Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Lễ hội dân gian và sự phát triển du lịch hiện nay - Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Tp. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.18 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>V</b>

<b>A</b>


<b>LỄ HỘI DÂN GIAN </b>



<b>VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH HIỆN NAY</b>



<b> LÊ HỒNG LÝ*</b>


<b>Tóm tắt</b>


<i>Lễ hội dân gian Việt Nam với số lượng lên đến 7.039 trong tổng số gần 8.000 lễ hội, lại trải rộng </i>
<i>khắp các làng quê, vùng miền trên cả nước cho thấy đây là một tiềm năng vô cùng to lớn cho phát </i>
<i>triển du lịch. Du lịch lễ hội là hình thức du lịch tổng hợp, đáp ứng được cùng lúc nhiều nhu cầu của </i>
<i>con người. Ngoài việc đi hội như một nhu cầu tâm linh không thể thiếu được của người Việt Nam, </i>
<i>thì đi hội cịn là một sự khám phá về di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, đặc sản văn hóa, </i>
<i>ẩm thực,... của mỗi địa phương. Do vậy, du lịch lễ hội là một nguồn lực không nhỏ cho sự phát triển </i>
<i>kinh tế, xã hội và văn hóa đối với việc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong </i>
<i>bối cảnh kinh tế thị trường, việc biến di sản văn hóa thành một tài sản kinh tế phục vụ đời sống lại </i>
<i>càng mang tính thời sự. Du lịch và lễ hội dân gian có quan hệ tương tác tích cực để cùng nhau phát </i>
<i>triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó cịn một số hạn chế của lễ hội dân gian trong bối cảnh phát triển du </i>
<i>lịch hiện nay như sự nhàm chán, thế tục hóa, giảm tính thiêng hay sự lộn xộn trong thực hành các lễ </i>
<i>hội dân gian. Do vậy, để lễ hội dân gian ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng trong phát triển </i>
<i>du lịch, đem lại lợi ích kinh tế cho mỗi địa phương, địi hỏi cơng tác nghiên cứu và quản lý cần được </i>
<i>đề cao và chú trọng. </i>


<b>Từ khóa: </b>Lễ hội dân gian, du lịch, du lịch văn hóa, du lịch lễ hội, nguồn lực di sản


<b>Abstract</b>


<i>In Vietnam, out of nearly 8,000 festivals, 7,039 are folk festivals which spread throughout the </i>
<i>rural villages and other regions across the country, showing that this is a huge potential for tourism </i>
<i>development. Festival tourism is a form of integrated tourism that meets many human needs at the </i>


<i>same time. Apart from going to the festival as an indispensable spiritual demand of Vietnamese </i>
<i>people, it is also an exploration of historical, cultural monuments, cultural and culinary specialties, </i>
<i>... of each locality. Therefore, festival tourism is a significant source of economic, social and cultural </i>
<i>development for the country’s development in the current period. Especially, in the context of market </i>
<i>economy, turning cultural heritage into an economic asset for life is even more topical. Tourism and </i>
<i>folk festivals have a positive interaction to develop together. However, there are also some limitations </i>
<i>of folk festivals in the context of current tourism development such as boredom, secularization, </i>
<i>reduced sacredness or confusion in the practice of folk festivals. So in order to make folk festivals to </i>
<i>become an important source of tourism development, bringing economic benefits to each locality, </i>
<i>the research and management need to be respected and focused.</i>


<b>Keywords: </b>Folk festivals, tourism, cultural tourism, festival tourism, heritage resources


<b>1. </b>Với số lượng đến 7.039 [2], lễ hội dân gian
trải rộng khắp các làng quê, vùng miền trên cả
nước đã cho thấy một tiềm năng vô cùng to


lớn của lễ hội dân gian đối với việc phát triển
du lịch. Hơn thế, các lễ hội dân gian Việt Nam
cịn vơ cùng đa dạng về loại hình lễ hội cũng
như các nét đặc trưng nổi bật của mỗi lễ hội
gắn với từng vùng miền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



Lễ hội và du lịch ln gắn bó chặt chẽ với
nhau từ trong quá khứ cho tới hiện tại. Những
hội làng tưng bừng thuở xưa, cho dù chưa
xuất hiện thuật ngữ du lịch, đã luôn hấp dẫn
những người tham gia từ các làng khác, vùng


khác hay ít nhất cũng là những làng kết chạ
hay có quan hệ mật thiết với làng có lễ hội. Có
thể nói, khơng có (hoặc là rất hiếm có) lễ hội
dân gian nào lại chỉ được tổ chức với số người
tham dự chỉ riêng của cộng đồng ấy mà ln
có cả những người ngồi cộng đồng. Yếu tố
hành hương, yếu tố du lịch manh nha từ đó.
Hiện nay, trong xu thế phát triển nở rộ của các
lễ hội dân gian, trong bối cảnh một thế giới hội
nhập, một xã hội hiện đại, các lễ hội dân gian
ngày càng trở thành đối tượng thu hút đông
đảo khách du lịch, khách hành hương.


Có lẽ trong tất cả các hoạt động văn hóa thì
du lịch là hoạt động duy nhất khơng bao giờ
nhàm chán. Bất kể một địa danh nào đối với
du khách đều là một địa điểm khám phá hết
sức thú vị và luôn hấp dẫn. Nhu cầu du lịch của
con người trong xã hội hiện nay rất lớn và du
lịch lễ hội, du lịch văn hóa đang trở thành một
trong những loại hình du lịch phổ biến ở một
đất nước nhiều lễ hội như nước ta. Du lịch để
tìm hiểu đất nước, để giải trí, nghỉ ngơi, thăm
viếng các danh lam thắng cảnh và hiểu biết
thêm về các vùng văn hóa là nhu cầu của phần
đơng dân chúng trong xã hội hiện nay. Với du
lịch lễ hội, người ta vừa được thực hành nghi
lễ, lại vừa được thăm những cảnh đẹp, những
di tích, phong tục tập quán, được thưởng thức
và mua sắm những đặc sản địa phương, cùng


những trải nghiệm du lịch thú vị và lợi ích.


Khi mức sống được nâng cao, nhu cầu du
lịch lại càng mạnh mẽ. Nếu như trước đây, đi
du lịch đối với người Việt là một sự xa xỉ thì
ngày nay là một việc hết sức bình thường đối
với một bộ phận đơng đảo dân chúng. Ngay
cả đối với người nông dân bình thường, việc
đi hội trong vùng và xa hơn một chút cũng là
chuyện dễ dàng. Hơn nữa, khi số ngày nghỉ
được tăng từ một đến hai ngày trong tuần, số
ngày nghỉ lễ cũng tăng lên,... thì nhu cầu đi du
lịch trở thành một đòi hỏi ngày càng mạnh mẽ.


dân gian ở các vùng nông thôn từ đồng bằng
cho đến miền núi xa xôi, thậm chí càng xa
càng thu hút du khách. Các hội làng ở khắp nơi
được mở ra, và từ đó, rất nhiều những phong
tục tập quán, cùng các giá trị văn hóa được
khơi phục lại để phục vụ du khách xa gần. Như
vậy, ở một góc độ nào đó, du lịch đã góp phần
phát triển lễ hội dân gian một cách tích cực.
Ngồi việc được đi lễ ở nhiều địa điểm khác
nhau, được cầu khấn nhiều vị thần linh hơn,
thì người đi lễ cịn có điều kiện thăm thú nhiều
hơn các vùng đất mới lạ đối với họ. Từ đây, cho
thấy du lịch ngày càng là một nhu cầu lớn đối
với người đi lễ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>V</b>

<b>A</b>




hóa của một vùng đất mới, nhất là đối với giới
trẻ và lễ hội cũng có thể trở thành khơng gian
cho các chuyến picnic, các dịp tụ họp…


Du lịch lễ hội là hình thức du lịch tổng hợp,
đáp ứng được cùng lúc nhiều nhu cầu của con
người. Chẳng hạn một du khách chọn một lễ
hội nào đó để đi du lịch, du khách đó sẽ được
thăm viếng khu di tích - khơng gian tổ chức
lễ hội, được thực hành việc cúng lễ thần linh,
được tĩnh tâm tập trung vào việc cầu khấn,
mong muốn thần linh phù hộ độ trì cho mình
và gia đình. Nhìn bề ngồi, hiện tượng này
rất bình thường, song về mặt tâm lý thì đây là
một tác động rất lớn đối với cá nhân du khách.
Hơn thế nữa, từ việc lễ bái, xin lộc, đôi khi cả
xin quẻ, xin xăm, nếu gặp được quẻ hay thì
tạo cho người ấy một niềm tin mãnh liệt vào
những may mắn trong tương lai, nếu gặp phải
quẻ xấu thì tâm lý của du khách khá nặng nề
và lại thúc đẩy việc tiếp tục cầu khấn. Từ đây có
thể thấy sự tác động của thực hành tâm linh
đến du khách mạnh mẽ thế nào. Ngoài việc
thỏa mãn nhu cầu lễ cho bản thân và những
người thân, du khách còn đem về những vật
phẩm là lộc có thể để ăn (như hoa, quả, bánh,
kẹo...), để thờ cúng trong năm (như vàng, tiền
và các đồ mã khác), để sử dụng (như bùa hay
vật thiêng nào đó) cho người lớn, người ốm


hay trẻ nhỏ... Điều này tạo tâm lý an tâm, thoải
mái và vui vẻ cho du khách.


Bên cạnh việc lễ bái thoả mãn tâm linh, du
khách còn được hưởng thụ về mặt tinh thần
như tham gia vào lễ tế, rước xách, nhảy, múa,
trò chơi, trò diễn... Tại những sinh hoạt này, du
khách được đắm mình vào khơng khí hội hè:
cẩn trọng, thiêng liêng, từ tốn trong đám rước
hay lễ bái; vui hết mình trong những trị chơi,
cuộc đua tranh giành, hò hét, hồi hộp và cay
cú thực sự đến nỗi phờ phạc, tả tơi như đi hội
là vậy; tham gia vào những cuộc ăn uống tập
thể, đồ ăn có thể khơng ngon bằng ở những
bữa tiệc mà họ được ăn ở nơi khác, song đây
là miếng ăn nhuốm màu linh thiêng và miếng
lộc (“Một miếng lộc Thánh bằng một gánh lộc
trần”) có ý nghĩa vô cùng to lớn, đem lại cho


gian, du khách có thể tìm hiểu nguồn gốc,
lai lịch của các vị thần, các nhân vật được thờ
cúng ở đây, để hiểu biết thêm về lịch sử địa
phương nơi diễn ra lễ hội, về vai trò của di tích
và nhân vật ấy trong bối cảnh chung của các
lễ hội và văn hóa cả nước. Điều này giúp cho
sự hiểu biết của họ được tăng thêm, phong
phú thêm, và trong chừng mực nào đó, lịng
tự hào, tình yêu quê hương đất nước của họ
càng được củng cố hơn nữa sau một chuyến
đi du lịch lễ hội.



Đối với tất cả các lễ hội dân gian, bản thân
nó đã là một hiện tượng văn hóa tổng hợp,
sống động, ln biến đổi khơng ngừng mà
không phải là những sản phẩm tĩnh tại và
thuần túy như các hiện vật bảo tàng, là những
thực hành văn hóa góp phần vào đời sống của
các dân tộc, đóng góp vào sự phát triển kinh
tế và xã hội của các dân tộc ấy trong mọi thời
kỳ lịch sử.


Cũng cần nhận thấy rằng, các lễ hội dân
gian ở nước ta vô cùng phong phú và có giá trị,
tuy nhiên khơng phải lễ hội nào cũng có thể
trở thành sản phẩm du lịch, nhất là những sản
phẩm du lịch hấp dẫn du khách. Do đó, chính
quyền hoặc người làm du lịch phải biết khai
thác xem lễ hội nào, hay phần nào của lễ hội,
có thể trở thành sản phẩm của du lịch lễ hội,
có như vậy mới thỏa mãn nhu cầu của khách
và phát huy được giá trị văn hóa của di tích, lễ
hội ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



sản dân ca quan họ Bắc Ninh, lễ hội Kiếp Bạc,
Côn Sơn, Yên Tử…


Có thể thấy rõ, du lịch và lễ hội dân gian
ngày càng gắn kết chặt chẽ với nhau, dựa vào


nhau để phát triển và mở rộng quy mô, thu
hút được nhiều khách thập phương. Không
chỉ bằng cảm nhận mà các số liệu gần đây
cũng đã chỉ ra điều đó. Chẳng hạn như: Tổng
số lượt khách hành hương về Đền Hùng trong
5 ngày lễ hội năm 2016 gấp hơn 5 lần số dân
tỉnh Phú Thọ, hay trong năm 2016 tám lễ hội
lớn của nước ta (lễ hội Đền Hùng, chùa Hương,
Yên Tử, đền Trần, Phủ Giày, Côn Sơn - Kiếp Bạc,
núi Bà Đen, Bà Chúa Xứ) đã thu hút khoảng
16 triệu lượt khách [12]. Điều này cho thấy
loại hình du lịch lễ hội ngày càng là một nhu
cầu lớn đối với người dân. Với các lễ hội như
Bà Chúa Kho, miếu Bà Thiên Hậu, hội Gióng,…
tuy khơng có con số chính xác số lượng khách
du lịch là bao nhiêu song nhìn dịng người xe
tắc nghẽn các con đường vào các lễ hội trong
nhiều ngày, nhất là những ngày chính hội có
thể hình dung được lễ hội đã thu hút khách
du lịch, hành hương nhiều đến thế nào. Chỉ lấy
một ví dụ về số lượng khách du lịch và nguồn
thu từ du lịch ở lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam đã
có thể thấy lễ hội hiện nay gắn bó với du lịch ra
sao, trở thành nguồn lực quan trọng cho phát
triển du lịch thế nào. Trong mùa lễ hội năm
2016, riêng “sáng ngày 11/2/2016 (nhằm ngày
mùng 4 Tết), tại khu du lịch cấp quốc gia Miếu
Bà Chúa Xứ núi Sam, thành phố Châu Đốc,
tỉnh An Giang, dù mới hơn 8 giờ 30 phút sáng
nhưng dòng người xe tấp nập từ khắp nơi đổ

về khiến một đoạn đường dài gần 1km bị tê
liệt. Theo Ban Quản lý khu di tích Văn hóa lịch
sử và du lịch Núi Sam, đơn vị đã đặt cổng thu
phí tham quan khách du lịch vào khu du lịch
Núi Sam bắt đầu từ ngày mùng 2 Tết. Ước tổng
số khách đến trong hai ngày trên 100.000 lượt
khách. Trong đó, số khách thu phí đi bằng xe
du lịch là 35.000 vé, với số tiền gần 700 triệu
đồng” [11].


Qua các số liệu thống kê cho thấy, số lượt
khách đến với khu du lịch Núi Sam hàng năm
rất đông, năm sau luôn cao hơn năm trước.


đến hành hương và tham quan, chiếm 95% lượt
khách đến Châu Đốc. Tổng lượt khách đến Núi
Sam tăng khá nhanh từ năm 2007 đến năm
2015 (tăng từ 1.345.000 lượt lên 4.078.000
lượt), chiếm 65,2% tổng lượng khách đến An
Giang. Điều đáng lưu ý là trong những năm
vừa qua tốc độ tăng trưởng của số khách đến
Núi Sam luôn đạt trên 10%/năm, trong khi tốc
độ tăng tổng lượng khách đến Châu Đốc và
An Giang chỉ đạt khoảng 5%/năm1<sub>. Điều này </sub>


thể hiện sức hấp dẫn của lễ hội và khu du lịch
Núi Sam.


Nhìn vào số liệu trên có thể thấy tổng thu
từ khách du lịch tăng khá nhanh. Chỉ trong 5


năm (từ 2011 đến 2015), tổng thu từ khách du
lịch đã tăng hơn 3 lần, trong khi lượng khách
chỉ tăng 15%. Nguồn thu này chưa bao gồm
nguồn thu từ Ban Quản trị lăng miếu Núi Sam
(bình quân 100 tỷ đồng/năm).


Lễ hội càng sôi nổi, phong phú và đa dạng
lại càng trở thành nguồn lực và tài nguyên
quan trọng của du lịch. Ngược lại, du lịch cũng
trở thành động lực, thậm chí mục đích cho
những sự đầu tư, phục hồi và mở rộng lễ hội.
Bởi vậy, tất cả các lễ hội dân gian có quy mơ
lớn và phong phú đều đã và đang trở thành
địa điểm du lịch hấp dẫn du khách. Các lễ hội
ấy đều có những chỉ dẫn du lịch và là điểm
nhấn trong các tour du lịch văn hóa chung
hoặc tour riêng cho việc đi lễ hội.


Có thể thấy, lễ hội hấp dẫn du lịch khi mỗi
lễ hội ở mỗi vùng miền khác nhau lại có khơng
gian văn hóa khác nhau, bối cảnh, cách thức tổ
chức lễ hội khác nhau, nghi lễ và nét bản sắc
khác nhau. Chính sự đa dạng đó của lễ hội dân
gian trong xã hội hiện nay đã là chỗ dựa vững
chắc cho du lịch phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>V</b>

<b>A</b>



khi biết chắc lễ hội đó khơng khác gì với các lễ
hội mà mình đã được biết. Khách du lịch cũng


sẽ “một đi không trở lại” khi tham dự một lễ
hội khơng cịn là lễ hội dân gian của riêng địa
phương theo đúng nghĩa nữa mà trở nên phổ
quát, giống nhau, ở đâu cũng vậy.


Bên cạnh đó, xu hướng thế tục hóa trong
các lễ hội hiện nay cũng đã mang tới cho lễ hội
những màu sắc mới, đời thường hơn và cũng
giảm tính thiêng hơn. Xu hướng thế tục hóa
đã tạo ra sự đa dạng và gần gũi cho lễ hội dân
gian. Nhiều người dân đi lễ hội không biết lễ
hội đó tơn vinh vị thần nào, hoặc khơng phải
chỉ để khấn vị thần được tôn thờ, họ cứ đi và
được hịa vào khơng khí tâm linh, như vậy đã
là đủ. Đó là chưa kể nhiều người dân đi lễ hội
khơng vì mục đích đi lễ mà mục đích của họ
chỉ là đi chơi, lấy lễ hội làm không gian gặp
gỡ, tụ họp... Nhiều người rõ ràng mục đích đi
lễ nhưng họ khơng hiểu biết về trình tự nghi
lễ, lễ vật,... dẫn đến thực hành lễ thức tuỳ tiện,
chẳng hạn họ có thể dâng cúng bất cứ lễ vật
gì mà họ cho là hợp lý từ thực phẩm, thức ăn,
đồ dùng, đồ trang điểm... Lễ vật là tiền ngày
càng trở nên phổ biến. Họ cũng có thể kêu
cầu thần thánh bất cứ điều gì mà họ cảm thấy
cần thiết cho cuộc sống của họ, họ cầu cúng
trong tâm lý chung là kéo thần thánh về gần
với cuộc sống đời thường để phục vụ cho
những nhu cầu cũng hết sức đời thường của
họ. Xu hướng này cũng góp phần làm hạn


chế tính thiêng của lễ hội dân gian, khiến cho
lễ hội trở nên tự do, thậm chí có phần tùy tiện,
lộn xộn, khơng cịn đáp ứng được sự trơng
đợi của khách du lịch.


Với sự nở rộ của lễ hội hiện nay, việc quản
lý được đặt ra là cần thiết, song quản lý lễ hội
theo xu hướng nhà nước hóa lại đang mang
tới cho lễ hội dân gian rất nhiều bất cập. Ví như
sự lạm dụng kịch bản trong lễ hội, sự ganh đua
danh tiếng, sự can thiệp quá sâu của chính
quyền và những định hướng, chỉ đạo, hướng
lễ hội nghiêng về mục đích tuyên truyền,… đã
khiến cho nhiều lễ hội phai nhạt màu sắc dân
gian truyền thống vốn có và giảm sút quyền


hiện qua việc phân cấp lễ hội. Những lễ hội cấp
quốc gia thường xuyên có sự tham gia của các
vị lãnh đạo Nhà nước và sự chỉ đạo chặt chẽ của
Nhà nước về cách thức tổ chức, khách mời và
cả những hoạt động trong lễ hội đã khiến cho
lễ hội dường như là của Nhà nước. Không chỉ
vậy, “hội chứng xin nâng cấp lễ hội” cũng khiến
cho các địa phương có lễ hội đua nhau xin nâng
cấp vì muốn lễ hội của mình phải ngang hàng
hoặc hơn các địa phương có lễ hội khác và
được cấp nhiều kinh phí hơn, để tổ chức lễ hội
to đẹp hơn. Sự ganh đua gây ra lãng phí và cả
sự khơng đồn kết trong cộng đồng, nguy cơ
khiến cho lễ hội thiên về hình thức, đề cao sự


thể hiện của những nhóm giàu mà khơng cịn
thực chất là ngày hội của dân chúng nữa. Nhiều
lễ hội dân gian được gắn với những ngày kỷ
niệm lớn, những sự kiện văn hóa, chính trị tiêu
biểu, trong các diễn văn khai mạc hay kết thúc
lễ hội thường gửi gắm những thơng điệp chính
trị để giáo dục, tuyên truyền,... và chính những
điều này cũng khiến cho khách du lịch giảm đi
sự hào hứng với lễ hội dân gian.


Lễ hội dân gian thường gắn chặt với với các
cơ sở tín ngưỡng, vì thế cùng với sự phát triển
sôi nổi của lễ hội thì các cơ sở tín ngưỡng cũng
trong xu hướng được chú trọng trùng tu, tôn
tạo và xây mới, tạo ra không gian rộng rãi hơn
cho việc tổ chức lễ hội, song việc này cũng gây
nên nhiều bàn luận và mâu thuẫn. Ở một số
đền, miếu, chùa, việc trùng tu các di tích được
thực hiện tùy tiện làm mất đi giá trị vốn có của
những khơng gian tâm linh. Nhiều di tích sơn
tượng mới lòe loẹt, thay cột gỗ bằng cột xi
măng, những bức chạm khắc cổ nhuốm màu
thời gian bị thay bằng những bức chạm mới,...
khiến cho các di tích cũng dần trở nên đồng
dạng, giống nhau khiến cho du khách khơng
cịn có nhu cầu khám phá nhiều di tích và lễ
hội khác nhau nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>




dân gian được khơi phục lại để phục vụ du
khách, các nét bản sắc văn hóa của từng lễ hội,
từng vùng miền được khẳng định trong niềm
tự hào và người dân mong muốn bảo tồn nó.
Ở chiều tương tác ngược lại, lễ hội dân gian
hỗ trợ đắc lực cho sự tăng trưởng của ngành
du lịch, trước hết lễ hội dân gian giúp cho bức
tranh du lịch của nước ta thêm phong phú với
đa dạng hơn các sự lựa chọn cho du khách, lễ
hội dân gian mang đậm bản sắc của văn hóa
làng, văn hóa Việt Nam vì vậy rất hấp dẫn các
du khách nước ngồi, ngành Du lịch dựa vào
nguồn lực văn hóa đa dạng và đặc sắc này mà
có thêm được số lượng lớn du khách trong
nước và nước ngoài.


Có thể nói, bức tranh lễ hội đa dạng và sôi
nổi hiện nay, kết nối với những bối cảnh chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đương đại là điều
kiện rất tốt cho sự phát triển du lịch. Chúng
ta đã và đang chứng kiến một xu hướng nổi
trội của những sự phục hồi của lễ hội dân gian
trong sự tác động, chi phối ảnh hưởng mạnh
mẽ của kinh tế thị trường thì lễ hội như một
nguồn lực cho sự phát triển du lịch. Lễ hội và
du lịch là hai phạm trù gắn bó mật thiết với
nhau, hỗ trợ cho nhau và cùng được khuyến
khích phát triển trong bối cảnh hiện nay. Chỉ
khi chúng ta hiểu rõ được về các vấn đề này
và nhìn nhận chúng trong sự gắn kết của


tổng thể các yếu tố văn hóa và xã hội, chính
trị và kinh tế thì lễ hội truyền thống sẽ đem lại
những lợi ích khơng nhỏ cho sự phát triển kinh
tế của đất nước.


L.H.L


<b>Chú thích</b>


1<sub> Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch An </sub>


Giang.


<b>Tài liệu tham khảo</b>


1. Antonio Machado (2003), “Du lịch và phát
triển bền vững (Tourism and Sustainable
Devel-opment)”, in trong <i>Dự án Xây dựng năng lực cho </i>
<i>phát triển Du lịch ở Việt Nam</i>, VNAT và FUNDESO,
Hà Nội.


2. Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch (2008), <i>Thống kê lễ hội</i>, Hà Nội.


3. Cao Lộ Gia (2004), <i>Nhân loại học du lịch </i>
<i>Trung Quốc,</i> Nxb. Du lịch Quảng Tây.


4. Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật An Giang
(2013), <i>10 năm lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam nâng </i>
<i>cấp lễ hội quốc gia</i>, Nxb. Văn hóa Văn nghệ, An


Giang.


5. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên)
(1994), <i>Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội </i>
<i>hiện đại,</i> Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.


6. Lê Hồng Lý (chủ biên) (2010), <i>Giáo trình </i>
<i>quản lý di sản văn hóa với phát triền du lịch</i>, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.


7. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (chủ
biên) (2001), <i>Kinh tế du lịch & Du lịch học,</i> Nxb. Trẻ,
Hà Nội.


8. Nhiều tác giả (2014), <i>Di sản văn hóa trong </i>
<i>xã hội Việt Nam đương đại,</i> Nxb. Tri thức, Hà Nội.


9. Tô Ngọc Thanh (2003), “Di sản văn hóa
trong cơ chế thị trường”, <i>Tạp chí Nguồn sáng dân </i>
<i>gian</i>, số 3.


10. Ngơ Đức Thịnh (1993), “Những giá trị văn
hóa của lễ hội cổ truyền và nhu cầu của xã hội
hiện đại”, <i>Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật</i>,
số 1.


11. Minh Thư (2016), “Biển người đổ về kẹt
cứng Miếu bà Núi Sam”, <i>Báo Dân Trí</i>,
https://dant-
ri.com.vn/xa-hoi/bien-nguoi-do-ve-ket-cung-mieu-ba-nui-sam-2016021115551915.htm



12. Tri thức trẻ (2016), “Với 8.000 lễ hội một
năm, trung bình mỗi ngày người Việt có 22
lễ hội, mỗi giờ có 1 lễ hội”, />
voi-8000-le-hoi-moi-nam-trung-binh-moi-
ngay-nguoi-viet-co-22-le-hoi-moi-gio-co-1-le-hoi-20160421143503586.chn


13. Trần Quốc Vượng (2001), <i>Văn hóa Việt Nam </i>
<i>tìm tịi và suy ngẫm,</i> Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.


Ngày nhận bài: 14 - 3 - 2020


</div>

<!--links-->

×