Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.84 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>NGUYỄN VĂN BỐN</b>
<b>Tóm tắt </b>
<i>Từ xưa đến nay, chùa Việt ở Khánh Hòa khơng chỉ đóng vai trị quan trọng trong đời sớng tâm </i>
<i>linh, mà nó cịn dung hợp với tín ngưỡng, tơn giáo truyền thớng như tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín </i>
<i>ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ danh nhân, thờ anh hùng liệt sĩ, Đạo giáo, Nho giáo. Đặc </i>
<i>biệt, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa phản ánh truyền thớng, thể hiện </i>
<i>sắc thái vùng miền và góp phần tạo nên tính đa dạng trong văn hóa Phật giáo Việt Nam.</i>
<b>Từ khóa</b>: Sự dung hợp, tín ngưỡng thờ Mẫu, chùa Việt, Khánh Hòa
<b>Abstract</b>
<i>From ancient time up to present, Vietnamese pagodas in Khanh Hoa not only play an important </i>
<i>role in the spiritual life, but also acculturate with traditional beliefs and religions such as nature </i>
<i>worship beliefs, ancestors worship, worship of Mother Goddesses, worship of heroic martyrs, Taoism, </i>
<i>Confucianism. Especially, the harmonious worship of Mother Goddess in the Vietnamese pagodas in </i>
<i>Khanh Hoa reflects the traditions, expresses local nuances and contributes to the diversity of Buddhist </i>
<i>culture in Vietnam</i>
<b>Keywords: </b>Acculturation, Mother Goddesses worship, Vietnamese pagoda, Khanh Hoa
<b>1. Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na </b>
<b>Thánh Mẫu</b>
Mẫu là Mẫu bản thổ, có vai trò quan trọng
trong đời sống tâm linh người Việt ở Khánh
Hòa. Chính vì thế, nhiều chùa Việt ở Khánh
Hòa từ lâu đã dung hợp với tín ngưỡng thờ
Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Đó là chùa Suối Đổ
và chùa Hàng Thuận (Suối Hiệp, Diên Khánh),
chùa Oai Linh (Vĩnh Thọ, tp. Nha Trang), chùa
Sắc Tứ Chí Linh Sơn, chùa Đá Lố và chùa Thanh
Vân (Vĩnh Phương, tp. Nha Trang), chùa Nghĩa
Quang (Phương Sài, tp. Nha Trang), chùa Linh
Phong (Phương Sơn, tp. Nha Trang), chùa Đào
sự tồn tại của ngơi chùa, hay sự dung hội với
tín ngưỡng dân dã này là đường đi tất yếu
của Phật giáo, nhờ đó mà đạo Phật có bệ đỡ
quần chúng” (1, tr.637). Nói cách khác, đây là sự
hòa hợp giữa tín ngưỡng dân gian của người
Việt với Phật giáo để cùng tồn tại, phát triển
và thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của cư dân
nơng nghiệp. Cơ sở cho sự dung hợp này là
niềm tin và nhu cầu vừa thờ Phật vừa thờ Thiên
Y A Na Thánh Mẫu của người Việt. Tuy nhiên,
theo không gian, hoàn cảnh lịch sử - xã hội và
đặc trưng văn hóa vùng miền mà sự dung hợp
tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt có những
nét khác biệt. Nếu như chùa Việt vùng văn hóa
Bắc Bộ phổ biến là sự dung hợp tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ như chùa Phật Tích
(Tiên Du, Bắc Ninh), chùa Trấn Quốc (Tây Hồ,
Hà Nội), chùa Cơn Sơn (Chí Linh, Hải Dương)...,
thì ngược lại, trong quá trình Nam tiến, chùa
Việt ở Khánh Hòa thường dung hợp với tín
ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu và nhiều
vị nữ thần, mẫu thần khác.
Sự dung hợp tín ngưỡng Thiên Y A Na
Thánh Mẫu trong những ngôi chùa Việt ở
Khánh Hòa rất đa dạng và linh hoạt. Tùy theo
không gian của ngơi chùa mà có cung hoặc
ban thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong chính
điện. Ví dụ, cung thờ Thiên Y Thánh Mẫu trong
chùa Sắc Tứ Chí Linh Sơn, còn gọi là chùa Suối
Ngổ (Vĩnh Phương, tp. Nha Trang). Ngôi chùa
được tạo dựng từ thời Nguyễn trên đỉnh núi
Hòn Én gồm tam quan, khuôn viên và chính
điện. Khn viên chùa gồm am thờ Chiến sỹ,
tượng Phật Quan Thế Âm Bồ Tát, tượng Phật
Di Lặc, am ông Hổ, miếu ông Địa Tạng, am
Ngũ hành thần nữ và am Cơ hồn. Chính điện
là một tòa nhà theo bình đồ chữ nhất, được
chia thành hai khu vực: điện thờ Phật và điện
thờ Mẫu. Thứ nhất, điện thờ Phật nằm bên
tay phải từ tam quan vào chùa, chính giữa là
tượng Thích Ca Mâu Ni, bên trái là tượng Quan
Thế Âm Bồ Tát và bên phải là tượng Bồ Đề Đạt
Ma. Thứ hai, điện thờ Mẫu ở bên tay trái từ tam
Diêu Trì, bên dưới là tượng Thiên Y A Na Thánh
Mẫu. Bên trái tượng Thiên Y A Na Thánh Mẫu là
ban thờ Quan Công. Bên phải tượng Thiên Y A
Na Thánh Mẫu là ban thờ nhị thập bát tiên, bài
vị của vị sư tổ, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
và chân dung Đại tướng Võ Nguyễn Giáp.
Một ví dụ khác là cách bài trí trong chùa
<b>2. Sự dung hợp tục thờ Ngũ hành thần nữ</b>
lưu truyền thông qua những huyền thoại dân
gian của các tộc người ở nước ta. Trước hết,
để tạo lập vũ trụ là công của nữ thần Mặt Trời
và nữ thần Mặt Trăng. Hai nữ thần này đã soi
sáng và sưởi ấm cho mặt đất từ thuở chỉ có
bùn, nước và bóng tối. Theo đó, huyền thoại
bà Nữ Oa cùng ông Tứ Tượng đội đá vá trời, xây
núi, khơi sông, mà trong một cuộc thi tài bà
Nữ Oa đã chứng tỏ được sức mạnh của mình
nên đã giành chiến thắng. Bên cạnh đó là
những nữ thần gắn với những hiện tượng tự
nhiên như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện. Những yếu tố cội nguồn của vũ trụ và
nguồn sống được dân gian người Việt cho là
mang nữ tính. Đồng thời với đó là xu hướng
nữ hóa các vị thần, đặc biệt là những nhiên
thần như trường hợp năm bà Ngũ hành còn
gọi là mẹ Ngũ hành. Đó là bà Thủy, bà Hỏa, bà
Kim, bà Mộc và bà Thổ. Theo quan niệm của
người phương Đơng thì Ngũ hành tức là năm
loại vật chất gồm Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim.
Mọi sự vật trên thế giới đều được sinh thành
Nhưng theo không gian, điều kiện tự
nhiên, chủ thể, phương thức sản xuất, bối
đồng và khác biệt trong tục thờ Nữ thần. Theo
đó, Khánh Hòa là vùng đất do chúa Nguyễn
mở cõi vào năm 1653, có điều kiện tự nhiên
đa dạng như núi rừng, đồng bằng, biển đảo và
cộng cư đa tộc người, cho nên đã hình thành
những phương thức sản xuất tương ứng. Đó là
sản xuất nơng nghiệp, ngư nghiệp, khai thác
rừng và thương mại dịch vụ. Vì vậy mà tục
Theo họ, đây là những nữ thần sáng tạo ra thế
giới vạn vật và mang lại cuộc sống cho cộng
đồng. Vì thế mà nhiều Phật tử dâng cúng và
xin phép các nhà sư được thờ phụng Ngũ hành
thần nữ trong chùa. Do đó, các am hoặc miếu
thờ Ngũ hành thần nữ trong chùa thường có
<b>3. Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu Tam </b>
<b>phủ, Tứ phủ</b>
Như chúng ta đã biết, trên nền tảng của
tín ngưỡng thờ Nữ - Mẫu thần, tín ngưỡng thờ
Mẫu Tam phủ - một hình thức thờ cúng người
mẹ hóa thân ở các miền trời, sơng nước, rừng
núi - được hình thành và phát triển sâu rộng
trong cộng đồng người Việt vùng châu thổ Bắc
Bộ. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ có
mối quan hệ mật thiết với tục thờ Nữ thần và
Mẫu thần của người Việt. Mẫu Tam phủ là ba
người Mẹ mang biểu tượng siêu nhiên của ba
miền vũ trụ. Đây là các bà mẹ vũ trụ cai quản
những lĩnh vực quan trọng nhất của cư dân
nông nghiệp lúa nước: Mẫu Thiên phủ là bà
mẹ cai quản miền Trời; Mẫu Địa phủ là bà mẹ
cai quản miền Đất; Mẫu Thoải phủ là bà mẹ cai
quản miền Nước. Mẫu Tam phủ còn có thể gọi
là Tam tòa Thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ
Mẫu Việt Nam. Tác giả Trần Lâm Biền viết: “Ban
thờ Mẫu có ba tượng gọi là Tam tòa Thánh
Mẫu. Gốc xưa gồm Mẫu Thượng Thiên, Mẫu
Thoải, Mẫu Địa. Bà Thượng Ngàn gắn với người
hưởng Đạo giáo dân gian, được hệ thống hóa
thành “Tứ phủ cơng đồng” với ba Mẫu Thiên
Phủ, Địa phủ, Thủy phủ, hay có khi là bốn Mẫu,
thêm Mẫu Thượng Ngàn, đại diện Rừng Xanh.
Mẫu Liễu Hạnh thường được thờ riêng, hay
được đồng nhất với Mẫu Thiên phủ” (8, tr.238).
Đến thế kỷ XVI, tín ngưỡng này trở thành một
sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng
sâu rộng trong đời sống xã hội và tâm thức
người dân Việt. Thánh Mẫu Liễu Hạnh được
thờ cúng cùng với các vị Thánh Mẫu cai quản
miền trời, rừng, nước và những nhân vật lịch
sử hoặc huyền thoại có cơng với nước, với dân.
Theo thư tịch và huyền thoại, Mẫu Liễu là tiên
nữ giáng trần, làm người, rồi quy y Phật giáo,
được tôn vinh là “Mẫu nghi thiên hạ” và là một
trong “Tứ bất tử” của người Việt. Tín ngưỡng
này còn hỗn dung với Đạo giáo, Phật giáo
và các tục thờ dân gian khác của người Việt.
Ngoài ra, trong thần điện Tam phủ, Tứ phủ còn
gọi là Tiên Thiên Thánh giáo, xuất hiện ở Khánh
Hòa từ những năm 30 của thế kỷ XX. Đó là đền
Diệu Linh (Phước Tiến, tp. Nha Trang), điện
Định Phước (Vạn Thắng, tp. Nha Trang), điện
Cứu Thế (Phương Sài, tp. Nha Trang), điện Nam
Minh (Vĩnh Thọ, tp. Nha Trang), điện Cơ Chín
Thượng Ngàn (Vĩnh Phước, tp. Nha Trang),
Thủy Long Bích điện (Ninh Ích, Ninh Hòa)...
Tư liệu điền dã cho chúng tơi biết, tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Bắc của
người Việt ở Khánh Hòa xuất hiện từ sau năm
1954 bởi một bộ phận người Việt di cư từ các
tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (như Hà Tây (cũ),
Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Ninh
Bình, Thanh Hòa, Nghệ An…) vào Khánh Hòa
những vùng đất mới.
<b>4. Sự dung hợp với các vị thần dân gian khác</b>
Ngoài sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên
Y A Na, tục thờ Ngũ hành thần nữ, tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam - Tứ phủ, trong chùa Việt ở Khánh
Hòa còn có sự dung hợp các vị thần của tín
ngưỡng, tơn giáo khác, tiêu biểu như Cửu
Thiên Huyền Nữ, Diêu Trì Kim Mẫu.
<i>Một là, sự dung hợp Cửu Thiên Huyền Nữ </i>
<i>trong chùa Việt ở Khánh Hòa</i>. Cửu Thiên Huyền
Nữ còn gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ nương
nương hoặc Huyền Nữ. Bà là nữ thần trong thần
thoại cổ đại Trung Quốc, sau được Đạo giáo tín
cử. Tác giả Nguyễn Tôn Nhan cho biết: “Cửu
Thiên Huyền Nữ cũng được gọi là Cửu Thiên,
Huyền Nữ, Cửu Thiên nương nương, là một nữ
thần trong thần thoại Trung Quốc cổ đại, sau
này được Đạo giáo tôn thờ, trở thành một vị
nữ thần nổi tiếng rất có ảnh hưởng trong dân
gian” (5, tr.407). Truyền thuyết dân gian Trung
Quốc kể rằng: “Một hôm Cửu Thiên Huyền Nữ
cưỡi chim phượng đỏ, mặc bộ y phục chín
màu, đáp xuống hạ giới, trao cho Hồng Đế lá
bùa dùng binh Lục Giáp Lục Nhâm và sách sai
khiến quỷ thần, đồng thời chế ra 80 cái trống
mà đánh bại Si Long” (4, tr.2211).
khơng lợp mái, hoặc xây miếu thì phải làm
mái bằng để thờ Thần Nơng. Tục ấy còn duy
trì đến nay. Căn cứ vào truyền thuyết này, Cửu
Thiên Huyền Nữ được coi là tổ của ngành mộc,
ngành xây dựng nói chung và các ngành nghề
thủ công: dệt may, đục chạm, điêu khắc...” (6,
tr.78). Theo đó, chùa Việt Khánh Hòa thường
phối thờ Cửu Thiên Huyền Nữ trong cung
thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu như chùa Suối
Đổ (Suối Hiệp, Diên Khánh), chùa Kim Long
và chùa Đào Viên (Ngọc Hiệp, tp. Nha Trang),
chùa Bửu Long (Diên Thọ, Diên Khánh),...
<i>Hai là, sự dung hợp với Diêu Trì Kim Mẫu </i>
<i>trong chùa Việt ở Khánh Hòa. </i>Trong dân gian,
Diêu Trì Kim Mẫu còn được gọi theo những
danh xưng khác nhau như Vương Mẫu nương
nương, Vương Mẫu, Tây Lão, Kim Mẫu Nguyên
Quân, Kim Mẫu, Địa Mẫu, Phật Địa Mẫu Diêu
Trì,... Trong thần thoại Trung Hoa, Địa Mẫu
được Đạo giáo tôn đứng đầu các vị nữ thần.
Dân gian tôn bà là vị thần tượng trưng cho sự
trường sinh bất tử. Từ thuở bản khai hỗn độn,
Mẫu hóa sinh ra trước nhất, Mẫu là lớn nhất.
Tác giả Doãn Hiệp Lý cho biết: “Tây Vương
Mẫu là vợ của Phù Tang Đại Đế, sinh ra 7 người
con gái, cô út tự tiện xuống hạ giới lấy một
chàng trai nghèo tên là Đổng Vĩnh, bị Ngọc
Hoàng và Tây Vương Mẫu bắt trở lại thiên đình.
Chuyện này lưu truyền từ đời Hán và đời Tấn,
loại đào tiên - gọi là bàn đào - ai ăn được nó
sẽ trường sinh bất lão. Loại đào này cứ 3.000
năm mới trổ hoa kết trái một lần. Khi đào chín,
Tây Vương Mẫu thường triệu tập chư tiên về
thưởng thức loại quả trường thọ này, gọi là Hội
Bàn đào. Tây Vương Mẫu là vị thần chủ quản
việc trường thọ, tức liên quan đến việc thọ yểu
của con người, nhất là nữ giới. Có lẽ đây là tín lý
cơ bản của tập tục thờ Tây Vương Mẫu là thần
độ mạng của phụ nữ Huế với mỹ hiệu là “Trung
thiên Tây cung Vương Mẫu bổn mạng Thánh
đức Tiên Bà” hay “Tây cung Vương Mẫu bổn
mạng Chúa Tiên” (6, tr.83).
và tụng niệm kinh Mẫu. Theo thơng tin từ các
tín đồ, việc thực hành nghi lễ thờ Địa Mẫu của
họ là có sự chỉ dẫn của thần linh, thơng qua
nhiều hình thức khác nhau như báo mộng, ốm
đau lâu ngày chữa trị khơng khỏi...
Ngồi ra, chùa Việt ở Khánh Hòa còn dung
hợp với những vị thần của các tín ngưỡng, tơn
giáo khác như Ngọc Hồng, Thái Thượng Lão
Quân, Quan Thánh Đế, Nữ Oa, Tiên Dung, Chúa
Tiên Huyền Nữ, Thần Tài, Thổ Địa, Ngũ Hổ...
Tiêu biểu như cung thờ Mẫu trong chùa Chí
Lý, chùa Phước Huệ (Vĩnh Hải, tp. Nha Trang),
chùa Linh Phong (Phương Sơn, tp. Nha Trang).
<b>5. Kết luận</b>
Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong
chùa Việt ở Khánh Hòa đã có từ lâu và ngày
càng trở nên phổ biến. Nó phản ánh truyền
thống văn hóa Phật giáo ln hòa hợp với tín
ngưỡng dân gian của người Việt, đồng thời thể
hiện niềm tin và nhu cầu tâm linh của cộng
đồng. Mặt khác, sự dung hợp tín ngưỡng thờ
Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa đa dạng về
đối tượng thờ phụng cũng như thực hành văn
hóa. Đó là sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên Y
A Na Thánh Mẫu, sự dung hợp Ngũ hành thần
nữ, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ,
Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong
chùa Việt ở Khánh Hòa góp phần tạo nên tính
đa dạng về văn hóa Phật giáo nói riêng và văn
hóa tơn giáo Việt Nam nói chung. Tác giả Trần
Quốc Vượng nhận định: “Sắc thái đặc thù của
văn hóa tơn giáo Việt là sự hỗn dung tơn giáo
người trong và ngồi nước đều nhận thấy, là sự
khoan dung tôn giáo - khơng có “chiến tranh
tơn giáo” trong lịch sử Việt Nam vốn có lắm
chiến tranh (...). Sự hỗn dung văn hóa và tơn
giáo, nét đặc thù của bản sắc văn hóa Việt Nam,
nét trường tồn của văn hóa Việt Nam, được
cắt nghĩa về mặt địa văn hóa là do cái vị thế ở
giữa Đơng Nam Á, nơi gặp gỡ và giao thoa văn
hóa giữa hai nền văn minh lớn nhất châu Á là
Trung Hoa và Ấn Độ” (8, tr.270-271). Tóm lại, sự
dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt
ở Khánh Hòa thể hiện tính truyền thống, tính
biến đổi, tính linh hoạt, tính tổng hợp và sắc
N.V.B
<i>(TS., Trường Đại học Khánh Hòa)</i>
<b>Tài liệu tham khảo</b>
1. Trần Lâm Biền (2000), <i>Một con đường tiếp </i>
<i>cận lịch sử</i>, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
2. Đỗ Văn Khối (2013), <i>Giản giới tục thờ Ngũ </i>
<i>hành thần nữ ở Khánh Hịa</i>, Tạp chí Văn hóa, Thể
thao & Du lịch Khánh Hòa, (6).
3. Đặng Văn Lung (1991), <i>Tam tòa Thánh Mẫu, </i>
Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. Dỗn Hiệp Lý (chủ biên) (1994), <i>Từ điển văn </i>
<i>hóa cổ truyền Trung Hoa</i>, Nxb. Văn hóa - Thơng
tin, Hà Nội.
5. Nguyễn Tơn Nhan (2000), <i>Bách khoa thư </i>
<i>văn hóa cổ điển Trung Q́c</i>, Nxb. Văn hóa - Thơng
tin, Hà Nội.
6. Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc
(2013), <i>Đặc khảo về tín ngưỡng thờ gia Thần</i>, Nxb.
Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
7. Chu Quang Trứ (2013), <i>Văn hóa Việt Nam </i>
<i>nhìn từ mỹ thuật</i>, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
8. Trần Quốc Vượng (2014), <i>Trong cõi</i>, Nxb. Hội
Nhà văn, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 6 - 4 - 2018