và QHSX tiên
tiến). Thứ hai: GCCN có hệ tư tưởng tiên tiến, có lý luận khoa học, cách mạng dẫn
đường. Thứ ba: GCCN là giai cấp có đủ những điều kiện và khả năng đại biểu lợi
ích cho tất cả các tầng lớp lao động trong xã hội để xây dựng khối liên minh chiến
lược, tiến hành CMXHCN đạt đến mục tiêu cuối cùng.
GCND là một động lực quan trọng đảm bảo sự thắng lợi của CMXHCN.
Thứ nhất: GCCN là một lực lượng xã hội rất đông đảo, đặc biệt đối với những
nước chậm phát triển như Việt Nam, nông dân cịn chiếm tuyệt đại bộ phận trong
dân cư thì sự tham gia của họ sẽ là một động lực cực kỳ quan trọng, khơng thể
thiếu được q trình CMXHCN.
Thứ hai: Mục tiêu của cuộc CMXHCN hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng và
những nhu cầu lợi ích cơ bản của giai cấp nơng dân. Trong q trình tham gia
CMXHCN, GCND tiếp thu hệ tư tưởng đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn
của GCCN, họ ngày càng tin tưởng vững chắc vào mục tiêu và con đường
CMXHCN. Thứ ba: Thực tiễn ngày càng làm sáng tỏ vấn đề: GCND cần thiết phải
tham gia liên minh với GCCN để thực hiện cuộc CMXHCN. Bởi vì chỉ có liên
minh với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN thơng qua chính đảng của nó,
GCND mới thực sự được giải phóng.
Đội ngũ trí thức (tầng lớp trí thức): Trong CMXHCN, đội ngũ trí thức là một
động lực rất quan trọng. Bởi lẽ: Trí thức là một lực lượng xã hội nắm giữ kho tàng
tri thức của nhân loại, là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ của một đát nước, một dân
tộc. Trí thức là một tầng lớp xã hội có khả năng tiếp cận nhanh với những thành
tựu khoa học và công nghệ phát triển nhanh và mạnh như vũ bão, đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp thì vai trị của tri thức ngày càng nâng cao. Sự tham gia
của đội ngũ trú thức vào CMXHCN được coi là một động lực có ý nghĩa quyết
định thắng lợi của cuộc cách mạng.
Về động lực tổng hợp:
4
Xem xét từ một góc độ khác, lý luận CNXHKH cũng chỉ ra rằng: con đường
CMXHCN, mục tiêu của cuộc CMXHCN hoàn toàn phù hợp với nhu cầu phát
triển khách quan của tồn xã hội, cho nên nó hồn tồn có khả năng cuốn hút tất cả
các lực lượng tiến bộ trong xã hội, liên kết lại trong một mặt trận thống nhất tạo
thành động lực tổng hợp của cách mạng.
Vận dụng sáng tạo lý luận đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta
đã đưa ra quan điểm: “Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống
yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc
lập thống nhất, vì dần giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, làm
điểm mạnh tương đồng; tôn trọng ý kiến khác nhau không trái với lợi ihcs chung
của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp,
thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Khối
đại đoàn kết tồn dan trong MTTQ Việt Nam ln ln được củng cố và phát triển
sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giữa GCCN với GCND và đội ngũ trí
thức”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã khẳng định lại quan điểm
trên một cách rõ ràng hơn: Đại đoàn két toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
GCCN với GCND và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đnagr, là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhâ tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bèn vững của sự nghiệp xây dựng
và BVTQ. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó
đồng bào các dân tộc, các ton giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người
Việt Nam định cư ở nước ngồi; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử
về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau khơng trái với
lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoa dung, xây dựng tinh thần
cởi mở, tin cậy lẫnh nhau vì sự ổ định chính trị và đồng thuận xã hội.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài, như: Nghị quyết 08, ngày 29-11-1993
của Bộ Chính trị về chính sách và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi,
Chỉ thị số 55-CT/TW, ngày 23-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng hướng
dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết 08, Nghị quyết số 36/NQ-TW, ngày 26-3-2004
của Bộ Chính trị, về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi, Quyết định số
110/QĐ-TTg, ngày 23-6-2004 của Thủ tướng Chính phủ thơng qua Chương trình
hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết 36. Chính phủ cũng đã quyết
định đổi tên Ban Việt kiều Trung ương thành Ủy ban về người Việt Nam ở nước
ngoài như một cơ quan quản lý trực thuộc Chính phủ.
Nghị quyết 36/NQ-TW của Bộ Chính trị khẳng định: “Người Việt Nam ở nước
ngồi là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân
tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị
giữa nước ta với các nước”. Để huy động được hết mọi tiềm năng của người Việt
Nam ở nước ngồi, Nghị quyết 36 cịn nhấn mạnh: “Đảng và Nhà nước mong
5
muốn, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngồi hội nhập và thực hiện nghiêm
chỉnh luật pháp nước sở tại, chăm lo xây dựng cuộc sống, làm ăn thành đạt, nâng
cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa và
truyền thống dân tộc, đoàn kết, đùm bọc yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, giữ mối
quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác
hữu nghị giữa nước bà con sinh sống với nước nhà, tùy theo khả năng và điều kiện
của mỗi người góp phần xây dựng quê hương đất nước, chủ động đấu tranh với các
biểu hiện cố tình đi ngược lại với lợi ích chung của dân tộc”.
3. Sự chuyển biến từ CMDTDC lên CMXHCN
Cách mạng dân tộc dân chủ là cuộc cách mạng dân chủ do một giai cấp tiến bộ
hoặc một tầng lớp tiến bộ (là giai cấp hoặc tầng lớp trung tâm) của dân tộc lãnh
đạo, nhằm đánh đổ sự thống trị của thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc - tự
do – dân chủ của nhân dân.
C. Mác và Ph. Ăngghen là người đề xuất lý luận cách mạng không ngừng với
hai luạn điểm căn bản đó là: CMCSCN sẽ đồng thời xảy ra ở tất cả các nước văn
minh, tức là ít nhất ở Anh, Mỹ, Pháp và Đức. CMVS phải trải qua nhiều giai đoạn.
Cách mạng tư sản Đức chỉ có thể là màn đầu trực tiếp cho một cuộc cách mạng vô
sản.
Lênin là người đã kế tục và phát triển lý luận cách mạng không ngừng của C.
Mác và Ph. Ăngghen với 3 luận điểm: Thứ nhất: Lênin nghiên cứu bản chất của
CNTB ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Người đã phát hiện ra quy luật phát triển
không đều của hệ thống các nước đế quốc. Lênin đưa ra quan điểm: Cách mạng vơ
sản (CMXHCN) có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một nước duy nhất. Đó là nơi tập
trung những mâu thuẫn cơ bản của CNĐQ và là khâu xung yếu nhất của hệ thống
đế quốc chủ nghĩa. Thứ hai: Khi nghiên cứu phong trào công nhân thế giới, nghiên
cứu tình hình nước Nga và phong trào cách mạng ở Nga, Lênin cho rằng: Sự hoàn
thành triệt để cách mạng dân chủ tư sản mới có nghĩa là tạo lập chiếc cầu trực tiếp
để chuyển sang CMXHCN. Cho nên Lênin đã đưa ra chủ trương GCCN phải nắm
lấy ngọn cờ cách mạng dân chủ để tiến hành cách mạng theo một cương lĩnh triệt
để. Lênin cho rằng: sự chuyển biết từ cách mạng dân chủ lên CMXHCN cần phải
có đủ 3 điều kiện: Phải giữ vững sự lãnh đạo của GCCN; phải xây dựng và củng cố
vững chắc khối liên minh trên cơ sở đường lối của GCCN; chính quyền dân chủ
cách mạng phải được củng cố vững chắc để hoàn thành nhiệm vụ ở giai đoạn I và
chuyển sang thực hiện chức năng của chuyên chính vo sản ở giai đoạn II. Thứ ba:
Trong quá trình lãnh đạo quốc tế Cộng sản, Lênin đã chỉ ra rằng: CMDTDC nhân
dân ở các nước tuộc địa giành được thắng lợi triệt để, tất yếu sẽ phát triển lên
CMXHCN, bỏ qua chế độ TBCN (với tư cách là QHSX thống trị).
Với ba luận điểm bổ sung của Lênin đã hình thành một học thuyết lý luận cách
mạng không ngừng, được các đảng cộng sản, trong đó có Đảng cộng sản Việt Nam
vận dung thành công trong điều kiện cách mạng của nước mình.
6
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, với truyền thống yêu nước,
nhân dân ta đã kiên cường đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp giành lại độc
lập cho dân tộc. Các sĩ phu yêu nước dưới ngọn cờ "Cần Vương" mong giành lại
độc lập cho dân tộc khôi phục chế độ phong kiến, đã bị thực dân Pháp đàn áp đẫm
máu. Những người nông dân với lòng căm thù giặc sâu sắc, cầm gươm giáo đứng
lên khởi nghĩa chống Pháp cuối cùng cũng thất bại. Với ảnh hưởng tư tưởng dân
chủ tư sản phương Tây, mà trực tiếp nhất là cách mạng Tân Hợi Trung Quốc, nhiều
nhà cách mạng Việt Nam như: Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học
v.v. muốn giành độc lập cho dân tộc, đưa đất nước theo con đường tư bản chủ
nghĩa, noi gương các nước phương Tây cuối cùng đều bị thất bại.
Sở dĩ các phong trào đấu tranh trên đều bị thất bại, bởi vì cách mạng lúc đó
thiếu đường lối đúng đắn, các phong trào không đáp ứng được những yêu cầu dân
chủ của thời đại mới, tư tưởng phong kiến, tư sản đã trở nên lạc hậu với thời đại.
Tuy những phong trào cách mạng đó đã thất bại, nhưng đã góp phần thức tỉnh tinh
thần đấu tranh cách mạng của nhân dân, góp phần nâng cao chí khí, khai thơng dân
trí cho dân tộc.
Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên
giành độc lập dân tộc, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước đưa đất nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành qua các cuộc
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, tuy số lượng không đông nhưng đã sớm tiếp
thu được tinh thần yêu nước của dân tộc, lại bị ba tầng áp bức là đế quốc, địa chủ,
và tư sản, nên đã tỏ rõ là một lực lượng kiên cường trong các cuộc đấu tranh.
Nỗi nhục của người dân bị mất nước, bị áp bức bóc lột nặng nề của thực dân, đế
quốc là một trong những nhân tố làm cho giai cấp công nhân Việt Nam từng bước
có ý thức gắn liền với quyền lợi giai cấp, cuộc đấu tranh giành độc lập của cả dân
tộc ta.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XX, sự áp
bức của thực dân, đế quốc, phong kiến với quần chúng nhân dân lao động vô cùng
tàn bạo, những phong trào đấu tranh theo xu hướng phong kiến, tư sản đều bị thất
bại, đã là mảnh đất tốt để tuyên truyền tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân. Hồ
Chí Minh viết: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã
hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa
thơi"1.
Trong q trình bơn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức được
tính tất yếu lịch sử: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức", do vậy, Người đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam, đưa đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã làm cho cách mạng Việt Nam thoát khỏi sự
khủng hoảng về đường lối chính trị.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt
Nam đã kết hợp hai sự nghiệp giải phóng dân tộc bị áp bức và giải phóng giai cấp
7
những người lao động. Đi theo ngọn cờ của Đảng, nhân dân Việt Nam đã hoàn
thành xuất sắc hai nhiệm vụ đó để đưa đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Tính tất yếu chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa
Tính tất yếu chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định ngay trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên
của Đảng ta: "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản"1.
Thực tế của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng ta lãnh đạo cũng thể hiện rõ
tính tất yếu nêu trên.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, thực dân Pháp lại trở lại xâm
lược nước ta một lần nữa. Nhân dân Việt Nam vừa phải kháng chiến, vừa phải kiến
quốc với phương châm dựa vào sức mình là chính, phải dựa vào dân, huy động sức
dân mà kháng chiến. Muốn kháng chiến thắng lợi chúng ta phải xây dựng chính
quyền của nhân dân, làm cho nhân dân là người chủ thực sự của đất nước. Quyền
hành, lực lượng đều ở nhân dân, một khi:
"Dân chúng đồng lịng, việc gì cũng làm được.
Dân chúng khơng ủng hộ, việc gì làm cũng khơng nên"2.
Để thực hiện được điều đó Nhà nước dân chủ nhân dân phải từng bước xoá bỏ
sở hữu địa chủ phong kiến, đưa lại ruộng đất cho nông dân, phải tạo điều kiện cho
cơng nhân làm chủ xí nghiệp. Ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội đã quy tụ sức mạnh
của nhân dân lao động, giúp chúng ta giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến
chống Pháp, miền Bắc được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bằng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nửa nước, nhân dân miền Bắc đã
có điều kiện huy động sức người sức của cùng với nhân dân miền Nam thực hiện
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hồn tồn miền Nam
thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tính tất yếu của sự chuyển từ cách mạng dân chủ nhân dân sang cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là: đường lối và mục tiêu cách mạng Việt Nam là
nhất quán, dù có phân chia hai giai đoạn, nhưng đều do một Đảng duy nhất là
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Không lý gì một Đảng một giai cấp đang lãnh
đạo thắng lợi đối với một dân tộc lại tự rời bỏ vai trị của mình cho đảng khác, giai
cấp khác (điều này trái cả với quy luật của nhân loại, từ khi có giai cấp và Đảng
chính trị). Hơn nữa, những kết quả, thắng lợi của giai đoạn cách mạng do Đảng ta
lãnh đạo cũng đồng thời là điều kiện, mở đầu cho giai đoạn cách mạng mới cũng
do Đảng ta lãnh đạo trên phạm vi cả nước. Cả dân tộc ta có đủ những điều kiện và
tư liệu thực tiễn lịch sử để hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta, dân tộc ta.
Hiện nay tình hình quốc tế có những biến động, các lực lượng tư bản chủ nghĩa
đang có lợi thế về phát triển khoa học công nghệ, về sức mạnh kinh tế, sức mạnh
8
qn sự, chủ nghĩa xã hội đang có thối trào tạm thời sau sự sụp đổ của Đông Âu
và Liên Xô, (chủ yếu là do những sai lầm và tự xóa bỏ chủ nghĩa xã hội), Đảng ta
tiếp tục khẳng định một cách đúng đắn rằng: "loài người vẫn đang trong thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội". Sở dĩ Đảng ta khẳng định như
vậy bởi lẽ, hiện nay chủ nghĩa tư bản tuy có thay đổi hình thức áp bức, bóc lột,
nhưng vẫn không hề thay đổi bản chất, vẫn là nguyên nhân gây ra sự nghèo đói cho
các nước chậm phát triển, vẫn là nguồn gốc gây ra những cuộc chiến tranh và tạo
nên bao tai họa về văn hoá, xã hội, môi sinh... trên thế giới. Ngay trong các nước tư
bản phát triển như Mỹ, Anh, v.v. tình trạng phân hố giàu nghèo vẫn diễn ra rất gay
gắt, người nghèo vẫn sống trong tình trạng khơng nhà cửa. Nhiều nước dân tộc chủ
nghĩa, sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa, nhưng đất nước vẫn đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến
tranh, xung đột dân tộc, tôn giáo, v.v.. Sự nghèo khổ của những người lao động ở
những nước này ngày càng trở nên trầm trọng. Sự nghèo đói, chậm phát triển làm
cho các nước đó khơng thể có độc lập thật sự.
Nhiều nước trước đây vốn là các nước xã hội chủ nghĩa, trong công cuộc cải tổ,
cải cách, đã mắc nhiều sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng, thậm chí có sự
phản bội lại chủ nghĩa xã hội muốn đưa đất nước đi theo con đường của chủ nghĩa
tư bản hay chủ nghĩa xã hội dân chủ, ảo tưởng mong chờ sự giúp đỡ của thế giới tư
bản, hiện nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội,
về con đường phát triển của đất nước. Nhiều định hướng giá trị của xã hội bị đảo
lộn. Xung đột dân tộc, tôn giáo, phe phái gia tăng. Đời sống của những người lao
động ngày càng khó khăn. Sự phân hố giàu nghèo trong xã hội ngày càng gia
tăng. Vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng suy giảm.
Việt Nam do giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đổi mới một
cách đúng đắn "... đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là
quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những
hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp"2, nên đã thu được những thắng lợi to
lớn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã phát triển thêm và cụ thể hoá hơn những nội dung của đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với những bước đi, hình thức để đạt được mục
tiêu cụ thể hơn. Đó là: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất
khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính q độ. Trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Từ
Đại hội VIII của Đảng năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành
một nước cơng nghiệp. Trong chặng đường hiện nay cịn phải tiếp tục hoàn thành
một số nhiệm vụ của chặng đường trước”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
(tháng 4 năm 2006) của Đảng đã khẳng định: “Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực
9
phấn đấu của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn, cơng cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn
diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Chính trị – xã hội ổn định. Quốc phịng và an ninh
được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất
nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng
tạo; phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công
cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”.
Quá trình chuyển biến cách mạng ở Việt Nam
Sự chuyển biến qua các cương lĩnh:
Chính cương sách lược vắn tắt (2/1930), Bác Hồ khẳng định: Cách mạng Đông
dương phải tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản.
Luận cương chính trị của Đảng cộng sả Đơng dương (10/1930) đồng chí Trần
Phú khẳng định lại hai điểm cơ bản: Thứ nhất: “Tư sản dân quyền cách mạng là
thời kỳ dự bị để là xã hội cách mạng”. Thứ hai: “Sự cốt yếu của tư sản dân quyền
cách mạng một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiểu tư
sản để thực hành cách mạng thổ địa cho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập”.
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (được Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II thông qua tháng 2/1951) khẳng định: “Cách mạng dân tộc dân chủ nhâ
dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách
mạng này do GCCN lãnh đạo, liên minh chặt chẽ với nơng dân và lao động trí
óc… Cách mạng Việt Nam khơng thể đi theo con đường nào khác ngồi con đường
tiến lên CNXH. Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải qua ba giai
đoạn: Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai
đoạn thứ hai nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong
kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ
dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba: nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho
CNXH, tiến lên thực hiện CNXH. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau mà mật
thiét liên hệ xen kẽ với nhau. Nhưng mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trung tâm,
phải nắm vững nhiệm vụ trung tâm đó để tập trung lực lượng mà thực hiện.”
10
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991). Đảng ta
khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội đang đứng trước những khó khăn, thử thách, lịch sử
thế giới đang trải qua những bước quanh co. Song loài người cuối cùng cũng nhất
định xẽ tiến tới CNXH, vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử.” Cương lĩnh của
Đảng đã xác định điểm xuất phát của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là: Quá độ đi lên
CNXH, từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, LLSX rất thấp, đất nước lại
trải qua 30 năm chiến tranh tàn phá kéo dài. Để đảm xây dựng đất nước phát triển
đúng định hướng XHCN cần thiết phải kiên trì 7 phương hướng cơ bản: Thứ nhất:
Xây dựng và củng cố vững chắc nhà nước XHCN thực sự là nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Thứ hai: Phải phát triển LLSX, CNH-HĐH đất nước theo hướng
hiện đại. Thứ ba: Phải thiết lập QHSX XHCN từ thấp đến cao, phù hợp với sự phát
triển của LLSX. Thứ tư: Phải tiến hành CMXHCN về tư tưởng và văn hóa, làm
cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trị chủ đạo trong
toàn bộ đời sống xã hội. Thứ năm: thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết dân
tộc. Thứ sáu: Luôn xác định xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam XHCN là hai
nhiệm vụ chiến lược không thể tách rời. Thứ bảy: Phải thường xuyên xây dựng và
củng cố Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng.
Mục tiêu tổng quát của cả thời kỳ quá độ là: Khi kết thúc thời kỳ quá độ phải
xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, phù hợp với kiến trúc
thượng tầng về chính trị và tư tưởng văn hóa, làm cho nước ta trở thành một nước
XHCN phồn vinh.
Quá độ đi lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường.
Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới đạt tới trạng thái ổn định,
vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau (1986 - 1996). Chặng tiếp theo là
CNH-HĐH đất nước (1996 - 2020). Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản nước ta trở
thành một nước cơng nghiệp, thốt khỏi tình trạng nước nghèo, chậm phát triển.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta,
là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Đặc trưng mơ hình XHCN mà nhân dân
ta xây dựng là một xã hội gồm 8 đặc trưng:“ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.”
Nhất quán mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng
được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã
hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Trong đó tập trung thực hiện 7
11
phương hướng cơ bản đó là: Một là, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Những bài học được rút ra tư thực tiễn cách mạng Việt Nam
Một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH trên nền tảng củ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mứoi
không phỉa là từ bỏ mục tiêu CNXH mà là cho CNXH được nhận thức đúng đắn
hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới khơng phải là xa rời mà là nhận
thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động
cách mạng.
Hai là: Đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế,
chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của
hệ thống chính trị. Đổi mới tồn diện nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có
bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa ba nhiệm vụ: Phát triển kinh
tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh
thần của xã hội.
Ba là: Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết
thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, dó là chìa
khóa thành cơng.
Bốn là: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực là
nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời phải coi trọng huy động các
nguồn ngoại lực, thông qua hộinhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực
bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát
triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định
hướng XHCN.
Năm là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, khơng ngừng
đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN,
bảo đmả quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
12
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội. Nhà nước
phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền cơng dân, quyền con
người. Phát huy vai trị củ MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các
tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực
hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Kết luận
Sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mơ được duy trì,
các mặt: chính trị, xã hội, quốc phịng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong
đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội
gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và chất lượng
lao động, khoa học và cơng nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động
viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những
bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối
tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
13