Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm (cực hót)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.18 KB, 19 trang )


Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Độc lập Tự do Hạnh phúc.
Vấn đề
dạy chữa lỗi dùng từ
ở T.H.C.S.

Ngời thực hiện: Nguyễn Thị Vũ Hơng.
Đơn vị : Trờng T.H.C.S Cao Mại.
Năm học: 2009 - 2010
Phần I: Những vấn đề chung.
I.Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
1. Lí do chủ quan:
Đây là dạng bài mới đợc đa vào sách giáo khoa Ngữ văn 6. Tôi cảm thấy sự
mới mẻ của nó, nhng trong đó bao hàm cả việc dạy và học ra sao. Làm thế nào để
học sinh chỉ ra những lỗi dùng từ trong bài đó?
Trong những năm giảng dạy ở trờng, tôi gặp không ít trờng hợp sai lỗi dùng
từ. Tôi thiết nghĩ đó là một vấn dề cần phải đợc quan tâm hơn nữa. Nhng năm nay
có cái thuận lợi là sách giáo khoa đã đa vào chơng trình Ngữ văn 6 một số tiết về
chữa lỗi dùng từ. Chứng tỏ chơng trình đã có sự đổi mới và càng đổi mới hơn về
việc chữa lỗi dùng từ cho học sinh T.H.C.S.
2. Lí do khách quan:
Nh chúng ta đã biết,ngôn ngữ có một tầm quan trọng đối với việc giảng dạy
từ ngữ trong nhà trờng.Cùng với sự phát triển của con ngời, ngôn ngữ là một nhân
tố hết sức quan trọng. Không có ngôn ngữ thì không có con ngời. Fengls đã nói:
Tr ớc hết là lao đông, sau lao động rồi đồng thời cùng với lao động là ngôn ngữ.
Đó là hai động lực chủ yếu. làm cho con ngời đợc phát triển hoàn thiện nh ngày
nay.
Sở dĩ có xã hội là nhờ con ngời biết dùng ngôn ngữ để làm phơng tiện trao
đổi t tởng, tình cảm. Từ đó có đấu tranh để tồn tại và phát triển. Với t cách là một
công cụ nhận thức, công cụ t duy, là công cụ giao tiếp, ngôn ngữ có ý nghĩa hết


sức lớn lao.Vì thế chúng ta những con ngời làm công tác giáo dục , phải chú
trọng đến việc trau dồi ngôn ngữ cho học sinh, làm cho các em nắm vững hơn về
Tiếng Việt .Không những thế,mà còn phải biết giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
Việt , biết kế thừa và phát huy di sản vô cùng quý báu mà cha ông ta để lại.
Cũng chính vì vậy , vấn đề giảng dạy từ ngữ là vấn đề vô cùng quan trọng,
không những cần thiết cho giáo dục thẩm mỹ qua tác phẩm văn học,cho các môn
học khác trong nhà trờng mà còn cần thiết cho cuộc sống mỗi chúng ta.
II.Mục đích nghiên cứu.
Dân tộc Việt Nam có một nền văn hiến lâu đời và đáng tự hào.Văn chơng là
một phần to lớn và quan trọng trong nền văn hiến đó. Di sản văn chơng quá khứ là
tinh hoa , là phần hồn đợc chắt lọc trong đặc sắc tinh thần của cha ông ta.
Văn học phản ánh t tởng , tinh thần của dân tộc ,cũng là t tởng , tình cảm
của con ngời gửi gắm qua các tác phẩm văn chơng. Trong ca dao, tác giả dân gian
đã từng có những câu rất thẳng, rất trực tiếp khi vào vấn đề.Ví nh :
Tiện đây anh nắm cổ tay,
Anh hỏi câu này , có lấy anh không?
Song xã hội lúc bấy giờ còn cha đồng tình với cách ngỏ lời của chàng trai
ấy.Đó cũng là một cách ngỏ lời thật hay! Nhng còn hay hơn nữa là các tác giả dân
gian đã biết sử dụng những hình ảnh thật đặc sắc và ý nhị:
Đêm qua tát nớc đầu đình,
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Em đợc thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà
Phải chăng dây là một cái cớ- cái cớ để ngời con trai tỏ tình với cô gái?
Hình ảnh chiếc áo bỏ quên trên cành tại sao không phải là cành cây hay loài hoa
khác mà cứ phải là hoa sen ? Thật đậm đà,thâm thuý biết bao!
Còn nhiều và rất nhiều hình ảnh nữa, ví nh chiếc yếm đào của cô gái nọ,
rồi dải yếm bắc cầu của một thôn nữ Làm sao mà nói hết đợc cái hay, cái
đẹp của văn chơng. Chứng tỏ sự phong phú , giàu có của Tiếng Việt. Bởi Tiếng
nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc , chúng ta

phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp.
Tháng 10/ 1979, viện ngôn ngữ học tổ chức hội nghị:Giữ gìn sự trong sáng
của Tiếng Việt đã khẳng dịnh rằng: Thống nhất và làm giàu thêm Tiếng Việt là
chiến lợc,là nhiệmvụ của chúng ta.
Thủ tớng Phạm Văn Đồng cũng đã từng nói: Tiếng Việt chúng ta rất giàu
và đẹp. Giàu vì nó phản ánh đời sống muôn màu và đời sống t tởng tình cảm của
nhân dân; nó phản ánh những kinh nghiệm đấu tranh lâu đời, đấu tranh xã hội,đấu
tranh thiên nhiên và đấu tranh chống giặc ngoại xâm;nó phản ánh kinh nghiệm
sống bốn ngàn năm lịch sử và đông thời cũng phản ánh sự hình thành và phát triển
của dân tộcViệt Nam, xã hội Việt nam.
Tiếng Việt đẹp bởi nó là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp , trình độ
văn hoá nghệ thuật của nhân dân ta. Giữ gìn và phát triểnTiếng Việt là bảo vệ và
phát huy tinh thần yêu nớc và tinh hoa của dân tộc.Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
Việt còn là một sự chăm lo, phát triển trình độ văn hoá nghệ thuật của nhân dân.
Vì vậy yêu cầu đặt ra là: dùng từ phải chính xác, đúng nghĩa và phù hợp với
hoàn cảnh ngôn ngữ. Bởi thế : Ta không sợ tiếng ta nghèo,mà chỉ sợ ta không
biết dùng nó mà thôi. Và có ngời cũng đã từng nói: Tiếng Việt nh một thứ của
quý đợc cất trong rơng trong hòm, nếu chăm lau chùi thì nó sẽ sáng.Từ sự quan
trọng của Tiếng Việt nh vậy ,học sinh phải thấy đợc việc dùng từ sai sẽ có ảnh h-
ởng nh thế nào đến câu văn, lời nói và có thể làm cho ngời khác hiểu sai vấn đề
mình định nói. Đó chính là mục đích nghiên cứu của tôi.
III.Nhiệm vụ nghiên cứu.
Vấn đề chữa lỗi dùng từ không hẳn là vấn đề hoàn toàn mới, bởi những năm
trớc trong các giờ trả bài tập làm văn, giáo viên đã ít nhiều sửa lỗi cho học sinh.
Nhng điểm mới của vấn đề này là ở chỗ: nó đợc tách ra
thành một tiết riêng (mà trong chơng trình học kì I lớp 6 đã giành trọn 2
tiết). Từ đó ,học sinh cóthể chỉ ra các lỗi dùng từ và cách sửa các lỗi đó.
Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này,tôi chỉ xin đi sâu vào phần
cung cấp kiến thức về lỗi dùng từ, bổ sung một số kỹ năng, phơng pháp thực hành
ứng dụng về chữa lỗi dùng từ. Đồng thời mạnh dạn đa ra để tham khảo một giáo án

đã vận dụng kỹ năng trên với tinh thần đổi mới phơng pháp theo hớng tích cực hoá
hoạt động của học sinh, ngời thầy là ngời hớng dẫn học sinh để học sinh tự tìm ra
chân lý. Mục đích cuối cùng là để giáo viên tham khảo, chủ động hớng dẫn học
sinh lĩnh hội tri thức và ứng dụng tri thức ấy trong giao tiếp, khắc phục phần nào
những hạn chế về thời lợng, kỹ năng mà sách giáo khoa đa ra cha đề cập đầy đủ về
chữa lỗi dùng từ.
* Nhiệm vụ cụ thể:
-Phân biệt nguyên nhân mắc lỗi dùng từ
-Phân biệt sự khác nhau về sắc thái ý nghĩa của một số từ gần âm, dùng từ
sai nghĩa.
-Sử dụng từ đúng nghĩa (nhất là các từ gần âm) một cách thích hợp trong
giao tiếp và trong khi viết.
IV.Đối tợng nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm.
Học sinh từ lớp 6 đến lớp 9 Trờng T.H.C.S Yên Sơn. Riêng bài soạn giành
cho học sinh lớp 6.
VI. Cơ sở nghiên cứu.
Lỗi dùng từ là một trong những nguyên nhân dẫn đến học sinh hiểu sai, hiểu
không đầy đủ về ngôn ngữ, cách diễn đạt. Để phân biệt đợc lỗi dùng từ là cả
một quá trình rèn luyện, học hỏi. Học sinh phải biết và chỉ ra đợc lỗi dùng từ ấy
và hiểu đúng nghĩa của nó. Cái khó nhất khi học và sử dụng lỗi dùng từ là: một số
học sinh cha phân biệt đợc từ đúng, từ sai. Nên chính các em lại là ngời mắc lỗi đó
.Hơn nữa, các em mới bớc vào đầu cấp học, cha chú trọng đến việc sửa lỗi dùng từ
của mình. Chính vì vậy, tôi lựa chọn nơi mình đến nghiên cứu là học sinh lớp 6 để
các em trong trờng phải quan tâm hơn nữa, đặc biệt là vấn đề dùng từ.
PhầN II : nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
I.Đánh giá thực trạng vấn đề trớc khi nghiên cứu.
1.Lịch sử của sáng kiến kinh nghiệm.
Chữa lỗi dùng từ là một dạng bài mới, song ở nhiều sách đã có nhiều giáo s ,
nhà ngôn ngữ học đề cập đến nó nh:
- Ông Lê Văn Thại trong Tiếng Việt trong tr ờng học.

- Ông Đinh Trọng Lạc với Sổ tay Tiếng Việt Phổ thông trung học.
- Ông Đỗ Hữu Châu trong giáo trình Từ vựng - ngữ nghĩa Tiếng Việt.
năm 1987.
- Tạp chí ngôn ngữ số 4 1973.
Nhìn chung, các giáo s, tiến sĩ, nhà ngôn ngữ học đã đề cập đến vấn đề lỗi
dùng từ do đồng âm, đồng nghĩa gây ra, phân loại việc dùng sai từ, đa ra một số
phơng pháp để phân biệt và cách chữa các lỗi từ sai.
Nhng thực tế, việc vận dụng hiểu biết lí luận vào thực hành nhiều khi còn
hạn chế. Đặc biệt là học sinh không nhận biết đợc các lỗi dùng từ sai, từ đó cha chỉ
ra đợc nguyên nhân nào dẫn đến cái sai đó.
Bản tthân tôi thấu vấn đề này thật khó khăn cho những giáo viên dạy Ngữ
văn 6. Tôi thiết nghĩ trong còn có sự điều chỉnh, bổ sung về chơng trình, sách giáo
khoa Ngữ văn 6 cho phù hợp, mỗi giao viên chúng ta cầnđề ra hớng khắc phục, mà
theo tôi quan trọng nhất là vận dụng kiến thức vào bài giảng sao cho khoa học, đặc
biệt là chú trọng kỹ năng thực hành đẻ giúp học sinh hiểu , vận dụng từ ngữ đúng
trong một mức độ nhất định.
Hơn nữa, tình hình kinh tế, xã hội của địa phơng còn gặp nhiều khó khăn,
nền kinh tế cha theo kịp sự phát triển của thời dại, cha có sự thích ứng phù hợp; sự
nắm bắt thông tin còn nhiều hạn chế. Học sinh cũng là một trong những đối tợng
này nên phần nào cũng ảnh hởng tới chất lợng của một sáng kiến kinh nghiệm.
Bên cạnh đó, học sinh lớp 6 miền núi có biểu hiện tích cực trong quá trình
học tập, đó là các em chăm chỉ , ngoan ngoãn. Song nh thế cha đủ mà còn biểu
hiện nhiều mặt hạn chế nh: sự tiếp cận thông tin còn quá ít, thậm chí cha cập, học
sinh còn lời học, không chịu tìm tòi suy nghĩ, nghiên cứu, sáng tạo mà mới chỉ biết
chép, nghe mà cha có tác động ngợc chiều đến giáo viên.
Thêm nữa là đa số các em là con em đồng bào dân tộc thiểu số, Tiếng Việt
còn rất hạn chế, ngôn ngữ thờng ngày hạn hẹp. Nhiều em nói sai dẫn đến viết cũng
sai.Ví dụ:dấu ngã (~) thờng đọc thành dấu sắc ( / ) nh từ sẵn có thì đọc là sắn

Các em từ chỗ đọc sai dẫn đến không hiểu hoặc không rõ nghĩa của những

từ mà mình đã dùng sai.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đén những thực trạng đó? Có thể là sự nhớ nhầm,
lẫn lộn giữa những từ gần âm với nhau, hoặc không biết nghĩa; hoặc hiểu sai nghĩa
và hiểu không đầy đủ về nghĩa của từ.
Nhng cũng có những từ lại giống nhau về ý nghĩa lại đa vào sách giáo
khoa,học sinh không biết từ nào là từ đúng, từ nào là từ sai,thực tế nghĩa của nó
nh nhau .
Thí dụ: Từ thuỷ mạc : Lối vẽ chỉ dùng mực tàu (Tranh thuỷ mạc).
Từ thuỷ mặc (từ cũ): Lối vẽ chỉ dùng mực tàu (Tranh thuỷ mặc).
(Từ điển Tiếng Việt của NXB Đà Nẵng in năm 1998 do Hoàng Phê chủ biên
trang 993).
Nh vậy, cả hai từ đều đúng và đều dùng đợc bởi nó có nghĩa nh nhau.chỉ
khác là từ thuỷ mạc là từ mới xuất hiện, còn từ thuỷ mặc là từ cũ.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân sau:
* Học sinh nhớ nhầm, nhớ không chính xác hình thức ngữ âm và nghĩa
của từ.
Thí dụ: Bản kiểm điểm thì học simh thờng viết là: Bảng kiểm điểm .
Hoặc: Bôn ba thì viết là buôn ba .
Bàng quan thì viết là bàng quang .
* Lẫn lộn giữa những từ gần âm với nhau.
Tại sao lại có lỗi dùng từ sai âm nh vậy? Vì học sinh trớc hết là nhớ không
chính xác hình thức ngữ âm của từ.
Thí dụ 1: Từ Thăm quan : Không có nghĩa, vô nghĩa vì từ này không có
trong Tiếng Việt. Mà chỉ có từ thăm viếng , thăm hỏi , thăm dò , . v.v.
Vì thế không dùng từ thăm quan mà dùng từ : tham quan . Tức là xem
tận mắt để mở rộng hiểu biết hoặc học tập kinh nghiệm.
Thí dụ 2 : Từ mấp máy và nhấp nháy .
Khi nào thì dùng từ mấp máy ? Khi miêu tả cử động rất khẽ và liên tục,
liên tiếp, thờng nói về môi, mắt nh :
Môi mấp máy nh đinh nói điều gì .

Khi nào thì sử dùng từ nhấp nháy ? Khi miêu tả hành động mở ra, nhắm
lại liên tiếp nh:
Mắt nhấp nháy vì chí ánh đèn.
Khi có ánh sáng, khi loé khi tắt liên tiếp.
Đèn hiệu nhấp nháy.

×