Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Cách biểu đạt ước vọng của người Việt trong tranh dân gian - Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Tp. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.07 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



<b>CÁCH BIỂU ĐẠT ƯỚC VỌNG CỦA NGƯỜI VIỆT </b>


<b>TRONG TRANH DÂN GIAN</b>



<b>PHẠM LÊ TRUNG, TRỊNH SINH</b>
<b>Tóm tắt</b>


<i>Tranh dân gian là kho di sản văn hóa quý giá của người Việt. Bài viết nghiên cứu về tranh dân gian </i>
<i>Đông Hồ, Hàng Trống và Kim Hồng để tìm hiểu tâm thức của người Việt qua các ý nghĩa biểu tượng </i>
<i>của tranh. Đôi khi ý nghĩa của tranh đơn giản, chỉ là con lợn, con gà biểu tượng cho sự sung túc trong </i>
<i>đời sống nhà nông, nhưng phần nhiều các tranh dân gian mang nhiều ý nghĩa sâu sắc thể hiện sự liên </i>
<i>tưởng so sánh qua nhiều tầng nấc, như các từ đồng âm của các sự vật khác nhau, lời cầu chúc giàu ý </i>
<i>nghĩa qua các chữ chua nghĩa trong tranh… Đó là minh chứng cho thấy người Việt xưa có kiến thức </i>
<i>phong phú và tâm hồn giàu cảm xúc.</i>


<b>Từ khóa:</b> Tranh dân gian, mỹ thuật, biểu tượng, người Việt


<b>Abstract</b>


<i>Folk paintings are Vietnamese’s precious treasures of cultural heritage. The article studies the folk </i>
<i>paintings of Dong Ho, Hang Trong and Kim Hoang to learn Vietnamese people’s spirit through the </i>
<i>symbolic meanings of paintings. Sometimes the meaning of paintings is simply expressed in pig or </i>
<i>chicken which symbolizes prosperity of farm life but most of the folk paintings have profound meanings </i>
<i>shows the comparative association between many levels such as the homophones of different things, </i>
<i>the wishes with rich meanings through the meaningful words on the paintings... That is the proof that </i>
<i>the ancient Vietnamese had rich knowledge and emotional souls.</i>


<b>Keywords: </b>Folk paintings, fine arts, symbols, Vietnamese people


Q

ua hàng ngàn năm sinh tồn và phát

triển, người Việt đã để lại nhiều di
sản văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc. Một trong những di sản đó là tranh dân
gian. Tranh dân gian kể cho chúng ta khá
nhiều về cuộc sống, sinh hoạt và cả tâm thức
của những người dân quê, dân nghèo thành
thị gửi gắm trong đó.


Trong q trình sưu tầm, khảo sát và
nghiên cứu ba dòng tranh dân gian chủ yếu
của người Việt (Đơng Hồ, Hàng Trống và Kim
Hồng), chúng tôi nhận thấy người Việt gửi
gắm vào đây nhiều ước vọng trong cuộc sống.
Những ước vọng này được thể hiện trong
ngôn ngữ nghệ thuật đồ họa và hội họa. Nhiều
khi những ước vọng đơn giản không có ẩn ý,
nhưng cũng có khi ước vọng được gửi gắm
qua điển tích, qua sự đồng nghĩa, đồng âm với
chữ Hán - Nôm, sự liên tưởng khá phức tạp, đòi


<b>1. Vài nét về tranh dân gian của người Việt </b>
Tranh dân gian là một trong những món
ăn tinh thần khơng thể thiếu được của người
Việt, nhất là trong dịp tết đến, xuân về. Không
phải là khơng có lý khi nhiều nhà nghiên cứu
mỹ thuật còn gọi tranh dân gian là tranh Tết [7,
tr. 251], vì tranh chủ yếu được bán vào dịp Tết,
nhất là tranh chúc tụng. Chúng tôi xin điểm
qua vài nét về đặc điểm và niên đại của các
dịng tranh dân gian chủ yếu:



Tranh Đơng Hồ là một trong ba dòng tranh
dân gian nổi tiếng nhất của nước ta. Đông Hồ
là địa danh của thôn Đông Khê, xã Song Hồ,
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một
làng thuần Việt, nép mình vào bờ nam sông
Đuống, cách Hà Nội khoảng 30km về hướng
đơng bắc. Xưa kia, làng có tên cổ là Đơng Mại
hay có tên Nơm là làng Mái thuộc tổng Hồ,
huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, trấn Kinh


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>V</b>

<b>A</b>


sánh giữa đề tài tranh Đơng Hồ với nghệ thuật


chạm khắc đình làng nở rộ ở vùng Kinh Bắc
thời Lê Trung Hưng. Tranh Đơng Hồ cịn được
mệnh danh là dịng “tranh điệp” vì sản xuất
trên giấy có qt điệp, cách in là in nét và in
mảng bằng ván úp [1].


Tranh Hàng Trống được gọi theo tên một
phố cổ, hiện nằm giữa quận Hồn Kiếm, nội
thành Hà Nội. Có một thời người ta vẽ tranh,
in tranh và bày bán tranh ở nhiều phố trung
tâm Hà Nội như Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng
Gai, Hàng Hịm, Hàng Quạt, Hàng Gà, Hàng
Đẫy… Đó là những phố tập trung trong tổng
Tiên Túc, sau có tên gọi khác là tổng Thuận Mỹ
thuộc huyện Thọ Xương xưa kia. Vì thế, có nhà
nghiên cứu đề nghị gọi là dịng tranh Hà Nội,


vì nhiều phố ở Hà Nội bán tranh dân gian vào
dịp Tết chứ khơng riêng gì Hàng Trống. Tranh
Hàng Trống có đặc điểm là in trên nền giấy
trắng, vì thế thường được mệnh danh là dịng
“tranh trắng”, cách in bằng mộc bản có kết hợp
với vẽ tay. Cách in tranh Hàng Trống là in ngửa
ván, khác hẳn với cách in của tranh Đông Hồ
[8]. Tranh được bán phục vụ cho thị dân Hà
Nội, sau này còn phục vụ cho tín ngưỡng của
một số dân tộc miền núi phía bắc. Tranh Hàng
Trống ra đời muộn hơn tranh Đông Hồ, có thể
vào khoảng thế kỷ XVIII.


Tranh Kim Hồng là dịng tranh do dân
làng Kim Hồng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức,
Hà Nội sản xuất. Các nhà nghiên cứu văn hóa,
mỹ thuật mệnh danh dịng tranh này là “tranh
đỏ” vì thường được in, vẽ trên nền giấy nhuộm
đỏ. Tranh có thể có niên đại khoảng đầu thế
kỷ XVIII, qua so sánh với việc dựng đình Kim
Hồng mà bia chùa làng có khắc là vào năm
1701, thời điểm dựng đình Kim Hồng, là đình
hợp nhất của hai làng Hồng Bảng và Kim
Bảng, trong đình có nhiều mảng khắc chạm
có mang phong cách giống với tranh dân gian.
Cách in tranh Kim Hoàng cũng là in ván ngửa
kết hợp với vẽ tay [7]. Dịng tranh Kim Hồng
đã có thời bị thất truyền và ngày nay đang
từng bước được phục hồi.



Những người thợ vô danh làm tranh dân
gian Đơng Hồ, Kim Hồng là những người


hợp với tâm thức của người nông dân. Thợ làm
tranh Hàng Trống cũng từ những làng quê có
nghề khắc gỗ, vẽ tranh ở các tỉnh quanh Hà
Nội tụ tập quanh khu vực Hồ Gươm để sản
xuất tranh tự bán hay bán thông qua các cửa
hàng chuyên bán tranh ở Hà Nội. Các đề tài
của tranh Hàng Trống vì thế cũng là đề tài làng
quê, tín ngưỡng…


<b>2. Ước vọng của người Việt biểu đạt trong </b>
<b>tranh dân gian</b>


<i><b>2.1. Ước vọng của người Việt biểu đạt ý </b></i>
<i><b>nghĩa trực tiếp qua các biểu tượng </b></i>


Người Việt xưa chủ yếu là nông dân làm
ruộng nước. Cuộc sống nhà nông phụ thuộc
thiên nhiên, đôi khi mất mùa do lũ lụt, hạn hán.
Hơn ai hết, họ chỉ muốn đời sống no đủ, yên
ấm, hạnh phúc đơn sơ quanh mái nhà tranh,
tình làng nghĩa xóm. Vì thế, tranh dân gian có
nhiều con vật được coi là biểu tượng của sự no
đủ. Đó là con lợn và con gà. Tần suất của hai
con vật này xuất hiện trong tranh khá nhiều.
Có khi tranh dân gian còn được gọi một cách
dân dã là “tranh lợn gà”: <i>“Tranh Đông Hồ gà lợn </i>
<i>nét tươi trong/Màu dân tộc sáng bừng trên giấy </i>


<i>điệp” </i>(Thơ Hồng Cầm).


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



Hình tượng con gà cũng vậy, trong tranh
khi thì gà trống đẹp mã đứng một mình, có
thể thêm chữ Hán chua nghĩa: “Đại cát” (Tốt
lành, may mắn); có khi tranh gà lại gồm 1 con
mái và đàn con (tranh gà đàn), cũng mang ý
nghĩa chúc cho may mắn, đông con nhiều
cháu. Nhiều trường hợp, như ở tranh dân gian
Hàng Trống, người nơng dân cịn vẽ nhiều gia
súc (lợn, chó, trâu, bị), gia cầm (gà, chim) bên
cạnh cảnh lao động sản xuất của nhà nông
(tranh Canh nông chi đồ).


Biểu tượng cho mong muốn sinh con trai
cũng được tranh dân gian miêu tả trực tiếp,
đơn giản chỉ là vẽ một bé trai ngộ nghĩnh,
mũm mĩm, có thể trên tay cầm một quả phật
thủ, trái đào hay ôm con cá, con tơm, con rùa,
con cóc, con mèo… Những ước vọng này đều
cụ thể, trực tiếp phản ánh mong muốn của
người Việt về cuộc sống thanh bình, no đủ,
nhiều khi chỉ qua mô tả cảnh tượng sinh hoạt,
lao động sản xuất. Có thể xếp vào nhóm đề
tài này những cảnh chú bé cưỡi trâu thổi sáo,
thả diều, đọc sách, đấu vật, kéo co, chơi cá, sản
xuất nông nghiệp (tranh về các công đoạn làm
nông, buôn bán như tranh “nhất bản vạn lợi”


(một vốn bốn lời), “tích ngọc đồi kim” (vàng
ngọc chất đống), “chiêu tài tấn bảo” (tài lộc
ngày một nhiều), “bách mẫu dư điền” (có trăm
mẫu ruộng), bốn nghề sĩ nơng cơng thương,
các trị chơi kéo co, đấu vật, đánh ghen, hái
dừa…


Bên cạnh những mong muốn về đời sống
vật chất, ấm no, người Việt còn mong cho con
cháu học hành, đỗ đạt làm quan, tiến thêm
một bước là giàu sang, phú quý. Điển hình cho
nhóm đề tài này là các bức tranh miêu tả sự
hiếu học: có tranh vẽ cậu bé vừa dỗ em vừa
đọc sách; có tranh vẽ ơng quan mũ cao áo dài
tay cầm trượng như ý, tay cầm sách, bên trong
có chữ “Tiến lộc” với hàng chữ chua nghĩa: “Cao
lộc thăng vị” (nhiều bổng lộc, thăng quan tiến
chức). Một ông quan khác cũng cầm trượng
như ý và cầm sách nhưng bên trong có chữ
“Tiến tài” với hàng chữ chua nghĩa: “Tài hằng
nguyên chí” (tiền bạc nhiều như nước) [4, tr.87].
Hai bức tranh dân gian này phản ánh ước vọng
đổi đời, mong cho con cháu giàu sang, quyền


gia đình êm ấm, thể hiện qua những bức tranh
như “nhất gia hịa khí, tử tơn hiền” (gia đình
thuận hịa, con cháu ngoan ngoãn), “đắc thọ
đa nam tử” (chúc sống lâu và nhiều con trai),
“hữu phúc khán nhi tơn” (có phúc sống lâu để
nhìn con cháu), “xuất mơn nghênh bách phúc”


(ra đường đón nhiều điều phúc), “nhập hộ
chúc tam đa” (về nhà có phúc, lộc, thọ).


<i><b>2.2. Ước vọng của người Việt biểu đạt ý </b></i>
<i><b>nghĩa trực tiếp qua câu chữ </b></i>


Người Việt xưa có khi biểu đạt mong ước
của mình qua những bức đại tự. Những chữ
này được viết và trang trí mỹ thuật hoặc được
in bằng các ván khắc. Có lẽ đây là loại tranh
dân gian đặc biệt vì chỉ có chữ mà khơng có
người, động vật hay cảnh quan. Phổ biến nhất
là loại tranh có chữ Thọ hay chữ Phúc. Những
chữ này được viết hay vẽ khá cách điệu. Nghĩa
của các chữ này cũng là nghĩa trực tiếp, mong
muốn cho người sở hữu tranh được thọ, hưởng
phúc dài lâu. Trong nhóm tranh dân gian dùng
đại tự biểu đạt sự mong ước này cịn có thể kể
đến các chữ Phú, Q, Đức, Nhân, Nghĩa, Trí,
Tín, Khang, Ninh, Kim… Đơi khi cịn có các đại
tự như “Phúc mãn đường” (Phúc đầy nhà) hay
“Đức lưu quang” (Đức độ lưu lại mãi như ánh
sáng) là chữ có kích thước khá lớn mà người
thợ làm tranh Kim Hồng xưa cịn lưu lại sau
những năm tháng dòng tranh này bị thất
truyền [7]. Một số trường hợp, cịn có câu chữ
dài hơn như “Phúc như Đông Hải, Thọ tỷ Nam
Sơn” (Phúc như biển Đông, Thọ như núi nước
Nam).



Để những bức đại tự đẹp hơn về góc độ mỹ
thuật, người thợ làm tranh thường có thêm
các họa tiết trang trí phụ như 28 chịm sao hay
hình tượng 24 tấm gương về lịng hiếu thảo
được lồng gọn trong đường viền của chữ.
Trong nhóm tranh dân gian này, chủ đề chính
vẫn là chữ, cũng là một tạo hình đẹp, đầy chất
đồ họa, cịn những trang trí dẫu là sao, người,
hoa lá,… chỉ làm nền cho ý nghĩa trực tiếp qua
ngữ nghĩa của chữ mà thôi.


<i><b>2.3. Ước vọng của người Việt biểu đạt qua </b></i>
<i><b>liên tưởng ý nghĩa của vật và người</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>V</b>

<b>A</b>


các con vật này, chẳng hạn là con gà. Với sự


liên tưởng phong phú, người Việt cho rằng con
gà có tiếng gáy đánh thức ban mai, mặt trời, có
khi cịn phong cho gà là thần như trong bức
tranh “Thần kê” của dòng tranh Kim Hồng.
Tiếng gáy của gà vang lên cịn xua tan bóng
đêm, quỷ dữ, bảo hộ cuộc sống dân lành. Nhìn
từ góc độ này, gà được coi như một vị thần
“trấn trạch”. Người dân quê thường mua tranh
gà theo cặp đôi để dán ở cửa nhà với mục đích
trấn trạch, trấn mơn.


Cặp tranh gà Kim Hồng được người dân
q mua nhiều, khơng những đẹp về màu sắc


(ta có thể cịn được ngắm qua bản gốc ở Bảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam), mà cịn có những
dịng thơ chữ Hán - Nơm được chua trong
tranh, lại có cả hình tượng bùa chú kèm theo
nữa. Có thể nhận thấy, đơi tranh gà Kim Hoàng
là một dạng bùa chú dán cửa, xua tà ma, trấn
trạch. Tranh bên phải có bài thơ sau:


Thi vấn:


<i>Thần kê ngũ đức, thái phượng hình</i>
<i>Hạng thượng Cơn cương, đẩu hốn thanh</i>
<i>Quỷ khốc thần kinh, tà tẩu tán</i>


<i>Trấn chi môn hộ, thọ trường sanh</i>


Thơ rằng:


<i>Thần Gà trống có năm đức tính, giống như </i>
<i>chim phượng</i>


<i>Cổ giương cao, mào dựng ngược lên khi gáy</i>
<i>Quỷ khóc thần sầu, mọi tà ma đều biến hết</i>
<i>Có gà trống trước cửa, gia chủ sẽ được trường </i>
<i>thọ</i> [4, tr.111].


Dịch sát nghĩa là: Con gà được phong thành
thần với 5 đức: văn, võ, dũng, nhân và tín, lại đẹp
như phượng hoàng. Cổ giương cao, mào dựng
ngược lên khi gáy. Làm cho quỷ phải khóc, tà


ma phải chạy. Thần gà đã trấn giữ trước cửa,
giúp cho gia chủ sống lâu mn tuổi.


Tranh bên trái có bài thơ:
Thi vấn:


<i>Đông phương di hiệu, thực tà thần</i>
<i>Kim cự, hoa quan, ngũ thái văn</i>
<i>Hộ hộ khả lân, quần quỷ tỵ </i>


<i>Môn môn trùng khánh, vạn niên xuân</i>


<i>nuốt tà ma</i>


<i>Đôi cựa sắc như kim khí, mào đỏ và bộ lơng </i>
<i>ngũ sắc</i>


<i>Trước ngõ, ra lệnh cho ma quỷ phải lui</i>
<i>Trước cửa, mang hạnh phúc đến cho mọi nhà </i>
<i>mỗi năm xuân đến</i>


Dịch sát nghĩa là: Gà thần là biểu hiện của
phương Đông, trấn trị tà ma. Cựa gà sắc như
kim khí, mào hoa và bộ lơng ngũ sắc. Trước
ngõ, ra lệnh cho ma quỷ phải lui. Trước cửa,
mang hạnh phúc đến cho mọi nhà mỗi năm
xuân đến [7, tr.183-186].


Người Việt tạo ra khá nhiều tranh dân gian
thể hiện ước vọng của mình qua sự liên tưởng


phong phú giữa các vật, động vật và con
người… Có thể kể ra những ví dụ điển hình:


Quả đào biểu tượng cho sự trường thọ. Có
thể, biểu tượng quả đào tiên liên quan đến
truyền thuyết về vườn đào Thượng uyển có
mặt trong nhiều cốt truyện như trong truyện
Tây Du Ký chẳng hạn. Người nào ăn được đào
sẽ trường sinh bất lão.


Quả lựu biểu tượng cho việc sinh sôi nảy
nở, đông con nhiều cháu. Có lẽ, người xưa đã
có tư duy liên tưởng khi thấy quả lựu được bổ
ra có rất nhiều hạt bên trong, họ đã mong cho
mình cũng sinh ra đàn con đông đúc như vậy.


Chim công biểu tượng cho sự thanh bình
và phồn vinh. Có lẽ loài chim này đẹp mã lại
múa giỏi, thể hiện cái đẹp, cái tài giỏi trong
cuộc sống thanh tao.


Chim hạc và rùa là hai động vật luôn cặp
đôi với nhau như trong câu ca về thân phận
con rùa “lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia”.
Hai con vật này tượng trưng cho sự trường thọ.
Có lẽ, người xưa liên tưởng đến đời sống của
loài rùa có khi kéo dài đến hơn trăm năm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>




Một số biểu tượng trẻ em mũm mĩm, đẹp
đẽ thể hiện ý nghĩa chúc cho con cháu xinh
đẹp, đầy nhà; các quan văn thể hiện sự thành
đạt, quyền cao chức trọng. Nhiều trường hợp,
các vị quan còn cầm trong tay một quyển sách.
Đó chính là biểu tượng của sự học hành, đỗ
đạt, quyền quý, phẩm tước; các cụ già có râu
tóc bạc phơ là biểu tượng trường thọ…


<i><b>2.4. Ước vọng của người Việt biểu đạt qua </b></i>
<i><b>liên tưởng vật, sự kiện có tên gọi đồng âm</b></i>


Nhiều thế kỷ qua, người Việt đã lấy chữ Hán
và chữ Nôm (Quốc âm) làm phương tiện giao
tiếp, học hành, thi cử và cả làm thơ nữa. Họ
cịn có tư duy liên tưởng âm đọc của chữ Hán
- Nôm có sự liên hệ với cuộc sống vật chất và
tinh thần của họ. Vì thế, trong nhiều ước vọng,
thông qua tranh dân gian, họ đã gửi gắm vào
tranh cách suy nghĩ đa tầng ngữ nghĩa, mà
nếu khơng hiểu sự tích, ý nghĩa sâu xa của sự
vật thì sẽ khó mà đốn định ý nghĩa thực sự
của tranh là gì.


Hình tượng con gà trong tranh ngoài ý
nghĩa mong cho cuộc sống no đủ, chúng ta
cịn thấy con gà trống có âm đọc là kê, đồng
âm với chữ cát (nghĩa là cát tường, tốt lành). Vì
thế, con gà cịn biểu tượng cho sự cát tường
nữa. Tranh Đơng Hồ có mặt gà trống, lại cịn


được chua chữ “Đại cát” là vì vậy.


Hình tượng con cá (âm đọc là ngư) khá gần
với chữ dư (nghĩa là dư thừa), đã cho thấy tư
duy liên tưởng này được thể hiện con cá chép
trong tranh dân gian “Lý ngư vọng nguyệt” (Cá
chép trông trăng), mong cho cuộc sống được
dư dật, của ăn của để.


Hình ảnh chiếc bình sứ trong tranh cũng
thể hiện mong ước cuộc sống bình an, vơ sự.
Âm đọc của chiếc bình gần với âm đọc của chữ
bình trong câu bình an. Hình ảnh của cây hoa
sen (liên) gần với âm liên chỉ sự liên tục, tiếp
nối, thể hiện ước vọng nhiều thế hệ tiếp nối
sự nghiệp. Hoa cúc đồng âm với chữ cửu nên
được coi là biểu tượng của sự vĩnh cửu, trường
tồn. Cũng vậy, hoa cúc còn đồng âm với chữ cư
(định cư). Hình ảnh con tuần lộc đồng âm với
chữ lộc, hàm ý chúc nhau nhiều bổng lộc. Con
bướm có âm là điệp, đồng âm với chữ điệt, chỉ
người già 70 - 80 tuổi, biểu hiện ước vọng sống


đái, đồng âm với chữ đại (đời, thế hệ, vạn đại)
thể hiện sự mong ước trường thọ, muôn đời
con cháu nối dõi. Hình ảnh của bơng hoa, gợi
nên từ vinh hoa, thể hiện điều cầu chúc danh
vọng.


Sự liên tưởng giữa các từ đồng âm để


mong ước có sự đồng nghĩa đã là một giá trị
văn hóa của nhiều nước phương Đơng, trong
đó có Việt Nam, thể hiện một niềm tin, tín
ngưỡng có từ lâu và kéo dài cho đến tận ngày
nay (trường hợp của cách chọn số trên biển
xe máy, ôtô, hay điện thoại di động hiện nay
cho thấy điều đó). Người Việt ngày nay chuộng
con số 6 (theo chữ Hán là lục, gần với âm lộc
nghĩa là bổng lộc), số 8 (bát, gần với âm phát
nghĩa là phát tài), có khi hai số ghép lại là lộc
phát hay phát lộc. Sự liên tưởng giữa âm của
sự vật, động thực vật, người,… đã được thể
hiện trong tranh dân gian qua nhiều thế hệ,
nếu không đi sâu tìm hiểu thì sẽ chẳng thể nào
giải thích được ý nghĩa phong phú của tranh.


<i><b>2.5. Ước vọng đa nghĩa của người Việt </b></i>
<i><b>biểu đạt qua sự phối hợp giữa các biểu tượng</b></i>


Các dòng tranh dân gian của người Việt khá
phong phú về ý nghĩa biểu tượng. Có khi đơn
nghĩa, nhìn thấy hình ảnh con lợn béo trịn thì
đấy là mong muốn cuộc sống sung túc. Nhưng
nhiều khi, tranh dân gian thể hiện các vật, đồ
vật, người theo cách đa nghĩa, liên tưởng đồng
âm với vật khác. Một số trường hợp lại thể hiện
tổng hợp, pha trộn giữa các biểu tượng đa
nghĩa trong mối tương quan với nhau [4, tr.24].


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>V</b>

<b>A</b>



trường) kết hợp với nhau và cho ra một lời cầu


chúc như sau: chúc cho người sở hữu tranh
được sống lâu, hạnh phúc mãi mãi. Hình ảnh
hoa cúc (gần âm với chữ cử) đôi khi được kết
hợp với chim vàng anh (gọi là Hoàng tước) mà
chữ hoàng gần âm với chữ hoan (vui vẻ, hân
hoan) mang một ý nghĩa cầu chúc là “cử gia
hoan lạc” (mọi nhà đều vui).


Trong tranh dân gian cịn có sự phối hợp
giữa hình ảnh quả phật thủ (tay Phật, tượng
trưng cho sự trường thọ) với con bướm (điệp,
gần âm với chữ điệt), với ý nghĩa cầu chúc
“điệt thọ”. Có khi 3 loại quả phật thủ, đào, lựu
cùng phối hợp với nhau trong tranh để tạo
nên ý nghĩa của lời chúc. Phật thủ có chữ phật
gần âm với chữ phúc, đào biểu tượng của thọ,
lựu biểu tượng cho sự đông con cháu. Như
vậy, biểu tượng 3 loại quả này cùng có mặt
trong tranh đã thành một lời chúc mang ý
nghĩa: chúc thọ, chúc phúc, chúc nhiều con
trai, tương ứng với hình tượng của bộ ba Tam
Đa trong tranh Tam Đa: Đa phúc, đa thọ, đa
nam tử.


Quả lựu nhiều hạt, tượng trưng cho đông
con cháu. Trong tranh “Lựu khai bách tử” (quả
lựu sinh ra 5 người con), có khi thể hiện là quả
thạch lựu có nhiều hạt; đôi khi lại vẽ 5 cậu bé


sinh ra từ quả lựu liên quan đến truyền thuyết
về ngũ tử, 5 người con trai trong nhà đều
thành đạt thời Tống.


Hình ảnh quả thị, có âm là từ thị, gần với âm
sự trong từ công việc, được kết hợp với cây gậy
như ý và dải nơ dài (bàn trường) đã cho thấy
ý nghĩa câu chúc: Chúc cho công việc làm ăn
mãn nguyện và kéo dài vơ tận.


Hình ảnh cây ngơ đồng, có chữ đồng, cùng
âm với chữ đồng nghĩa là đồng lòng, được
phối hợp với hình ảnh chim hạc và hươu (lộc),
đã cho thấy ý nghĩa của câu chúc: Mong cho
người có tranh trường thọ giống như chim
hạc và nhiều lộc như hươu. Hình ảnh chim sáo
(hỷ tước) đậu trên cây ngô đồng cũng chuyển
tải một câu chúc: Cầu cho mọi người đều vui
(đồng hỷ).


Bức tranh dân gian có hình em bé đeo
khánh vàng đang ngắm cá biểu đạt ý nghĩa


thành, chúc mừng. Con cá có âm ngư gần với
chữ dư trong nghĩa dư dả. Câu này đã thể hiện
một câu chúc: Mong cho của cải dư dả, đời
sống an vui và có con trai nối dõi. Hình ảnh
cây mai thường được xuất hiện cùng với cây
trúc trong cặp “trúc mai” gần âm với chữ “chúc
mọi” (chúc mọi điều tốt lành). Hình tượng cây


quế có âm gần với chữ quý (quý tử), kết hợp
với hình ảnh một thiếu niên cưỡi trên lưng con
kỳ lân (có ý nghĩa chỉ thời kỳ hịa bình, hạnh
phúc). Cậu bé cầm hoa sen (liên), một cây sáo
(sinh) và một cành quế thì ý nghĩa của các biểu
tượng này khi kết hợp với nhau là: thời kỳ thái
bình kéo dài liên tiếp và sinh được quý tử.


Hình tượng rồng giữa đám mây (Long vân
khánh hội) đang quấn quýt với chữ đại tự Phúc
hoặc Thọ, đã cho thấy ý nghĩa của câu chúc:
Người tài giỏi như rồng gặp vận may, như
rồng gặp mây vậy. Hình tượng rồng thường đi
cặp với hình tượng chim phượng có ý nghĩa
biểu tượng niềm vui và hạnh phúc. Có khi có
hình ảnh phượng ngậm sách với hàm ý mong
muốn sâu xa là mong cho sự học hành tấn tới,
thành đạt.


<b>Kết luận</b>


Đời sống vật chất của người Việt luôn gắn
với những giá trị tinh thần để đạt ước vọng về
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, đời sống
tinh thần ln có giá trị song hành cùng với sự
phát triển của xã hội. Người xưa luôn thể hiện
ước vọng của mình qua các nghi thức, nghi lễ
đối với thần linh, coi đó là niềm tin, chỗ dựa
tinh thần. Những ước vọng đó được thể hiện
qua sự kết tinh, tư duy sáng tạo trong lịch sử


tạo hình của người Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



lợn, con gà, trẻ con,... hay các chữ đại tự như
chữ Phúc, Lộc, Thọ. Có khi, ước vọng của họ
thầm kín hơn, thơng qua sự liên tưởng âm đọc
chữ Hán gần gũi với tên gọi các vật, động vật
được thể hiện trong tranh. Qua nghiên cứu
tranh dân gian, chúng ta có thể hiểu được tư
duy và tâm thức của người Việt bao đời nay.
Lịch sử phát triển của tranh dân gian cho ta
thấy: Tranh dân gian ngoài những ý nghĩa,
biểu tượng tâm linh (tranh thờ), ước vọng của
con người (tranh phong thủy), còn là một thú
chơi thanh tao, thể hiện sự hiểu biết, đề cao
giáo dục gia phong trong các gia đình.


Đời sống tinh thần của con người càng
được nâng cao thì tính đa dạng của tranh dân
gian càng được thể hiện qua các chất liệu,
nội dung,… mang tính đặc trưng của mỗi
làng nghề. Tranh Đơng Hồ thể hiện tính dân
gian trên chất liệu giấy quét điệp (tranh điệp);
tranh Hàng Trống chủ yếu là tranh chơi Tết
phục vụ cho người dân thành thị, được thể
hiện trên giấy trắng (tranh trắng); tranh Kim
Hoàng thường được in trên nền giấy màu đỏ
(tranh đỏ). Ngày nay, tranh dân gian không
chỉ được thể hiện trên các chất liệu truyền


thống mà nó cịn được chuyển thể trên các
chất liệu khác như: gốm, gỗ, sơn dầu… Với
những giá trị tinh thần của dòng tranh dân
gian và sức sống lâu bền của nó trong xã
hội hiện đại đã phần nào cho thấy đời sống
tinh thần của người Việt là sự kế thừa, kết tụ
những tinh hoa, tinh túy của cha ông.


P.L.T


<i> (ThS., Khoa Du lịch, Trường ĐHVHHN)</i>


T.S


<i>(GS.TS, Viện Khảo cổ học, </i>
<i>Viện Hàn lâm KHXHVN) </i>


<b>Tài liệu tham khảo</b>


1. An Chương (2010), <i>Tranh dân gian Đông Hồ</i>,
Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.


2. Trần Lâm Biền, Trịnh Sinh (2011), <i>Thế giới </i>
<i>biểu tượng trong di sản văn hóa Thăng Long</i>, Nxb.
Hà Nội, Hà Nội.


3. Durand M. (2000), “L’imagerie populaire


sách <i>Nhìn lại một thế kỷ nghiên cứu khoa học</i>, Viện
Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam: 1900-2000,


Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.


4. Durand M. (2017), <i>Tranh dân gian Việt Nam </i>
<i>(Sưu tầm và nghiên cứu</i>), Philippe Papin, Marcus
Durand biên soạn, Nguyễn Thị Hiệp, Olivier
Tessier dịch và giới thiệu, Nxb. Văn hóa - Văn
nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.


5. Trương Minh Hằng (2006), <i>Làng nghề thủ </i>
<i>công mỹ nghệ miền Bắc</i>, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.


6. Nguyễn Phi Hoanh (1970), <i>Lược sử mỹ thuật </i>
<i>Việt Nam</i>, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.


7. Nguyễn Thị Thu Hòa, Trịnh Sinh, Lê Bích
(2019), <i>Dịng tranh dân gian Kim Hồng</i>, Nxb. Thế
giới, Hà Nội.


8. Phan Ngọc Khuê (2015), <i>Tranh dân gian </i>
<i>Hàng Trống</i>, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.


9. Laubie Y. (1937), “Suy nghĩ về tranh dân
gian ở Bắc Kỳ”, in trong sách <i>Những người bạn Cố </i>
<i>đô Huế</i> (B.A.V.H), bản dịch năm 2010, tập XXIV,
Nxb. Thuận Hóa, Huế.


10. Oger H. (1909), <i>Administrateur des services </i>
<i>civils en Indochine, Technique du people Annamite </i>


(encyclopedie de la civilization materielle du


pays d’Annam).


11. Oger H. (2009), <i>Introduction générale à </i>
<i>l’etude de la technique du people Annamite</i>, Olivier
Tessier, Philippe Le Failler chủ biên, Viện Viễn
Đông Bác cổ dịch và tái bản.


12. Phan Cẩm Thượng, Lê Quốc Việt, Cung
Khắc Lược (1999), <i>Đồ họa cổ Việt Nam</i>, Nxb. Mỹ
thuật, Hà Nội.


13. Chu Quang Trứ (2002), <i>Văn hóa Việt Nam, </i>
<i>nhìn từ mỹ thuật</i>, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.


14. Nguyễn Bá Vân, Chu Quang Trứ (1984),


<i>Tranh dân gian Việt Nam</i>, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
15. Viện Nghệ thuật, Bộ Văn hóa (1973), <i>Về </i>
<i>tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình</i>, Nxb. Văn
hóa, Hà Nội.


Ngày nhận bài: 8 - 02 - 2019


</div>

<!--links-->

×