Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (993.82 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TIẾN ĐẠT

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TIẾN ĐẠT

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ QUẾ ANH

HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Tiến Đạt


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ..................................... 8
1.1.

Khái quát chung về ngƣời tiêu dùng và các quyền lợi cơ bản của
ngƣời tiêu dùng ............................................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm về người tiêu dùng .......................................................................... 8
1.1.2. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng .......................................................... 11
1.2.


Khái quát chung về thƣơng mại điện tử và quyền lợi ngƣời tiêu
dùng trong thƣơng mại điện tử ................................................................... 16

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thương mại điện tử ................................................ 16
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương
mại điện tử...................................................................................................... 20
1.2.3. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng trong thương mại điện tử ...................... 24
1.2.4. Trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong thương mại
điện tử............................................................................................................. 35
1.2.5. Giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trong
thương mại điện tử ......................................................................................... 41
1.3.

Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử theo
pháp luật Quốc tế ......................................................................................... 44

1.3.1. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương .................. 44
1.3.2. Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng ............................ 45
1.3.3. Luật Mẫu về Thương mại điện tử .................................................................. 47
Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 50


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
VIỆT NAM ................................................................................................... 51
2.1.

Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong
thƣơng mại điện tử ....................................................................................... 51


2.1.1. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng trong thương mại điện tử theo
pháp luật Việt Nam ........................................................................................ 52
2.1.2. Các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại
điện tử theo pháp luật Việt Nam .................................................................... 55
2.2.

Thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
trong thƣơng mại điện tử tại Việt Nam...................................................... 71

2.2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ................................................ 71
2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc cịn tồn trại trong q trình pháp luật bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ................................ 77
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 86
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN
TỬ .................................................................................................................. 89
3.1.

Định hƣớng và xây dựng chính sách bảo vệ ngƣời tiêu ............................ 89

3.2.

Hồn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong
thƣơng mại điện tử ....................................................................................... 90

3.3.

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi

ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử ................................................ 95

Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................... 99
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 102


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trên thế giới việc người sử dụng các thiết bị điện tử có kết nối
mạng Internet, mạng viễn thơng di động và mạng mở khác để thực hiện các thương
mại điện tử đang mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng, góp phần thúc đẩy
tăng tỷ trọng GDP cho nền kinh tế. Phát triển kinh doanh theo định hướng toàn cầu
hóa; thơng qua thành tựu cơng nghệ với các mơ hình kinh doanh mới ngày càng
phát triển, góp phần thay đổi và phát triển thị trường thương mại điện tử. Cách thức
cung ứng sản phẩm, dịch vụ bằng phương pháp truyền thống cùng với sự hỗ trợ từ
sức mạnh của công nghệ thông tin trở thành chuỗi cung ứng tiện lợi, toàn diện và
đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế nói chung cũng như thị trường thương mại điện
tử nói riêng. Cho đến nay, thương mại điện tử đã và đang thể hiện được rất nhiều lợi
thế và tác động tích cực tơi người tiêu dùng như cung cấp nhiều lựa chọn về sản
phẩm, dịch vụ, cho phép mua sắm mọi nơi, mọi lúc đối với hầu hết các sản phẩm,
dịch vụ trên khắp thế giới thông qua các phương tiện thông tin điện tử.
Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
hội nhập kinh tế quốc tế, hình thức mua bán hàng hóa qua thương mại điện tử đã và
đang phát triển mạnh mẽ nhưng các quy định về cơ chế quản lý, kiểm sốt, chế tài xử
phạt vẫn cịn nhiều hạn chế, làm cho môi trường thương mại điện tử ở Việt Nam diễn
biến theo cách thiếu được kiểm sốt. Vì vậy, rất nhiều vụ việc vi phạm quyền lợi
NTD đã diễn ra, gây tâm lý e ngại cho người tiêu dùng khi tham gia các thương mại
điện tử, ảnh hưởng đến các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội.
Tại Việt Nam, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử đã

là vấn đề được Nhà nước ta đã đưa ra và xây dựng thành quy định pháp luật nhằm áp
dụng chung trên toàn phạm vi lãnh thổ. Các văn bản pháp luật được ban hành từ khá
lâu như: Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật
Viễn thông năm 2009, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật An
tồn thơng tin mạng năm 2015 và các văn bản dưới luật có liên quan. Có thể nhận

1


thấy, các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dung vẫn đang nằm rải rác ở rất
nhiều văn bản pháp luật khác nhau, đồng thời, nội dung điều chỉnh để đáp ứng được
yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dung khi bị xâm phạm cũng chưa phù hợp
với yêu cầu thực tế. Mặt khác, các thiết chế Nhà nước và phi Nhà nước tỏ ra rất yếu
kém, có vai trị khá mờ nhạt trong việc thực hiện chức năng của mình và đặc biệt là
để chuyển các quy định của hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong thương mại điện tử đang hiện hữu trở thành hiện thực. Trước tình hình thực tiễn
như vậy, nhưng có khá ít cơng trình khoa học nghiên cứu, đi sâu vào pháp luật bảo vệ
quyền lợi của NTD nói chung cũng như vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
trong thương mại điện tử nói riêng. Có thể nhận thấy các cơng trình nghiên cứu về
vấn đề này cho đến nay vẫn đang chỉ dừng lại ở việc phân tích các vấn đề cơ bản mà
chưa đánh giá, phân tích một cách tồn diện, đầy đủ về lý luận và thực trạng của vấn
đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Với những lí do trên, tác giả sử dụng đề tài: “Pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong thương mại điện tử” làm đề nghiên cứu luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực thương mại điện tử
đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của một số học giả. Tuy nhiên, những bài
nghiên cứu này mới dừng lại ở hình thức là các bài báo, bài viết hoặc những bài
báo, bài viết có liên quan. Có thể kể đến các cơng trình khoa học như:

- Đồn Văn Trường (2002), “Nghiên cứu người tiêu dùng những vấn đề về
việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam”, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội. Tác phẩm này mô tả khái quát về các vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dung
tại Việt Nam, đồng thời xác định và chỉ rõ quyền lợi của NTD và những hành vi
xâm hại, bên cạnh đó cũng chỉ ra trách nhiệm của Chính phủ, của Hội Tiêu chuẩn
và Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam.
- Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2008); Chuyên đề “Pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng Việt Nam thực trạng và hướng hồn thiện”, Thơng tin Khoa học

2


pháp lý số 1/2008. Tác giả của cơng trình nghiên cứu đã lý luận một số vấn đề cơ
bản của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, và đưa ra cái nhìn khách quan, cụ thể đối
với thực trạng pháp luật bảo vệ NTD tại Việt Nam hiện nay nhằm hoàn thiện pháp
luật đối với vấn đề này.
- Bùi Thị Long (2007), “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ. Cơng trình nghiên cứu chỉ ra thực
trạng của vấn nạn xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, qua đó vận dụng lý luận và
quan điểm cá nhân để đóng góp những kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hồn thiện
pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng.
- Trần Thanh Điện, “Tài liệu hướng dẫn học tập thương mại điện tử”, Đại
học Cần Thơ, 2013. Thơng qua cơng trình nghiên cứu, tác giả đã xây dựng lý luận
những vấn đề cơ bản về thương mại điện tử, thực hiện an tồn và bảo mật cùng các
chính sách và pháp luật về giao dịch thông qua phương tiện điện tử.
- GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2015), “Cẩm nang pháp lý về hợp đồng điện tử”.
Cơng trình nghiên cứu được nhà xuất bản lao động in và xuất bản với nội dung
phong phú. Tác giả đã chỉ ra được nội hàm cơ bản của khái niệm hợp đồng điện tử;
các nội dung cần nắm bắt khi áp dụng hợp đồng điện tử trên thực tiến; đồng thời
làm rõ khung pháp lý cơ bản của hợp đồng điện tử.

Ngoài ra phải kể đến một số các cơng trình nghiên cứu như:
- Nguyễn Trọng Điệp, "Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với
thương nhân ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội –
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam; 2014;
- Vũ Đức Tuấn, “Những quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của Việt Nam và những vấn đề đặt ra”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Quản trị kinh
doanh - Đại học Ngoại thương, 2011;
- Tống Phước Long, “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
thương mại điện tử”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật - Đại học Huế, 2018;
- Nguyễn Thị Ngọc Hà (2018); "Giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh
trong thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam", Luận văn thạc sĩ;

3


- Vũ Hải Việt, “Bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia giao dịch qua mạng
điện tử”, Số chuyên đề 1, Tạp chí Dân chủ pháp luật, 2014;
- Cao Xuân Quảng, “Bảo vệ thông tin cá nhân trong các giao dịch tiêu
dùng”, tr.15-18, số 47, Tạp chí Bản tin cạnh tranh và người tiêu dùng, 2014;
- N.H, “Pháp luật của các nước trên thế giới về bảo vệ người tiêu dùng”,
Tạp chí Bưu chính và Viễn thơng, website: tapchibcvt.gov.vn, 2015;
- Bùi Hiền, “Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, website: tcdcpl.moj.gov.vn, 2016;
Có thể thấy, các cơng trình trên mới chỉ đưa ra những vấn đề về bảo vệ
thông tin NTD hoặc bảo vệ NTD khi tham gia giao dịch qua mạng điện tử hoặc
nghiên cứu quyền của NTD dưới góc độ một quyền được pháp luật bảo vệ. Số
lượng các nghiên cứu chuyên biệt về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
thương mại điện tử còn rất hạn chế và chỉ nghiên cứu một vài khía cạnh của quyền
này chứ chưa nghiên cứu thành hệ thống. Đề tài “Pháp luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong thương mại điện tử” tuy khơng cịn là một đề tài q mới, nhưng

tại cơng trình nghiên cứu này, tác giả sẽ khái quát một cách đầy đủ và rõ rang hơn
những vấn đề lý luận, thực trạng của hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong phạm vi thương mại điện tử nhằm xây dựng và hồn thiện pháp
luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích luận văn
- Làm sáng tỏ lý luận về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
thương mại điện tử; đồng thời phân tích, đánh giá được thực trạng pháp luật hiện
hành nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ
quyền lợi NTD khi thực hiện các giao dịch thương mại thông qua các phương tiện
thông tin điện tử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn được
xác định cụ thể như sau:

4


- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, đặc điểm và nội dung cơ bản của
pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử.
- Nghiên cứu so sánh sự ghi nhận pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong thương mại điện tử quốc tế và một số quốc gia trên thế giới, những vấn đề
pháp lý để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Phân tích các quy phạm pháp luật hiện hành về bảo vệ người tiêu dùng
trong thương mại điện tử khi quyền lợi của NTD bị xâm phạm.
- Nêu lên thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
thương mại điện tử, qua đó nêu rõ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của
chúng.
- Phân tích, đánh giá xu hướng vận động của pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong thương mại điện tử hiện nay trên thế giới, đưa ra định hướng

cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại
điện tử của Việt Nam giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử ở phương diện thực thi các quyền của
người tiêu dùng có hiệu quả khi tham gia vào các thương mại điện tử với các tổ
chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những quy định pháp luật liên quan đến
vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử; thực tiễn
xây dựng và thực thi các quy định pháp luật ở Việt Nam; kinh nghiệm thế giới
về xây dựng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện
tử.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao thương
mại điện tử là một vấn đề rất lớn, có thể phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, trong phạm vi một luận văn khơng thể phân tích hết các vấn đề đó mà

5


chủ yếu đi sâu nghiên cứu lý luận chung về quyền lợi của người tiêu dùng trong
thương mại điện tử, khái quát chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong thương mại điện tử, đồng thời, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về
vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử và thực tiễn áp
dụng.
Về mặt thời gian, với đặc thù của hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong thương mại điện tử, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu từ thời điểm Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật
Công nghệ thông tin năm 2006 và Bộ Luật dân sự năm 2015 cùng hệ thống các văn

bản hướng dẫn thi hành về vấn đề này được ban hành cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng của Mác – Lênin kế hợp tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh và tuân thủ
theo chủ trương, đường lối của Đảng về thương mại điện tử; quan điểm của Đảng
và Nhà nước về chính sách bảo vệ người tiêu dùng trong giai đoạn hiện nay. Đây là
phương pháp luận khoa học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận văn để
đánh giá khách quan sự hoàn thiện của pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng trong thương mại điện tử.
Trong từng nội dung nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
một cách linh hoạt, cụ thể: Phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp so sánh luật học, phương pháp thống kê, quy nạp, phương pháp
lịch sử, phương pháp diễn giảng, chứng minh … Trong đó, phương pháp phân tích
và tổng hợp là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đây là cơng trình nghiên cứu được thực hiện một cách có hệ thống, tồn diện
và sâu sắc về lý luận và pháp lý của hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Từ
đó, góp phần làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong thương mại điện tử ở Việt Nam.

6


Thứ nhất: Luận văn đưa ra nhũng ý kiến làm rõ những vấn đề mang tính lý
luận của việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ hai: Nêu lên, chỉ rõ và đánh giá xác thực về thực trạng pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử. Qua đó chỉ ra các vướng mắc,
bất cập của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử
cần sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với thực tiễn khách quan.
Thứ ba: Kiến nghị và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ

hữu hiệu quyền lợi người tiêu dùng khi tham gia hoạt động thương mại điện tử.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục kèm
theo, luận văn gồm có 3 Chương với những nội dung cơ bản sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong thương mại điện tử.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong thương mại điện tử.

7


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Khái quát chung về ngƣời tiêu dùng và các quyền lợi cơ bản của
ngƣời tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm về người tiêu dùng
1.1.1.1. Khái niệm về tiêu dùng
Tiêu dùng là một trong những hoạt động cơ bản và phổ biến trong đời sống
dân sự thường nhật tại bất kỳ khu vực nào trên thế giới hay bất cứ giai đoạn nào của
tiến trình vận động, phát triển của xã hội dân sự. Đây được xem là quá trình sử dụng
và làm tiêu hao những của cải, vật chất được sáng tạo hoặc sản xuất ra nhằm phục
vụ cho các nhu cầu khác nhau trong đời sống con người [16].
Dưới góc độ kinh tế, tiêu dùng được hiểu là hành vi sử dụng hàng hóa để
đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Đối với kinh tế vi mô, tiêu dùng được xem
xét gắn liền với từng hàng hóa cụ thể được thể hiện thơng qua hành vi mua bán
của người tiêu dùng. Trong khi đó, đối với kinh tế vĩ mô, tiêu dùng được biết đến

với vai trị là một trong các yếu tố chính cấu thành nên tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của quốc gia. Theo đó, tiêu dùng có vai trị thiết yếu trong việc xây dựng
và phát triển mọi nền kinh tế.
Dưới góc độ pháp lý, tiêu dùng là hành vi xuất hiện trong các quan hệ pháp
luật mà ở đó, các chủ thể của quan hệ tiêu dùng có sự thỏa thuận thống nhất tiến
hành giao dịch đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ từ đơn vị sản xuất, kinh doanh
đến tay người sử dụng nhằm mục đích phục vụ nhu cầu sử dụng. Hoạt động tiêu
dùng được xem như trọng tâm của để tạo nên các giao dịch tiêu dùng, theo đó,
người tiêu dùng đưa ra ý chí chủ quan của mình về nhu cầu, mong muốn đối với sản
phẩm trong giao dịch và nhà sản xuất, kinh doanh cung cấp các sản phẩm, dịch vụ
đến với người tiêu dùng theo đúng thỏa thuận của các bên. Trong đời sống thường
nhật, các hoạt động tiêu dùng được thực hiện phổ biến, rộng rãi, do đó quan hệ tiêu
dùng được xem như các quan hệ pháp luật phổ biến và cơ bản của xã hội.

8


Do vậy, có thể hiểu tiêu dùng là hành vi sử dụng của cải vật chất, hàng hóa,
dịch vụ để thỏa mãn các nhu cầu của đời sống sinh hoạt hằng ngày. Nói cách khác,
tiêu dùng được hiểu là sử dụng các sản phẩm đã được sáng tạo, sản xuất ra để phục
vụ đời sống sinh hoạt thường nhật của mỗi con người. Đồng thời đây cũng là mục
đích cuối cùng mà con người hướng tới trong hoạt động kinh tế. Tiêu dùng có vai
trị là một khâu quan trọng và có ảnh hưởng quyết định tới sản xuất và kinh doanh,
bởi sản xuất và kinh doanh để có thể tổn tại luôn phải đáp ứng được thực trạng nhu
cầu tiêu dùng của con người để mỗi sản phẩm làm ra thực sự đi vào đời sống
thường nhật, được con người sử dụng và hoàn thành chức năng của sản phẩm là
phục vụ nhu cầu của con người.
1.1.1.2. Khái niệm người tiêu dùng
Với ý nghĩa là mục đích cuối cùng mà q trình sản xuất hướng tới, tiêu
dùng chính là cầu nối kết nối nhà sản xuất với người sử dụng các sản phẩm mà nhà

sản xuất cung cấp ra thị trường. Chủ thể của các hành vi tiêu dùng, sử dụng sản
phẩm, dịch vụ chính là đối tượng phục vụ của sản xuất và cung ứng sản phẩm trên
thị trường hay còn được gọi là người tiêu dùng.
Trong tiếng Anh, người tiêu dùng được gọi bằng thuật ngữ “consumer” để
phân biệt với thuật ngữ “customer” là người mua, khách hàng nói chung, theo đó
“customer” mang nghĩa rộng hơn, dùng để chỉ tất cả các chủ thể bao gồm những
người mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc làm nguyên liệu sản
xuất, kinh doanh. Với việc lý giải như trên, việc xác định một người nào đó có phải
là người tiêu dùng hay khơng được những nhà làm luật xác định dựa trên cơ sở:
Người này có phải là người đã thực hiện hành vi sử dụng mặt hàng hoặc dịch vụ
nào đó nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân hoặc những người khác được đáp ứng
nhu cầu từ hành vi đó hay khơng. Hoặc nói khác đi – theo cách giải thích của Cộng
hịa Liên bang Đức – để xác định người tiêu dùng thì cần phải xác định xem người
đó có phải là người sử dụng cuối cùng hay không. Với cách giải thích này, người
tiêu dùng được xác định là người cuối cùng sử dụng sản phẩm và khiến cho sản
phẩm thực hiện được đúng chức năng thỏa mãn nhu cầu của con người đồng thời

9


làm cho sản phẩm bị tiêu hao. Đây là quan điểm đã định nghĩa bao quát hết được
nội hàm của khái niệm về người tiêu dùng và có thể dễ dàng áp dụng trong thực tiễn
để xác định đâu và người tiêu dùng và hành vi tiêu dùng [19].
Tại Pháp, đại đa số cho rằng “người tiêu dùng” được xác định là chủ thể
không phải người sở hữu doanh nghiệp, hay có thể xem là những con người tự
nhiên tiến hành giao dịch để có được các sản phẩm và dịch vụ nhưng không phục
vụ cho hoạt động nghề nghiệp hay kiếm lời mà nhằm đáp ứng cho nhu cầu gia đình
hoặc cho bản thân. “Chính sự đánh đồng người tiêu dùng với người không phải chủ
doanh nghiệp là xuất phát điểm của luật pháp và thực tiễn tư pháp của Pháp”. Theo
đó, người tiêu dùng được xác định vừa gắn với hành vi mua các sản phẩm, nhưng

phải đáp ứng được mục đích tiêu dùng ngồi các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận, và
đặc biệt, người tiêu dùng được xác định rõ là những con người tự nhiên và không
phải là các chủ doanh nghiệp. Với cách lý giải này, khái niệm người tiêu dùng đã
được định nghĩa một cách chi tiết và cụ thể, tuy nhiên cách xác định người tiêu
dùng đối với quan điểm này không dễ dàng áp dụng trên thực tiễn bởi quan điểm
này đi sâu vào tư cách chủ thể chứ không gắn liền với bản chất của hành vi mà con
người thực hiện, do đó có thể gặp khó khăn trong việc xác định người tiêu dùng và
bỏ sót các chủ thể khác cũng có tư cách của một người tiêu dùng [34].
Việc xác định tư cách chủ thể là người tiêu dùng được thực hiện nhằm mục
đích áp dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.
Hoạt động bảo vệ người tiêu dùng chính là một trong những phương pháp bảo vệ
lợi ích của các cá nhân thực hiện các tiêu dùng cơ bản. “Người tiêu dùng là người
mua hàng hóa hoặc dịch vụ để sử dụng cho cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình mà
khơng có ý định bán lại; là một tự nhiên nhân sử dụng sản phẩm phục vụ mục đích
cá nhân, khơng phải nhằm mục đích kinh doanh” [34], nói cách khác, người mua,
sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh sẽ khơng thuộc phạm
vi điều chính của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.
Tại Việt Nam, khái niệm người tiêu dùng cũng đã được pháp luật đề cập đến.
Điều 1 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 và Điều 2 Nghị định

10


69/2001/NĐ-CP ngày 2/10/2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh nói trên đã
đưa ra định nghĩa rằng: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ
phục vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức”. Như
vậy, người tiêu dung có thể là: (1) Người mua và là người sử dụng hàng hóa, dịch
vụ đã mua cho chính bản thân mình; (2) Người mua hàng hóa, dịch vụ cho người
khác, cho gia đình hoặc tổ chức sử dụng; (3) Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng
hàng hóa, dịch vụ do người khác mua hoặc do được cho, tặng. Các định nghĩa

“người tiêu dùng” ở đây đã có sự phân biệt hai chủ thể tiêu dùng khác nhau: Người
tiêu dùng là cá nhân, tổ chức trực tiếp sử dụng và người tiêu dùng là người mua
hàng hóa, dịch vụ cho người khác sử dụng với cùng một mục đích sử dụng là tiêu
dùng sinh hoạt.
Như vậy, theo quan điểm của các nhà lập pháp tại Việt Nam, tất cả nhưng
người mua bán các sản phẩm, hàng hóa cho chính bản thân hoặc cho cá nhân, tổ
chức khác sử dụng đều là người tiêu dùng. Cơ sở để đưa ra định nghĩa về người tiêu
dung có thể được dựa trên mục đích tiêu dùng cho sinh hoạt và đời sống thường
ngày. Quan điểm này dường như khá đầy đủ và dễ dàng xác định được người tiêu
dùng khi căn cứ để xác định dựa trên phân loại người tiêu dùng và xác định bản
chất của hành vi tiêu dùng.
Tựu chung lại, dù có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm người tiêu dùng,
tuy nhiên nội hàm của khái niệm người tiêu dùng của các quan điểm trên đều có các
đặc điểm chung về người tiêu dùng đó là chủ thể này được xác định là các chủ thể thực
hiện các giao dịch mua sản phẩm, dịch vụ không nhằm mục đích thương mại.
1.1.2. Các quyền cơ bản của người tiêu dùng
Quyền cơ bản của người tiêu dùng là thuật ngữ pháp lý hàm ý chỉ quyền và
lợi ích chính đáng được hưởng của người tiêu dùng và phải được pháp luật bảo vệ.
Trên thế giới đã hình thành và phát triển các hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD được
từ những năm 50 – 60 của Thế kỷ XX, thế nhưng chưa làm rõ được những quyền cơ
bản của người tiêu dùng. Cho đến ngày 15/3/1962 khi Tổng thống Mỹ John Kenedy
trong cuộc họp của Thượng viện Mỹ tuyên bố:

11


… Theo định nghĩa, người tiêu dùng là tất cả chúng ta. Họ là nhóm
người đơng đảo nhất, có tác động và chịu tác động của hầu hết các quyết
định về kinh tế, dù là của nhà nước hay tư nhân. Thế nhưng họ lại là
nhóm người quan trọng duy nhất mà quan điểm của họ lại thưởng không

được lắng nghe…, khi đó cột mốc mới về sự phát triển của quyền lợi
người tiêu dung mới thực sự bắt đầu [44].
Theo Tuyên bố Kenedy, các quyền cơ bản của người tiêu dùng được xác
định là: thứ nhất, quyền được an tồn; thứ hai, quyền được thơng tin; Thứ ba, quyền
được lựa chọn và thứ tư, quyền được bày tỏ quan điểm. Qua quá trình hoạt động
thực tiễn của Quốc tế người tiêu dùng (Consumer International – CI) và các tổ chức
người tiêu dùng các nước, các quyền cơ bản của người tiêu dùng đã được bổ sung
thêm. Đó là các quyền: quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, quyền được
bồi thường, quyền được giáo dục và quyền được sống trong môi trường lành mạnh.
Ngày 15/3 hàng năm là ngày quyền của người tiêu dùng thế giới (World Consumer
Rights Day) theo tuyên bố chính thức của Liên hợp quốc nhằm. Hành động này đã
tạo nên sự quan tâm sâu sắc đế quyền lợi của người tiêu dùng đồng thời góp phần
giúp người tiêu dùng nâng cao nhận thức về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Cho đến nay, Liên hợp quốc đã ban hành Hướng dẫn về bảo vệ người tiêu
dùng, làm cơ sở pháp lý để nhiều nước đã xây dựng các quy định về quyền lợi
người tiêu dùng trong pháp luật quốc gia. Tại Việt Nam, Ngày 17/11/2010, Luật
số 59/2010/QH12 về Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được Quốc hội khóa 12
thơng qua, tuy không đưa ra khái niệm quyền cơ bản của NTD nhưng hiểu theo
tinh thần pháp luật điều chỉnh của Luật này thì quyền cơ bản của NTD là "thuật
ngữ pháp lý chỉ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng khi mua, sử dụng
hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ
chức". Theo đó, bất kể cá nhân hay tổ chức khi thực hiện các hành vi mua, sử
dụng hàng hóa, dịch vụ cho chính bản thân hình hay cho người khác sử dụng vì
mục đích tiêu dùng thì đều được hưởng những quyền và lợi ích chính đáng của
người tiêu dùng [17].

12


Các quyền cơ bản của NTD được xem như các quyền thiết yếu và cơ bản

nhất mà NTD phải được hưởng. Những quyền này khơng ai có thể xâm phạm trong
bất kể trường hợp nào, bởi nếu xâm hại các quyền này, NTD sẽ phải chịu những
thiệt hại vô cùng nặng nề và không tương xứng với nhu cầu cũng như chi phí đã bỏ
ra. Để xác định nội dung các quyền cơ bản của NTD, có thể xác định nhìn nhận
dưới các quyền sau:
Thứ nhất, quyền an tồn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác. Đây là quyền cơ bản và tiên quyết ảnh hưởng trực tiếp đến NTD. Bởi
khi NTD sử dụng hồng hóa, sản phẩm, dịch vụ mua được phải đảm bảo cho việc
hàng hóa phục vụ được nhu cầu và mục đích sinh hoạt, để duy trì sự sống và các
hoạt động thường nhật. Do đó, các sản phẩm đến tay người tiêu dùng khơng được
phép làm tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản hay các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của người tiêu dùng
Thứ hai, quyền được cung cấp thơng tin chính xác. Đối với NTD, khi tham
gia vào giao dịch tiêu dùng, họ là những người yếu thế khi khơng thể tự mình thu
thập, kiểm chứng và đánh giá các thơng tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà
mình có nhu cầu. Bởi vậy việc thiếu thơng tin chính xác có thể gây nhầm lẫn hoặc
khơng có đủ cơ sở để NTD đưa ra các quyết định mua các sản phẩm, hàng hóa, dịch
vụ khơng đáp ứng được nhu cầu cũng như mục đích sử dụng của họ, dẫn tới việc
nhà sản xuất, kinh doanh đưa ra thị trường và tới tay NTD những sản phẩm không
phù hợp với yêu cầu thực tiến, sản phẩm kém chất lượng hoặc gây hại cho NTD. Do
đó, NTD cần phải được tiếp cận các thông tin về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch; nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm; được cung cấp hóa
đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch.
Thứ ba, quyền được tự quyết. Đây là quyền cơ bản và quyết định đến việc
NTD đưa ra ý chí chủ quan của mình về việc lựa chọn hàng hóa, sản phẩm dịch vụ
hay chủ thể cung cấp theo nhu cầu của mình. Việc mua các sản phẩm, hàng hóa và
dịch vụ được căn cứ trên nhu cầu, mục đích sử dụng của NTD do đó, chỉ có NTD
mới biết sự cần thiết và vai trò của sản phầm mà minh lựa chọn khi đưa ra quyết

13



định mua hoặc khơng mua. Khơng ai có quyền ép buộc hay tác động trái pháp luật
đến quyền lựa chọn của NTD, khiến cho NTD tạo nên những giao dịch tiêu dùng
không hiệu quả, không tự do, tự nguyện và xâm hại trực tiếp đến quyền lựa chọn
của NTD. Do đó, những lựa chọn của người tiêu dùng phải được hoàn toàn độc lập
theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc khơng tham gia
giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Thứ tư, quyền được đóng góp ý kiến. Với vị trí và vai trị đặc biệt quan trọng
trong q trình sản xuất và tiêu dùng, NTD là chủ thể chính cảm nhận được chất
lượng và giá trị sử dụng thực tế của các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà mình được
cung cấp. Do đó, những ý kiến của NTD về các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà
minh đã sử dụng thường mang tính thực tiễn, góp phần xác định những yếu tố
không phù hợp trong sản phẩm tiêu dùng hoặc trong chính khâu sản xuất, kinh
doanh nhằm đảm bảo cho việc hoàn thiện sản phẩm tiêu dùng, giúp cải thiện chất
lượng và giá trị sử dụng đến với người tiêu dùng. Đồng thời, NTD cũng phải được
quyền phản ánh ý kiến cá nhân của mình về sản phẩm tiêu dùng bởi NTD là chủ thể
chính phải chịu thiệt hại về cả vật chất, sức khỏe và tinh thần khi sử dụng các sản
phẩm không phù hợp với giao dịch tiêu dùng. Do đó, NTD cần được đảm bảo rằng,
ý kiến cá nhân trung thực của mình phải được đưa ra đối với tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục
vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu
dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Thứ năm, quyền xây dựng định hướng và áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng. Cơ sở vững chắc nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NTD chính là hệ thống pháp luật quốc gia, nơi chứa đựng các quy tắc xử sự bắt
buộc áp dụng chung cho toàn xã hội. Đối với các giao dịch tiêu dùng, pháp luật về
bảo vệ quyền của NTD chính là thước đo cho sự đảm bảo của nhà nước đối với
NTD, khi đó một hệ thống pháp luật về quyền của NTD cần được xây dựng phù

hợp với các quyền và lợi ích cũng như nhu cầu thực tế của NTD, trong khi đó chỉ

14


NTD mới thực sự hiểu được nhu cầu cũng như các quyền lợi chính đáng, thiết thực
cần được pháp luật bảo đảm. Chính vì vậy, khi xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của NTD, nhà nước cần đảm bảo quyền đóng góp dây dựng ý
kiến, quan điểm để hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng một
cách hợp lý và thực tế hơn. Bên cạnh đó, việc tham gia đóng góp ý kiến để xây
dựng hệ thống pháp luật cũng là một trong những quyền hiến định của con người.
Việc đảm bảo cho NTD được tham gia xây dựng hệ thống pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng cũng chính là đảm bảo quyền con người trong cơng tác
xây dựng pháp luật.
Thứ sau, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong mỗi giao dịch tiêu dùng,
NTD luôn là các chủ thể yếu thế hơn khi là chủ thể chính mà các đối tượng sản xuất,
kinh doanh nhắm tới nhằm tìm kiếm và khai thác lợi nhuận. Bên cạnh đó, việc sử
dụng các sản phẩm tiêu dùng cũng chính là quá trình NTD hấp thụ, cảm nhận và chịu
tác động trực tiếp từ sản phẩm tiêu dùng mà minh sử dụng. Do đó, khi các sản phẩm
tiêu dùng được sử dụng nhưng không đáp ứng được nhu cầu, mục đích sử dụng hay
chất lượng của sản phẩm thì đồng nghĩa với việc NTD đã và đang chịu thiệt hại một
cách trái luật, những thiệt hại này phải được bù đắp bởi người gây nên thiệt hại.
Chính vì vậy, việc phải bồi thường thiệt hại khi gây ra cho NTD sẽ bị chính NTD u
cầu hồn trả, khắc phục. Đây là quyền lợi rất cần thiết phải được bảo đảm bởi nó
chính là biện pháp bù đắp cho những tổn thất mà người tiêu dùng phải hứng chịu,
đồng thời cũng là chế tài xử lý những hành vi sản xuất, kinh doanh không trung thực.
Thứ bảy, quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện. Khi các hành vi xâm hại đến
quyền lợi của NTD xuất hiện trên thực tế, NTD vừa là người gánh chịu thiệu hại, vừa
phải là người chủ động có các biện pháp để bảo đảm quyền lợi của mình. Trong khi
đó, NTD ln khơng có đủ tiềm lực tài chính, kinh nghiệm, kiến thức và sự chủ động

cũng như thực quyền để yêu cầu người trực tiếp xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp
của mình phải thực hiện khắc phục hậu quả hay chấm dứt các hành vi sai phạm. Do
đó, sự cần thiết của các cơ quan có thẩm quyền nhằm thực hiện chức năng sử dụng
quyền lực công ra đời để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho NTD đồng thời

15


buộc người vi phạm phải chất dứt hành vi vi phạm và tiến hành khắc phục hậu quả.
Để có thể hiện thực hóa được cơ chế trên, pháp luật cần đảm bảo quyền khiếu nại, tố
cáo, khởi kiện hoặc đề nghị các cơ quan có chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho mình. Đây chính là cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn để các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiến hành chức năng, nhiệm vụ bảo vệ NTD của mình. Hay nói
cách khác, bảo vệ quyền khiếu nại khiếu kiện của NTD cũng chính là biện pháp thắt
chặt quản lý hành chính nhà nước về sản xuất, kinh doanh trong tiêu dùng.
Thứ tám, quyền nhận kiến thức về tiêu dùng. Với vị thế là người khơng kiểm
sốt thơng tin của sản phẩm tiêu dùng trong tay, NTD khi tham gia vào các giao
dịch tiêu dùng luôn thiếu các kiến thức cũng như thông tin về sản xuất, kinh doanh
các sản phẩm tiêu dùng cũng như chính các thơng tin về sản phẩm tiêu dùng, điều
này dẫn tới việc NTD dễ bị lừa dối, bị chi phối bởi các thông tin không đúng sự thật
về giao dịch tiêu dùng cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham
gia giao dịch tiêu dùng. Do đó, để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD
một cách hiệu quả và nhanh chóng nhất, chính bản thân NTD cần được trang bị các
kiến thức về tiêu dùng hàng hóa cũng như được phổ biến, tư vấn về các quyền của
NTD khi tiến hành giao dịch. Đây chính là biện pháp bảo vệ gián tiếp nhưng hiệu
quả và lâu dài nhất đối với NTD.
Tựu chung lại, quyền lợi mà người tiêu dùng được hưởng có thể được xem là
nội dung chi tiết của một số quyền cơ bản của con người đối với hoạt động tiêu
dùng. Nhìn chung, pháp luật các nước vẫn đang có xu hướng bảo vệ người tiêu
dùng thông qua việc đảm bảo đầy đủ các quyền của người tiêu dùng đã được Quốc

tế ghi nhận, và vì thế đây được coi là một ngành luật mang đặc trưng riêng của nhân
quyền trong tiêu dùng.
1.2. Khái quát chung về thƣơng mại điện tử và quyền lợi ngƣời tiêu
dùng trong thƣơng mại điện tử
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của thương mại điện tử
1.2.1.1. Khái niệm thương mại điện tử
Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về Thương
mại điện tử của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL):

16


Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát
các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có
hay khơng có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các
giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về thương mại, về cung cấp hoặc
trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại
lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các cơng
trình; tư vấn; kỹ thuật cơng trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm;
thỏa thuận khai thác hoặc tơ nhượng; liên doanh các hình thức khác về
hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành
khách bằng đường biển, đường khơng, đường sắt hoặc đường bộ [36].
Bên cạnh đó, Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) lý giải về Thương
mại điện tử với khái niệm rằng: Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng
cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng
Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng
như những thông tin số hố thơng qua mạng Internet [46].
Có thể thấy rằng, các hoạt động được bảo hàm bởi thuật ngữ thương mại
điện tử rất rộng cũng căn cứ vào nội hàm của thuật ngữ thương mại, thuật ngữ này
có thể được hiểu với ý nghĩa bao quát hầu hết các lĩnh vực của hoạt động kinh tế

tương tự như thuật ngữ thương mại, tuy nhiên chỉ bao gồm các lĩnh vực chịu tác
động của cơng nghệ thơng tin, điều đó đồng nghĩa với việc các hoạt động mua bán
hàng hóa và dịch vụ khi được thực hiện thông qua các giao dịch điện tử chỉ là một
trong các ngàng, lĩnh vực cơ bản và phổ biến nhất thường xuyên áp dụng các tiện
ích của cơng nghệ điện tử. Với cách hiểu này, nội hàm của thuật ngữ thương mại
điện tử có thể thể hiện rõ được tính thực tế cũng như vai trò của thương mại điện tử
đối với thực trạng của nền kinh tế, đồng thời xác định rõ phạm vi và giới hạn bao
gồm tất cả các ngành, lĩnh vực mà các tiện ích của cơng nghệ thơng tin, giao dịch
điện tử tác động vào thương mại. Do đó, cách lý giải này về thương mại điện tử khá
hợp lý khi áp dụng vào thực tiễn.
Khái niệm “Thương mại điện tử” cũng có thể được hiểu với một nghĩa đơn

17


giản hơn đó là các hoạt động thương mại được tiến hành trên mạng máy tính mở.
Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) định nghĩa, “Thương mại điện tử là các hoạt động liên quan đến các
giao dịch thương mại trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nhóm (cá nhân) mang
tính điện tử chủ yếu thơng qua các hệ thống có nền tảng dựa trên Internet" [46].
Theo Ủy ban châu Âu thì thương mại điện tử có thể định nghĩa chung là sự mua bán,
trao đổi hàng hóa hay dịch vụ giữa các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân, tổ chức tư
nhân bằng các giao dịch điện tử thông qua mạng Internet hay các mạng máy tính
trung gian (thơng tin liên lạc trực tuyến). Thật ngữ bao gồm việc đặt hàng và dịch
thông qua mạng máy tính, nhưng thanh tốn và q trình vận chuyển hàng hay dịch
vụ cuối cùng có thể thực hiện trực tuyến hoặc bằng phương pháp thủ cơng [48].
Có thể thấy, thông qua mạng Internet việc thực hiện các giao dịch thương
mại đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điện tử. Thương mại điện tử gồm tất cả
các hoạt động giao dịch thông qua phương tiện điện tử giữa người tiêu dùng và
người cùng cấp sản phẩm tiêu dùng. Tuy nhiên, các hiểu này dường như mới chỉ

nhìn nhận thương mại điện tử dưới góc độ tác động trực tiếp của công nghệ thông
tin đến các giao dịch và hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ thơng qua
các mạng máy tính mở chứ chưa nhìn nhận những tác động khác của công nghệ
thông tin ảnh hưởng tới các ngành và lĩnh vực khác của thương mại [32].
Như vậy, theo quan điểm của tác giả, thương mại điện tử nên được hiểu là
toàn bộ các hoạt động kinh doanh thương mại được thực hiện bao gồm cả thương
mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương
mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các
hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục) và các hoạt động mới (ví
dụ như siêu thị ảo) thơng qua các tiện tích của cơng nghệ thơng tin. Hay nói cách
khác, thương mại điện tử chính là tồn bộ các ngành, lĩnh vực áp dụng các thành
tựu công nghệ thông tin vào trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
1.2.1.2. Đặc điểm của thương mại điện tử
Hình hành và phát triển sau so với các hoạt động hương mại truyền thống,

18


ngồi việc kế thừa các đặc tính cơ bản của các hoạt động thương mại thông thường
như thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên khi giao dịch; tiến hành các giao dịch
thương mại mang tính thường xuyên, liên tục; đảm bảo cho các giao dịch sinh lời;
..., thương mại điện tử cịn có một số điểm khác biệt cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể của thương mại điện tử giao kết hợp đồng một cách gián
tiếp.
Các giao dịch thương mại trước đây được các bên thương nhân gặp gỡ nhau
trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo hình
thức hiện hữu cơ bản như chuyển tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Chỉ số
liệu kinh doanh mới được trao đổi thông qua các phương tiện viễn thông như: fax,
telex, … . Tuy nhiên, việc áp dụng các phương thức giao dịch điện tử thay thế các
thức truyền thống cũng chỉ để thay đổi các chuyển tải thông tin giữa hai đối tác của

cùng một giao dịch. Trong khi đó, hình thức giao dịch điện tử giúp các hoạt động
tiêu dùng có thể kết nối được các vùng xa xơi hẻo lánh đến các khu vực đô thị lớn,
tạo điều kiện thực hiện các giao dịch toàn cầu một cách đơn giản và nhanh chóng.
Thứ hai, xây dựng thị trường chung tồn cầu. Giao dịch thơng qua phương
tiện điện tử trực tiếp tác động tới khả năng cạnh tranh của kinh tế toàn cầu. Thương
mại điện tử càng phát triển, sẽ khiến cho các thiết bị kết nối mạng mở trở thành
phương tiện để doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường toàn cầu. Với thương mại
điện tử, một doanh nhân dù mới thành lập đã có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức và
Chilê hay bất cứ quốc gia nào trên thế giới,mà không hề phải bước ra khỏi nhà hay
di chuyển đến một địa điểm nào đó, một công việc trước kia phải mất nhiều năm và
tốn kém rất nhiều chi phí mỗi khi tiến hành một giao dịch.
Thứ ba, thương mại điện tử được ba chủ thể xây dựng nên.
Mỗi giao dịch thương mại được thực hiện thông qua phương tiện điện tử,
luôn tồn tại các chủ thể cơ bản của một giao dịch đó là bên bán và bên mua, tuy
nhiên đối với giao dịch này, bên thứ ba - nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan
chứng thực… là chủ thể tạo môi trường cho các thương mại điện tử cũng là chủ thể
không thể thiếu. Chủ thể thứ ba này có nhiệm vụ nhận, lưu, chuyển các thông tin

19


giao dịch của các bên tham gia thương mại điện tử, đồng thời họ cũng xác nhận độ
tin cậy của các thông tin trong thương mại điện tử.
Thứ tư, Thị trường của thương mại điện tử là mạng lưới thông tin. Với sự
phát triển của công nghệ thông tin, điện tử, nhiều loại hình kinh doanh mới được tạo
ra và phát triển. Các trang Web mạng xã hội như Facebook, Youtube hay Google
đóng vai trị rất quan trọng trong việc lưu trữ và cung cấp thông tin. Khi truy cập
vào các trang mạng xã hội, người dùng đã tiếp cận với một kho thơng tin khổng lồ
và có khả năng tiếp cận với vô vàn sản phẩm và đối tượng giao dịch khác nhau và tỷ
lệ tiến hành các giao dịch trên là rất cao.

Với những đặc điểm riêng của mình, thương mại điện tử khi tận dụng được
các ưu điểm của mình, loại hình thương mại này đang ngày càng phát triển phổ biến
và rộng rãi trên toàn thế giới. Sự bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ cũng
là một trong những yêu tố góp phần tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của thương mại
điện tử. Cho đến nay, sự phát triển của nền kinh tế thế giới chịu tác động và ảnh
hưởng cũng như đóng góp khơng nhỏ của thương mại điện tử, nhất là thương mại
điện tử toàn cầu.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương
mại điện tử
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho đến nay đang được xem lại một trong
những vấn đề vô cùng quan trọng đối với quá trình thực hiện hội nhập quốc tế về
bảo đảm quyền con người cũng như nâng cao năng lực và hiệu quả ứng dụng thành
tựu công nghệ thơng tin vào đời sống dân sự một cách có hiệu quả và hợp pháp.
Dưới tác động của sự bùng nổ về thương mại điện tử, quyền và lợi ích chính đáng
của người tiêu dùng đã và đang đặt mình vào một vị thế dễ bị tổn thương hơn bao
giờ hết. Sự phát triển của các giao dịch dân sự thông qua các phương tiện truyền
thông đang ngày một tăng nhanh, len lỏi vào đời sống và nhu cầu thiết yếu của mỗi
con người, chính vì vậy, mỗi khi các giao dịch này được thực hiện, sự tác động của
nó đền quyền và lợi ích của người tiêu dùng là sự tác động nhanh chóng, rộng rãi và
trực tiếp nhất, trong đó có cả những tác động xâm hại nghiêm trọng đến quyền và
lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.

20


×