Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Hoàng hoa thám hiện thực lịch sử và những phiên bản văn chương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.85 MB, 179 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRIỆU THỊ LINH

HOÀNG HOA THÁM, HIỆN THỰC LỊCH SỬ
VÀ NHỮNG PHIÊN BẢN VĂN CHƯƠNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRIỆU THỊ LINH

HOÀNG HOA THÁM, HIỆN THỰC LỊCH SỬ
VÀ NHỮNG PHIÊN BẢN VĂN CHƯƠNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. TRẦN THỊ HẢI YẾN
2. PGS.TS. DƯƠNG THU HẰNG

THÁI NGUYÊN - 2018




i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa ai cơng bố trong bất kì cơng
trình nào khác.
Thái Ngun, tháng 02 năm 2018
Tác giả luận án
Triệu Thị Linh


ii

LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Giảng viên,
Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn Lãnh đạo Trường Đại học Tân Trào, Sở Giáo dục và Đào
tạo Bắc Giang, Chính quyền và nhân dân Yên Thế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
để tơi hồn thành cơng trình nghiên cứu.
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. TRẦN THỊ HẢI YẾN người đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo và nâng đỡ để tơi hồn thành cơng trình nghiên
cứu này. Bên cạnh đó, tơi xin cảm ơn PGS.TS. Dương Thu Hằng đã giúp đỡ tơi trong
q trình hồn thiện cơng trình và bảo vệ luận án.
Tơi cũng xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến gia đình, người thân, các bạn đồng
nghiệp, những người ln động viên, khuyến khích và giúp đỡ về mọi mặt để tơi có
thể hồn thành cơng việc nghiên cứu của mình.

Thái Nguyên, tháng 02 năm 2018

Tác giả luận án
Triệu Thị Linh


iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do lựa chọn đề tài ............................................................................. 1
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................ 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 5
5. Đóng góp mới của luận án .................................................................... 6
6. Bố cục của luận án ................................................................................ 6
NỘI DUNG............................................................................................... 7
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN
ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .......................................... 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các phiên bản folklore và văn học
viết về Hoàng Hoa Thám .......................................................................... 7
1.2. Cơ sở giải quyết các vấn đề của luận án .......................................... 11
1.2.1. Cơ sở lý thuyết .............................................................................. 11
1.2.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................. 20
1.3. Phiên bản lịch sử về Hoàng Hoa Thám và khởi nghĩa Yên Thế ......... 29
1.3.1. Hoàng Hoa Thám qua kiến tạo lịch sử ............................................ 29
1.3.2. Khởi nghĩa Yên Thế qua kiến tạo lịch sử ..................................... 35
Chương


2:

HỒNG

HOA

THÁM

TRONG

PHIÊN

BẢN

FOLKLORE ........................................................................................... 39
2.1. Hồng Hoa Thám trong thơ ca dân gian và các hình thức văn vần 39
2.1.1. Hồng Hoa Thám qua các bài ca dao ............................................ 39
2.1.2. Hoàng Hoa Thám trong các hình thức văn vần ............................ 40
2.2. Hồng Hoa Thám trong phiên bản truyện kể dân gian .................... 50


iv

2.3. Hoàng Hoa Thám trong lễ hội dân gian ........................................... 62
Chương 3: HOÀNG HOA THÁM TRONG PHIÊN BẢN VĂN HỌC
VIẾT ....................................................................................................... 70
3.1. Hoàng Hoa Thám trong phiên bản văn học viết trước 1945............ 71
3.1.1. Truyện “Chân tướng quân” (Phan Bội Châu) ............................... 71
3.1.2. Phóng sự “Bóng người Yên Thế” (Việt Sinh) và truyện “Cầu Vồng

Yên Thế” (Trần Trung Viên) .................................................................. 77
3.1.3. Truyện “Lịch sử quân Đề-Thám Yên-Thế” (Ngô Tất Tố và
L.T.S) ...................................................................................................... 86
3.1.4. Truyện “Hoàng Hoa Thám” trong tập truyện danh nhân “Tôn Thất
Thuyết và những văn thân trong phong trào Cần Vương” (Cố Nhi Tân) .. 93
3.2. Hoàng Hoa Thám trong phiên bản văn học viết sau 1945 ............... 99
3.2.1. Tiểu thuyết lịch sử “Núi rừng Yên Thế” (Nguyên Hồng) và “Người
trăm năm cũ” (Hoàng Khởi Phong) ...................................................... 100
3.3.2. Truyện ngắn “Mưa Nhã Nam” (Nguyễn Huy Thiệp) ................. 116
Chương 4: HOÀNG HOA THÁM TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG
ĐỒNG ................................................................................................... 128
4.1. Hoàng Hoa Thám và đời sống tâm linh ......................................... 128
4.2. Việc sử dụng phiên bản văn - sử về Hoàng Hoa Thám trong chương trình
giáo dục phổ thơng tồn quốc và địa phương Bắc Giang ........................... 137
4.2.1. Việc sử dụng phiên bản văn chương ........................................... 140
4.2.2. Việc sử dụng phiên bản lịch sử ................................................... 142
KẾT LUẬN .......................................................................................... 149
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................. 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 153
PHỤ LỤC


v


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài

Văn học và lịch sử có mối quan hệ rất khăng khít, nhất là ở các nước phương
Đông. Ở Việt Nam thời trung đại, chịu ảnh hưởng Trung Hoa, văn - sử cùng với triết
tạo nên một “tổ hợp” dường như không tách biệt, mà ta quen gọi là “văn sử triết bất
phân”. Tình hình này dần thay đổi, đặc biệt ở thời cận hiện đại, khi khoa học phương
Tây (cả tự nhiên và xã hội) du nhập và phát triển. Và kể từ giai đoạn này, văn-sử tồn
tại thành những khu vực riêng nhưng vẫn gắn bó mật thiết. Văn học phản ánh, soi
chiếu, tìm hiểu con người và hiện thực, trong đó có lịch sử; cịn lịch sử cung cấp
những dữ liệu (như sự kiện, nhân vật) cho nhà văn sáng tác. Tuy nhiên, khi thành
những khu vực khác biệt, văn chương và lịch sử cũng có những nguyên tắc tồn tại và
“vận hành” riêng. Đó là lý do để vấn đề hiện thực và hư cấu trong tác phẩm văn
chương viết về lịch sử thường được trở đi trở lại trong nghiên cứu phê bình văn học.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế do vị thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám lãnh đạo thuộc giai
đoạn lịch sử chống thực dân Pháp kiên cường nhưng bi thiết của dân tộc. Dẫn dắt
cuộc khởi nghĩa nông dân chống Pháp lớn nhất trong lịch sử cận đại và kéo dài trên
20 năm, Hoàng Hoa Thám hiển nhiên trở thành một nhân vật lịch sử, một anh hùng
dân tộc. Cuộc đời thực, giai thoại luôn đan xen xung quanh ơng. Chiến cơng và chất
hư-thực đó đã cuốn hút sự chú ý của các nhà văn (nghệ sĩ), trở thành chất liệu cho
nhiều tác phẩm văn chương nghệ thuật về Hồng Hoa Thám.
Như vậy, tìm hiểu những sáng tác văn chương về nhân vật lịch sử Hoàng Hoa
Thám một mặt sẽ bổ sung cho những nghiên cứu đã có về mối quan hệ giữa hiện thực
lịch sử và sáng tạo văn chương; mặt khác sẽ có ích cho việc nghiên cứu những đổi thay
trong quan niệm về mối quan hệ này cũng như sự đổi thay trong nghệ thuật viết của
các nhà văn. Hơn nữa, từ những câu chuyện lịch sử chống ngoại xâm cịn có thể hiểu
thêm vấn đề dân tộc và những cách hình dung về nó qua các thời kỳ lịch sử khác nhau.
Đồng thời, nghiên cứu Hồng Hoa Thám theo hướng này cịn có thể gợi mở cho việc
tiếp cận các nhân vật lịch sử hoặc sự kiện lịch sử khác của Việt Nam. Và theo khảo sát
của chúng tôi, cách tiếp cận như vậy, cho đến thời điểm này, chưa thành một lựa chọn


2


nghiên cứu riêng và tập trung. Vì lẽ đó, chúng tôi chọn "Hoàng Hoa Thám, hiện thực
lịch sử và những phiên bản văn chương" là đề tài nghiên cứu.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hình ảnh Hồng Hoa Thám trong các ghi
chép lịch sử, trong các hình thức folklore, và trọng tâm là trong tác phẩm văn học
viết. Bên cạnh đó, luận án cịn khảo sát việc lưu truyền và phổ biến hình ảnh nhân vật
này trong đời sống cộng đồng (lễ hội và giáo dục phổ thông).
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trước khi xác lập phạm vi cho nghiên cứu này, chúng tơi xin trình bày quan
niệm về nội hàm hai khái niệm “văn bản” và “phiên bản”.
Có nhiều cách diễn giải khác nhau về khái niệm “văn bản”. Ở đây chúng tôi
quan tâm đến khái niệm của Iu. M. Lotman (1922-1993) - người được coi là người
sáng lập và dẫn dắt trường phái hình thức Nga - “một khuynh hướng khoa học hoạt
động sôi nổi vào những năm 1960-1980, liên quan đến nhiều lĩnh vực: nghiên cứu
văn học, kí hiệu học, ngơn ngữ học, văn hố học”. Bởi, hướng quan tâm đến chủ
nghĩa cấu trúc trong văn hóa học này, như Lã Ngun phân tích, “góp phần quan
trọng làm thay đổi các quan niệm ký hiệu học truyền thống…, khái niệm văn bản sẽ
phải thay đổi về cơ bản” [113]. Vậy “văn bản”, theo quan niệm của Lotman nói riêng
và các nhà ký hiệu học nói chung là gì? Đó là “một thơng báo” được mã hóa hai lần
- bằng ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ đặc thù [113], là “bất kỳ chuỗi ký hiệu nào có
khả năng tiềm tàng có thể đọc ra nghĩa được, bất kể là do ký hiệu ngôn ngữ tạo thành
hay không” [26, tr.395]. Theo cách diễn giải này, “văn bản” khơng chỉ được coi là có
giao tiếp đa dạng, đa chiều với chủ thể tạo văn bản cũng như với người tiếp nhận văn
bản mà cịn có một biên độ rộng rãi hơn hẳn định nghĩa truyền thống về văn bản vốn
chỉ coi là các phương tiện liên quan đến ngơn ngữ1. Với tư cách một ký hiệu văn hố,
văn bản [của Lotman] khơng cịn bị hạn định trong một loại ngơn ngữ đặc thù nào đó,
Quan niệm này định nghĩa “Văn bản là: “1/Bản ghi bằng chữ viết hoặc chữ in một phát ngôn hoặc
một thông báo bằng ngôn từ; 2/Phương tiện tri giác cảm xúc của tác phẩm ngơn từ (trong đó có văn

học), được biểu đạt và ghi lại bằng các ký hiệu ngôn ngữ; 3/Đơn vị nhỏ nhất của giao tiếp bằng ngôn
ngữ” [26, tr.373].
1


3

cũng khơng cịn chỉ thuộc về những chất liệu hoặc phương tiện nhất định1 mà chỉ cần
thỏa mãn các tiêu chí: là một thơng báo, được mã hố (2 lần), và nằm trong tương tác
với chủ thể và với người tiếp nhận.
“Văn bản”, như cách hiểu trên đây, thực chất đã nới rộng quan niệm cũ và bao
trùm cả khái niệm “phiên bản”. Ngoài ra, khái niệm “phiên bản” mà chúng tơi sử
dụng cịn được hiểu trong quan hệ với “nguyên bản”. “Phiên bản” xuất sinh từ
“nguyên bản” nhưng có thể khác nguyên bản; từ một nguyên bản có thể có một hoặc
nhiều biến thể khác nhau, chúng tơi gọi những biến thể này gọi là “phiên bản”. Trong
trường hợp này, Hoàng Hoa Thám là nhân vật lịch sử, là một lõi hiện thực - đó là
nguyên bản. Sau đó, theo thời gian khơng gian, có các ghi chép sự kiện (sử liệu), các
giai thoại, truyền thuyết, thơ ca, lễ hội... (thuộc văn học dân gian); và truyện lịch sử,
tiểu thuyết lịch sử, thơ ca, kịch bản... (thuộc văn học viết). Những “văn bản” (text)
này đều dựa trên cốt lịch sử nói trên, và vì thế là các phiên bản.
Nội hàm “phiên bản” nói trên thực chất là cách xác lập theo quan niệm phản
ánh luận, cho rằng văn chương nghệ thuật là sự mô phỏng thực tại. Nhưng dưới cái
nhìn của lý thuyết diễn ngơn và các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa (mà chúng tơi sẽ trình
bày ở mục “Cơ sở lý thuyết” dưới đây) - mà điểm phân biệt quan trọng với quan niệm
phản ánh luận là từ chối cách quy chiếu văn bản văn chương nghệ thuật theo thực tại
- thì trong 3 dạng phiên bản về Hồng Hoa Thám nói trên khơng có phiên bản nào
được coi là gốc mà chúng đều chỉ là những phiên bản liên quan đến nhau nhưng đồng
đẳng, tức là có thể tương tác với nhau nhưng khơng nhất thiết lệ thuộc vào bất kỳ một
phiên bản nào trong hai phiên bản kia.
Từ các nội hàm khái niệm “văn bản”, “phiên bản” như vậy, luận án sẽ có phạm

vi nghiên cứu là: phiên bản lịch sử, phiên bản folklore và phiên bản văn học viết liên
quan đến nhân vật Hoàng Hoa Thám có niên đại từ khi xảy sự kiện đến ngày nay.
Tuy nhiên, với văn học viết, để tập trung vào các nội dung nghiên cứu đã xác định,
và cũng do khuôn khổ luận án (về dung lượng và thời gian làm việc), chúng tôi xin
được gác lại, không khảo sát mảng văn học trình diễn (gồm kịch nói và kịch hát).

1

“Do đó một nghi thức, một điệu múa, một nét mặt, một bài thơ,… đều là văn bản” [26, tr.395].


4

Ngoài ra, trong thơ, chỉ trường ca hay diễn ca lịch sử mới ít nhiều có cốt truyện, có
chân dung nhân vật, thế nhưng hiện tại sưu tầm của chúng tơi chỉ mới có một đơn vị
tác phẩm thuộc thể loại này. Và quan trọng hơn, theo tìm hiểu bước đầu của chúng
tơi, tác phẩm này q ít chất liệu (cả về nội dung và hình thức) đủ để thành một phần
tương đương với truyện, tiểu thuyết trong bố cục nghiên cứu. Vì vậy, phần nghiên
cứu văn bản văn học viết của đề tài cũng sẽ không bàn riêng về mảng thơ viết về
Hồng Hoa Thám, mà chỉ dùng nó để tham chiếu khi cần. Chúng tôi chọn nghiên cứu
những tác phẩm tiêu biểu cho từng giai đoạn, cho từng thể loại và quan điểm viết lịch
sử của các nhà văn. Cụ thể xin xem phần mở đầu Chương 3.
Với phiên bản lịch sử, do hạn chế về tiếng Pháp, nên nghiên cứu sinh sẽ sử
dụng các bản dịch được tập hợp trong Hoàng Hoa Thám (1836-1913) (của Khổng
Đức Thiêm).
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Từ việc phân tích, đối sánh hai loại dữ liệu là tư liệu lịch sử và sáng tác
văn chương, chúng tơi sẽ tìm hiểu và chỉ ra những điểm gặp gỡ và tách biệt giữa sử
liệu và văn liệu trong việc phục dựng một nhân vật lịch sử. Cụ thể:
Đối sánh sử liệu và văn liệu để tìm hiểu các sáng tác văn chương đã quan tâm

đến nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám và cuộc khởi nghĩa Yên Thế trên các phương
diện: nội dung lịch sử, số phận con người và dân tộc.
Cách thức kết hợp sử liệu và hư cấu văn chương ra sao khi truyền tải những
nội dung đó ở từng thể loại (tức phương thức sáng tạo nghệ thuật).
Đồng thời, từ lịch trình văn chương hóa Hồng Hoa Thám, luận án cũng sẽ chỉ
ra những thay đổi trong việc tiếp cận, lý giải, biểu tả và sử dụng sử liệu, tư liệu
folklore (về sự kiện, nhân vật) trong các giai đoạn khác nhau của văn chương (chủ
yếu là hai dấu mốc 1945 và 1986).
Đây là nhiệm vụ của chương 1 (mục 1.3) và toàn bộ chương 3.
3.2. Trên cơ sở thống kê, phân loại các dữ liệu dân gian do người đi trước sưu
tầm, chúng tôi bổ sung thêm các khảo sát thực địa, và điều tra xã hội học (tập trung
ở khu vực diễn ra cuộc khởi nghĩa Yên Thế), để tìm hiểu việc lưu truyền những câu


5

chuyện về Hoàng Hoa Thám (giai thoại, sử truyện, sử liệu, tác phẩm văn chương...)
trong tâm thức công chúng trước kia và hiện nay. Đây chính là q trình dân gian hóa
sử liệu, là q trình ký ức cộng đồng tiếp nhận, lưu giữ hình ảnh của nhân vật lịch sử,
tức quá trình truyền thuyết, giai thoại, sử liệu, văn liệu... quay trở lại tồn tại trong
thực tế. Toàn bộ dữ liệu dân gian, điều tra xã hội học và khảo sát thực địa sẽ được sử
dụng để làm rõ thêm sự tác động của lịch sử, văn chương đến thực tại. Mặt khác, đây
cũng là căn cứ để khảo sát chiều tác động ngược lại của truyền khẩu dân gian đến
cách viết sử, cách sáng tạo văn chương.
Các phương diện khảo sát nói trên và mối quan hệ giữa chúng có thể được
hình dung theo sơ đồ dưới đây (trong đó mỡi quan hệ đều mang tính hai chiều, và
chiều quan hệ với văn học viết là chỗ tập trung của luận án)
Văn học dân gian
Sử liệu
Văn học viết

Các phần việc này là nhiệm vụ của hai chương: 2 và 4.
3.3. Tất cả những nhiệm vụ cụ thể nói trên sẽ nhắm đến mục tiêu chung của
luận án là chỉ ra những tương đồng, dị biệt trong các phiên bản về nhân vật Hoàng
Hoa Thám và thử lý giải chúng với tư cách những liên văn bản, theo quan niệm truyền
thống về mối quan hệ giữa lịch sử và các văn bản về lịch sử, cũng như theo những
gợi mở của một số lý thuyết hiện đại liên quan đến mối quan hệ này, như một số gợi
ý của lý thuyết diễn ngơn và quan niệm mang tính hậu hiện đại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chọn hướng tiếp cận là liên ngành, vì đối tượng và định hướng nghiên
cứu liên quan đến lịch sử, văn học, văn học dân gian, và phần nào đến giáo dục học.
Việc khảo sát, phân tích sử liệu và folklore học sẽ là những phương pháp dùng phối
hợp với phương pháp nghiên cứu văn học trong một số phần của luận án.
Các mục tiêu nghiên cứu sẽ được thực hiện bằng một phương pháp xuyên suốt
là nghiên cứu lịch sử, tức là tìm hiểu/nghiên cứu các hiện tượng trong hoàn cảnh và
trục diễn tiến thời gian lịch sử của chính nó. Trong đó, phương pháp văn học sử được


6

sử dụng tập trung ở chương 3 khi chúng tôi chọn tiếp cận từng tác phẩm riêng lẻ, hoặc
nhóm tác phẩm lại theo tiêu chí nhất định và đặt trong bối cảnh lịch sử tương ứng chứ
không nghiên cứu theo vấn đề.
Điền dã kết hợp điều tra xã hội học là hai phương pháp bổ sung, hỗ trợ để tạo
những tiếp cận đa hướng đối với vấn đề nghiên cứu.
Các thao tác cụ thể để thực hiện đề tài là: thống kê, phân tích, tổng hợp,
so sánh.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Đây là cơng trình khoa học chun biệt đầu tiên nghiên cứu về các phiên
bản Hoàng Hoa Thám trong văn chương (từ văn học dân gian đến văn học viết) và
trong đời sống cộng đồng (ở lễ hội và giáo dục), đặt trong tương tác với nguồn sử liệu

của cả Pháp và Việt Nam.
5.2. Mối quan hệ giữa hiện thực lịch sử và hư cấu văn chương là một đề tài
bàn luận chưa bao giờ có điểm kết. Từ việc nghiên cứu trường hợp Hoàng Hoa Thám,
chúng tơi góp thêm một ý kiến khơng chỉ làm rõ hơn vấn đề này mà còn đưa ra một
đề xuất về cách diễn giải “sự thật lịch sử”.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
chính của luận án được chia thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài
luận án
Chương 2: Hoàng Hoa Thám trong phiên bản folklore
Chương 3: Hoàng Hoa Thám trong phiên bản văn học viết
Chương 4 : Hoàng Hoa Thám trong đời sống cộng đồng


7

NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các phiên bản folklore và văn học viết về
Hoàng Hoa Thám
Trong hệ thống tư liệu folklore về Hồng Hoa Thám đã có nhiều giai thoại,

truyền thuyết, thơ ca,... được sưu tầm, biên soạn và công bố, như: Tìm hiểu về Hồng
Hoa Thám: qua một số tài liệu và truyền thuyết (Tôn Quang Phiệt sưu tầm, 1984), Kể
chuyện Hoàng Hoa Thám (Hải Vy sưu tầm, biên soạn, 2010), Truyện kể dân gian về
Hoàng Hoa Thám và các tướng lĩnh nghĩa quân Yên Thế (Trịnh Tiến Lưu, Nguyễn
Văn Phong đồng chủ biên, 2011),… Việc nghiên cứu và đánh giá khối tư liệu này,

trong khả năng tiếp cận của mình, chúng tơi có một khóa luận tốt nghiệp Đại học
chun ngành Văn học dân gian là Hình tượng Hồng Hoa Thám và nghĩa quân
trong văn học dân gian và lễ hội tưởng niệm ở vùng Yên Thế - Bắc Giang của sinh
viên Nguyễn Thị Tâm. Trong tiểu luận này, tác giả đã khảo sát hình tượng Đề Thám
và nghĩa quân Yên Thế tập trung ở hai thể loại (truyền thuyết, vè) và trong lễ hội
địa phương Hưng Yên (tập trung vào các trò diễn dân gian). Nghiên cứu vấn đề này,
mục đích của tác giả là: làm sáng tỏ truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam,
cung cấp thêm cho văn học dân gian một hình tượng mới bắt nguồn từ sự kiện lịch
sử, vì vậy, tác giả đã bước đầu đề cập đến những sự kiện lịch sử và xem những sáng
tác dân gian này xuất phát từ sự kiện lịch sử. Có thể nói, tác giả đã chạm đến vấn
đề mối quan hệ giữa folklore và lịch sử, tuy nhiên, do giới hạn của khóa luận nên
cơ sở lí thuyết về vấn đề này cũng như những căn cứ lịch sử hầu như chưa được
thiết lập rõ ràng và thảo luận kĩ. Điểm dừng của khóa luận sẽ là cơ hội để chúng tôi
nghiên cứu rộng và sâu hơn mối quan hệ giữa lịch sử và folklore qua nhân vật Đề
Thám. Về tư liệu, khóa luận chủ yếu sử dụng nguồn dã sử, một số sách nghiên cứu
về văn hóa dân gian nói chung, các ghi chép về lễ hội Yên Thế của Sở văn hóa Bắc


8

Giang và giới hạn tại thời điểm trước năm 2004. Cịn trong luận án này, chúng tơi
đã mở rộng phạm vi khảo sát và nghiên cứu các nguồn tư liệu đến thời điểm năm
2017: sử liệu (Pháp và Việt, thành văn và dã sử), văn liệu (dân gian, hiện đại, đương
đại), tư liệu của Sở văn hóa tỉnh, phịng văn hóa huyện, tư liệu điền dã, điều tra của
cá nhân,…
Bên cạnh tác phẩm folklore, văn học viết cũng có rất nhiều tác phẩm lấy cảm
hứng từ nhân vật Hoàng Hoa Thám. Giai đoạn đầu thế kỉ XX, đặc biệt là quãng 1935,
một số nhà văn đã đưa hình tượng Đề Thám vào tác phẩm văn chương, cụ thể là ở
thể loại truyện kể lịch sử và tác phẩm báo chí. Có thể kể đến các tác phẩm: Chân
tướng quân của Phan Bội Châu, năm 1917; phóng sự dài Bóng người Yên Thế của

Việt Sinh đăng trên báo Ngày Nay; truyện Cầu Vồng Yên Thế của Trần Trung Viên,
truyện lịch sử Lịch sử quân Đề-Thám Yên-Thế của Ngô Tất Tố và L.T.S, đều được
công bố năm 1935; tập tiểu truyện Tôn Thất Thuyết và những văn thân trong phong
trào Cần Vương của Cố Nhi Tân biên soạn năm 1943,… Sau năm 1945, Đề Thám đã
trở thành nhân vật trong nhiều hình thức văn chương. Ông xuất hiện qua hồi ức của
con gái trong Kỷ niệm thời thơ ấu (1975) - tập hồi kí của Hồng Thị Thế về tuổi thơ
ở n Thế. Đề Thám cũng là nhân vật chính trong những chuyện kể lịch sử và cả
những tiểu thuyết đậm đà chất hư cấu như Hoàng Hoa Thám - một vùng rừng (trường
ca, Đỡ Vinh, 1988), Tướng qn Hồng Hoa Thám (tiểu thuyết lịch sử, Lê Minh
Quốc, 1996), Mưa Nhã Nam (truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp, 2001), Hoàng Hoa
Thám (tiểu thuyết, Huy Cờ, 2003), Vợ Ba Đề Thám (Huy Cờ sưu tầm, 2004), Người
trăm năm cũ (tiểu thuyết, Hoàng Khởi Phong, 2009), Rừng thiêng Yên Thế (tiểu
thuyết, Huy Cờ, 2013)… Đây là những chất liệu cho các nhà nghiên cứu văn chương
thực hiện nhiều đánh giá cụ thể.
Tìm hiểu về Đề Thám trong các sáng tác trước năm 1945, có hai nghiên cứu
đáng chú ý của các tác giả Cao Thị Hảo và Hoàng Thị Hiên.
Tác giả Cao Thị Hảo trong bài viết Nhân vật người anh hùng trong một số
truyện kí của Phan Bội Châu đã phân tích các tác phẩm của Phan Bội Châu, trong đó
có truyện Chân tướng quân để tìm hiểu các phương thức nghệ thuật được nhà văn sử


9

dụng để tạo nên sự đổi mới trong việc khắc họa nhân vật người anh hùng. Tác giả chỉ
ra sự đổi mới của Phan Bội Châu khi xây dựng nhân vật Hoàng Hoa Thám lần lượt
từ việc miêu tả nguồn gốc xuất thân, hành trạng hoạt động và cái chết của nhân vật.
Theo tác giả, "các nhân vật anh hùng truyền thống thường được nhấn mạnh ở nguồn
gốc xuất thân thần kì, khắc họa ở chi tiết sinh nở kì lạ thì nhân vật anh hùng của
Phan Bội Châu khơng được chú trọng ở yếu tố này" [27, tr.64]. Đồng thời tác giả
cũng khẳng định "Phan Bội Châu đã đưa người anh hùng từ thế giới cao sang trở về

đời thường, bình dân và xác định được mẫu người anh hùng tiêu biểu của thời đại mình:
người anh hùng lấy lí tưởng cứu nước làm lẽ sống" [27, tr.64].
Trong luận văn Nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám trong các sáng tác văn học
trước 1945, học viên Hoàng Thị Hiên đã tìm hiểu cách thức kết hợp, xử lí tư liệu lịch
sử và hư cấu trong các sáng tác văn học cũng như đặc điểm của việc hình dung, phác
họa nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám trong văn chương trước 1945. Đồng thời, tác
giả bước đầu chỉ ra được những tương đồng và khác biệt trong cách nhìn của người
Pháp và người Việt về Hoàng Hoa Thám cũng như cuộc khởi nghĩa n Thế. Từ đó,
tác giả lí giải hiện tượng này với tư cách những biểu đạt tinh thần dân tộc từ một vài
gợi ý của các nghiên cứu văn chương thời thực dân [29, tr.64]. Có thể nói, đây là
nghiên cứu đầu tiên và rõ nét nhất về nhân vật Đề Thám trong sáng tác văn chương
trước 1945. Kết quả nghiên cứu của tác giả đã cho chúng tơi có thêm một ý kiến về
vấn đề: phương thức ứng xử của các nhà văn trước 1945 đối với nhân vật lịch sử
Hoàng Hoa Thám như thế nào.
Về hình tượng Đề Thám trong các tác phẩm văn chương sau 1945, chúng tôi
nhận thấy vấn đề này chỉ được nhắc đến ở một số nghiên cứu chung về tiểu sử, sự
nghiệp hay phong cách của các nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Khởi
Phong,... Tác giả Nguyễn Vy Khanh, trong bài viết Nguyễn Huy Thiệp: những chuyện
huyền kì, núi, sông và nước... phần giới thuyết về truyện ngắn Mưa Nhã Nam, có nhận
xét: "Hùm thiêng Yên Thế của Nguyễn Huy Thiệp là một anh hùng, cũng là một người
nhu nhược, anh hùng cũng có những cái hữu hạn" [63, tr.378]. Cịn cuốn tiểu thuyết
Người trăm năm cũ của Hồng Khởi Phong được cho rằng đã: "bám khá sát tư liệu
lịch sử, có ngày có tháng cùng những sự kiện liên quan nhưng không phải cuốn biên


10

niên sử về cụ Hoàng Hoa Thám mà là cuốn tiểu thuyết về cuộc đời như tiểu thuyết
của cụ" [108]. Các khảo sát trên chú ý đến Đề Thám trong mối quan hệ rộng lớn với
những người anh hùng khác như Bà Ba Cẩn, Cả Trọng, Cai Sơn, Kỳ Đồng Nguyễn

Văn Cẩm,... Đặc biệt, nhân vật Hoàng Hoa Thám được phân tích là "một bi kịch của
lịch sử, một phản anh hùng vì hành cử đấu tranh của ơng đã cùng lúc chuẩn bị cho
cái chết của chính ơng và nhóm của ơng" [110].
Có thể nói, thủ lĩnh Hồng Hoa Thám là một nhân vật lịch sử được các nhà văn
quan tâm trong non một thế kỉ, dù không liên tục nhưng khối lượng tác phẩm viết về ông
tương đối đồ sộ. Theo đó, trong giới nghiên cứu cũng có nhiều cơng trình, bài viết đánh
giá các sáng tác trên. Tuy nhiên, hầu hết những bài viết đều ở dạng đánh giá giá trị biểu
dương một nhân vật lịch sử, hoặc nằm trong nghiên cứu chung về sự nghiệp, hoặc nghệ
thuật viết của các tác giả. Trong số các nghiên cứu về Hồng Hoa Thám, có hai luận văn
gần gũi nhất với đề tài của chúng tôi, là: Nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám trong các
sáng tác văn học trước 1945 của tác giả Hồng Thị Hiên và Hình tượng Hoàng Hoa
Thám và nghĩa quân trong văn học dân gian và lễ hội tưởng niệm ở vùng Yên Thế - Bắc
Giang của tác giả Nguyễn Thị Tâm. Tuy nhiên, các tác giả chỉ dừng lại khảo sát, nghiên
cứu ở phạm vi hẹp (các tác phẩm văn chương về Hoàng Hoa Thám giai đoạn trước 1945)
hoặc giới hạn thể loại, loại hình nhất định (truyền thuyết, vè, trị diễn dân gian). Trong
khi đó, mảng truyện kể, thơ ca và lễ hội dân gian cũng như những tác phẩm văn chương
sau năm 1945 viết về Hoàng Hoa Thám khá phong phú, chưa kể đến lễ hội hiện đại và
việc lưu truyền nhân vật này trong giáo dục địa phương cũng còn rất nhiều vấn đề cần
bàn tới. Thêm nữa, chúng tôi nhận thấy, cho đến nay chưa có một chuyên luận nào tìm
hiểu xâu ch̃i các diễn giải về nhân vật lịch sử Hồng Hoa Thám: từ góc độ sử liệu
(Việt và Pháp), từ văn chương (văn học dân gian, văn học viết), trong lễ hội (từ dân gian
đến hiện đại), và trong giáo dục (ở các môn văn - sử và các cấp trung học cơ sở, trung
học phổ thơng).
Chính vì những thực tế nghiên cứu nói trên, chúng tơi hy vọng đề tài: "Hoàng
Hoa Thám, hiện thực lịch sử và những phiên bản văn chương" sẽ có một giá trị tìm
mới nhất định, góp phần mở rộng thêm những vấn đề đã đặt ra, đồng thời mở ra hướng
nghiên cứu mới về các nhân vật lịch sử khác được quan tâm trong văn chương nói
chung, tiểu thuyết lịch sử nói riêng.



11

1.2. Cơ sở giải quyết các vấn đề của luận án
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
1.2.1.1. Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật
Về nguyên tắc, mối quan hệ này cần được khảo sát ở cấp độ lý thuyết qua mọi
thể loại văn chương. Tuy nhiên, trên thực thế, những luận bàn của các nhà nghiên cứu
ở cả phương Tây và phương Đông thường tập trung vào thể loại tiểu thuyết, bởi đây
là hình thức tự sự hư cấu xuất hiện thường xuyên hơn, điển hình hơn so với hình thức
tự sự trữ tình. Nói khác đi, những thảo luận về quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu
tập trung ở tiểu thuyết thường được coi là đại diện cho văn chương nói chung. Vì vậy,
những luận thuật dưới đây của chúng tôi xin được thu gọn trong phạm vi sự thật lịch
sử - hư cấu trong tiểu thuyết.
Ở phương Tây
Nhìn từ cấp độ đơn giản nhất của khái niệm, mục từ "Historical novel" (Tiểu
thuyết lịch sử) đã được lý giải như sau:
Tiểu thuyết lịch sử là một tiểu thuyết mà ở đó hành động diễn ra trong một
thời kỳ lịch sử nhất định trước khi nó được viết ra (thường là trước đó một hay
hai thế hệ, thi thoảng là vài thế kỷ), và cố gắng khắc họa chính xác những tập
tục và trạng thái tinh thần của thời kỳ lịch sử đó. Nhân vật chính - thực hoặc
tưởng tượng - thường bị giằng xé về lòng trung thành trong một xung đột lịch
sử rộng lớn mà độc giả đã biết.1
Hoặc:
Một tiểu thuyết lịch sử là một tiểu thuyết có bối cảnh quen thuộc là một giai
đoạn quan trọng của lịch sử, và tìm cách chuyển tải tinh thần, tập tục và điều
kiện xã hội của thời quá khứ một cách chi tiết hiện thực và trung thực (trong
nhiều trường hợp chỉ có vẻ ngồi trung thực) với thực tế lịch sử. Tác phẩm có
thể nói về những nhân vật lịch sử có thực... hay có thể là sự hòa trộn giữa
nhân vật hư cấu và lịch sử.2


1
2

Trần Hải Yến dịch theo Từ điển Literary Terms của Oxford.
Trần Hải Yến dịch theo Từ điển Encyclopædia Britannica.


12

Cả hai quan niệm đều nhấn mạnh việc khắc họa chính xác những tập tục và
trạng thái tinh thần của thời kỳ lịch sử và chuyển tải tinh thần, tập tục và điều kiện
xã hội của thời quá khứ một cách chi tiết hiện thực và trung thực của tiểu thuyết lịch
sử, tức là coi trọng yếu tố lịch sử trong một cuốn tiểu thuyết lịch sử1. Ở ý kiến thứ hai
bắt đầu đề cập đến sự hòa trộn giữa nhân vật hư cấu và lịch sử.
Đây là những định nghĩa có phần khác với quan niệm coi nhẹ sự thật lịch sử khi
sáng tác đề tài lịch sử của Alexandre Dumas, một nhà tiểu thuyết lịch sử người Pháp.
Ông cho rằng: “Lịch sử đối với tơi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo các bức họa
của tôi mà thôi” [dẫn theo 57, tr.22]. Tức là với Dumas sự kiện lịch sử chỉ là phương
tiện để nhà văn viết tiểu thuyết và gửi gắm tư tưởng riêng của mình mà thơi.
Xử lý sâu hơn các vấn đề của tiểu thuyết lịch sử là cơng trình The Historical
Novel (Tiểu thuyết lịch sử, 1936-1937) của Georg Lukacs - triết gia, nhà văn, nhà mỹ
học, nhà phê bình văn học người Hungary. Ở nghiên cứu này, Lukacs trình bày các
vấn đề:
Cảm thức lịch sử, theo Lukacs là yếu tố quan trọng trong việc sáng tác tiểu
thuyết lịch sử: "Lịch sử là cái tồn tại, là tiến trình liên tục của các thay đổi và nó trực
tiếp can thiệp vào cuộc đời của từng con người. Các sự kiện lịch sử làm cho con
người cảm nhận được điều kiện lịch sử của sự tồn tại của mình, rằng có cái gì đó
trong lịch sử liên quan đến bản thân họ" [18, tr.41]. Nói khác đi, lịch sử đã chi phối
người cầm bút sáng tác thông qua tác động xã hội mà anh ta đang sống, tác động này
sẽ ảnh hưởng đến cái nhìn lịch sử của anh ta, đến lựa chọn viết thể loại tiểu thuyết

lịch sử hoặc chọn đề tài và thời đại lịch sử nào.
Một số yêu cầu của tiểu thuyết lịch sử:

Quan niệm trên khá tương đồng với L. Tôn xtôi - người đã dành một phần tư thế kỉ để nghiên cứu
về thời đại Piốt đệ nhất, tác giả của bộ tiểu thuyết lịch sử Chiến tranh và Hòa bình (1863), ơng khẳng
định: "Bộ tiểu thuyết của tơi chính xác như một tác phẩm nghiên cứu lịch sử và đó chính là sức mạnh
của nó".
Cùng quan niệm với các nhà văn phản ảnh trung thành lịch sử trên, vào những năm 40 của thế kỉ XX
còn có một số nhà viết tiểu thuyết lịch sử nước Anh, như bà Hope Muntz - người đã phải tốn 16 năm
để nghiên cứu sử liệu mới viết nổi cuốn tiểu thuyết The golden warrior (1949) nói về William the
Conqueror và Harold the Saxon. Cịn bà Sylvia Townsend Warner thì phải mất 10 năm để thám hiểm
cuộc sống trong một tu viện ở Anh vào thế kỉ XIV, cuốn tiểu thuyết chân thực đến nỗi độc giả cảm
thấy rằng chắc bà đã sống ở tu viện mới viết nổi cuốn tiểu thuyết The corner that held them (1947) [72,
tr.168].
1


13

Về nhân vật, Lukacs cho rằng nhân vật tiểu thuyết lịch sử "phải sinh động hơn
các nhân vật lịch sử vì các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử được trao cho sự sống,
cịn các các nhân lịch sử thì đã sống" [18, tr.41].
Về nhiệm vụ của tiểu thuyết lịch sử,theo Lukacs, là "chứng minh sự tồn tại của
hoàn cảnh và nhân vật lịch sử bằng công cụ nghệ thuật" [18, tr.41].
Về mối quan hệ giữa hư cấu và sự thật lịch sử, Lukacs cho rằng: "Hư cấu cho
phép các nhân vật diễn đạt tình cảm, tư tưởng về các quan hệ lịch sử có thực rõ nét
hơn những con người của thời ấy đã từng trải nghiệm, nhưng phải luôn xác thực về
mặt lịch sử, xã hội" [18, tr.41]. Lukacs cũng kỳ vọng tiểu thuyết lịch sử phải tạo nên
tri giác về kết nối nhân văn giữa con người ở những thời - không khác nhau: "Tiểu
thuyết lịch sử phải tái trải nghiệm (re-experience) tâm lý và đạo đức của con người

quá khứ như một giai đoạn phát triển của nhân loại, có liên quan và tác động đến
con người đương đại chúng ta" [18, tr.41].
Như vậy, Lukacs nghiêng về quan niệm tiểu thuyết lịch sử phải có nhiệm vụ
nghệ thuật hóa lịch sử trên cơ sở nhà văn phải đảm bảo luôn xác thực về mặt lịch sử
xã hội để tác động vào con người hiện tại.
Góp thêm ý kiến về vấn đề thời gian gián cách giữa nhà văn và hiện thực lịch
sử được phản ánh, Hội tiểu thuyết lịch sử cũng đã đề xuất một số tiêu chí sơ bộ để
nhận diện Tiểu thuyết lịch sử, trong đó có tiêu chí: Tiểu thuyết phải được viết tối
thiểu 50 năm sau những sự kiện được miêu thuật, hay được biết bởi một người không
sống trong thời của những sự kiện nọ (do vậy chỉ tiếp cận chúng qua nghiên cứu).
Như vậy, theo Hội tiểu thuyết lịch sử thì tác giả khơng trực tiếp trải nghiệm sự kiện
lịch sử được trình hiện, mà chỉ tri nhận thơng qua nghiên cứu sử liệu, phục dựng lịch
sử dựa trên tri thức lịch sử đã có.
Tựu trung, quan niệm của phương Tây đã tách biệt sự thật lịch sử và hư cấu.
Đồng thời cho rằng tác phẩm nghệ thuật có đề tài lịch sử cần tham gia vào đời sống
đương đại như một trải nghiệm mới.
Ở phương Đơng
Có thể nói, quan niệm về mối quan hệ giữa văn - sử được thể hiện rõ nhất ở
Trung Quốc. Thời cổ đại, Trung Quốc có quan niệm "văn sử triết bất phân" - văn sử


14

cùng triết tạo thành một tổ hợp gắn bó khăng khít, dường như khơng tách rời nhau,
tạo nên một đặc trưng trong văn học. Quan niệm này chi phối mạnh mẽ các sáng tác
của văn học phương Đông cổ đại. Chính vì vậy, nó đã tạo nên hiện tượng "vào khoảng
thế kỉ XIV xuất hiện một thể loại văn trần thuật cỡ lớn, có nguồn gốc từ Văn học dân
gian truyền miệng, tạm gọi là sử thi. Thể loại này được sáng tạo dựa trên cơ sở của
các chuyện kể có cốt truyện kết hợp với biên niên sử/ hoặc nhiều đoạn trích từ các
tài liệu sử khoảng thế kỉ XIII, XIV. Đa số các sáng tác loại này tường thuật về lịch

sử, miêu tả sự kiện lịch sử dân tộc từ ngày khai thiên lập địa đến triều Minh. Cùng
thời điểm thế kỉ XVI, ở Trung Quốc cũng xuất hiện những cuốn sử thi-anh hùng ca
(Thủy hử), hoặc tác phẩm trần thuật cỡ lớn về cuộc đời riêng một người (Kim Bình
Mai)" [78, tr.32].
Lỡ Tấn trong Sơ lược lịch sử của tiểu thuyết Trung Quốc có nói: Ban đầu thể
loại tiểu thuyết là những thoại bản đời Tống Nguyên. Thoại bản tức là văn bản mà
nghệ nhân hay người kể chuyện (thuyết thoại nhân) dùng để kể cho người khác nghe
về truyện xưa tích cũ, một hình thức văn nghệ dân gian xuất hiện từ đời Đường và
đặc biệt thịnh hành vào giai đoạn Tống Nguyên. Có thể chia thoại bản Trung Quốc
thành hai loại lớn: tiểu thuyết và giảng sử. Thoại bản giảng sử viết bằng văn ngôn,
đôi khi cũng pha văn bạch thoại. Loại thoại bản này chịu nhiều ảnh hưởng của chính
sử. Sử-văn khơng tách biệt mà nội dung dựa vào truyện tích lịch sử là chính [82,
tr.10]. Cùng với việc phát triển của thoại bản thì hình thức diễn nghĩa lịch sử đặc biệt
được ưa chuộng đời Tống, Nguyên. Các truyện được kết cấu theo kiểu chương hồi,
mỗi chương/hồi kể một câu chuyện tương đối hồn chỉnh. Có thể kể đến: Tam quốc
diễn nghĩa, Đơng Chu liệt quốc, Thủy hử, Tây du ký,… trong đó Tam quốc diễn nghĩa
là một trong những cuốn tiểu thuyết chương hồi ra đời sớm nhất, lưu hành rộng rãi
nhất Trung Quốc.
Cũng nằm trong truyền thống của tiểu thuyết Viễn đông là tiểu thuyết Nhật Bản.
Tsubouchi Shoyo - kịch gia, tiểu thuyết gia, phê bình gia và dịch giả nổi tiếng của Nhật
Bản thời cận đại - trong cơng trình quan trọng đầu tiên của nghiên cứu văn chương
Nhật Bản hiện đại, Chân tủy của tiểu thuyết (1885-1886), đã nhắc đến một lịch sử huy
hoàng của tiểu thuyết Nhật Bản trong đó có truyện lịch sử. Những tên tuổi ơng nhắc
đến đều sống vào khoảng thế kỷ X, cho thấy tiểu thuyết, đặc biệt là truyện lịch sử xuất


15

hiện khá sớm ở Nhật Bản. Tsubouchi Shoyo cũng dành một chương để nói về việc xây
dựng cốt truyện của tiểu thuyết lịch sử. Điều ông nhấn mạnh là: tiểu thuyết gia khi viết

cần phân biệt tiểu thuyết lịch sử và lịch sử, phân biệt tiểu thuyết gia và sử gia. Theo
ông, "điều quan trọng nhất của những dị biệt giữa tiểu thuyết và lịch sử chính là tiểu
thuyết có khả năng lấp đầy những khoảng trống" [93, tr.200]. Vì vậy, ông cho rằng
"khi viết tiểu thuyết lịch sử là giữ càng nhiều càng tốt mối liên hệ với nền tảng chứ
không phải với bề mặt của lịch sử. Ở bề mặt, tơi muốn nói đến các sự kiện ghi lại trong
sách sử; ở nền tảng, là những thứ không thể bị phát hiện từ nguồn này" [93, tr.202].
Từ đó Tsubouchi Shoyo đề cập đến việc: "Các tác giả tiểu thuyết lịch sử có thể mắc
nhiều sai sót, mà chủ yếu là sự bất nhất về biên niên, sai lầm về sự kiện và thể hiện
không đúng tập tục" [93, tr.203].
Thực tế, các nhà tiểu thuyết Nhật Bản trong quá khứ khơng coi trọng, địi hỏi
truyện trung thành với sử liệu, đặc biệt là niên đại và miêu tả tập tục của thời đại.
Theo Tsubouchi Shoyo, một số tác giả cịn cơng khai khun độc giả đừng lo lắng về
điều đó. Tsubouchi Shoyo khơng đồng tình với việc làm này của các tiểu thuyết gia:
"Đó là điều hiển nhiên phải tránh vì mục đích chính của tiểu thuyết lịch sử là kể lại
những thơng tin phía sau tấm rèm về các nhân vật và sự kiện lịch sử: tất nhiên việc
này khơng thể giải quyết hồn tồn dứt khốt nếu các sự việc bên ngoài là nền tảng
của câu chuyện lại khơng chính xác" [93, tr.204].
Có thể nói, với quan niệm trên, tác giả Tsubouchi Shoyo đề cao tính chính xác
và trung thành với dữ liệu lịch sử của một tiểu thuyết lịch sử, những sai lệch thông
tin như ông nói có thể là hư cấu trong loại tiểu thuyết này chưa được cơng nhận vào
thời đó.
Những quan niệm mang tính cổ điển ở cả phương Đơng và phương Tây về tiểu
thuyết lịch sử, về mối quan hệ giữa hư cấu và sự thực lịch sử trên đây đã ảnh hưởng
trực tiếp đến các nhà bình điểm, nghiên cứu văn học Việt Nam. Nhìn lại những cuộc
tranh luận về vấn đề này kéo dài qua nhiều thập kỷ với một dấu ấn thay đổi là thời
điểm 1986 [xin xem Phụ lục 1, tr.160], có thể thấy hai khuynh hướng quan niệm: 1/
coi văn chương là mơ hình phản ánh hiện thực, tức là đòi hỏi văn học nghệ thuật phải
theo sát và trung thực với thực tế - hay còn được gọi là "Lịch sử hóa" tiểu thuyết; 2/
nhìn văn học như một hình thức nghệ thuật để chiêm nghiệm và suy tư về hiện thực



16

- hay cịn được gọi là "Tiểu thuyết hóa" lịch sử. Theo quan niệm thứ hai này, văn học
có thể và có quyền độc lập nhất định với thực tế, với sự thật lịch sử.
Tóm lại, xét từ góc độ lý thuyết, cả phương Đông và phương Tây đều quan tâm,
và có những quan niệm về tiểu thuyết lịch sử nói chung và mối quan hệ giữa sự thật lịch
sử với hư cấu nói riêng. Nhưng, trong khi phương Tây đã có những khái niệm, định
nghĩa, quan niệm rõ ràng thì ở phương Đơng việc bàn về mối quan hệ giữa hư cấu - sử
thực thường chỉ xuất hiện trong những nghiên cứu trường hợp cụ thể. Tất cả những lý
thuyết và quan niệm ở phương Đông và phương Tây về tiểu thuyết lịch sử đều ảnh hưởng
đến sáng tác, nghiên cứu phê bình tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam.
1.2.1.2. Quan niệm về mối quan hệ giữa lịch sử và folklore
Từ thế kỉ XIX, những đại diện của trường phái thi pháp lịch sử trong nghiên
cứu folklore, như A. N. Veselovski, Vsevolod Miller và V. IA. Propp đã sử dụng
phương pháp tiếp cận nguồn gốc lịch sử và sự biến đổi lịch sử của các hiện tượng
folklore khi nghiên cứu nhiều hình thức văn học dân gian, nhất là thể loại truyện kể.
Trình bày về điều này trong tác phẩm “Những gốc rễ lịch sử của truyện cổ tích
thần kì”, V. IA. Propp cho biết: mục đích của mình là “nghiên cứu xem những hiện
tượng (chứ không phải sự kiện) nào của quá khứ lịch sử phù hợp với truyện cổ Nga”,
tức là “giải thích nguồn gốc của truyện thần kì trong thực tại lịch sử” [dẫn theo 74,
tr.182]. Propp đặc biệt nhấn mạnh đến việc tìm kiếm nguồn gốc xa xưa của motif, và
để tìm hiểu được nguồn gốc thực sự của truyện cổ thì cần phải sử dụng những điều
chỉ dẫn tỉ mỉ về nền văn hóa - lịch sử của thời quá khứ. Lấy dẫn chứng từ việc phân
tích cụ thể các motif tiêu biểu, Propp chỉ ra: những phong tục tập quán, nghi lễ, quan
niệm, tín ngưỡng cổ xưa được dân gian các đời tiếp nhận, truyền tụng. Tuy nhiên,
bằng các phân tích cụ thể, ông cũng cho rằng: bên cạnh giá trị lưu giữ, truyện cổ còn
kể/phản ánh những hiện tượng hoặc sự việc trái ngược với thực tế lịch sử đã diễn ra.
Như vậy, sự lưu giữ của dân gian là có chọn lọc và sáng tạo. Dẫn đến việc tạo nên
các hình thức phái sinh trong truyện cổ tích, và kết quả là sự xâm nhập của thực tại

vào trong truyện cổ tích cũng như sự thay hình đổi dạng của các motif với những kiểu
biểu hiện càng thêm đa dạng.


17

Cùng quan điểm này, Mikhail Speransky, đã nói trong giáo trình văn chương
truyền miệng Nga của mình rằng: “chúng tơi khi nghiên cứu tráng sĩ ca, cố gắng khám
phá các sự kiện lịch sử làm cơ sở của nó, và… từ tiền đề này, chúng tôi chứng minh
sự đồng nhất của cốt truyện tráng sĩ ca với cái sự kiện nào đó đã biết…” [dẫn theo
74, tr.182].
Như vậy, từ các nghiên cứu thể loại folklore cụ thể khác nhau (tráng sĩ ca,
truyện cổ), V. IA. Propp và Speransky đều đã khẳng định mối quan hệ giữa folklore
và lịch sử cũng như khoảng cách giữa chúng. Trong đó, folklore là nơi lưu giữ dấu
tích cổ xưa của những nền văn hóa, lịch sử quá khứ; ngược lại văn hóa, lịch sử cũng
đã xâm nhập vào folklore theo nhiều cách khác nhau - qua các motif hoặc/và sự can
thiệp (sáng tạo) của tác giả dân gian. Trạng thái phức tạp này cũng được chứng thực
trong nhiều thể loại folklore Việt Nam, đặc biệt là truyền thuyết lịch sử [xin xem Trần
Thị An, Tạ Chí Đại Trường].
1.2.1.3. Quan niệm về diễn giải lịch sử
Trong các tiếp cận hiện đại, có hai lý thuyết thể hiện quan niệm mới mẻ về diễn
giải lịch sử, đó là lý thuyết diễn ngơn và hậu hiện đại.
Thuật ngữ diễn ngôn đang thịnh hành trong đời sống học thuật Việt Nam gần đây
có nguồn gốc từ châu Âu, được dịch từ thuật ngữ discourse. Theo dẫn nhập của Diệp
Quang Ban, nhà ngôn ngữ học người Bỉ E. Buysen là người đầu tiên sử dụng discourse
như một khái niệm chun mơn trong tác phẩm Hoạt động nói năng và văn bản (1943).
Từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX, nghiên cứu diễn ngơn (hay cịn gọi là phân tích
diễn ngơn) trở thành một trào lưu khoa học phát triển rầm rộ ở châu Âu và “diễn ngôn”
trở thành một khái niệm trung tâm, được lưu hành rộng rãi trong khoa học xã hội và nhân
văn [6, tr.146], như triết học, xã hội học, ngơn ngữ học, tâm lí học, nghiên cứu văn học...

Nội hàm của thuật ngữ này vì thế rất đa dạng. Đồng thời việc triển khai phân tích diễn
ngơn rộng rãi cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề, tuy nhiên có thể thấy, trong lĩnh vực
nghiên cứu văn học, những quan niệm và diễn giải của Foucault đem lại nhiều gợi dẫn
có ý nghĩa hơn cả.
Theo Foucault, “tất cả các phát ngôn hoặc văn bản mang nghĩa và có một hiệu
lực nào đó trong thế giới thực, đều được coi là diễn ngôn”. Từ cách xác lập diễn ngơn
này, Foucault chỉ ra vai trị của diễn ngơn, đó là: q trình tạo nghĩa trong diễn ngơn


18

cũng “đồng thời hướng tới sự tác động, thay đổi thế giới, kiến tạo nên thế giới xã hội
của con người”, và do mang trọng trách như vậy nên diễn ngơn cần “được kiểm
sốt/điều chỉnh”. Chính vì quan niệm như vậy, mối quan hệ giữa quyền lực và tri thức
là đối tượng quan tâm hàng đầu của nhà diễn ngôn học. Ơng nhận thấy rằng, hình thái
ý thức xã hội, trạng thái tri thức của con người và cơ chế quyền lực trong xã hội đã trở
thành một cơ chế ngầm chi phối cách tạo lập diễn ngôn [116].
Riêng với khoa nghiên cứu văn học, lý thuyết diễn ngôn do Foucault đề xuất có
những hệ quả đáng chú ý. Trong 5 gợi dẫn của Trần Văn Toàn về vấn đề này, có hai
điểm liên quan với đề tài của luận án của chúng tôi. Thứ nhất, trong khi lý thuyết phản
ánh coi văn chương nghệ thuật là sự mô phỏng hay sao chép thực tại và do đó tạo ra một
khoảng cách giữa văn chương nghệ thuật và thực tại thì “Lí thuyết diễn ngơn của
Foucault phá bỏ khoảng cách này. Cái gọi là sự thật về đời sống hay con người theo
Foucault, thực chất, cũng chỉ là sản phẩm của diễn ngơn được hình thành từ những
tương quan quyền lực-tri thức của một giai đoạn, một thời kì lịch sử cụ thể. Thay cho
việc đặt trọng tâm vào việc đặt câu hỏi: văn học đã làm thế nào để thu hẹp khoảng
cách giữa nó và thực tế đời sống thì giờ đây, chúng ta phải quan tâm đến câu hỏi:
trong những tương quan quyền lực-tri thức nào mà những sự thật nào đó được quyền
xuất hiện và miêu tả trong diễn ngôn văn học” [118]. Như vậy, với lý thuyết diễn
ngơn, khơng có mợt sự thật đời sống mà có "sự thật" ở số nhiều do diễn ngơn tạo

ra, vì vậy, thay vì đặt câu hỏi như xưa nay, rằng: đâu là sự thật, đâu là hư cấu thì nên
đặt vấn đề tìm hiểu cơ chế nào tạo ra ‘sự thật’ (hoặc những ‘sự thật’) đó. Thứ hai,
mối quan hệ giữa văn học với khung tri thức tạo ra “một tương quan mới giữa văn
bản văn học và các kiểu loại văn bản khác”, theo đó, văn học cần được nghiên cứu
cùng với các văn bản khác, (chẳng hạn như văn bản du lịch, văn bản khoa học, các
bài tiểu luận...). Hay nói khác đi, “những vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học hồn
tồn có thể tìm thấy ở những loại văn bản khác” [118], tức là trong nghiên cứu văn
học giờ đây không nhất thiết phải thảo luận các văn bản chỉ theo cách cái này chi phối
cái kia ra sao mà cịn có thể đặt các văn bản khác loại đó trước cùng một câu hỏi:
chúng được tạo nên do những nhân tố nào và đặc thù của từng loại diễn ngơn đã góp
phần tạo ra các biến thể như thế nào khi chúng cùng thuật tả về cùng một đối tượng.


×