Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Nâng cao chất lượng đào tạo hát tiếng việt trong nghệ thuật hát mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.72 MB, 166 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
******************







TRẦN THỊ NGỌC LAN








NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO HÁT

TIẾNG VIỆT TRONG NGHỆ THUẬT HÁT MỚI








LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT









HÀ NỘI – 2010
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM
******************



TRẦN THỊ NGỌC LAN






NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO HÁT

TIẾNG VIỆT TRONG NGHỆ THUẬT HÁT MỚI






Chuyên ngành: Lý luận Âm nhạc
Mã số: 62 21 01 01



LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS – NSND TRUNG KIÊN




HÀ NỘI – 2010
3






LỜI CAM ĐOAN








Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng
đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác.


Ngƣời cam đoan
Trần Thị Ngọc Lan








4



LỜI CẢM ƠN





Bản luận án này là kết quả nghiên cứu của tác giả tại Khoa Thanh nhạc
Học Viện Âm Nhạc Quốc Gia Việt Nam dƣới sự hƣớng dẫn của PGS – NSND
Nguyễn Trung Kiên.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Giáo sƣ, Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ, các nhà
nghiên cứu, các nghệ nhân, các nhạc sĩ, bạn bè, đồng nghiệp… trong và ngoài
Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam đã tận tình chỉ bảo, góp ý, giúp đỡ để
luận án đƣợc hoàn thành. Sự thành công của bản luận án này có đƣợc, một phần
lớn chính nhờ sự giúp đỡ của các Giáo Sƣ, Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ, các nhà nghiên
cứu, các nghệ nhân, các thày và các bạn bè, đồng nghiệp.
Trong luận án chắc sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất
mong nhận đƣợc sự tham gia ý kiến bổ sung hoàn thiện của các thày và đồng
nghiệp.



Trần Thị Ngọc Lan







5






Giải thích các thuật ngữ, ký hiệu và chữ viết tắt sử dụng
trong luận án


* Thuật ngữ:

1. Âm tố (phone): Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của ngôn ngữ về mặt cấu âm -
thính giác. Nó là một trong những âm riêng biệt đƣợc tạo ra trong chuỗi lời nói.
Khi nói, một số cơ quan phát âm: môi, hàm, ngạc mềm, thanh môn và một vài bộ
phận của lƣỡi chuyển động. kết quả ta nghe đƣợc nhƣ là một chuỗi nối tiếp của
những âm riêng biệt và mỗi âm khác lẫn nhau về một số mặt nhƣ vị trí cấu âm,
phƣơng thức cấu âm, hữu thanh, vô thanh, tính chất mũi, bật hơi… Mỗi một âm
đƣợc lĩnh hội nhƣ thể là một âm tố. Bằng sự phân tích ngữ âm học, các âm tố
đƣợc nhóm lại thành những đơn vị ngữ âm khu biệt của ngôn ngữ, tức là các âm
vị. Âm tố là những cách phát âm khác nhau của âm vị (tr.74, 777 khái niệm
Ngôn Ngữ học - Nguyễn Thiện Giáp)
2. Âm tiết: Âm tiết là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất trong ngôn ngữ.
Trong tiếng Việt, một âm tiết bao giờ cũng đƣợc phát ra với một thanh điệu, và
tách rời với âm tiết khác bằng một khoảng trống. Trên chữ viết, mỗi âm tiết tiếng
Việt đƣợc ghi thành một "chữ" và đọc thành một "tiếng" (Mỗi âm tiết gồm 3
phần: khởi âm, đỉnh âm và kết âm). Ví dụ: từ "hoa hồng bạch" gồm 3 chữ, 3
tiếng hoặc 3 âm tiết. (Google: cau tao am tiet tieng viet)
6

3. Âm vị: Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất của một ngôn ngữ có khả năng khu biệt ý
nghĩa của hai từ. Các âm tố cảu lời nói khác nhau về một số mặt; vị trí cấu âm,
phƣơng thức cấu âm... Nhƣng chỉ 1 số trong những âm khác nhau ấy có giá trị
khu biệt, tức là chúng đƣợc dùng để phân biệt các từ trong một ngôn ngữ (/b/ và
/m/, /i/ và /e/, /n/ và /t/ là có giá trị khu biệt. Thay thế âm này bằng âm khác sẽ
làm thay đổi nghĩa của từ: bà – mà, tìm – têm, tan – tát. Các âm có giá trị khu

biệt nhƣ thế đƣợc gọi là các âm vị.(777 khái niệm Ngôn Ngữ học - Nguyễn Thiện
Giáp)
4. Cấu âm: Toàn bộ hoạt động của các cơ quan phát âm khi thực hiện các
âm. Đó là sự sinh sản các âm tố của lời nói ở trong miệng và họng. Hoạt động
này liên quan đến vị trí cấu âm và phƣơng thức cấu âm (777 khái niệm Ngôn
Ngữ học - Nguyễn Thiện Giáp)
5. Cắn chữ: Chỉ độ chính xác về rõ chữ, cao độ của giọng hát. Hát không
cắn chữ có nghĩa là bị lạc giọng hay chênh phô. Muốn không chênh phô phải biết
lấy hơi, giữ hơi, nén hơi và nhả chữ. Hơi bị hụt hay không đầy đặn sẽ khiến câu
hát bị rời rạc, đứt quãng, giọng dễ bị chênh phô, không đạt độ cao cần thiết.
6. Chữ: Theo Google – Cấu tạo âm tiết tiếng Việt – GOCNHIN.NET: Vì
tiếng Việt đơn âm nên âm tiết cũng chính là chữ.
Chữ trong luận án không có nghĩa là chữ viết nếu đứng về góc độ ngôn ngữ
học (chữ ở đây đƣợc hiểu là âm tiết, đơn vị ngữ âm cơ bản mà truyền thống âm
vị học tiếng Việt gọi là tiếng). Mặt khác âm tiết tiếng Việt (đơn vị của ngữ âm)
lại trùng với hình vị (đơn vị ngữ pháp) và trong nhiều trƣờng hợp lại trùng với từ
đơn (đơn vị từ vựng) nên trong luận án nhiều chỗ chúng tôi dùng chữ thì phải
hiểu rằng đó là âm tiết.
7. Bằng, Trắc: Thanh điệu của tiếng Việt bao gồm sáu thanh. Dựa vào quy
luật cao thấp của 6 thanh ngƣời ta chia ra làm hai phần Bằng và Trắc. Bằng gồm
7
hai thanh: thanh không dấu gọi là thanh ngang và thanh huyền. Trắc gồm bốn
thanh còn lại: Sắc, Hỏi, Ngã, Nặng.
8. Bẻ bai chữ: Cách diễn đạt của nghệ nhân Chèo, Ca trù khi nói tới
phƣơng cách làm sao cho lời ca đƣợc xử lý tốt nhất, vừa mềm mại, vừa êm tai
ngọt ngào, đúng điệu đúng phách mà vẫn tròn vành rõ chữ. Muốn vậy phải biết
sử dụng luyến, láy, phải biết biến chuyển thanh điệu bằng, trắc (đặc biệt với hai
thanh hỏi và ngã) tạo đƣờng lƣợn nhấp nhô nhằm bảo đảm quy luật của thanh
điệu, vừa rõ chữ vừa mềm mại câu hát, nâng cao chất lƣợng của giọng. Cách làm
này gọi là bẻ bai chữ

9. Bẻ làn nắn điệu: Phƣơng pháp sáng tác truyền thống của âm nhạc Chèo
đƣợc ứng dụng ở hai cấp độ khác nhau.Với làn, tức với các lối hát không có
nhịp, hát tự do (adlibitum) nhƣ hát nói, ngâm, vịnh, vỉa...bẻ làn làm cho nó thay
đổi tƣơng đối về cấu trúc giai điệu, lƣợc bớt hoặc gia tăng nốt trang trí (luyến
láy), buông hơi nhả chữ, nhả chữ mềm mại hoặc cứng cỏi hoặc cợt nhả hài
hƣớc...song vẫn giữ hình bóng của làn gốc. Nắn điệu là phƣơng pháp phát triển
âm nhạc (variation) xa hơn tạo ra các điệu mới từ điệu cũ song không làm mất đi
cốt cách của nguyên bản mà tạo cho nó một hình hài mới, nội dung biểu hiện
mới.
10. Điệp, Đực, Chát: Nếu 4 khái niệm Trại, Bẹ, Hƣớt (hay huốt), dùng để
chỉ những lỗi liên quan đến phát âm nhả chữ thì Điệp, Đực, Chát liên quan đến
nghệ thuật xử lý, thể hiện ca từ.
- Điệp quy định diễn viên khi hát không đƣợc trùng âm thanh, chẳng hạn: em ơi
nghe chăng, 4 thanh không dấu đứng liền nhau phải xử lý có màu sắc khác nhau,
bằng cƣờng độ âm thanh (to nhỏ), sắc thái, luyến láy hay bằng kỹ thuật nhấn chữ
giúp tạo ra sự phong phú cho câu hát, đoạn hát và nêu bật đƣợc nội dung tác
phẩm.
- Đực chỉ lối hát đờ đẫn, vô hồn.
8
- Chát chỉ lối hát vụng dẫn đến giọng hát thô. Âm thanh xẵng, không ngọt ngào.
11. Giọng: Chỉ giọng nói hoặc giọng hát, những hoạt động miệng của con
ngƣời. Trong âm nhạc và đặc biệt trong dân ca nhạc cổ truyền chỉ nhiều khái
niệm khác nhau: Giọng Đô trƣởng, giọng La thứ, giọng Nam, giọng Xuân, giọng
Bắc, giọng oán (liên quan đến tính điệu-mode), giọng tenor, giọng soprano,
giọng thổ đồng, giọng kim vắt...(liên quan đến chất giọng và phân loại giọng).
Từ Giọng còn dùng để chỉ một tổ hợp làn điệu đƣợc xếp đặt trong trình tự ca hát,
diễn xƣớng: Trong Quan Họ: Giọng lề lối, giọng vặt (giọng lá), giọng giã
bạn…Trong Chèo và hát Xoan, hát Ghẹo Phú Thọ cũng có giọng Sổng, giọng Ví
và giọng Vặt…
12. Giọng thổ: Quan niệm âm dƣơng, ngũ hành chi phối cả trong lĩnh vực

tƣ duy và sáng tạo âm nhạc truyền thống. Ngƣời ta cho rằng hệ thống thang âm 5
âm Hò, Xừ, Xang, Xê, Cống ứng với hệ thống cấu thành vũ trụ Kim, Mộc, Thuỷ,
Hoả, Thổ. Phân loại giọng hát cũng đƣợc dựa trên quan niệm Âm Dƣơng. Giọng
thổ - giọng Nam thuộc về dƣơng, đƣợc phân ra các loại giọng nhƣ sau:
1) Giọng Thổ Đồng. Chất giọng cao, trong, trữ tình (liên tƣởng tới giọng
tenor)
2) Giọng Thổ Lá: cao, chua, nghe nhƣ giọng nữ vì hát hơi mé, giọng óc
(voix de tête). Giọng này thƣờng dùng để đóng thế vai nữ vào thời kì Chèo sân
đình.
3) Giọng Thổ Bùn: Giọng ồ, khàn, và rè, "nát nhƣ bùn". Chuyên dùng cho
các nhân vật đóng vai hề áo dài, lính hầu, ... các vai này ít hát.
13. Hát tiếng một hoặc hát từ nào ra từ nấy: Xuất phát từ trải nghiệm của
nghệ nhân hát Chèo và Ca trù, cũng nhƣ từ bản chất cấu trúc của âm thanh tiếng
Việt (đa thanh, đơn âm tiết, mỗi âm tiết có nghĩa, độc lập) đƣợc ví nhƣ những
viên ngọc xâu lại thành chuỗi. Từ đó đẻ ra kỹ thuật và khái niệm hát tiếng một,
9
hát từ nào ra từ nấy không phải hát rời rạc, nhát gừng, gẫy khúc mà vẫn vang,
rền, nền, nẩy.
14. Hát khép miệng: Nghệ thuật hát không mở khẩu hình lớn nhƣ lối hát
mở (Bel canto). Miệng phải đóng khép chữ, nhƣng giọng vẫn vang, rền, nền,
nẩy. Ca từ vẫn luôn bảo đảm tròn vành rõ chữ. Gọi nghệ thuật hát khép miệng vì
chúng sinh ra từ tiếng Việt (đóng, khép chữ), và từ quan niệm và tập quán sống
kín đáo của ngƣời Việt.
15. Hơi: Chỉ sự hoạt động của cơ quan hô hấp. Hơi thở có ảnh hƣởng trực
tiếp đến chất lƣợng của nói và hát. Hơi trong ca hát dân gian truyền thống còn
bao hàm nghĩa rộng và trừu tƣợng. Hơi ở đây bao hàm toàn bộ phong cách ngôn
ngữ biểu cảm có tính riêng biệt của từng dòng nghệ thuật hát truyền thống (hơi
Chèo). Nhiều nghệ nhân cho rằng hơi đƣợc tạo ra bởi rung, luyến láy... và dùng
từ hơi để chỉ cấu trúc nhƣ hơi nam, hơi ai, hơi xuân....
16. Khuôn hơi diệu vợi:

Khuôn là cách đàn hát tự khép mình vào khuôn khổ, uốn nắn từng tiếng
cho chính xác, lên xuống đúng bậc, phát âm rõ chữ, không vội vàng.
Hơi bao gồm cả màu sắc, dƣ vị và kỹ thuật giữ hơi, nén hơi để hát tiếng
nào cũng phải có dƣ âm vang rền, phải dụng công lấy tiếng gằn từ trong cổ họng,
vừa sâu vừa đầy đặn vừa không có tiếng nào dƣ thừa.
Diệu là tiếng hát, tiếng phách tiếng đàn phải đạt đến độ chín, độ sang
trọng và tuyệt diệu nhất.
Vợi có thể là ”thổ tận can tràng” tức phải để hết lòng mình trong câu hát.
Cũng có ngƣời giải thích Vợi là tiếng hát cao mà trong sáng. Căn cứ theo các tƣ
liệu cổ chỉ ra 8 chữ để thẩm định một đào nƣơng hát hay: Quán – xuyến – Dằn –
Thét – Diệu - Vợi – Khuôn – Rẫy. Tám chữ này nhấn mạnh vào 4 yếu tố của Ca
trù: Tròn vành – Rõ chữ - Sắc tay – Hay nhịp.
- Xuyến: Tức là hát cho tròn trĩnh, mƣợt, đẹp và vững vàng.
10
- Dằn: Tiếng tròn, nặng và đều.
- Rẫy: Tiếng dền, giòn.
-Vợi: Tiếng cao mà trong sáng.
17. Làn Điệu: Làn điệu đƣợc dùng rộng rãi để chỉ một câu hát chèo, câu
hát dân ca song thực ra nó mang hai nội dung khác nhau. Làn gồm các câu hát
không nhịp, hát tự do nhƣ các giọng ngâm, vịnh, hát nói. Ngâm, hát nói có vị trí
quan trọng trong ca hát dân gian cũng nhƣ ca hát truyền thống bác học. Điệu là
từ để chỉ các bài hát có cấu trúc âm nhạc hoàn chỉnh (cấu trúc câu, đoạn - trổ,
nhịp ...). Vì Làn thƣờng đi với điệu (hát nói, hát tự do trƣớc khi đổ vào câu hát
chính) đặc biệt trong âm nhạc sân khấu truyền thống nên ngƣời ta hay có thói
quen gọi làn điệu Dân ca hay làn điệu Chèo....
18. Luyến láy: Trong dân ca và ca hát cổ truyền chuyên nghiệp luyến láy
nhƣ một phần da thịt không thể thiếu. Nó mang tính đặc trƣng và mang đậm bản
sắc văn hoá Việt. Luyến láy khó nắm bắt và ghi lại bằng chữ hay bằng nốt nhạc
nên bài bản thƣờng chỉ đƣợc ghi lại phần chính gọi là lòng bản. Trong dân gian
luyến láy đƣợc lƣu truyền qua hơi thở gọi là truyền khẩu. Luyến và láy có nhiệm

vụ, chức năng khá riêng biệt. Luyến làm cho quyện giữa âm này với âm kia
khiến chữ (ca từ) đƣợc mềm và câu hát đƣợc rền và dền. Luyến thƣờng đi liền
với thanh điệu, làm rõ thanh điệu. Luyến có thể diễn ra nhanh hoặc chậm tuỳ
thuộc vào làn điệu, dòng và nghệ thuật ca hát. Luyến đƣợc ứng dụng nhiều trong
sáng tác mới với chủ đích của ngƣời viết muốn tô đậm thêm bản sắc cho tác
phẩm.
19. Petite note: nốt nhỏ, nốt hoa mỹ
20. Phát âm, nhả chữ: Là kết quả của quá trình tạo âm, phát âm, với các
hoạt động của môi, răng, lƣỡi, hàm dƣới, vòm mềm (hàm ếch mềm, ngạc mềm
và miệng). Khẩu hình là hình dáng, cả bên ngoài lẫn bên trong của miệng do
hoạt động phối hợp của môi, lƣỡi, hàm dƣới, vòm mềm tạo ra khi phát âm. Mở
11
khẩu hình không đúng cách sẽ ảnh hƣởng không chỉ đến chất lƣợng âm thanh,
mà nhất là ảnh hƣởng đến việc rõ lời, là một yêu cầu cơ bản trong thanh nhạc.
21. Tròn vành, rõ chữ: Cụm từ chỉ kỹ năng phát âm nhả chữ và kết quả
của kỹ năng vận động đó. Muốn tròn vành phải hoàn thành một cách tốt nhất qúa
trình tạo thanh. Quá trình tạo thanh giọng nói, cũng nhƣ giọng hát đều trải qua ba
bƣớc:
Bƣớc một: Tạo thanh (khởi thanh): có ý nghĩa quan trọng tạo ra âm thanh
đẹp cho giọng nói, cũng nhƣ giọng hát. Các cơ thanh đới phải đƣợc giữ cân bằng
để giây thanh đƣợc rung lên với tần số tốt nhất.
Bƣớc hai: Tạo âm: Khi dây thanh rung lên, nhờ các xoang phía trên cộng
hƣởng tạo ra các thành phần nhỏ nhất của lời nói gọi là âm tố. Sự kết hợp của âm
thanh (nguyên âm), tiếng động (phụ âm) và độ cao thấp gây ra bởi các thanh (sáu
thanh), âm tiết - từ tiếng Việt hình thành.
Bƣớc ba: Cấu âm: Chính là tiến trình cấu trúc của từ. Vậy đã tròn vành tức
đã hoàn tất tốt đẹp quá trình hình thành lời nói sẽ có kết quả rõ lời trong nói cũng
nhƣ trong hát. Đây là cụm từ thƣờng dùng trong nghệ thuật hát Chèo song nó
ngày một trở nên thông dụng và đƣợc áp dụng cho nhiều ngành nghệ thuật ca hát
khác.

22. Rung giọng: Rung giọng là một biểu hiện tự nhiên của giọng hát khi
hơi đi qua thanh đới tạo thanh. Rung giọng ở lối hát Bel canto sử dụng rung
giọng (tần suất nhanh hoặc chậm) tạo sự riêng biệt và làm tăng độ vang cho
giọng hát. Nghệ thuật ca hát dân ca, truyền thống của Việt Nam, Rung giọng
thiên về biểu cảm, chiều sâu có tính mỹ cảm hơn. Không tạo vang bằng Rung
giọng mà sử dụng nó làm công cụ biểu hiện.
23. Trại, Bẹ, Huốt (hay hƣớt), chớt: 4 khái niệm Trại, Bẹ, Hƣớt (hay
huốt), dùng để chỉ những lỗi liên quan đến phát âm nhả chữ. 4 luật cấm trong
nghệ thuật thanh nhạc Tuồng:
12
- Trại chỉ lỗi liên quan đến phát âm vần nhƣ Tay thành Tai, nƣớc non thành
nƣớt noong... để chỉ lỗi sai hai thanh điệu hỏi và ngã.
- Bẹ chỉ lỗi phát âm không đúng hoặc không rõ, lẫn lộn thanh điệu: con bò
vàng thành con bó váng, đau khổ thành đau khỗ...
- Hƣớt hay huốt: lỗi phát âm nuốt chữ, dài hoặc ngắn lƣỡi, không đúng vị trí
cấu âm từ. Ví dụ: ngày mai thành ngà ma hay anh đi thành an đi...
24. Vang, Rền, Nền, Nảy: Ngƣời Quan Họ cho rằng đây là tiêu chí do họ
đặt ra và đƣợc nhiều ngành nghệ thuật ca hát khác áp dụng, nhƣng mức độ và kỹ
thuật xử lý không giống nhau.
Vang là tiêu chí đầu tiên, mỗi dòng ca hát truyền thống lại có những quan
niệm, xử lý khác nhau, tuỳ thuộc vào không gian và đối tƣợng thƣởng thức.
Rền là tiêu chí thứ hai. Khi có vang phải đẩy độ vang tới mức cần thiết để
âm thanh lan truyền và vang động tới không gian rộng lớn hơn. Rền còn có ý
nghĩa nữa là dền (legato), âm thanh, giai điệu, ca từ gắn kết chặt chẽ khiến câu
hát trở thành một dòng âm thanh hài hoà, giàu sức biểu cảm.
Nền có thể hiểu giọng hát, câu hát đƣợc diễn đạt một cách tế nhị, nền nã,
không thô bạo, chát, sƣợng. Nền cũng có thể đƣợc hiểu nhƣ là giọng hát giữ
đƣợc độ ngân, độ mở của ca từ để đáp ứng đƣợc với cấu trúc của giai điệu âm
nhạc.
Nẩy là kỹ thuật khá đặc biệt của nghệ thuật ca hát dân tộc. Nó đƣợc thể hiện

và xử lý không giống nhau. Quan họ gọi là hơi hột, nảy hạt, Tuồng gọi là láy
rúc... Để tạo ra hơi hột, nghệ nhân thu hơi vào phía trong đẩy mạnh lên khoang
vòm miệng và mũi, tiếng bật thành các hạt âm thanh liên tiếp. Hột to đƣợc ví
nhƣ hạt đỗ, hột nhỏ gọi là con kiến (đổ con kiến)
* Ký hiệu và chữ viết tắt:
- C: Viết tắt của Consonant - phụ âm;
- V: Viết tắt của Vowel - nguyên âm
13
- C, D, E, F, G, A, H (B): các nốt đồ, rê, mi, pha, son, la, si (si giáng)
- D2: nốt rê ở quãng 8 thứ 2
- F#: nốt pha thăng
- HVANQGVN: Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
- GS: Giáo sƣ
- PGS: Phó giáo sƣ.
- TS: Tiến sĩ
- NS: Nghệ sĩ
- NSƢT: Nghệ sĩ ƣu tú
- NGƢT: Nhà giáo ƣu tú
- NSND: Nghệ sĩ nhân dân
- TK.XV: Thế kỷ 15
- TW: Trung ƣơng
- XHCN: Xã hội chủ nghĩa
- Xem bảng 1.4: Bảng 4 của chƣơng I
- Xem hình 1.1: Hình 1 của chƣơng I
- [33, tr14]: 33 là thứ tự của tài liệu tham khảo, tr14 là số trang














14









DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU









TT


Số hình,
bảng, biểu

Tên hình



Trang
1 Bảng 1.1 Các thành phần của âm tiết

19
2 Bảng 1.2 Hệ thống âm đầu

19
3 Bảng 1.3 Bảng so sánh nghệ thuật hát cổ truyền và nghệ thuật
hát Mới

79
4 Biểu đồ Cấu tạo của âm tiết tiếng Việt

18
5 Hình Những vị trí phát âm của hệ thống phụ âm

21







15
MỤC LỤC





Trang
Mở Đầu..………………………………………………………………..............1
Chƣơng 1: Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống và nghệ thuật
hát Mới............................................................................................14
1.1 Những đặc điểm, đặc trƣng cơ bản của tiếng Việt trong nói và hát……..14
1.2 Tiếng Việt trong nghệ thuật ca hát truyền thống………………………...27
1.3 Tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới…………………………….............59
Chƣơng 2: Một số giải pháp, ứng dụng và bài tập góp phần nâng cao chất
lƣợng hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát ……………………..83
2.1 Một số giải pháp, ứng dụng nhằm nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt...84
2.2 Một số bài tập nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt…...112
Kết luận………..……………………………………………………………...123
Tài liệu tham khảo…………………………………………….......................128
Phụ lục











16
MỞ ĐẦU




1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hàng ngàn năm bị đô hộ, với ý chí tự lập, tự cƣờng rất cao của
ngƣời Việt nam nên chúng ta vẫn giữ đƣợc truyền thống văn hoá mang bản sắc
riêng của mình. Duy trì tính đa dạng văn hoá cũng là sự bảo tồn và duy trì bản
sắc dân tộc. Vấn đề khai thác và phát triển, bảo tồn và phát huy vốn âm nhạc
truyền thống đang là mục tiêu xây dựng một nền âm nhạc Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Việc nâng cao chất lƣợng hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới là nhiệm
vụ quan trọng và cần làm. Xây dựng và phát triển nền thanh nhạc Việt nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở nền thanh nhạc do cha ông ta để lại đến
ngày nay, kết hợp với sự tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo kỹ thuật thanh nhạc kinh
điển thế giới làm cho sức biểu hiện của tiếng hát Việt nam ngày càng đẹp hơn,
hay hơn.
Ngôn ngữ - khởi nguồn của văn hoá biểu cảm là cầu nối giữa ngƣời với
ngƣời và thế giới xung quanh. Cùng với quá trình phát triển của kinh tế, khoa
học, kỹ thuật và mối quan hệ xã hội, ngôn ngữ cũng đa dạng và phát triển theo
để đáp ứng những nhu cầu bức thiết của quá trình này. Tuy nhiên ngôn ngữ
không chỉ dừng lại với vai trò giao tiếp mà nó còn là phƣơng tiện sáng tạo của
nhiều loại hình nghệ thuật diễn xƣớng, thi ca…đặc biệt là ca hát. Do chịu sự tác
động trực tiếp của đời sống nên ngôn ngữ mang đậm sắc thái vùng miền. Chính
sắc thái vùng miền này đã định hình thành phong cách mang dấu ấn của từng
vùng văn hoá. Sự khác biệt giữa các vùng ca hát xuất phát từ ngôn ngữ, từ cách
17

phát âm của vùng miền. Ta có thể thấy rõ điều đó ở các vùng ca hát dân gian
truyền thống của Việt Nam.
Ca hát là nghệ thuật luôn gắn liền với ngôn ngữ. Ngôn ngữ nào cũng có
nghệ thuật ca hát riêng, phù hợp với ngôn ngữ đó.Với 54 dân tộc anh em, nghệ
thuật ca hát truyền thống rất phong phú về số lƣợng, đa dạng về ngôn ngữ và
phong cách thể hiện độc đáo. Mỗi bộ môn nghệ thuật trong ca hát truyền thống,
lại có phong cách, màu sắc, những ứng xử về ngôn ngữ rất riêng, mang tính tƣ
duy và thẩm mỹ độc lập.
Từ nền tảng kiến thức thu lƣợm từ các giáo sƣ, các thày và đồng nghiệp
trong và ngoài khoa thanh nhạc Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam cùng
những kinh nghiệm đúc rút từ thực tiễn giảng dạy và biểu diễn, tác giả luận án
thấy rằng việc hiểu rõ tiếng Việt (nắm rõ đặc điểm, đặc trƣng, quá trình đóng,
mở và cấu trúc âm thanh của ngôn ngữ tiếng Việt) cũng nhƣ các đặc điểm, đặc
trƣng của nghệ thuật ca hát truyền thống (nghệ thuật xuất thân và là sản phẩm
của tiếng Việt) là cơ sở tốt để ứng dụng vào hát Mới mang lại hiệu quả trong
việc Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới.
Trƣớc đây đã có các giáo sƣ, các nhà sƣ phạm hàng đầu của nghệ thuật
thanh nhạc nhƣ PGS-NSND Mai Khanh, PGS-NSND Nguyễn Trung Kiên, PGS-
NGƢT Lô Thanh, NGƢT Hồ Mộ La…đề cập tới những vấn đề về phƣơng pháp
sƣ phạm, kỹ thuật, lịch sử thanh nhạc…Những vấn đề xử lý ngôn ngữ tiếng Việt
trong thanh nhạc cũng đã đƣợc đề cập tới trong các bài báo và các luận văn thạc
sĩ của Ths.Vũ Diệu Linh, Ths.Võ văn Lý, TS.Trƣơng Ngọc Thắng… song chƣa
có một nghiên cứu chuyên sâu nào về vấn đề này. Đây là lý do chính để luận án
của chúng tôi chọn đề tài Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong
nghệ thuật hát Mới với hy vọng bổ sung thêm cho giáo trình giảng dạy thanh
nhạc giúp cải thiện một số hạn chế trong hát tiếng Việt.
18
Năm 1956 trƣờng Âm nhạc Việt Nam đƣợc thành lập tại Hà Nội và
chuyên ngành thanh nhạc đã đƣợc đƣa vào giảng dạy chính khoá. Có thể coi đây
là cột mốc lịch sử, đánh dấu sự khởi đầu của sự nghiệp đào tạo nền thanh nhạc

chuyên nghiệp Việt Nam.
Trải qua hơn 50 năm hình thành và phát triển, nghệ thuật thanh nhạc Việt
nam đã đạt đƣợc những thành tựu rất đáng tự hào trên cả 2 lĩnh vực đào tạo và
biểu diễn: Chuyên ngành thanh nhạc đã đƣợc đƣa vào giảng dạy tại các cơ sở
đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp ở nƣớc ta nhƣ: Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt
nam, Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Âm nhạc Huế, trƣờng Đại
học Văn hoá Nghệ thuật Quân đội, trƣờng Đại học Sƣ phạm Nghệ thuật TW, các
trƣờng Cao đẳng và Trung cấp Văn hoá Nghệ thuật các địa phƣơng, các khoa âm
nhạc của các trƣờng đại học… Chúng ta đã đào tạo đƣợc nhiều thế hệ nghệ sĩ và
ca sĩ xuất sắc mà bằng tài năng của mình họ đã làm rạng danh cho nền ca hát
Việt nam.
Chúng tôi xin điểm qua đôi nét về những chặng đƣờng phát triển của
thanh nhạc Việt Nam.
Phong trào Tân Nhạc (nhạc Mới) ra đời từ cuối những năm 30 (thế kỷ XX)
do đòi hỏi của xã hội Việt Nam lúc đó và sớm trở thành trào lƣu vào các năm
trƣớc Cách mạng tháng Tám (còn gọi là nhạc Tiền Chiến). Phong trào cách tân
rất mạnh thể hiện ở những thay đổi trong đời sống xã hội (cắt bỏ búi tóc củ hành,
cạo răng trắng, đàn bà bỏ váy mặc quần…) cũng nhƣ thay đổi trong đời sống văn
hoá nghệ thuật: Từ hò, xừ, xang, xê, cống chuyển sang đô, rê, mi, pha, son. Từ
thẩm mỹ nghe đơn thanh chuyển sang thẩm mỹ nghe đa thanh. Từ thói quen
nghe hát bạch thanh, giọng thật với các kỹ thuật hát thuần Việt nhƣ rung, luyến,
đổ hột... chuyển sang nghe hát giọng pha theo cách hát du nhập của phƣơng Tây
(lối hát cộng minh mở rộng âm thanh và mở rộng tầm cữ giọng…). Tân Nhạc ra
đời đòi hỏi phải có ca hát thích hợp để diễn đạt nó, vì vậy hát Mới ra đời. Quá
19
trình hình thành và phát triển của nghệ thuật hát Mới gắn liền với tiến trình hình
thành và phát triển của sáng tác âm nhạc . Sáng tác âm nhạc (hình thức, thể loại,
ngôn ngữ, nội dung biểu cảm...) càng phát triển, càng phong phú và đa dạng bao
nhiêu thì càng đặt ra cho ca hát nhiều thách thức bấy nhiêu. Trong mỗi giai đoạn,
mỗi thời kỳ do đặc điểm phát triển của sáng tác và sự tác động cũng nhƣ đòi hỏi

của thực tiễn đời sống nên nghệ thuật ca hát hình thành, thay đổi, phát triển và
trƣởng thành theo. Quá trình hình thành và phát triển của hát Mới có thể chia làm
4 giai đoạn:
Giai đoạn một (1938 - 1945): Cùng với sự hình thành và phát triển Tân
Nhạc, hát Mới ra đời. Ca hát giai đoạn này phát triển mang tính tự phát có những
giọng hát nổi tiếng đại diện nhƣ: Mai Khanh, Thƣơng Huyền, Ngọc Bảo, Minh
Trang, Minh Đỗ... Và phần lớn ca khúc lúc này đều phản ánh tâm sự cá nhân,
tình yêu đôi lứa. Giai đoạn này ca hát chỉ dừng ở hát giọng thật còn gọi là hát
bạch thanh hay hát bản năng.
Tân Nhạc (hát Mới) thời kỳ đầu chƣa đƣợc thể hiện bằng phƣơng pháp
thanh nhạc có hệ thống, cụ thể và khoa học, chƣa đƣợc rèn luyện một cách
chuyên nghiệp và bài bản. Ca sĩ thời kỳ đầu xuất hiện cùng phong trào “nhạc
Tây lời ta”, phần lớn đều là các nghệ sĩ của sân khấu cải lƣơng nhƣ Kim Thoa,
Ái Liên, Năm Châu, Kim Tiêu... Cùng với bài hát “Tây lời ta”, những bài hát
hƣớng đạo sinh, những bản hành khúc và dân ca Pháp, cùng những giọng hát của
các ca sĩ Pháp đã có ảnh hƣởng tác động trực tiếp tới sự ra đời của hát Mới.
Giai đoạn hai (1945 - 1954): Giai đoạn phát triển rực rỡ của âm nhạc
cách mạng với những tác phẩm lớn cho đến nay vẫn đƣợc lấy làm mẫu mực cho
sáng tác ca khúc và nghệ thuật thanh nhạc ở thể loại thính phòng nhƣ Ngƣời Hà
Nội (Nguyễn Đình Thi), Sông Lô (Văn Cao), Du Kích Sông Thao (Đỗ Nhuận),
Trƣờng chinh ca (Lƣơng Ngọc Trác)... Giai đoạn này vì những lý do khách
quan: sáng tác âm nhạc ra đời chƣa lâu, tình hình đất nƣớc đang trong giai đoạn
20
trƣờng kỳ kháng chiến, tƣ duy nghệ thuật còn sơ khai, nên ca hát vẫn hát giọng
thật, bạch thanh nhƣng đã gần hơn với nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp.
Giai đoạn ba (1956 - Trƣờng Âm nhạc Việt Nam ra đời - 1975): Giai
đoạn phát triển cao của sáng tác âm nhạc - giai đoạn âm nhạc chuyên nghiệp
phát triển, trong đó có hát chuyên nghiệp cũng từng bƣớc phát triển theo những
chuẩn mực quốc tế, lấy phƣơng pháp thanh nhạc nƣớc ngoài, chủ yếu từ một số
nƣớc Đông Âu hay còn gọi là nghệ thuật hát Đẹp - Bel canto hay nghệ thuật hát

Mở (sinh ra từ ngôn ngữ đơn thanh, đa âm tiết. Phƣơng pháp hát cộng minh có
âm vang lớn, miệng mở rộng (khẩu hình lớn), tạo sự đồng nhất các nguyên âm.
Lấy hơi, nén hơi, phối hợp các hộp vang đầu và ngực, khuếch đại âm thanh) làm
nền tảng.
Xuất phát từ mục tiêu Dân tộc, Khoa học, Đại chúng (đề cƣơng văn hoá
của Đảng - 1943) và với chủ trƣơng tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế
giới, nhà nƣớc đã thực sự quan tâm nhằm đẩy mạnh và nâng cao tính chuyên
nghiệp cho các loại hình nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng. Cùng với
các lớp đào tạo tại chỗ do chuyên gia thanh nhạc đến từ các nƣớc XHCN, Bộ văn
hoá đã cử nhiều giọng hát có triển vọng ra nƣớc ngoài học tập theo chế độ lƣu
học sinh và thực tập sinh tại các nhạc viện có uy tín nhƣ:
- Liên-xô (cũ): PGS-NSND Mai Khanh (thực tập), PGS-NSND Trung
Kiên, NGƢT Mộ La, NSƢT Quang Hƣng, NGƢT Thuý Huyền (thực tập), NS
Dƣơng Phú, NS Thanh Trì, NS Kiều Hƣng, NSND Lê Dung (thực tập)…
- Bun-ga-ri: NSND Quý Dƣơng (thực tập), NSND Trần Hiếu (thực tập),
NSND Tƣờng Vy, PGS-NGƢT Lô Thanh, NSƢT Quốc Trụ, NSƢT Gia Hội
(thực tập), NGƢT Diệu Thuý (thực tập), NSƢT Quang Phác, NSƢT Thanh
Đính, NS Kim Oanh, NS Tâm Trừng, NSƢT Anh Đào, NS Gia Khánh…
- Trung Quốc: PGS-NSND Mai Khanh, PGS-NGƢT Lô Thanh...
21
- Hung-ga-ri : NSND Quốc Hƣơng, NSƢT Kim Định (thực tập), NSƢT
Đức Lộc (thực tập), NS Trần Thụ...
Hát Mới đƣợc đào tạo có bài bản giúp nền âm nhạc Việt Nam non trẻ có
đƣợc những gƣơng mặt mới, tài năng mới, từng bƣớc xây dựng nên nền âm nhạc
chuyên nghiệp. Nhiều thế hệ ca sĩ, nghệ sĩ tài năng, ứng dụng linh hoạt và sáng
tạo nghệ thuật hát Bel canto không chỉ đóng góp xây dựng nên sân khấu ca kịch
VN mà còn có những đóng góp xuất sắc xây dựng nền âm nhạc cách mạng.
Những bài ca hùng tráng, những ca khúc trữ tình giàu chất lạc quan, những ca
khúc đƣợm chất dân ca nhƣng gần gũi với ngôn ngữ biểu cảm của Bel canto…
đã đƣợc thể hiện bởi các giọng hát tài năng và đƣợc đào tạo chính quy của nhiều

thế hệ nghệ sĩ nhƣ Mai Khanh, Quốc Hƣơng, Quý Dƣơng, Trần Hiếu, Trung
Kiên, Quang Hƣng, Tƣờng Vi, Thanh Huyền, Tuyết Thanh, Bích Liên, Quang
Thọ, Thuý Hà, Lê Dung... đã vang lên và trở thành những bài ca có sức sống
mãnh liệt, đóng góp tích cực và có hiệu quả trong các cuộc chiến tranh cứu nƣớc
và công cuộc xây dựng đất nƣớc, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Các tác phẩm thanh nhạc sáng tác trong giai đoạn này đã đóng vai trò định
hƣớng cho ca hát chuyên nghiệp phát triển. Tuy nhiên ca hát chuyên nghiệp cũng
mới đƣợc tiếp cận với phƣơng pháp thanh nhạc Bel canto. Vì vậy, nhìn chung
phƣơng pháp hát Mới chƣa giải quyết đƣợc sự kết hợp hài hoà giữa tiêu chí âm
thanh và lời hát (giai đoạn này, đào tạo thanh nhạc chủ yếu ở trình độ trung cấp
và một phần nhỏ ở trình độ đại học). Trong bối cảnh này, tại các trƣờng và các
trung tâm đào tạo cũng nhƣ trong thực tế biểu diễn, tiêu chí âm thanh vang, khoẻ
đƣợc quan tâm nhiều hơn tiêu chí hát rõ lời, do vậy đã có một số ca sĩ chỉ chú ý
đến âm thanh “tròn vành” nhƣng không “rõ chữ” và đã bị dƣ luận phê phán. Một
phần nữa, trong giai đoạn này hệ thống kỹ thuật âm thanh ở các sân khấu biểu
diễn và các phòng thu âm còn lạc hậu, nên ngƣời hát không có kỹ thuật phát âm
22
nhả chữ tốt sẽ bộc lộ rõ những khiếm khuyết của mình, cộng thêm những nhƣợc
điểm trong sáng tác thanh nhạc gây khó khăn, hạn chế không ít cho ngƣời hát
trong việc thực hiện tiêu chí hát rõ lời.
Giai đoạn thứ tƣ (1975 đến nay - giai đoạn hoà nhập của âm nhạc Nam -
Bắc): Là giai đoạn phát triển đa dạng của hát Mới. Nhạc nhẹ đƣợc gọi là nhạc trẻ
(nhạc giải trí) nhƣ luồng gió mới tràn vào nƣớc ta và đƣợc phát triển rầm rộ. 15
năm đầu của giai đoạn này có thể đƣợc coi là giai đoạn khó khăn, chao đảo của
dòng nhạc thính phòng và ca khúc cách mạng. Với cách hát tự nhiên, nhả chữ
gần gũi với tiếng Việt, đa dạng phong cách, vì giữ đƣợc âm sắc nguyên bản của
giọng nói (ở phƣơng pháp hát Bel canto thực sự còn có khoảng cách) nhạc trẻ đã
lấn lƣớt và đƣợc quần chúng nồng nhiệt đón nhận.
Nhƣng nghệ thuật hát Đẹp - Bel canto cùng với sức sống mãnh liệt của ca

khúc cách mạng, những ca khúc có tính sáng tạo và có nội dung sâu sắc nên
nghệ thuật hát Bel canto đã dần lấy lại vị trí của mình và trở thành một trong ba
dòng hát chính ở Việt Nam:
- Dòng ca hát thính phòng.
- Dòng ca hát theo phong cách dân gian.
- Dòng ca hát nhạc nhẹ.
Mặc dù đƣợc chia làm 3 dòng và trở thành tiêu chí của các cuộc thi hát
chuyên nghiệp từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trƣớc và những năm
sau này, phƣơng pháp hát Bel canto đã và đang có những ảnh hƣởng tốt, nâng
cao chất lƣợng ca hát cho cả ba dòng và còn tác động đến nhiều khu vực ca hát
truyền thống khác. Mỗi dòng đều có những đại diện xuất sắc, nhƣng ở mỗi dòng
đều có những vấn đề nảy sinh mà trong nhiều năm các thế hệ đi trƣớc giàu tài
năng, kinh nghiệm vẫn trăn trở, nghiên cứu, suy nghĩ và tìm biện pháp khắc
phục: “tròn vành” nhƣng không “rõ chữ”. Có nghĩa là phần nào đánh mất bản sắc
của tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới.
23
Việt nam với 54 dân tộc anh em, đƣợc thừa hƣởng một kho tàng âm nhạc
dân gian phong phú, một nền kỹ thuật thanh nhạc dân tộc đa dạng, độc đáo và
đạt trình độ thẩm mỹ cao.Việc tiếp thu, học tập tinh hoa trong kho tàng nghệ
thuật ca hát truyền thống của nhân dân ta về kỹ thuật thanh nhạc dân tộc, xử lý
ngôn ngữ tiếng Việt một cách linh hoạt, tinh tế, nhả chữ sao cho vang, rền, nền,
nảy đạt yêu cầu tròn vành, rõ chữ, hát tiếng nào ra tiếng nấy, rõ tiếng một; đồng
thời kết hợp với những kỹ thuật thanh nhạc hát Bel canto là một việc làm hết sức
quan trọng và cần thiết nhằm Nâng cao chất lƣợng đào tạo hát tiếng Việt trong
nghệ thuật hát Mới.
Từ khi hình thành và phát triển hát Mới sử dụng tiếng Việt phổ thông -
giọng Bắc (lấy chuẩn là giọng Hà Nội) làm cơ sở và trở thành tiêu chí của nghệ
thuật hát Mới. Cũng nhƣ hát Cải lƣơng hay, phải hát đúng giọng Nam bộ. Ca
Huế hay, phải phát âm đúng giọng Huế. Hát Chèo, hát Quan Họ hay, phải hát
bằng giọng Bắc. Một số ca khúc viết theo phong cách dân gian, mang đậm ngôn

ngữ địa phƣơng, ngƣời hát khi trình bày đòi hỏi phải hát rõ phong cách hoặc phát
âm theo tiếng địa phƣơng. Những sáng tác mang phong cách hiện đại, ngƣời hát
lại hát bằng giọng địa phƣơng, sẽ không phù hợp với tai nghe, thẩm mỹ của
ngƣời nghe.Vì vậy muốn hát tốt, hát chuẩn tiếng Việt cần luyện phát âm chuẩn
tiếng Việt phổ thông.
Hát Mới lấy nghệ thuật hát Đẹp - Bel canto làm cơ sở đào tạo, biểu diễn
và làm tiêu chí đánh giá mức độ chuyên nghiệp, cũng nhƣ thẩm mỹ âm thanh
suốt gần 60 năm qua, đã đạt đƣợc những thành công nhất định và cũng gặp
không ít khó khăn. Khó khăn chính nẩy sinh từ tiếng Việt, đa thanh, đơn âm, âm
đóng nhiều hơn âm mở và những đặc thù rất riêng của ca hát thuần Việt. Vì vậy,
nếu không nắm vững quy luật, cấu trúc và phát âm tiếng Việt, ngƣời hát sẽ mắc
lỗi không rõ lời hoặc đánh mất những yếu tố đặc trƣng mang tính thuần Việt nhƣ
rung, luyến, láy... giọng hát trở nên cứng, đuỗn, vô hồn.
24
Nghệ thuật Bel canto - nghệ thuật hát Mới nếu ngƣời hát vận dụng một
cách máy móc, thiếu sáng tạo vào hát tiếng Việt sẽ “tròn vành” nhƣng không “rõ
chữ”. Vì mở rộng âm vang và tầm cữ giọng nhƣng quá trình đóng, mở, kết thúc
từ không giữ đƣợc những yếu tố cơ bản của tiếng Việt (trái với tai nghe, thẩm
mỹ truyền thống). Ngƣời hát có thể hát rất tốt khi biểu diễn tác phẩm thanh nhạc
nƣớc ngoài nhƣng hát không hay hoặc không thích hát ca khúc tiếng Việt.
Trong quá trình hình thành và phát triển của hát Mới nhiều thế hệ nghệ sĩ,
giảng viên khoa thanh nhạc đã có nhiều sáng tạo, vận dụng nghệ thuật hát Bel
canto vào hát tiếng Việt, đóng góp một phần thành công không nhỏ trong đào tạo
và biểu diễn những tác phẩm thanh nhạc Việt Nam. Nhiều nghệ sĩ - giảng viên
đã rất thành công trong đào tạo và biểu diễn. Mỗi ngƣời mỗi vẻ, mỗi phƣơng
pháp hát khác nhau. Cũng không ít những giọng hát có triển vọng, đƣợc đào tạo
bài bản, chính qui ở trong nƣớc cũng nhƣ ở nƣớc ngoài nhƣng thể hiện bài hát
Việt Nam không đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn, bởi nhiều lý do: Kỹ thuật
Bel canto tốt nhƣng đóng, mở từ không hợp lý, hoặc mở quá hát không rõ lời,
hoặc khép quá hát không có âm thanh, khô, vụn, vận dụng cứng nhắc, máy móc,

“tròn vành” nhƣng “không rõ chữ”... có nghĩa là phần nào đánh mất bản sắc của
tiếng Việt trong nghệ thuật hát Mới.
Sáng tác cho thanh nhạc lúc này không còn đóng vai trò định hƣớng cho
nghệ thuật hát Mới nói chung, thậm chí trong lĩnh vực sáng tác nhạc nhẹ bị lai
căng, pha tạp, đạo nhạc, chạy theo thị hiếu… hoặc những sáng tác mang âm
hƣởng dân tộc vàng vọt, “sến”, thẩm mỹ thấp.
Kỹ thuật về âm thanh phát triển rất mạnh ở cả nơi biểu diễn và trong
phòng thu âm tạo cho ca sĩ nhƣng điều kiện mới vừa tích cực, vừa tiêu cực (hát
“nhép” tràn lan). Tác phẩm cho hát thính phòng hầu nhƣ vắng bóng. Tuy nhiên
trong đào tạo hát Mới vẫn có những kết quả, những cố gắng mới và những điều
kiện mới đó là những kết quả mở rộng giao lƣu văn hoá và hội nhập. Dòng thính
25
phòng đã có những kết quả đáng khích lệ. Ca hát cách mạng cũng từng bƣớc
đƣợc hồi phục. Tiêu chí hát tốt tiếng Việt trong đào tạo vẫn tiếp tục đƣợc quan
tâm nhƣng đã có những thay đổi không còn bức bách nhƣ trƣớc. Song, yêu cầu
chuẩn hoá những qui trình đào tạo là rất cần thiết và nâng cao chất lƣợng là điều
sống còn trong nhà trƣờng và các trung tâm đào tạo chuyên nghiệp.
2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
- Luận án dựa trên những nghiên cứu về những đặc trƣng, qui luật cơ bản
của cấu âm tiếng Việt làm cơ sở lý luận để tiếp tục nghiên cứu phƣơng pháp xử
lý ngôn ngữ khôn khéo, tinh tế trong nghệ thuật ca hát truyền thống.
- Nghiên cứu phƣơng pháp xử lý ngôn ngữ tiếng Việt trong dân gian và
một số nghệ thuật ca hát chuyên nghiệp thuần Việt tiêu biểu gần gũi với tiếng
Việt phổ thông, có ảnh hƣởng trực tiếp đến nghệ thuật ca hát Mới nhƣ: Ngâm
thơ, Hát ru, Dân ca, Ca trù, hát Chèo, hát Tuồng để tìm ra biện pháp phù hợp,
ứng dụng vào đào tạo, giảng dạy thanh nhạc kết hợp giữa kỹ thuật phát âm, nhả
chữ truyền thống với kỹ thuật mở rộng âm thanh của nghệ thuật hát Mới nhằm
tròn vành rõ chữ, rõ tiếng một mà vẫn giữ đƣợc những đặc trƣng cơ bản của
ngôn ngữ tiếng Việt, truyền đạt rõ ràng, đầy đủ thông tin chứa đựng trong ca từ
tới ngƣời nghe, khán giả, đạt đƣợc tiêu chí hát đẹp, hát hay.

3. Phƣơng pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài
* Phƣơng pháp nghiên cứu:
Các dữ liệu đƣợc trình bày theo các phƣơng pháp chính: so sánh, phân
tích, qui nạp kết hợp với kinh nghiệm thực tế giảng dạy, nêu các dẫn chứng, ví
dụ, tài liệu bằng CD, bản phổ minh hoạ… để đi đến kết luận, tổng hợp những
vấn đề đƣợc nêu ra.
* Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài:
Trong quá trình nghiên cứu, tiến hành đề tài, luận án dựa trên những
nghiên cứu từ nhiều nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu Âm nhạc Dân tộc

×