Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.34 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
hiện việc tập trung thành các phố nghề, đưa
Đông Kinh trở thành trung tâm thương mại
lớn của cả nước [10, tr.330]. Thời kỳ này, Nho
giáo chiếm vị trí chi phới tồn diện trên mọi
phương diện của đời sống xã hội, Nhà nước
phong kiến quan liêu hạn chế sự phát triển
của Phật giáo và Đạo giáo, nhưng về cơ bản,
thời Lê sơ vẫn duy trì từ tín ngưỡng dân gian
đến đạo Phật và đạo Lão. Theo đánh giá của
học giả Đào Duy Anh <i>“Về tính chất tinh thần thì </i>
<i>người Việt Nam đại khái thơng minh, nhưng xưa </i>
<i>nay ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức </i>
<i>thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí </i>
<i>khoa học, giàu trực giác hơn luận lý. Phần nhiều </i>
<b>PHAN THANH SƠN</b>
<b>Tóm tắt </b>
<i>Trong tư duy nơng nghiệp của người Việt, yếu tố phồn thực không chỉ gắn với sự sinh sôi mà còn </i>
<i>gắn với sự nuôi dưỡng. Trong tạo hình dân gian Việt Nam, ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực được </i>
<i>biểu hiện ở sự cường điệu các bộ phận cơ thể người với mong ước về sự sinh sôi, nảy nở. Thời Lê sơ, biểu </i>
<i>hiện của tín ngưỡng phồn thực được thể hiện thông qua hình tượng vú trong tạo hình vòi ấm gốm </i>
<i>hoa lam dùng để uống rượu (Kendi), nó gắn liền với ý nghĩa tượng trưng cho nguồn sống, nguồn nuôi </i>
<i>dưỡng dồi dào trong tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp lúa nước. </i>
<b>Từ khóa: </b>Tín ngưỡng phờn thực, kendi, gớm hoa lam, thời Lê sơ
<b>Abstract</b>
<i>In the agricultural thinking of Vietnamese people, the element of fertility culture is not only </i>
<i>associated with reproduction but also associated with nurturing. In Vietnamese folklore, the </i>
<i>influence of fertility beliefs is manifested in the exaggeration of human body parts with the desire for </i>
<i>reproduction and proliferation. In the post Le dynasty, the manifestation of the fertility beliefs was </i>
<i>expressed through the image of breast on the faucet being made of blue pattern ceramic used for </i>
<i>drinking wine (Kendi). It is associated with the symbol of meanings of existence in the fertility beliefs </i>
<i>derived from wet rice farming residents.</i>
<i>người có tính ham học...”</i> [1, tr.22]. Mặt khác, trên
<b>1.</b> Tín ngưỡng phờn thực với nghĩa được hiểu:
Phồn nghĩa là nhiều, là tràn đầy; thực là biểu
hiện cho sự sinh sôi của vạn vật bao hàm tính
bắt mọi điều về thế giới xung quanh đời sống
con người vẫn luôn tồn tại song hành cùng
những tiến bộ mới của xã hội [9]. Có thể nói,
nếu lý trí tạo bởi sự khở luyện để hình thành
con người xã hợi, thì tín ngưỡng tơn giáo là
gớc của cái tình trong sự phát triển trí tuệ của
con người, nơi con người trở về với bản thể tự
nhiên của mình. Lý trí và tình cảm luôn là hai
mặt không thể tách rời trong một con người
với tư cách là một thực thể xã hội. Mặt khác,
trong lịch sử, các vị vua của Việt Nam, xét đến
cùng cũng có nguồn gốc từ trong dân, tạo nên
cái đặc thù của xã hội Việt Nam là không có
giai cấp quý tộc lâu đời. Việc các bậc vua chúa
của Việt Nam, ngồi sự vận dụng mợt tư tưởng
tơn giáo nào đó làm tư tưởng chủ đạo, vẫn tiến
hành các nghi lễ quan trọng theo tín ngưỡng
dân gian và tôn giáo khác trong xã hội cũng là
điều dễ hiểu. Như vậy, hiển nhiên đời sớng tín
<i>tẩm của các triều đại trước”</i> [5, tr.523]. Năm 1429,
Lê Thái Tổ ra lệnh cho <i>“các tăng đạo, người nào </i>
<i>thông thạo kinh điển, giữ tiết hạnh cẩn thận,... </i>
<i>đến sảnh đường trình diện, kiểm xét khảo thí, ai </i>
<i>đỗ thì cho làm tăng đạo, ai khơng đỗ thì bắt hồn </i>
<i>tục”</i> [5, tr.531]. Vua Lê Thái Tông đã làm lễ Phật
để cầu mưa [5, tr.542]. Thời kỳ này, việc trùng
tu các chùa vẫn được coi trọng, Phật giáo vẫn
giữ vai trò là nhân tố chủ đạo cho đời sống tinh
thần của dân gian. Trong khi đó, Đạo giáo thời
Lê sơ chủ yếu là Đạo giáo thần tiên và Đạo giáo
phù thủy hợi với tín ngưỡng dân gian, với nội
dung niệm chú, đặt bùa yểm, trừ bỏ tà ma, chữa
bệnh cứu người. Đạo giáo thần tiên hấp dẫn
giới nho sĩ bởi tinh thần siêu thoát, phiêu du và
tạo cảm hứng sáng tác thơ văn [13].
Với dân gian, cuộc sống của cư dân nông
nghiệp lúa nước luôn gắn liền với sự khắc
nghiệt của điều kiện tự nhiên, do đó, khát
vọng về sự sung túc là ước muốn ngàn đời của
họ. Họ không quan tâm nhiều đến các vấn đề
luân thường đạo lý, cái họ quan tâm là tất cả
khi mà mọi yếu tố thuộc nội dung của nó đều
có nguồn gốc từ quan niệm tín ngưỡng hay
cả những quan niệm phờn thực mang yếu tố
ngoại lai được “Việt hóa” để trở thành một đặc
trưng riêng của người Việt, điển hình là hình
tượng vú, một bộ phận của cơ thể con người
trong tạo hình <i>Kendi</i> - một loại ấm đựng rượu
không có quai, vòi ấm mang hình tượng vú
người phụ nữ có kích thước lớn hơn nhiều vòi
ấm thông thường, được tối giản về dạng hình
khới cơ bản, thn bầu nhỏ dần về phía miệng
vòi, vừa mang chức năng của vòi ấm lại vừa
Khái niệm Kendi bắt nguồn từ gốc chữ Phạn
<i>Kundika</i> là bình nước. Kendi gốm cổ Champa
là loại bình không quai có vòi, dùng để đựng
nước thiêng hay loại lễ phẩm khác dùng trong
nghi lễ ở các đền tháp, cũng có thể dùng trong
đời thường. Tên gọi Kendi luôn gắn với đồ để
uống có vòi, như các đồ dùng để uống truyền
thống ở Đông Nam Á thường không có quai
nhưng có thể có vòi. Ở Indonesia ngày nay,
Kendi được dùng để chỉ đồ dùng nước nghi lễ
và gia dụng [7].
Kundika/Kendi có lẽ đã được vận chuyển từ
Ấn Độ đến Đông Nam Á trong làn sóng tiếp xúc
đầu tiên giữa hai khu vực cùng với Phật giáo và
Ấn Độ giáo. Mặc dù chưa biết việc chuyển tải
diễn ra như thế nào, một giả thuyết được chấp
nhận chung là khoảng 2.000 năm trước các
tuyến đường biển giữa Ấn Độ và Trung Quốc
đã được thiết lập để buôn bán.
bình loe cong. Kích thước của kendi Ĩc Eo
thường khá lớn, nhiều chiếc có hoa văn khắc
vạch tam giác hay sóng nước ở thân, đôi khi
kendi được tơ màu đỏ (thở hồng) hay tơ màu
Thời Lê sơ, ở Việt Nam, kendi phổ biến là
loại ấm uống rượu thân bầu dẹt, cổ dài, miệng
loe phẳng, vòi bầu hình vú thuôn và thu nhỏ ở
phần miệng, trang trí hoa lam với các đề tài từ
linh vật, hoa lá đến phong cảnh. Đôi khi có sự
kết hợp trang trí bằng kim loại ở vành miệng
và đầu vòi.
Với hơn một ngàn năm lịch sử (thế kỷ I -
(tiếng Sankrit: jananī = mẹ; bhūmi = đất, xứ
sở). Từ thế kỷ IX về sau, vị nữ thần bản địa tối
thượng Uroja được gọi tên pha lẫn tiếng Chăm
và tiếng Sankrit là <i>Yan Pu Nagara</i> trong các
văn bia, hoặc thuần theo tiếng Chăm là <i>Pō Inư </i>
<i>Nưgar</i> (Pō: danh xưng tôn vinh; Inư: Mẹ; Nưgar:
đất nước, xứ sở), người Việt gọi là Pônagar [12].
Hình ảnh bầu vú phụ nữ xuất hiện trong nghệ
tích Gò Sành (Bình Định).
Trong nghệ thuật gốm thời Lý - Trần, sự
tiếp nhận hình tượng vú cùng nguyên nghĩa
của hình tượng nghệ thuật tạo hình Chăm là
rất sâu đậm, nó như một sự thay thế các yếu
tố nghệ thuật Trung Hoa sau hơn 1.000 năm
<i>kinara, gadura</i> hay<i> apsara…</i>
Thời Lê sơ, Đại Việt vẫn có những cuộc
chinh phạt Champa ở phía Nam mà Lê Thành
Khơi gọi là <i>mở rộng lãnh thổ</i> bằng việc <i>áp dụng </i>
<i>chính sách bành trướng</i> khiến <i>Trung Quốc phải </i>
<i>kính nể</i> thời Lê Thánh Tông [8, tr.282]. Đương
nhiên, giữa Đại Việt và Champa vẫn có những
mối liên hệ về văn hóa bằng nhiều con đường
như các cuộc bình Chiêm ở thời Lý - Trần.
Những hiện vật kendi thời Lê sơ, một mặt có
thể được xem là sự kế thừa truyền thống từ các
thời Lý - Trần, mặt khác, chịu một số ảnh hưởng
qua các cuộc tranh chấp, chinh phạt mở rợng
địa giới về phía Nam. Tuy nhiên, dường như
các yếu tố đó chỉ mang tính phụ trợ bởi nghệ
thuật kendi thời Lê sơ còn mang những đặc
thù riêng:
<i>Thứ nhất,</i> đặc trưng nổi bật của nghệ thuật
gốm thời Lê sơ là sự phát triển rực rỡ của dòng
gốm hoa lam.
<i>Thứ hai,</i> thời Lê sơ, văn hóa Việt thay vì tinh
thần “giải Hoa” thời Lý - Trần là sự vận dụng
triệt để tinh thần “Việt hóa”, một đặc trưng nổi
bật tạo nên sự phong phú, đa dạng nhưng vẫn
mang tính thớng nhất của văn hóa Việt. Theo
hoa lam Trung Quốc [11, tr.31-33], hiển nhiên
về cơ bản kendi gốm hoa lam thời Lê sơ cũng
không là ngoại lệ.
<i>Thứ ba,</i> kendi Trung Quốc gắn với tục uống
rượu bằng mũi, tục lệ này chỉ tồn tại ở một số
dân tộc vùng giáp biên. “Những người tị ẩm
không phải cư dân trồng lúa nước mà làm
nương rẫy, săn bắn. Họ đều là cư dân vùng núi
dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc ngày nay”
[6, tr.90]. Người Việt không có phong tục này,
kendi của người Việt chỉ đơn thuần là ấm rượu,
có thể được uống trực tiếp bằng miệng qua
vòi ấm mang hình tượng vú.
<i>Thứ tư,</i> ở kendi gốm hoa lam Việt Nam thời
Lê sơ, hình tượng vú ở vòi ấm gắn liền với ý
nghĩa tượng trưng cho nguồn sống, nguồn
nuôi dưỡng như trong tín ngưỡng phờn thực
của cư dân nông nghiệp lúa nước.
Trên phương diện phản ánh thẩm mỹ, tín
ngưỡng và tơn giáo là cợi ng̀n cho sự ra
đời của các nền văn minh của lồi người. Tín
ngưỡng, tơn giáo là chỗ dựa vững chắc cho đời
sống tinh thần của con người, là cơ sở để con
người lý giải các vấn đề ngồi tầm nhận thức.
Trong tư duy nơng nghiệp của người Việt,
yếu tố phồn thực không chỉ gắn với sự sinh sôi
mà còn gắn với sự nuôi dưỡng. Nó như mợt sự
bở sung để hồn thiện hơn tín ngưỡng phờn
thực dân gian của người Việt, bởi từ nguyên
gốc của hình tượng vú là sự hiện diện của Mẹ
đất nước, Mẹ xứ sở, là nơi sinh ra và cũng là
nơi nuôi dưỡng, là biểu hiện của nguồn dinh
dưỡng vô tận cho cuộc sống dương gian. Về
phương diện nghệ thuật tạo hình, đây là nét
độc đáo khi thể hiện hình tượng con người
bằng một bộ phận cơ thể qua ngôn ngữ nghệ
thuật gốm hoa lam thời Lê sơ. Trên phương
diện mỹ học, đây là một hình thức thể hiện
cái đẹp trong văn hóa tín ngưỡng phờn thực
thời Lê sơ.
Như vậy, hình tượng vú ở vòi ấm uống
rượu kendi không chỉ đơn thuần phản ánh
sự ảnh hưởng của tín ngưỡng ngoại lai - tín
ngưỡng thờ thần vú Pônagar của người Chăm,
hay về công năng là đồ dùng cho phong tục
uống rượu bằng mũi ở Trung Quốc. Các yếu tố
P.T.S
<i>(ThS., Khoa Mỹ thuật truyền thống, </i>
<i>Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp)</i>
<b>Tài liệu tham khảo</b>
1. Đào Duy Anh (2000), <i>Việt Nam văn hóa sử </i>
<i>cương</i>, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
2. Trần Lâm Biền (2000), <i>Một con đường tiếp </i>
<i>cận lịch sử</i>, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
3. Dawn F. Rooney (2003), “Kendi in
the Cultural Context of Southeast Asia A
Commentary”, />kendi/kendi_album/kendi.htm
4. Phạm Đức Dương (2000), <i>Văn hóa Việt Nam </i>
<i>trong bối cảnh Đông Nam Á</i>, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nợi.
5. <i>Đại Việt sử ký tồn thư</i> (2011), Nxb. Thời đại,
Hà Nội.
6. Nguyễn Duy Hinh (2004), <i>Văn minh Lạc Việt</i>,
Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
7. “Kendi - bình gốm cổ Chămpa độc đáo”,
8. Lê Thành Khôi (2014), <i>Lịch sử Việt Nam từ </i>
<i>nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX</i>, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
9. Hồng Oanh, Lê Phương (2015), “Tín
ngưỡng phờn thực trong văn hóa Việt”, vovworld.
vn/.../tin-nguong-phon-thuc-trong-van-hoa-viet-321285.vov
10. Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (1999), <i>Đại </i>
<i>cương lịch sử Việt Nam</i>, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
11. Phan Thanh Sơn (2019), “Gốm hoa lam
Việt Nam trong mối quan hệ với gốm hoa lam
Trung Quốc”, <i>Tạp chí Giáo dục nghệ thuật</i>, số 29.
12. Võ Văn Thắng (2011), “Một sáng tạo văn
hóa Champa”, />
channel/5433/201110/mot-sang-tao-van-hoa-champa-2132745/
13. “Tôn giáo Đại Việt thời Lê Sơ”,
/>g i % C 3 % A 1 o _ % C 4 % 9 0 % E 1 % B A % A 1 i _
14. Bùi Minh Trí, Kerry Nguyễn Long (2001),
<i>Gốm hoa lam Việt Nam</i>, Social Sciences Publishing
house.
15.
Ngày nhận bài: 02 - 8 - 2019