Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.86 MB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. MỞ ĐẦU</b>
Trong đời sống quốc tế hiện nay, do bị chi phối bởi
quy luật lợi ích quốc gia đặt lên hàng đầu trong
giải quyết các mối quan hệ quốc tế, một số quốc
gia sẵn sàng vi phạm chính các quy phạm luật
quốc tế mà họ đã xây dựng nên nếu việc vi phạm
mang lại cho họ nhiều lợi ích hơn là nghiêm chỉnh
tuân thủ luật quốc tế. Vì thế, để bảo vệ sự tôn
nghiêm của pháp luật, trong quá trình xây dựng
luật quốc tế, các quốc gia cũng đồng thời thoả
thuận xây dựng nên những cơ chế giám sát quốc
tế có chức năng ngăn ngừa khả năng vi phạm
luật quốc tế và trừng trị những hành vi vi phạm
nghiêm trọng luật quốc tế trong trường hợp cần
thiết. Một trong các cơ chế giám sát quốc tế được
các quốc gia thỏa thuận thành lập nên chính là
Liên hợp quốc. So với các cơ chế giám sát quốc
tế khác, Liên hợp quốc là thiết chế có quyền lực
mạnh mẽ nhất khi được thành viên thỏa thuận
trao cho quyền trừng phạt vũ trang. Trên phương
diện pháp luật, dù có quyền lực mạnh mẽ nhất
nhưng khơng có nghĩa Liên hợp quốc có quyền
lực vơ hạn. Quyền lực của Liên hợp quốc do các
quốc gia thành viên trao cho và được ghi nhận
cụ thể trong Hiến chương, Liên hợp quốc buộc
Học viện Khoa học Qn sự
<b>TĨM TẮT</b>
Trong tất cả các tổ chức quốc tế hiện nay,
Liên hợp quốc là tổ chức duy nhất được các
quốc gia thành viên thỏa thuận trao cho
quyền trừng phạt vũ trang những chủ thể
có hành vi đe dọa nghiêm trọng đến hịa
bình và an ninh quốc tế. Quyền hạn đặc biệt
này được các quốc gia kỳ vọng sẽ giúp Liên
hợp quốc đủ sức mạnh để hoàn thành chức
năng bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực duy trì
hịa bình và an ninh quốc tế. Tuy nhiên trên
thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, phương
thức triển khai thực hiện quyền trừng phạt
vũ trang của Liên hợp quốc lại không giống
với phương thức mà Hiến chương Liên hợp
quốc đã dự liệu. Điều này dẫn đến sự tranh
cãi giữa các quốc gia về cơ sở pháp lý cũng
như phương thức trừng phạt vũ trang trên
thực tế mà Liên hợp quốc đang áp dụng.
<b>Từ khóa: </b><i>cho phép thành viên trừng phạt vũ </i>
vi phạm Hiến chương thì các quyết định của Liên
hợp quốc sẽ mất đi căn cứ pháp lý và giá trị bắt
buộc thi hành. Chính vì vậy, khi thực hiện quyền
<b>2.1. Quy chế pháp lý của quyền trừng phạt vũ trang</b>
Theo quy định của Điều 42 Hiến chương Liên hợp
quốc, Hội đồng Bảo an - cơ quan đại diện cho
Liên hợp quốc thực hiện chức năng duy trì hịa
bình và an ninh quốc tế - có quyền quyết định
áp dụng mọi hành động của lực lượng hải, lục,
không quân để tiến hành các cuộc biểu dương
lực lượng, phong tỏa hay những cuộc hành quân
khác mà Hội đồng Bảo an xét thấy cần thiết cho
việc duy trì hoặc khơi phục hịa bình và an ninh
quốc tế. Điều này có nghĩa, Hiến chương Liên hợp
quốc cho phép Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc có
quyền sử dụng sức mạnh vũ trang đối với những
quốc gia có hành vi đe dọa nghiêm trọng hịa
bình và an ninh quốc tế nhằm trừng phạt cũng
như hạn chế, triệt tiêu các điều kiện cho phép các
quốc gia này tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm.
Bên cạnh việc cho phép Liên hợp quốc có quyền
trừng phạt vũ trang, các quốc gia thành viên Liên
hợp quốc cũng thỏa thuận xây dựng trong Hiến
chương phương thức mà Hội đồng Bảo an cần sử
dụng để tiến hành hoạt động trừng phạt ấy. Rút
gia thành viên Liên hợp quốc những hiệp định,
thỏa thuận về việc ủng hộ quân đội và những
trợ giúp cần thiết theo quy định tại Điều 43 Hiến
chương Liên hợp quốc. Bên cạnh việc thành lập
và sử dụng lực lượng quân đội của Liên hợp quốc,
Hội đồng Bảo an cũng có thể sử dụng lực lượng
vũ trang được thành lập bởi những hiệp định
hoặc những tổ chức khu vực dưới sự điều khiển
của mình theo quy định của Điều 53 Hiến chương
Liên hợp quốc. Cả hai phương thức sử dụng sức
mạnh vũ trang nêu trên đều được triển khai dưới
quyền chỉ huy trực tiếp của Uỷ ban Tham mưu
quân sự. Uỷ ban này (được thành lập theo Điều
47 Hiến chương) trực thuộc Hội đồng Bảo an có
chức năng tư vấn và giúp Hội đồng Bảo an khi Hội
đồng Bảo an quyết định triển khai các hoạt động
trừng phạt vũ trang. Đây là hai phương thức sử
trừng phạt vũ trang thì phương thức sử dụng vũ
lực theo quy định của chương VII Hiến chương
Liên hợp quốc cũng không thể vận hành. Để khắc
phục thực trạng này, khi cần sử dụng lực lượng
vũ trang để triển khai các chiến dịch trừng phạt,
một mặt, Hội đồng Bảo an áp dụng Điều 53 Hiến
chương tăng cường sử dụng lực lượng quân đội
hình thành từ các Hiệp định hay tổ chức khu vực
theo sự thỏa thuận giữa hai bên. Mặt khác, Hội
đồng Bảo an đã có “sáng kiến” ban hành nghị
quyết cho phép các quốc gia thành viên sử dụng
mọi biện pháp cần thiết, tức là cho phép sử dụng
sức mạnh vũ trang dưới “lá cờ” Liên hợp quốc để
trừng phạt những chủ thể có hành vi vi phạm
nghiêm trọng luật pháp quốc tế.
Hội đồng Bảo an cho phép các quốc gia thành
viên tiến hành trừng phạt vũ trang lần đầu trong
cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên năm
1950, song đó cũng là lần duy nhất trong suốt 45
<b>2.3. Những tranh cãi về việc áp dụng quyền </b>
<b>trừng phạt vũ trang </b>
Việc Hội đồng Bảo an ban hành nghị quyết cho
chủ động hơn trong quá trình thực hiện nhiệm
thách mới về đảm bảo nhân quyền tại những khu
vực mà Hội đồng Bảo an cho phép thành viên
trừng phạt vũ trang, mà còn làm suy giảm lòng
tin của cộng đồng quốc tế vào tính chính nghĩa
trong hoạt động cho phép thành viên trừng phạt
vũ trang của Hội đồng Bảo an. Đây chính là lý do
để nhiều nước trong cộng đồng quốc tế tiếp tục
nghi ngờ tính hợp pháp cũng như phản đối sự
tồn tại của hoạt động sáng tạo pháp luật mà Liên
hợp quốc đang áp dụng.
<b>3. KẾT LUẬN</b>
Trong hai quan điểm nêu trên, quan điểm áp dụng
<b>Tài liệu tham khảo: </b>
<b>1. Lý Vân Anh (2004), “Những thực tiễn mới trong </b>
an ninh tập thể hiện nay: giải thích chương VII
Hiến chương Liên hợp quốc”, <i>Nghiên cứu quốc tế, </i>
2. Bùi Trường Giang (2007), “Cải cách Hội đồng
bảo an Liên hợp quốc - một số chiều hướng và
nhận định”, <i>Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế </i>
<i>giới</i>, số 1, tr.8-12.
3. Đại học Luật Hà Nội (2015), <i>Giáo trình Luật Quốc </i>
<i>t</i>, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
4. Trần Thanh Hải (2001), <i>Cơ cấu tổ chức của Liên </i>
<i>hợp quốc</i>, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Hồi Hương (2008), Luận văn cao
học Luật “<i>Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong duy </i>
<i>trì hịa bình và an ninh quốc tế</i>” - Khoa Luật Đại học
Quốc gia.
6. Hiến chương Liên hợp quốc.
7. Các trang web: nghiencuuquocte.org; www.
mof.gov.vn
<b>THE UNITED NATIONS’ FRAMEWORK OF </b>
<b>AND PRACTICES</b>
<b>Abstract: Among all present international </b>
organizations, the United Nations is the only
organization which is authorized by member states
to use armed force to punish those who poses
threats to international peace and security. With
this special power, the United Nations is expected to
better safeguard international peace and security.
Unfortunately, the Articles on this power of the UN
Charter have ever been misinterpreted, and the
concerted use of force under the banner of the
UN has been abused in reality. This has triggered
debates among countries on the legal bases for
the UN’s use of force and the degree, domain and
method of UN armed operations in certain cases.
<b>Keywords: </b> <i>United Nation, Security Coucil, </i>
<i>armed punishment, authorice members use all </i>
<i>necessary means.</i>