Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.17 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Nội dung </b>
Bản chất của kiểm toán nội bộ;
Nội dung của kiểm toán nội bộ;
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ;
Lịch sử phát triển của kiểm toán nội bộ.
<b>Mục tiêu </b>
Hiểu được khái niệm về kiểm toán nội bộ, đặc trưng của kiểm tốn nội bộ và xem xét các vai trị
của kiểm toán nội bộ trong quản lý, nắm được các chức năng của kiểm toán nội bộ;
Hiểu được nội dung kiểm toán của kiểm toán nội bộ trong thực hiện từng loại hình kiểm tốn:
Kiểm tốn tài chính, kiểm tốn hoạt động và kiểm tốn tn thủ;
Nắm được các mơ hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp, các chuẩn mực
nghề nghiệp cho kiểm toán viên nội bộ;
Nắm được lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ trên thế giới và ở Việt Nam.
<b>TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP </b>
<b>Tình huống: </b>
Bạn đang băn khoăn rất nhiều khi bước chân vào nghề kế toán, kiểm toán. Lựa chọn của bạn
liệu đã đúng chưa? Làm kế toán hay làm kiểm toán? Làm kiểm toán viên nhà nước, kiểm toán
viên độc lập hay chọn một nghề nghiệp mới ở Việt Nam là kiểm toán viên nội bộ? Trước hết,
bạn cần cân nhắc mình có tố chất làm kiểm tốn viên nội bộ khơng? Trên một tạp chí về kế
toán kiểm toán, người ta đưa ra quan điểm:
<b>“</b>Tố chất cần phải có để trở thành một kiểm tốn viên nội bộ
(KTVNB) chun nghiệp:
Thơng minh, nhạy bén nhưng cũng phải kiên nhẫn, cẩn thận;
Thận trọng nhưng quyết đốn, có óc phân tích và phê phán;
Đam mê nghề nghiệp, đặc biệt là thích khám phá rủi ro, sai
sót, gian lận;
Có kỹ năng giao tiếp và khai thác thơng tin tốt. Yếu tố cần phải có để trở thành một KTVNB
chuyên nghiệp.
Quá trình rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp của một KTVNB không thể tách rời những tinh hoa
của các ngành khoa học quản lý dành cho một doanh nghiệp, cơ bản cũng như ứng dụng,
truyền thống cũng như hiện đại để hiểu biết về hoạt động kinh doanh của công ty và không
ngừng cập nhật kiến thức nghề nghiệp. Trong đó, kiến thức về khoa học quản trị kinh doanh
và pháp luật là vơ cùng cần thiết.
Ngồi ra, KTV nội bộ phải có kiến thức về nhiều lĩnh vực, am hiểu chi tiết nhưng có tầm nhìn
tổng quan, khả năng nhìn thấy “cái bất thường trong cái tưởng như bình thường”.
Tiếp cận được những kiến thức nghề nghiệp cốt lõi, cập nhật, là những tinh hoa, chắt lọc từ
những chương trình đào tạo kiểm tốn quốc tế. Những kiến thức này cùng với những trải
nghiệm nghề nghiệp bản thân sẽ là hành trang cần thiết cho sự thành cơng.
Dù khơng có những tiêu chuẩn ngành về yêu cầu trình độ nghề nghiệp của một KTVNB.
Nhưng thực tế cho thấy, các KTVNB quốc tế thường xuất thân từ các cơng ty kiểm tốn độc
lập, có bằng cử nhân tài chính hay quản trị và chứng chỉ Kiểm tốn viên Cơng chứng (CPA)
hay chứng chỉ KTVNB (CIA).
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố về trình độ kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, một yếu tố cực
kỳ quan trọng để có thể trở thành một KTVNB chuyên nghiệp, đó là phải có cái “dũng” và cái
“tâm”, để bền lịng, vững bước trước mọi nguy nan cám dỗ khi mà người KTVNB phải đối
diện với những hành vi gian lận và phạm pháp”. (Theo Tạp chí Kế tốn)
<b>Câu hỏi </b>
1. Bạn có cho rằng mình đủ tố chất để trở thành kiểm tốn viên nội bộ khơng?
<b>1.1.</b> <b>Bản chất của kiểm toán nội bộ</b>
<b>1.1.1.</b> <b>Khái niệm về kiểm tốn nội bộ</b>
Kiểm tốn nói chung và kiểm tốn nội bộ (KTNB) nói riêng có lịch sử phát triển lâu đời
trên thế giới. Kiểm toán có lịch sử phát triển vào khoảng hơn 5500 năm trước đây với
những dấu hiệu thể hiện sự kiểm tra đơn giản thông qua việc đánh dấu bên cạnh các con
số ghi nhận các giao dịch trên các vật để ghi chép của con người trong nền văn minh
Mesopotamian cổđại. Một người ghi nhận giao dịch và một người khác kiểm tra việc
ghi nhận các giao dịch. Sau này, hoạt động kiểm tra này được sử dụng rất nhiều tại Ai
Cập cổđại, Ba Tư và La Mã cổđại. Ở La Mã cổđại, công việc kiểm tra được giao cho
các "auditus" (tiếng Latin có nghĩa là nghe). Những người được kiểm tra gọi là các
"quaestors" (có nghĩa là những người được kiểm tra). Kiểm toán là hoạt động xác minh
và bày tỏ ý kiến vềđối tượng được kiểm toán do các kiểm toán viên (KTV) có trình độ
nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực. KTNB là một
trong ba loại hình kiểm tốn khi phân loại theo bộ máy tổ chức và chủ thể thực hiện.
Chính vì vậy, xu hướng phát triển và bản chất của KTNB mang những đặc trưng chung
của kiểm toán.
Ở giai đoạn phát triển ban đầu của KTNB, có thể xem xét đến khái niệm này trong phần
Giải thích Thuật ngữ trong Chuẩn mực Kiểm tốn của Liên đồn Kế tốn quốc tế
(IFAC), khái niệm về KTNB được đưa ra như sau : “KTNB là một hoạt động đánh giá
<i>được lập ra trong doanh nghiệp như là một dịch vụ cho doanh nghiệp đó, có chức năng </i>
<i>kiểm tra, đánh giá và giám sát tính phù hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm </i>
<i>soát nội bộ”. </i>
Khái niệm này có thể xem xét trên các góc độ sau:
<b>Chức năng</b>: KTNB có chức năng là đánh giá, kiểm tra, kiểm sốt tính hợp lý và
hiệu quả của hệ thống thông tin và quản lý trong doanh nghiệp.
<b>Vai trị</b>: KTNB có vai trị là một dịch vụ trợ giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp.
<b>Đối tượng</b>: Là tính phù hợp và hiệu quả của hệ thống kiểm sốt nội bộ.
Cách giải thích này tương tự như giải thích thuật ngữ
KTNB trong tài liệu của Hiệp hội Kế tốn viên cơng
chứng Anh (ACCA): "KTNB là hoạt <i>động kiểm tra và </i>
<i>đánh giá được thiết lập trong một tổ chức nhằm mục </i>
<i>đích quản trị nội bộ đơn vị. KTNB có chức năng kiểm </i>
<i>tra, đánh giá sự phù hợp và hiệu lực của hệ thống kế </i>
<i>toán và hệ thống kiểm soát nội bộ”. </i>
Tháng 6 năm 1999, nhằm đáp ứng được yêu cầu cao hơn của quản lý do sự thay đổi
liên tục của môi trường kinh doanh, Viện Kiểm toán viên nội bộ của Mỹ (IIA) đã đưa ra
một định nghĩa toàn diện hơn về KTNB: "KTNB là hoạt động đánh giá, tư vấn độc lập
<i>trong nội bộ tổ chức, được thiết kế nhằm cải tiến và làm tăng giá trị cho các hoạt </i>
<i>động của tổ chức đó. KTNB giúp tổ chức đạt được các mục tiêu bằng việc đánh giá </i>
<i>một cách hệ thống và cải tiến tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm sốt và quản </i>
<i>lý rủi ro” [73, tr725]. </i>
<b>Chức năng</b>: KTNB là hoạt động với hai chức năng đánh giá và tư vấn. Như vậy,
KTVNB nếu chỉ có năng lực chun mơn về kiểm tốn là chưa đủ mà phải am
hiểu sâu sắc về hoạt động được kiểm tốn mới có thểđưa ra tư vấn cho khách thể
kiểm toán.
<b>Yêu cầu trong thực hiện kiểm toán</b>: KTNB là hoạt động nội kiểm nhưng phải
đảm bảo được tính độc lập.
<b>Mục tiêu</b>: cải tiến và gia tăng giá trị hoạt động của tổ chức.
<b>Phương pháp thực hiện của KTNB</b>: là đánh giá hoạt động và kiến nghị nhằm cải
thiện tính hiệu lực của hoạt động quản trị, kiểm soát quản lý rủi ro.
Như vậy, có thể khái quát một định nghĩa về KTNB như sau: KTNB là một hoạt <i>động </i>
<i>độc lập có chức năng kiểm tra, đánh giá, xác nhận và tư vấn nhằm trợ giúp cho nhà </i>
<i>quản lý, cải thiện các hoạt động của một tổ chức bằng một cách tiếp cận có hệ thống </i>
<i>trong phạm vi tổ chức đó. Các tổ chức có thể là các đơn vị hoạt động sản xuất kinh </i>
trong q trình sử dụng các nguồn lực và hiệu năng của quản lý trong quá trình thực
hiện các hoạt động và tư vấn thiết kế nhằm tăng giá trị và cải thiện hoạt động.
<b>1.1.2.</b> <b>Đặc trưng của kiểm toán nội bộ</b>
KTNB phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của quản lý. Môi trường kinh doanh
càng thay đổi thì hoạt động KTNB càng phải hướng đến những yêu cầu của quản lý
hiện đại. Như vậy, có thể xem xét đến các đặc trưng của kiểm toán nội bộ hiện đại trên
các góc độ sau:
<b>Mục tiêu:</b> KTNB trước hết là một bộ phận của
kiểm tốn nên nó cũng hình thành từ yêu cầu của
quản lý và phục vụ cho yêu cầu này. KTNB có
chức năng đo lường, đánh giá các hoạt động của
đơn vị kể cả hoạt động kiểm soát. Như vậy, KTNB
là một loại kiểm soát được sử dụng phục vụ yêu
cầu quản lý như một chức năng của quản lý.
<b>Chức năng:</b> Là kiểm tra, đánh giá, xác nhận và tư
vấn. Chức năng này sẽđược cụ thể và chú trọng trong
từng loại hình kiểm tốn khác nhau, với từng tổ chức
khác nhau. Quá trình thực hiện chức năng của KTNB có thểđược thực hiện đối với
các hoạt động tài chính và hoạt động phi tài chính.
<b>Phương thức thực hiện: </b>KTNB là hoạt động nội kiểm có tính độc lập tương đối
trong một tổ chức. Các tổ chức này không chỉ là các đơn vị hoạt động kinh doanh
mà có thể là các đơn vị phi lợi nhuận. Theo xu hướng hiện đại, hoạt động này có
thểđược thực hiện thơng qua th ngồi các chuyên gia kiểm toán.
<b>Chủ thể thực hiện:</b> Người thực hiện KTNB phải có trình độ nghiệp vụ tương
xứng và không những am hiểu về kiểm tốn mà cịn am hiểu các lĩnh vực chun
<b>Khách thể:</b> Khách thể của kiểm toán nội bộ tương đối đa dạng, có thể là những
thực thể kinh tếđộc lập, cũng có thể là các đơn vị phụ thuộc. Khách thể của kiểm
toán nội bộ có thể là các đơn vị thành viên, các bộ phận, phịng ban hoặc thậm chí
là các cá nhân thực hiện các nghiệp vụ, tác nghiệp.
<b>Cách thức tiếp cận:</b> Cách thức tiếp cận của KTNB
là cách thức tiếp cận có hệ thống; các phương pháp
thực hiện công việc theo đúng các quy định về
trách nhiệm nghề nghiệp trong việc nhận định,
phân tích đánh giá, ghi chép và thông báo kết quả.
Tuy nhiên, có một điểm thay đổi lớn trong kiểm
tốn nội bộ hiện đại, đó là việc chuyển hướng tiếp
cận kiểm toán. Cách tiếp cận truyền thống của
KTNB là cách tiếp cận tuân thủ nay được chuyển thành tiếp cách theo phương
pháp dựa trên đánh giá rủi ro. Khi tiếp cận theo phương pháp kiểm toán tuân thủ,
nhà quản lý thường kỳ vọng các kiểm toán viên nội bộ ngăn chặn, phát hiện và sửa
chữa các hoạt động vi phạm quy chế của đơn vị. Hơn thế nữa, nhà quản lý cũng kỳ
vọng kiểm toán viên nội bộ có thể phát hiện ra những lỗ hổng của các quy chế của
đơn vị.
Tuy nhiên phương pháp này chỉ phù hợp khi môi trường kinh doanh ít thay đổi.
Khi mơi trường kinh doanh thay đổi, kiểm toán viên nội bộ sử dụng phương pháp
dựa trên đánh giá rủi ro. Kiểm toán viên nội bộ cần đánh giá tính hiệu lực và tin
cậy của mơi trường kiểm sốt trong việc quản lý rủi ro. Kiểm toán viên nội bộ
cũng cần xác định liệu sự tuân thủ các quy chế nội bộ, các quy định về tài chính có
đủ để hóa giải các rủi ro khơng. Nếu khơng, kiểm tốn viên nội bộ sẽ kiến nghị
theo hướng sửa đổi các quy chế nội bộ.
<b>Cơ sở pháp lý:</b><i> KTNB </i>đo lường và đánh giá các hoạt động dựa trên hệ thống pháp
lý có hiệu lực, các nội quy, quy chế chung, các quy chế tài chính và các quy chế
khác. Như vậy, cơ sở pháp lý của kiểm toán nội bộ tương đối linh hoạt, tùy thuộc
vào loại hình kiểm toán mà kiểm toán nội bộ thực hiện.
<b>1.1.3.</b> <b>Vai trị của kiểm tốn nội bộ trong quản lý </b>
<b>Kiểm tốn nội bộ với thơng tin tài chính của doanh nghiệp </b>
Hoàn toàn lặng im khi nghe bồi thẩm đoàn đọc cáo trạng, Bernard Ebbers, cựu giám đốc
điều hành tập đồn viễn thơng WorldCom, Mỹ đã bị buộc tội gian lận và cung cấp các số
liệu khơng chính xác tại các báo cáo tài chính liên quan đến khoản tiền 11 tỷ USD trong vụ
phá sản của một trong những tập đồn viễn thơng lớn nhất nước Mỹ.
Với các tội danh trên, Ebbers có thể phải chịu hình phạt lên đến 85 năm tù giam. Lúc đó,
phản ứng duy nhất của mọi người trong phiên toà là từ phía vợ Ebbers, bà ngồi khóc lặng lẽ
với sự an ủi của cơ con gái. Ebbers và gia đình đã rời khỏi tồ mà khơng có bình luận gì.
Với họ những sai phạm tài chính đã quá rõ ràng.
Điều đáng ngạc nhiên là mặc dù được đánh giá như một trong những thành viên năng động
và nhạy bén nhất của Worldcom trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh vào thập kỷ 90
nhưng tại tồ án Ebbers ln nói là mình khơng biết gì về các chi tiết tài chính của tập
đồn. Và khi cơng việc kinh doanh sa sút, Worldcom đã che dấu khó khăn với các cổđơng
đến trên hàng chục tỷ USD.
Suốt thời gian xét xử, Ebbers luôn bác bỏ các tội danh do
tịa đưa ra và tự bào chữa rằng chỉ ơng nắm được rất ít tin
tức về tình hình tài chính của Worldcom, những sai phạm
trong báo cáo tài chính chủ yếu thuộc về cựu giám đốc tài
chính Worldcom, Scott Sullivan. Trước khi quyết định
rằng Ebbers có phạm tội hay khơng, bồi thẩm đồn đã cân
nhắc rất kỹ lời khai của Ebbers và Scott Sullivan, người
ln cho rằng những gian lận của mình là làm theo lệnh của Ebbers.
Trong khi những gian lận tại Enron liên quan tới các thủ thuật kế toán tinh vi thì tại
Worldcom các gian lận diễn ra rất đơn giản. Worldcom khi đó đã tăng giả mạo các chỉ số
kế toán hiện hành và bỏđi các số liệu về vốn theo thời gian mà nhẽ ra phải công bố công
khai. Về bản chất, Worldcom đã chuyển dịch một loạt các con số từ cột này sang cột khác
trong báo cáo tài chính. Theo ước tính thì Worldcom bị phá sản đã khiến các cổ đơng của
hãng chịu thiệt hại khoảng 180 tỷ USD và trên 20000 nhân viên bị mất việc làm. Sau khi
chính thức tuyên bố phá sản, Worldcom đã đổi tên thành MCI… Bản án được tuyên đã
khiến rất nhiều công tố viên thở phào nhẹ nhõm bởi gần 2 năm nay việc xét xử các thành
viên của Worldcom ln được xem là khó khăn nhất trong lịch sử ngành toà án Mỹ. Và
việc tuyên bố Ebbers phạm tội sẽ làm nền tảng cho việc xét xử ba thành viên khác của
Worldcom trong thời gian tới với nhiều chứng cứ và đánh giá phức tạp hơn nhiều. Nhiều
chuyên gia kinh tế Mỹ nhận định rằng việc xét xử “thẳng tay” các thành viên ban lãnh đạo
Worldcom là một trong những thành công lớn nhất của ngành tòa án Mỹ trong cuộc chiến
chống tham nhũng và gian lận tài chính.
Theo Stephen Culter, giám đốc Ban hoà giải của SEC – Securites Exchange Commission
(Ủy ban chứng khốn và giao dịch chứng khốn Mỹ) thì “ngày nay, các hành động che dấu
thua lỗ trong báo cáo tài chính của các cơng ty Mỹ bị phanh phui đã chứng tỏ rằng chẳng có
một sự thiết lập tài chính nào hay bất kể một nhà điều hành nào có thể che dấu các giao
dịch tài chính mang đầy tính chất phức tạp và gian lận của các ơng chủ giàu có”. Có thể nói
rằng, báo cáo tài chính của mỗi cơng ty sẽ chứng minh rằng cơng ty đang hoạt động bình
thường và cung cấp những thông tin cần thiếtcho các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hiện
tại và tương lai, các chủ nợ,… về tình hình tài chính của cơng ty. Vì vậy, tính trung thực
trong báo cáo tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tiếc thay, hiện nay tính trung thực
trong các báo cáo tài chính khơng cịn được trung thực!
(Theo www.bwportal.com)
<b>Câu hỏi:</b> Vì sao xảy ra tình trạng trên và cần làm gì để khắc phục? Một kết cục hồn tồn
khác sẽ xảy ra nếu kiểm tốn nội bộ của Worldcom phát hiện và ngăn chặn ngay những
hành vi sai phạm này?
<b>KTNB giữ vai trò là phương thức quản lý hiệu quả nhằm hỗ trợ việc thực </b>
<b>hiện trách nhiệm của nhà quản lý </b>
Nhà quản lý ở các cấp độ khác nhau thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình
với mức độ trách nhiệm khác nhau. Tổng giám đốc là người định hướng các
kết quả công việc của cấp dưới của mình. Các giám
đốc đơn vị thành viên, giám đốc các lĩnh vực theo
đó cũng phải chịu trách nhiệm đối với phạm vi
công việc của mình. Cơng việc quản lý thường
được tiến hành theo nguyên tắc quản lý cấp dưới
luôn phải báo cáo công việc cho cấp quản lý cao
hơn. Tuy nhiên, các báo cáo này thường được thực
hiện theo cách nhìn nhận của người quản lý cấp dưới chứ khơng theo cách nhìn
nhận của nhà quản lý cấp cao. Hơn nữa, xung đột về lợi ích tiềm ẩn trong bản thân
mối quan hệ giữa chủ sở hữu với người quản lý, giữa nhà quản lý cấp cao với cấp
thấp hơn dẫn đến việc quản lý cấp thấp hơn ln khơng báo cáo một cách tồn
diện về công việc thực hiện. Chủ sở hữu hay nhà quản lý cấp cao thường khơng có
đủ thời gian để thực hiện công tác kiểm tra và giám sát quá trình hoạt động. Vì
vậy, chủ sở hữu hoặc các nhà quản lý cấp cao cần phải có một người đóng vai trị
là "người tham mưu” nhằm mục đích đánh giá về quy trình thực hiện, thủ tục kiểm
soát và hiệu quả hoạt động. Người tham mưu đó khơng ai khác chính là các
KTVNB. KTVNB sẽđược coi như một trợ lý nhằm hỗ trợ về mặt trách nhiệm cho
các nhà quản lý ở tất cả các cấp độ quản lý khác nhau.
<b>KTNB là phương thức giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ</b>
<b>thống quản lý của doanh nghiệp </b>
Thông qua phương thức này, Ban giam đốc và Hội
đồng quản trị có thể kiểm sốt hoạt động tốt hơn,
quản lý rủi ro tốt hơn. KTNB luôn phải đánh giá
tính hiệu quả của hoạt động và đánh giá năng lực
của nhà quản lý trong từng hoạt động. KTNB được
coi như một nhà quan sát mà trong từng bước đi
của doanh nghiệp, KTNB chỉ ra những kết quả
cũng những hạn chế trong hệ thống quản lý và đưa
ra các đề xuất nhằm hoàn thiện.
<b>KTNB giúp cân bằng và điều hoà những xung đột về lợi ích thường có giữa </b>
<b>các cổđông với các nhà quản lý doanh nghiệp </b>
Hoạt động kinh doanh càng phát triển càng dẫn đến sự chuyên nghiệp trong điều
hành hoạt động của các doanh nghiệp. Hiện nay, có thể coi giám đốc doanh nghiệp
là một nghề chứ khơng chỉ là một vị trí quản lý cao nhất nữa. Sự tách rời giữa chủ
sở hữu và nhà quản lý chắc chắn không tránh khỏi những mâu thuẫn và xung đột
về lợi ích giữa họ. Sự tách rời này dẫn đến một thuật ngữ mới trong kiểm tra kiểm
sốt đó là "lý thuyết vềđại diện” (agency theory) trong đó chủ sở hữu được coi là
người ủy quyền (principal) còn nhà quản lý là người thừa hành (agent). Vấn đề
phát sinh trong quan hệ này là người thừa hành không phải lúc nào cũng hành
động vì quyền lợi của người ủy quyền. Nhà quản lý sẽ có những mục tiêu riêng,
thơng thường mục tiêu đó thường đặt họ trong sự cân nhắc giữa lợi ích của cá nhân
và lợi ích của doanh nghiệp hay tổ chức. Khi đó, KTNB bằng cách nhìn nhận,
đánh giá một cách chuyên nghiệp và khách quan sẽ cung cấp thông tin cho nhà
<b>KTNB làm tăng niềm tin của người sử dụng thơng tin trên báo cáo tài chính và </b>
<b>báo cáo kế tốn quản trị</b>
Thơng thường, một doanh nghiệp có KTNB sẽ làm
tăng niềm tin cho các cổ đông, nhà đầu tư về thông
tin của doanh nghiệp cung cấp và về hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp. Các thống kê trên thế giới
cho thấy các công ty có bộ phận KTNB thường có
báo cáo đúng hạn và báo cáo tài chính có độ chính
xác cao hơn, mức độ minh bạch cao hơn và hiệu quả
ty khơng có KTNB. Có thể mơ tả KTNB như một
bức tường lửa (firewall) dùng để phát hiện, ngăn chặn
và sửa chữa kịp thời cả gian lận và sai sót có thể xảy ra trong doanh nghiệp. Sau khi
qua bức tường lửa đó, khả năng tồn tại gian lận và sai sót trong các thơng tin được ghi
nhận và công bố sẽ giảm đi. Tuy nhiên, mức độ tin tưởng của người sử dụng thơng tin
lại hồn tồn phụ thuộc vào sự hiệu quả của KTNB.
Có thể minh chứng cho vai trò trên bằng số liệu khảo sát của PWC (Một trong bốn
hãng kiểm toán lớn nhất thế giới “Big 4“) với các doanh nghiệp lớn trên toàn cầu,
trong hai năm 2005-2006, gian lận đã xuất hiện ở 45% công ty được khảo sát (tăng
8% so với 2 năm trước). Bên cạnh số vụ tham nhũng và hối lộ tăng 71%, số vụ rửa
tiền tăng 133% thì gian lận về báo cáo tài chính được phát hiện tăng nhiều nhất với
140%. Bình quân về thiệt hại tài chính cho một vụ gian lận là 1,7 triệu USD. Đóng vai
trị lớn nhất trong việc phát hiện gian lận này là bộ phận KTNB, chiếm 26%.
<b>KTNB là công cụ hữu hiệu nhằm giảm thiểu chi phí cho đơn vị</b>
Việc đánh giá hiệu quả của các hoạt động, các tác nghiệp cụ thể thường giúp doanh
nghiệp giảm thiểu được sự lãng phí nguồn lực. Các nguồn lực bao gồm cả vốn, lao
động và tài nguyên luôn bị hạn chế chứ không phải là vô hạn. Tuy nhiên, có một thực
tế là khơng phải doanh nghiệp nào cũng thấy hết thực
trạng này và có biện pháp để hiện thực hố các lợi ích
của doanh nghiệp một cách tối ưu. Nhiều doanh
nghiệp theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nóng và đã
khơng cân bằng được ba mục tiêu bắt buộc của phát
triển bền vững đó là tăng trưởng, hiệu quả và kiểm
sốt. KTNB sẽ là một bộ phận có vai trò to lớn trong
việc điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp luôn
nằm trong tam giác đều với các góc là tăng trưởng,
hiệu quả và kiểm sốt. Thực tế cho thấy, rất nhiều
doanh nghiệp lớn trên thế giới thậm chí là những tập
đồn hàng đầu như hãng hàng không lớn nhất của
Italia là Alitalia cũng đang trong bờ vực phá sản hay hãng năng lượng hàng đầu thế
giới là Enron cũng đã phải tuyên bố phá sản vì tăng trưởng nóng mà khơng tính đến
hiệu quả và kiểm soát.
mọi loại hình doanh nghiệp ở mọi quy mơ hoạt động. Đối với các tập đoàn kinh tế,
KTNB càng thể hiện rõ hơn vai trị của mình.
<b>1.2.</b> <b>Nội dung của kiểm tốn nội bộ</b>
Tùy thuộc vào mục đích và đối tượng kiểm tốn, KTNB có những nội dung chính:
Kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính.
<b>1.2.1.</b> <b>Kiểm tốn hoạt động </b>
Trong suốt những năm 1960, có một xu hướng mạnh
mẽ sử dụng thuật ngữ kiểm toán hoạt động thay thế
cho thuật ngữ KTNB. Sở dĩ như vậy là do người ta
muốn nhấn mạnh sự khác biệt cơ bản giữa cơng việc
của KTV bên ngồi với KTVNB. Các KTV bên ngoài
chú trọng vào việc xác nhận và bày tỏ ý kiến đối với
các báo cáo tài chính và các hoạt động kiểm sốt hoạt
động tài chính cịn KTNB chú trọng vào việc tăng
cường hiệu năng của quản lý và hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Trong nhiều năm,
kiểm toán hoạt động chỉ giới hạn ở việc kiểm sốt tài chính sau đó phát triển theo
hướng điều tra, xác minh, đánh giá đối với tất cả các hoạt động khác kể cả hoạt động
phi tài chính.
Theo Viện Kiểm tốn viên nội bộ (IIA – Institute of Internal Auditor): “Kiểm tốn
<i>hoạt động là q trình đánh giá mang tính hệ thống về tính hiệu quả, hiệu lực và tính </i>
<i>kinh tế của các hoạt động của một tổ chức dưới góc độ kiểm sốt quản lý và báo cáo </i>
<i>cho các nhà quản lý về quá trình đánh giá cùng với những kiến nghị để cải tiến hoạt </i>
<i>động”. Nh</i>ư vậy, kiểm tốn hoạt động có những yếu tố cơ bản sau:
<b>Đánh giá mang tính hệ thống:</b> Kiểm tốn hoạt động đánh giá theo trình tự từng
bước của các quá trình, các hoạt động.
<b>Tiêu chuẩn để</b> <b>đánh giá:</b> Việc đánh giá được dựa vào đặc điểm riêng của từng
hoạt động. Các tiêu chuẩn đểđánh giá hoàn toàn phụ thuộc vào mục tiêu của cuộc
kiểm toán và ý muốn chủ quan của nhà quản lý.
<b>Nội dung của kiểm toán hoạt động:</b> xoay quanh ba khía cạnh đó là tính kinh tế
(Economy), tính hiệu quả (Efficiency) và hiệu lực (Effectiveness) nhằm đưa ra những
biện pháp để cải tiến hoạt động. Có thể xem đây là những tiêu chuẩn quan trọng dùng
để xem xét kết quả của hoạt động được kiểm tốn. Vì vậy, trong một số trường hợp
người ta cịn gọi loại kiểm tốn này bằng thuật ngữđơn giản là kiểm toán 3ES.
<b>Sơđồ 1.1: Mối quan hệ giữa các yếu tố của kiểm toán hoạt động </b>
Kiểm tốn
hoạt động
Đầu vào Q trình <sub>th</sub><sub>ự</sub><sub>c hi</sub><sub>ệ</sub><sub>n </sub>
Đầu ra
Kinh tế
<b>Yêu cầu đối với chủ thể thực hiện:</b>Để thực hiện kiểm toán hoạt động, KTVNB
phải am hiểu sâu sắc về lĩnh vực hoạt động, Hơn nữa, KTV phải độc lập với các
chức năng hay hoạt động được kiểm toán.
<b>Kết luận của kiểm tốn:</b> Kiểm tốn hoạt động có
hình thức kết luận kiểm tốn khơng theo khn mẫu
máy móc. Nội dung của kết luận kiểm tốn hướng
đến việc cải thiện các hoạt động, hình thức của kết
luận kiểm tốn cũng khơng nhất thiết phải được
trình bày bằng báo cáo kiểm tốn theo mẫu định sẵn
như các loại hình khác.
<b>Xu hướng phát triển:</b> KTNB hiện đại có xu
hướng chú trọng nhiều hơn vào kiểm toán hoạt
động. Kiểm toán hoạt động được thực hiện với cả
các hoạt động tài chính và các hoạt động phi tài
chính. Nội dung của kiểm tốn hoạt động có thể là kiểm tốn việc huy động, sử
dụng các nguồn lực có hiệu quả và tiết kiệm, kiểm toán hiệu quả của các giai đoạn
sản xuất kinh doanh, kiểm tốn tính hiệu quả và tiết kiệm của việc thực hiện các
chính sách nhân sự,… Kiểm tốn hoạt động có thểđược thực hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau như kiểm tốn chức năng, kiểm toán tổ chức hay kiểm toán chuyên
đềđặc biệt. Kiểm tốn hoạt động có thể do KTVNB tiến hành nhưng cũng có thể
do các KTV bên ngồi thực hiện.
<b>1.2.2.</b> <b>Kiểm tốn tài chính </b>
Mặc dù tên gọi của loại hình này là kiểm tốn tài chính song trong kiểm tốn nội bộ
loại hình này bao gồm cả kiểm tốn báo cáo tài chính và báo cáo kế tốn quản trị. Đây
là điểm khác biệt lớn nhất khi kiểm tốn nội bộ thực hiện kiểm tốn tài chính so với
các loại hình khác.
Có thể xem xét đến loại hình kiểm tốn tài chính trong phạm vi của kiểm toán nội bộ
như sau: Kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế tốn quản trị là việc kiểm tra, xác
nhận tính trung thực và tính hợp lý của các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị
cũng như xem xét sự phù hợp giữa báo cáo tài chính, báo cáo kế tốn quản trị với các
nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và yêu cầu quản lý.
Như vậy, kiểm toán tài chính do kiểm tốn nội bộ thực hiện mang những đặc trưng cơ
bản sau:
<b>Mục tiêu của kiểm toán tài chính:</b> Mục tiêu tổng qt của kiểm tốn báo cáo tài
chính có thể hiểu là việc xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hay khơng, có tn thủ pháp luật liên
quan, có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay khơng.
Mục tiêu kiểm tốn tài chính cịn giúp cho đơn vị được kiểm tốn thấy rõ những
tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thơng tin tài chính của đơn
vị. Mục tiêu này được đề cao khi KTNB tiến hành kiểm tốn báo cáo tài chính.