Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận: Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.2 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là sau khi dành được chính
quyền(1945) Đảng và Nhà nước ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến sự nghiệp phát triển giáo dục của nước nhà. Đó là nguyên
nhân cơ bản và chủ yếu nhất quyết định chất lượng và sức mạnh nguồn nhân
lực để đất nước chúng ta hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “ dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trải qua hơn 70 năm, nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, Đảng
ta đã đưa ra nhiều quan điểm, chủ trương chiến lược để chỉ đạo phát triển nền
giáo dục Việt Nam. Các quan điểm, chủ trương đó được thể hiện hầu hết các
văn kiện thông qua các kỳ Đại hội cũng như các Hội nghị của Đảng bàn về
công tác giáo dục, đào tạo; trong Hiến pháp và Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo
phát triển giáo dục của Đảng trong những năm tới đây: Được thể hiện rõ nhất
trong “ Chiến lược phát triển giáo dục 2010- 2020”. Đây là sự phản ánh đầy đủ,
tập trung tư tưởng, đường lối, chủ trương phát triển giáo dục của Đảng, nhăm
đưa hoạt động “ quốc sách hàng đầu” này vào đúng vị trí của nó để đào tạo
nguồn nhân lực tốt nhất cho thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố và những
năm phát triển tiếp theo.
Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển
giáo dục 2010- 2020. ý nghĩa đối với công tác giáo dục, đào tạo ở nhà
trường quân sự hiện nay.
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu đã đạt được, chỉ ra những hạn chế, yếu
kém của sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong những năm qua; đồng thời nhận định
tình hình quốc tế và trong nước có những thời cơ và thách thức đối với giáo dục


2

2



nước ta trong trong vài thập kỷ tới đây. Chiến lược phát triển giáo dục 2010- 2020
đã chỉ rõ những quan điểm cơ bản chỉ đạo phát triển giáo dục ở nước ta, đó là:
1. Giáo dục là quốc sách hàng đầu.
2. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học,hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội,
tiến bộ khoa học- cơng nghệ, củng cố quốc phịng, an ninh.
4. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Các quan điểm này có mối quan hệ thống nhất với nhau nó chỉ ra tồn
bộ của q trình đào tạo và chỉ đạo xác định mục tiêu, biện pháp, giải pháp
để phát triển giáo dục từ nay đến năm 2020.Bốn quan điểm chỉ đạo về phát
triển giáo dục trên là một thể thống nhất có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau; mỗi một quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục có vị trí vai trị riêng
nhưng cùng chung một mục đích đó là chỉ đạo phát triển nền giáo dục nư ớc
nhà để nâng cao chất lượng nguồn nhân nhân lực đáp ứng với yêu cầu của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .Trong đó : “ Giáo dục là
quốc sách hàng đầu” là quan điểm xuất phát- quan điểm trung tâm quan
trọng nhất chi phối các quan điểm khác trong quá trình chỉ đạo phát triển
giáo dục; Nắm, hiểu, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt quan điểm này là
nắm được hạt nhân- bản chất của nền giáo dục nước ta.
Do vậy trong lượng thời gian có hạn tác giả chỉ đi nghiên cứu phân tích
và làm rõ quan điểm “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đã đặt
giáo dục vào vị trí quốc sách hàng đầu. Con người được giáo dục và biết tự
giáo dục được coi là nhân tố quan trọng nhất, “ vừa là động lực, vừa là mục
tiêu” của sự phát triển bền vững của xã hội. Giáo dục đang trở thành một bộ
phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển



3

3

của tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, quốc phịng và an ninh; bởi
lẽ, con người được giáo dục tốt và biết tự giáo dục từ xa mới có khả năng giải
quyết một cách sáng tạo và có hiệu quả tất cả những vấn đề do sự phát triển xã
hội đặt ra. Tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục thể hiện ở vai trò là động lực
phát triển kinh tế- xã hội của nó. Một nền kinh tế- xã hội muốn có sức mạnh để
phát triển cần phải tạo ra được một trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại và nguồn
chất xám cũng như nhân lực kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cấp các
hoạt động văn hoá, tinh thần v v, điều này phụ thuộc vào giáo dục.
Tác động của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế- xã hội ngày càng trở
nên mạnh mẽ, giáo dục thực sự là một bộ phận đặc biệt của cơ sở hạ tầng, là
tiền đề cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực xã hội như chính trị, kinh tế,
văn hố, an ninh, quốc phịng…, đồng thời tạo ra sức mạnh bên trong to lớn
thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển. Ngược lại, các lĩnh vực kinh tế- xã hội cũng
có tác động, ảnh hưởng to lớn đến giáo dục. Có thể nói rằng, giáo dục vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội, đồng thời sự phát
triển kinh tế- xã hội cũng là mục tiêu và tạo ra sức mạnh cho giáo dục.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, luôn
luôn dành sự quan tâm và tạo điều kiện để phát triển giáo dục. Dân tộc ta có
truyền thống yêu nước, lao động cần cù, thơng minh và tinh thần hiếu học.
Đảng và Chính phủ đang phát huy những đặc điểm này để xây dựng một nền
giáo dục Việt Nam tiến tiến, hiện đại, hướng tới một xã hội học tập nhằm đáp
ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao phẩm chất toàn diện của con
người Việt Nam trong thời đại mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhiều chính sách
phát triển giáo dục đã được xây dựng và thực hiện, trong đó có chính sách mở
rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo nhăm khai thác nguồn lực
của các nước tiên tiến phục vụ cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.



4

4

Tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là một xu thế phát
triển khách quan, trong đó vừa diễn ra q trình hợp tác để phát triển, đồng
thời vừa là quá trình cạnh tranh gay gắt giữa các nước. Sự đua tranh quyết
liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc ra,yêu cầu và điều kiện ra nhập hoạt
động trong một số tổ chức như: Tổ chức thương mại thế giới ( WTO) đã và
đang đặt ra cho các nước đang phát triển, trong đó có nước ta, những cơ hội
và thách thức mới về chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao năng xuất lao
động, chất lượng hàng hoá- dịch vụ, năng lực cạnh tranh.
Cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đã và đang tiếp tục diễn ra, với
những bước tiến nhẩy vọt mang tính đột phá. Thế giới đã và đang chuyển từ
kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển nền kinh tế tri
thức. Khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp có tác động
tới tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng, sâu sắc đời sống vật chất
và tinh thần của xã hội. Khoảng cách giữa các phát minh khoa học công
nghệ và áp dụng vào thực tiễn ngày càng thu hẹp lại; kho tàng kiến thức của
nhân loại ngày càng đa dạng, phong phú. Thông tin và tri thức trở thành
nguồn lực chủ yếu cho phát triển, là lợi thế cạnh tranh của các nước.
Đối với giáo dục đang diễn ra trên quy mơ tồn cầu, tạo nên những thay
đổi sâu sắc từ triết lý, quan niệm, giá trị giáo dục đến xây dựng hệ thống,
xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục. Nhà trường từ chỗ khép
kín, kinh viện ( xa rời thực tế) chuyển sang mở cửa, đối thoại với xã hội, gắn
bó chặt chẽ với nhu cầu phát triển xã hội, với nghiên cứu khoa học công
nghệ và ứng dụng. Nhà giáo thay vì đơn thuần truyền thụ tri thức, chuyển
sang vai trò hướng dẫn cho người học phương pháp tư duy, hình thành năng

lực hành động, khả năng thu nhận sử lý, sử dụng thông tin, sáng tạo tri thức
mới. Giáo dục không chỉ là kiến thức thượng tầng, mà còn là cơ sở hạ tầng
xã hội đóng vai trị chủ yếu trong việc phát triển con người và góp phần


5

5

quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế xã hội…Đầu tư cho giáo dục từ
chỗ được xem đơn thuần chỉ là phúc lợi xã hội, chuyển sang loại hình đầu tư
cho phát triển.
Trong bối cảnh đó, tất cả các quốc gia (từ những nước phát triển đến
những nước đang phát triển) đều nhận thức được vai trị vị trí hàng đầu
của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng
động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển
kinh tế- xã hội đất nước và hội nhập quốc tế.
Đại hội Đảng lần thứ X đã tiếp tục khẳng định: Trên cơ sở nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc; trong thời
gian từ nay đến năm 2010 đưa nước ta ra khởi tình trạng kém phát triển, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Con đường công nghiệp
hố, hiện đại hố của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi
trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhẩy vọt. Cùng với khoa
học công nghệ, giáo dục đào tạo phải thực sự là quốc sách hàng đầu. Phát triển
nguồn nhân lực là nhiệm vụ hàng đầu, là khâu đột phá trong chiến lược phát
triển giáo dục đào tạo ở nước ta trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Ở nước ta, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá được tiến hành
trong điều kiện phát triển nhiều loại hình sản xuất, dịch vụ làm cho thị
trường lao động được mở rộng, loại hình nhân lực trở nên đa dạng, nhu cầu

học tập tăng lên; mặt khác cũng làm thay đổi quan niệm về giá trị, ảnh
hưởng đến việc xác định động cơ học tập, lựa chọn ngành nghề, đồng thời
cũng ảnh hưởng đến các quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội. Cơ chế
thị trường cũng tạo ra sự phân hố giầu nghèo, góp phần tăng thêm cách biệt
về cơ hội và điều kiện học tập giữa các tầng lớp dân cư. Mặc dù đã đạt được
nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế xã hội, song về cơ bản nước ta vẫn là


6

6

một nước nghèo đang phát triển, cơ cấu kinh tế chậm chuyển đổi, sức cạnh
tranh chưa cao, lao động trình độ thấp và dư thừa, thu nhập quốc dân GDP
trên đầu người còn thấp, các nguồn nhân lực đầu tư cho giáo dục cịn hạn
chế. Vì thế, việc hội nhập quốc tế cũng là một cách để chúng ta huy động
nguồn nhân lực của các nước và các tổ chức quốc tế vào phát triển nền giáo
dục nước nhà. Xã hội tạo điều kiện cho giáo dục phát triển, đồng thời cũng
đòi hỏi giáo dục phải đáp ứng những nhu cầu của xã hội; phải kịp thời điều
chỉnh cơ cấu và quy mô, nâng cao hiệu quả giáo dục để đáp ứng nhanh nhu
cầu nhân lực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đi
tắt đón đầu từ một nước kém phát triển, vai trị của giáo dục đào tạo và khoa
học công nghệ lại càng có tính quyết định.
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng
đã được khẳng định nhiều lần trong nhiều năm qua.Về mặt thuật ngữ, lần
đầu tiên tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta ta đã khẳng định: “
Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách
hàng đầu”. Kể từ đó đến nay quan điểm này luôn được nhấn mạnh lại một
cách mạnh mẽ và từng bước được triển khai thực hiện trong toàn xã hội một
cách cụ thể hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thức rằng không phải chỉ từ

khi giáo dục được khẳng định là quốc sách hàng đầu thì sự nghiệp giáo dục
của chúng ta mới được coi trọng. Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, ngày 08/09/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ba sắc lệnh quan
trọng: số17/sl; số 19/sl; số 20/sl để chỉ đạo sự nghiệp giáo dục- đào tạo của
dân tộc ta. Người cho rằng: “ Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, vì vậy,
muốn dân tộc ta được khoẻ mạnh lên, trước hết chúng ta phải làm cho mọi
người dân tộc Việt Nam trở thành những người cường tráng cả về thể chất và
tinh thần; phải làm cho “ai cũng được học hành”. Chính vì vậy mà trong
những điều kiện cực kỳ khó khăn, phức tạp của những năm đầu tiên dưới


7

7

chính quyền cách mạng, cùng với việc chống mù chữ, Đảng và chính phủ ta
có chủ trương cải tổ và xây dựng toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá (VII ) cho
rằng: Giáo dục và đào tạo phải được tiếp tục khẳng định là quốc sách hàng đầu,
là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phải coi đầu tư cho giáo dục là
một hướng chính của đầu tư phát triển. Mục tiêu của giáo dục là phát triển con
người, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo
những con người có kiến thức văn hố, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp…
Đáp ứng sự phát triển của quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Phát triển giáo
dục là biện pháp tốt nhất để sản sinh và vun trồng nhiều nhân tài, làm giầu
thêm “ nguyên khí quốc gia”, là bí quyết thành công, là biện pháp hữu hiệu để
đi tắt địn đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá.
Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã
khẳng định: “ nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng

những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và
bảo vệ tổ quốc… làm chủ tri thức khoa học và cơng nghệ hiện đại, có tư duy
sáng tạo, có năng lực thực hành giỏi, có tác phong cơng nghiệp, có tính tổ
chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã
hội vừa “hồng” vừa “ chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ ”.
Kế thừa những tư tưởng của Nghị quyết Trung ương hai (khoá VIII) và
những tư tưởng trước đó về cơng tác giáo dục đào tạo của Đảng. Đại hội
Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “ Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá; là
điều kiện để phát huy nguồn lực của con người- yếu tố cơ bản để phát triển
xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Thực tế, trong xã hội vẫn


8

8

tồn tại những cách hiểu, suy nghĩ chưa đúng về giáo dục đào tạo. Nhiều
người vẫn cho rằng giáo dục là chính sách phúc lợi xã hội, mọi người đều có
quyền hưởng thụ. Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, tức là giáo dục là phải
ưu tiên nhất; phải bao cấp cho nó nhiều nhất; tất cả giành cho cho giáo dục.
Cách hiểu như trên chúng ta thấy có phần đúng như chưa đủ. Cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng, người đã giành nhiều công sức chăm lo cho nền giáo dục
nước nhà đã chỉ ra rằng: Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu tức là mọi
người được hưởng thụ sự giáo dục mà nói phỏng theo ý của Bác Hồ “ Ai
cũng được học hành”. Không chỉ hưởng thụ mà mọi người phải cống hiến tất
cả những gì mình có thể cho giáo dục, làm cho giáo dục thực sự là quốc sách
hàng đầu. Vốn là dân tộc có truyền thống hiếu học và ham học, nhân dân ta
mong muốn, đòi hỏi một cách thiết tha quyền được giáo dục; giáo dục phải

đặt ở vị trí hàng đầu “ tức là vị trí hàng thứ nhất”, giáo dục phải được ưu tiên
hàng đầu trong mọi chính sách quốc gia, phải đi trước một bước làm đòn bẩy
cho sự phát triển kinh tế xã hội và con người; phải quan tâm tăng tỷ trọng
ngân sách cho giáo dục và chính sách phát triển giáo dục đúng đắn.
Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu còn được thể hiện ở chính sách phát
triển giáo dục, coi giáo dục là một bộ phận hữu cơ quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội. Chính sách phát triển giáo dục khơng nằm ngồi, khơng
tách khỏi chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Đây là cách nhận thức mới trong
những năm gằn đây, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội được thể hiện qua
các kỳ đại hội Đảng ta đều gắn chính sách giáo dục đào tạo với các chính sách
phát triển kinh tế- xã hội. Nói cách khác, trong đường lối phát triển kinh tế xã
hội đảng ta đều xác định chính sách phát triển giáo dục- đào tạo.
Nhận thấy “giáo dục có vai trị và tác dụng vô cùng quan trọng đối với sự
hưng thịnh của dân tộc, sự hưng thịnh về chính trị, về kinh tế, về văn hoá, về xã


9

9

hội, về cuộc sống…”1 Vì vậy, đầu tư cho giáo dục được coi là sự phát triển, đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho tương lai, tiền đồ của dân tộc. Giáo dục được xem là
một bộ phận cấu trúc đặc biệt của hạ tầng cơ sở. Đúng như Joy Singh đã nói: Giáo
dục phải là ở hàng đầu và đóng vai trị chủ chốt trong phát triển xã hội tương lai.
Từ những vấn đề phân tích ở trên tác giả có thể khẳng định rằng; nếu
coi giáo dục là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc và mang tính chất
phúc lợi thì chưa đủ. Cần phải hiểu lại là, giáo dục có nội dung nằm trong
thượng tầng kiến trúc, đó là những giá trị được kết tinh trong văn hoá trở
thành nội dung giáo dục. Nhưng mọi nền tảng của nó, những cơ sở và hoạt
động của nó phải là một bộ phận của cơ cấu hạ tầng. Chính vì vậy nói đầu tư

cho giáo dục là đầu tư cho mọi mặt phát triển kinh tế nào đó. Hội nghị Trung
ương bốn ( khố VII) đã chỉ ra: nhiều năm trước đây đầu tư cho giáo dục chủ
yếu được coi là đầu tư cho phúc lợi xã hội. Ngày nay đầu tư cho giáo dục là
đầu tư để phát triển. Cần xem đây là một chu trình quan trọng sản xuất sức
lao động với sản phẩm là con người có đạo đức, sức khoẻ, thẩm mỹ và trí
tuệ làm phát triển mạnh mẽ các lĩnh vực đầu tư có lợi nhất, mang lại lợi
nhuận cao nhất. Đây là kinh nghiệm, là bí quyết thành cơng của các quốc gia
phát triển và ngày nay hầu hết các nước trên thế giới rất quan tâm đến vấn đề
này.
Khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu còn bởi, giáo dục là điều kiện
tốt nhất để phát huy nguồn lực con người- “ nguồn của cái nội sinh- nguồn lực
con người là nguồn lực của mọi nguồn lực”. Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
dạy: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Điều đó có nghĩa rằng coi con người là trung tâm của đường lối kinh tế, chính
trị, xã hội và phát triển con người một cách toàn diện là nhân tố hàng đầu đi
trước một bước, là mục tiêu và động lực cho phát triển xã hội phát triển dân tộc.
1 Phạm văn Đồng,về vấn đề giáo dục, đào tạo, Nxb chính trị quốc gia. H, 1999. tr13


10

10

Ngày nay, chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Điều này cũng có nghĩa là, giáo dục
phải có chính sách phát triển tồn diện con người tạo tiền đề quan trọng để
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng ta xác định sự nghiệp giáo
dục, đào tạo hiện nay phải thực hiện tốt phương châm giáo dục toàn diện con
người Việt Nam; đồng thời phải góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,

bồi dưỡng nhân tài. Chúng ta thực hiện chủ trương giáo dục khơng chỉ đào tạo
con người có trình độ và tay ghề điêu luyện trực tiếp tham gia vào q trình
sản xuất mà đó cịn là những người có tư duy linh hoạt, sáng tạo và có kỷ luật.
Đó là xu thế của thời đại thế kỷ XXI là thế kỷ của kỹ thuật và nhân văn2.
Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, xuất hiện một nền kinh tế mới
của thời đại thơng tin, đó là kinh tế tri thức. Sự xuất hiện của nền kinh tế
mới này làm cho người ta càng nhìn thấy rõ hơn trí tuệ của con người kết
tinh tri thức, nguồn lực con người là yếu tố chủ yếu cạnh tranh trong thị
trường, ưu thế về tri thức ở mỗi quốc gia sẽ dần dần thay thế về vốn, nguồn
nguyên liệu về cơng nhân rẻ. Khi đó các nước chậm phát triển thiếu vốn,
thiếu tri thức tiên tiến sẽ ngày càng tụt hậu hơn so với các nước phát triển.
Để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu, các nước đang phát triển cần
sớm có một chiến lược đúng đắn để phát triển nguồn lực con người có trí tuệ
cao. Để giải quyết được vấn đề đó phải khơng ngừng phát triển giáo dục, coi
giáo dục là nhiệm vụ trọng đại của đất nước.
Dự báo về thế kỷ XXI, các nhà khoa học cho rằng cuộc chạy đua để
phát triển giáo dục là quan trọng nhất trong cuộc chạy đua phát triển đất
nước hiện nay các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển kinh tế được bắt đầu
từ chạy đua về giáo dục. Chính vì vậy mà những năm gần đây rất nhiều các
2Phạm Minh Hạc, phát triển giáo dục, Phat triển con người phục vụ phát triển xã hội- kinh tế, Nxb khoa học
xã hội, H.1996, Tr230


11

11

cuộc hội thảo về phát triển giáo dục được tổ chức với mong muốn tập trung
nhiều hơn nữa để phát triển nguồn nhân lực bậc cao cho xã hội. ở nước ta
quá trình đổi mới phát triển giáo dục cũng đang diễn ra theo hướng này. Đây

là một trong những vấn đề được xem là khâu đột phá để phát triển đất nước.
Nhiều cuộc hội thảo bàn về nâng cao chất lượng giáo dục đại học tổ chức là
bước thiết thực quán triệt quan điểm chỉ đạo này của Đảng.
Tóm lại, những hạn chế, bất cập trên đây cần phải được khắc phục
trong thời gian tới đây. Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu được thể
hiện trong chiến lược giáo dục 2010- 2020 là những định hướng cơ bản,
quan trọng nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém; phát triển giáo dục,
đào tạo ở nước ta trong những năm tới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố và nâng cao chất lượng giáo dục của
chúng ta ngang tầm với các nước trong khu vực trên thế giới.
*Ý nghĩa vận dụng với công tác giáo dục- đào tạo ở các nhà trường quân sự.
Là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, dưới sự lãnh đạo của
đảng; trong quá trình xây dựng và trưởng thành của quân đội nói chung và
công tác giáo dục, đào tạo ở các nhà trường qn đội nói riêng ln qn
triệt và bám sát các quan điểm chỉ đạo của Đảng. Thực hiện Nghị quyết
93/ĐUQSTW Và Các Nghị quyết, chỉ thị của ĐUQSTW, Bộ quốc phịng,
cơng tác giáo dục,đào tạo xây dựng nhà trường qn đội đã phát triển đúng
đường lối, chủ chương của đảng, phù hợp với tính đặc thù của hoạt động
quân sự, quốc phịng có tiến bộ về nhiều mặt: cơ bản đạt được mục tiêu, yêu
cầu về số lượng,từng bước nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, hạ
sỹ quan,nhân viên chun mơn kỹ thuật, góp phần quan trọng vào việc nâng
cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội ta…
Quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng công tác giáo dục, đào tạo
trong quân đội đã đạt được một số thành tựu đáng kể:


12

12


Đã ban hành được hệ thống quy chế giáo dục- đào tạo chương trình
hành động thực hiện nghị quyết trung ương 2 khoá VIII. Ban hành hàng
trăm loại văn bản triển khai thực hiện, cụ thể hoá quan điểm chỉ đạo phát
triển giáo dục của Đảng.
Đào tạo được một số lượng lớn cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật
đáp ứng cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hồ nhập với sự phát
triển của thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Tích cực đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo; nghiên cứu
vận dụng nhiều phương pháp dạy học mới phát huy tính tích cực của người học.
Nội dung dạy học vừa đảm bảo khoa học và hiện đại, đồng thời phù hợp với
đường lối quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Việc quy hoạch, đào tạo và sử dụng được coi và quan tâm đúng mức.
Đã huy động sức mạnh của các lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục,
đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ của tình hình mới, cơng tác giáo
dục đào tạo ở các trường quân sự còn bộc lộ một số tồn tại, khuyết điểm:
Đầu tư cho công tác đào tạo mới đáp ứng được một phần nhu cầu và
quan điểm “giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Cơ sở vật chất mới cơ
bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, quy mơ trình độ bậc đại học, cấp học. So với
yêu cầu phát triển giáo dục- đào tạo hiện nay và những năm tiếp theo thì vẫn
gặp nhiều khó khăn, nhất là các học viện, nhà trường phải thực hiện tiêu trí
đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà nước. “Đầu tư xây dựng cơ bản cho các
học viện, nhà trường mới đạt 37% so với nhu cầu”
Điều kiện làm việc, học tập sinh hoạt ở các nhà trường còn nhiều khó
khăn: vũ khí, trang bị lạc hậu hơn với ở đơn vị, thiếu về số lượng, chất lượng
thấp; các trung tâm huấn luyện thực hành chưa được đầu tư đúng mức, ảnh
hưởng trực tiếp đến rèn luyện thực hành cho học viên.


13


13

Hệ thống nhà trường trong qn đội cịn khép kín, “ Phương pháp đào tạo
còn giản đơn, nặng về truyền thụ lý thuyết, nguồn thông tin khoa học hạn hẹp”.
Đội ngũ nhà giáo còn thiếu về số lượng, tỷ lệ đạt chuẩn cịn thấp, chế độ
ưu đãi, chính sách khuyến khích đối với nhà giáo chậm được bổ sung, sửa đổi…
Những hạn chế trên đây có cả những nguyên nhân chủ quan và khách
quan; một trong những nguyên nhân quan trọng là chúng ta chưa quán triệt
và cụ thể hoá các quan điểm giáo dục của Đảng vào các trường quân đội.
Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn
nữa sự chỉ đạo của Đảng về giáo dục. Công tác giáo dục, đào tạo trong các
nhà trường quân đội cần tập chung một số cơ bản sau.
Trước hết phải coi nhiệm vụ phát triển giáo dục- đào tạo là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm, quan tâm hàng đầu của cấp uỷ và chỉ huy các cấp
trong quân đội, đầu tư và huy động động ngân sách, nguồn lực con người, trang
thiết bị và chính sách phù hợp để giáo dục- đào tạo phát triển trước một bước.
Phát triển giáo dục- đào tạo đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội,
củng có quốc phịng, bảo vệ Tổ quốc và tham gia có hiệu quả vào sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Tham gia đào tạo nguồn
lực cho các quá trình phát triển xã hội.
Gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp bồi dưỡng kiến thức, năng lực thực
hành, chú trọng truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu và giáo dục truyền thống.
Từng bước hiện đại hoá nội dung và phương pháp giáo dục; kết hợp chặt chẽ
giữa đào tạo nhà trường với bồi dưỡng tại đơn vị; đào tạo với sử dụng.
Hệ thống nhà trường quân đội là một bộ phận của hệ thống nhà trường
quốc gia, phù hợp với đặc thù giáo dục- đào tạo quân sự. Phát huy thế mạnh
của qn đội tham gia phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và huy động
tiềm lực của Nhà nước phục vụ giáo dục- đào tạo quân sự.



14

14

Xây dựng hệ thống nhà trường ổn định, có đủ các yếu tố bảo đảm chất
lượng theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, phù hợp với tổ chức quân đội và
khoa học giáo dục. Xây dựng, phát triển quy mô, cơ cấu trình độ, vùng miền
và ngành nghề đào tạo hợp lý, phù hợp với đặc điểm và nhiệm vụ hoạt động
của các đơn vị quân binh chủng. Xây dựng qn đội nhân dân chính qui,
ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp
lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ chiến đấu và sức
chiến đấu cao... Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển nền khoa học và
nghệ thuật quân sự Việt Nam.



×