Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

Luận án Tiến sĩ Tài chính – Ngân hàng: Các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh các thể tại Việt Nam - TRƯỜNG CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 219 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------------------. LÊ HOÀNG ANH. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIẾP CẬN TÍN DỤNG CỦA HỘ KINH DOANH CÁ THỂ TẠI VIỆT NAM. LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG. HÀ NỘI - 2020.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------------------. LÊ HOÀNG ANH. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIẾP CẬN TÍN DỤNG CỦA HỘ KINH DOANH CÁ THỂ TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG Mã số: 9340201. LUẬN ÁN TIẾN SĨ. Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. HOÀNG THỊ LAN HƯƠNG 2. PGS.TS. LÊ HOÀNG NGA. HÀ NỘI - 2020.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> i. LỜI CAM ĐOAN Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật. Hà nội, ngày tháng năm 2020 Nghiên cứu sinh. Lê Hoàng Anh.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> ii. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i MỤC LỤC ......................................................................................................................ii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................... iv DANH MỤC BẢNG ..................................................................................................... vi DANH MỤC HÌNH ................................................................................................... viii MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIẾP CẬN TÍN DỤNG CỦA HỘ KINH DOANH CÁ THỂ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG.......................................... 27 1.1. Khái quát về hộ kinh doanh cá thể và tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể .......................................................................................................................... 27 1.1.1. Khái quát về hộ kinh doanh cá thể .............................................................. 27 1.1.2. Tín dụng chính thức và tín dụng phi chính thức........................................... 28 1.1.3. Tiếp cận tín dụng .......................................................................................... 32 1.2. Tác động của tiếp cận tín dụng đối với các hộ kinh doanh cá thể ................ 35 1.2.1. Các tác động tích cực .................................................................................... 35 1.2.2. Các tác động tiêu cực .................................................................................... 37 1.3. Lý thuyết nền tảng và mô hình dự kiến .......................................................... 40 1.3.1. Các lý thuyết nền tảng .................................................................................. 40 1.3.2. Mô hình nghiên cứu dự kiến ......................................................................... 44 CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 46 2.1. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................. 46 2.1.1. Quy trình nghiên cứu .................................................................................... 46 2.1.2. Nghiên cứu định tính .................................................................................... 47 2.1.3. Nghiên cứu định lượng ................................................................................. 51 2.2. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ............................................... 55 2.2.1. Mô hình tiếp cận tín dụng chính thức ........................................................... 55 2.2.2. Mô hình tiếp cận tín dụng phi chính thức ..................................................... 64 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................. 74 3.1. Khái quát về hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam và tiếp cận tín dụng tín dụng của hộ kinh doanh cá thể ......................................................................................... 74 3.1.1. Tình hình hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam............................................... 74 3.1.2. Tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam ........................... 76 3.2. Khái quát về mẫu nghiên cứu .......................................................................... 77.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> iii 3.2.1. Thông tin về nhân khẩu học.......................................................................... 77 3.2.2. Tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam dựa trên kết quả khảo sát ................................................................................................................... 80 3.3. Kết quả nghiên cứu các nhân tố tác động tiếp cận tín dụng của các hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam ....................................................................................... 83 3.3.1. Đối với mô hình tiếp cận tín dụng chính thức .............................................. 83 3.3.2. Đối với mô hình tiếp cận tín dụng phi chính thức ........................................ 91 CHƯƠNG 4: THẢO LUẬN KẾT QUẢ VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................ 100 4.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu ....................................................................... 100 4.1.1. Đối với các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng chính thức .............. 100 4.1.2. Đối với các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng phi chính thức ........ 105 4.2. Một số khuyến nghị ......................................................................................... 108 4.2.1. Khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước và pháp luật .............. 108 4.2.2. Khuyến nghị đối với các tổ chức tín dụng .................................................. 116 4.2.3. Khuyến nghị đối với hộ gia đình có nhu cầu vay vốn ................................ 125 4.2.4. Khuyến nghị đối với chính quyền và các tổ chức đoàn thể tại địa phương 127 4.2.5. Khuyến nghị đối với các cơ quan an ninh, truyền thông và tổ chức hỗ trợ về kỹ thuật và công nghệ ........................................................................................... 130 4.3. Hạn chế của đề tài và các hướng nghiên cứu tiếp theo ................................ 131 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 133 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 134 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 135 PHẦN PHỤ LỤC ....................................................................................................... 148.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> iv. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT. Ký hiệu. Ý nghĩa. 1. ADB. Asian Development Bank - Ngân hàng phát triển châu Á. 2. ADBI. Asian Development Bank Institute - Viện ngân hàng phát triển châu Á. 3. ATM. Automated Teller Machine - Máy giao dịch ngân hàng tự động. 5. CFA. Confirmatory Factor Analysis - Phân tích nhân tố khẳng định. 6. CFI. Comparative Fix Index - Chỉ số thích hợp so sánh. 7. CMIN. Chi bình phương - tiêu chuẩn để phân tích CFA. 8. CP. Chính phủ. 10. EFA. Exploratory Factor Analysis - Phân tích nhân tố khám phá. 13. GS. Giáo sư. 14. KMO. Kaiser - Meyer - Olkin - Hệ số thể hiện mức độ thích hợp của tương quan nội tại các biến quan sát. 15. OECD. 16. PGS. Phó giáo sư. 17. RMSEA. Root Mean Square Error of Approximation - Chỉ số RMSEA. 18. SEM. Structural Equation Modeling - Mô hình cấu trúc tuyến tính. 19. TCTD. Tổ chức tín dụng. 20. TDCT. Tín dụng chính thức. 21. THCS. Trung học cơ sở. 22. THPT. Trung học phổ thông. 23. ThS. Thạc sĩ. 24. TLA. Truth in Lending Act - Đạo luật Trung thực trong cho vay. 25. TLI. Tucker - Lewis Index - Chỉ số Tucker - Lewis phân tích CFA. 26. TPB. Theory of Planned Behavior - Mô hình lý thuyết hành vi dự định. Organization for Economic Cooperatin and Development - Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> v STT. Ký hiệu. Ý nghĩa. 27. TRA. Theory of Reasoned Action - Mô hình lý thuyết hành động hợp lý. 28. TS. Tiến sĩ. 29. UBGSTC. Ủy ban Giám sát Tài chính. 30. UBND. Ủy ban nhân dân. 31. WB. World Bank - Ngân hàng Thế giới.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> vi. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Thang đo tài sản đảm bảo ............................................................................ 56 Bảng 2.2. Thang đo thu nhập ........................................................................................57 Bảng 2.3. Thang đo kinh nghiệm của chủ hộ ...............................................................58 Bảng 2.4. Thang đo khoảng cách .................................................................................59 Bảng 2.5. Thang đo lãi suất vay vốn ............................................................................60 Bảng 2.6. Thang đo sự phức tạp trong thủ tục vay vốn ................................................61 Bảng 2.7. Thang đo kinh nghiệm của ngân hàng thương mại ......................................61 Bảng 2.8. Thang đo dịch vụ ngân hàng điện tử ............................................................62 Bảng 2.9. Thang đo khả năng tiếp cận tín dụng NHTM của hộ gia đình .....................63 Bảng 2.10: Tổng hợp chiều tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể ................................................................................63 Bảng 2.11. Thang đo hiệu quả kỳ vọng ........................................................................64 Bảng 2.12. Thang đo nỗ lực kỳ vọng ...........................................................................66 Bảng 2.13. Thang đo ảnh hưởng xã hội .......................................................................67 Bảng 2.14. Thang đo điều kiện thuận lợi .....................................................................69 Bảng 2.15. Thang đo hiểu biết tài chính .......................................................................70 Bảng 2.16. Thang đo sự tiện lợi ...................................................................................71 Bảng 2.17. Thang đo tính bảo mật ...............................................................................72 Bảng 2.18. Thang đo ý định sử dụng tín dụng phi chính thức .....................................73 Bảng 3.1. Hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam phân theo vùng ....................................74 Bảng 3.2. Kết quả nhân khẩu học từ mẫu nghiên cứu ..................................................78 Bảng 3.3. Kết quả học vấn và tiếp cận nguồn thông tin của hộ ...................................79 Bảng 3.4. Kết quả khảo sát các hộ tiếp cận tín dụng chính thức và phi chính thức .....81 Bảng 3.5. Thời gian vay vốn bình quân của các hộ .....................................................81 Bảng 3.6. Số vốn bình quân một lần của các hộ ..........................................................82 Bảng 3.7: Kiểm định KMO và Bartlett ........................................................................85 Bảng 3.8: Phân tích EFA của biến Khả năng tiếp cận tín dụng ...................................86 Bảng 3.9. KMO và kiểm định Bartlett .........................................................................91 Bảng 3.10. Tổng hợp kết quả phân tích CFA lần 1 ......................................................92 Bảng 3.11. Tổng hợp kết quả phân tích CFA lần 2 ......................................................93.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> vii Bảng 3.12. Kiểm định sự tươmg quan của các biến trong mô hình tiếp cận tín dụng phi chính thức ..................................................................................................................... 94 Bảng 3.13. Mối quan hệ giữa các nhân tố trong mô hình cấu trúc ý định sử dụng ......96 tín dụng phi chính thức .................................................................................................96 Bảng 3.14: Kết quả ước lượng mô hình bằng Bootstrap với N=400 ........................... 96 Bảng 3.15. Kết quả kiểm định giả thuyết trong mô hình lý thuyết ..............................97 Bảng 3.16: Kết quả kiểm định lần 1 về sự tác động của biến điều tiết ........................97 Bảng 3.17: Kết quả kiểm định lần 2 về sự tác động của biến điều tiết ........................98.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> viii. DANH MỤC HÌNH. Hình 1.1: Ảnh hưởng của tín dụng vi mô đối với thu nhập hộ kinh doanh .................36 Hình 1.2: Mô hình lý thuyết hành động hợp lý TRA ...................................................40 Hình 1.3: Mô hình lý thuyết hành vi có kế hoạch TPB ................................................42 Hình 1.4: Mô Hình chấp nhận công nghệ TAM ...........................................................43 Hình 1.5: Mô hình lý thuyết chấp nhận sử dụng công nghệ (UTAUT) ....................... 44 Hình 2.1: Quy trình nghiên cứu .................................................................................... 47 Hình 2.2. Mô hình tiếp cận tín dụng chính thức ...........................................................50 Hình 2.3: Mô hình tiếp cận tín dụng phi chính thức ....................................................51 Hình 3.1. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định CFA ................................................. 88 Hình 3.2. Kết quả phân tích mô hình cấu trúc SEM ....................................................90 Hình 3.3. Kết quả SEM của tiếp cận tín dụng phi chính thức ...................................... 95.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> 1. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Các hộ kinh doanh cá thể trên thế giới là một phần tất yếu của nền kinh tế quốc dân. Hộ kinh doanh cá thể có thể huy động vốn từ nhiều kênh khác nhau, phụ thuộc vào sự phát triển của các sản phẩm tài chính và thị trường vốn của mỗi quốc gia. Do đó, hộ kinh doanh cá thể có thể mở rộng quy mô sản xuất và tiếp cận tín dụng từ: (1) nguồn phi chính thức như vay người thân, bạn bè; (2) nguồn chính thức như vay từ các tổ chức tín dụng (TCTD), (Ledgerwood và cộng sự, 2013b). Chính sự khác biệt hóa trong các sản phẩm tài chính của TCTD thể hiện chiến lược, đặc trưng của từng vùng miền để đáp ứng nhu cầu khác nhau của nhiều đối tượng. Trong điều kiện hiện nay, tiếp cận tín dụng chính thức và vai trò của các tổ chức tín dụng chính thức đặc biệt quan trọng trong việc đáp ứng kịp thời vốn cho các hộ gia đình để bổ sung vốn kinh doanh, đảm bảo quy trình sản xuất, hoạt động kinh doanh và dịch vụ được phát triển liên tục, bền vững. Các quy trình cho vay cũng như các sản phẩm tín dụng đặc biệt phù hợp với các hộ kinh doanh bởi tính chất ưu đãi của nhà nước đối với nhóm đối tượng này. Ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế tại các nước, các TCTD không chỉ là các kênh huy động vốn quan trọng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế mà còn có chức năng giảm thiểu các rủi ro tài chính thông qua việc cung cấp thông tin và tư vấn cho các nhà đầu tư. Trong khi đó, trường phái kinh tế mới (lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh), Romer (1990), Mankiw và cộng sự (1992), nhấn mạnh rằng một khu vực tài chính vững mạnh có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn, đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển thông qua các kênh cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp và hộ kinh tế gia đình. Tín dụng phi chính thức hay “tín dụng ngầm”, được hiểu chung là các hình thức vay vốn ngoài sự quản lý của các cơ quan quản lý về tài chính tiền tệ, gồm cho vay của các cá nhân, cho vay thông qua các hình thức hụi, họ, phường, hoặc cho vay của gia đình, bạn bè, người thân. Trong đó, tín dụng đen, tức tín dụng của người cho vay tư nhân với lãi suất “cắt cổ”, luôn gây ra những hệ lụy nguy hiểm cho người vay do cách thức tính lãi dễ khiến người vay rơi vào tình trạng khánh kiệt, không trả được nợ, cách hành xử “giang hồ” khi đòi nợ của những kẻ cho vay (Nugent, 1941a, Kelso, 1941b, Shergold, 1978, Carr và Kolluri, 2001b). Nghiên cứu Claessens (2006) chỉ ra rằng các cá nhân và hộ gia đình không sử dụng các dịch vụ tài chính của các TCTD chính thức là do các rào càn truy cập tài chính rất cao, họ không có hồ sơ tín dụng, dịch vụ tài chính kém, chi phí phải trả là lớn hay thậm chí là sự phân biệt đối xử... Bên cạnh đó, khách hàng không sử.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> 2 dụng dịch vụ tài chính cũng là do thu nhập đầu vào của họ là thấp, không cần thiết tiết kiệm, thông tin và tài liệu hạn chế. Hơn thế nữa, nhiều hộ gia đình không tin tưởng vào những tổ chức tin dụng do độ an toàn còn thấp, độ phủ sóng chưa rộng rãi (Beck và cộng sự, 2007). Chính vì vậy, việc tiếp cận tín dụng chính thức ngày càng gặp nhiều khó khăn, các hộ gia đình thường tìm kiếm đến các khoản tài chính không chính thức không yêu cầu tài sản thế chấp (Beck và cộng sự, 2006a). Khác với quan điểm về hộ kinh doanh trên thế giới, hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam được hiểu là một cá nhân hay một nhóm người đăng ký kinh doanh một lĩnh vực cụ thể với quy mô nhỏ lẻ, quy trình đăng ký đơn giản và chỉ có duy nhất một địa điểm kinh doanh xác định. Do đó, hoạt động kinh doanh của hộ gia đình có thể có nhiều lợi thế từ thủ tục thành lập đơn vị kinh doanh đến cải cách quản lý thuế theo hình thức thuế khoán - kê khai và nộp thuế một lần hằng năm, không ghi sổ kế toán… Những điều kiện đó tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ kinh doanh cá thể phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của kinh tế Việt Nam (Trần Thọ Đạt, 2018). Theo Tổng cục thống kê, tính đến cuối năm 2018, cả nước có gần 5 triệu hộ sản xuất kinh doanh, gấp 10 lần số doanh nghiệp đang hoạt động, quy mô lao động đạt gần 10 triệu người. Nếu như kinh tế Nhà nước đóng góp 32,2% vào tổng sản phẩm quốc nội, thì kinh tế ngoài Nhà nước góp tới 48,3%; (kinh tế tập thể 5%, kinh tế tư nhân 10,9%, kinh tế cá thể 32,3%); khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 19,5% (Tổng cục thống kê, 2019). Như vậy, trong khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, khu vực kinh tế cá thể có tỷ trọng đóng góp cao nhất trong GDP (xấp xỉ 33%). Hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ gia đình đã mang lại tác động lớn đến nền kinh tế, xóa đói giảm nghèo ở các địa phương cũng như trên cả nước. Bên cạnh đó, Hoàng Trần Hậu (2018) đã nhận định rằng việc phát triển hộ kinh doanh cá thể, đã giúp cho khoảng 10 triệu lao động Việt Nam có việc làm thường xuyên trong thời gian qua, tăng thu nhập, tăng thu ngân sách, góp phần phát triển bền vững trong quá trình xây dựng khu vực nông thôn mới trong những năm qua. Tuy nhiên, việc tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ kinh doanh cá thể vẫn còn nhiều hạn chế do không đáp ứng đủ tài sản đảm bảo, kế hoạch kinh doanh chưa hiệu quả, khả năng tiếp cận công nghệ còn chậm… (Nguyễn Kim Anh và cộng sự, 2017). Trong số các hộ kinh doanh, thì chỉ có khoảng 47,22% số hộ được vay vốn với lãi suất phù hợp (khoảng 8 - 14%/năm) - nhưng vẫn được đánh giá là cao hơn rất nhiều so với lãi suất mà các doanh nghiệp vay vốn, dù cùng ngành (Bùi Kiên Trung và cộng sự, 2019). Tổng nguồn vốn của hệ thống các TCTD Việt Nam dành cho hộ kinh doanh cá thể chỉ chiếm có 10,8% tổng dư nợ, trong số đó rất nhiều các hộ kinh doanh buộc phải chuyển sang vay theo hình thức cá nhân vay (World Bank, 2018). Các hoạt động khác.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> 3 như bảo lãnh vay vốn, cho thuê tài chính hay sử dụng các dịch vụ tín dụng khác còn thấp hơn nhiều. Điều đó thấy rằng, việc tiếp cận tín dụng của các hộ kinh doanh cá thể đang có vấn đề. Thêm vào đó, trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự 2015 về chủ thể vay vốn, thông tư 39/2016/TT-NHNN nêu rõ: “Chủ thể vay vốn chỉ bao gồm cá nhân Việt Nam, cá nhân có quốc tịch nước ngoài, pháp nhân thành lập và hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân thành lập ở nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam”. Như vậy, tổ chức không có tư cách pháp nhân như hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân... sẽ không được phép vay vốn tại các ngân hàng thương mại. Dù vậy, thông tư 39/2016/TT-NHNN cũng quy định cá nhân được vay vốn cho nhu cầu sử dụng vốn của hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân do chính cá nhân là chủ hộ kinh doanh hoặc chủ doanh nghiệp tư nhân. Từ những thay đổi, bất cập trong quy trình vay vốn khiến cho nhiều hộ kinh doanh cá thể ở Việt Nam chủ yếu dựa vào vốn tự có, tiếp cận các nguồn vốn phi chính thức với lãi suất cao, ảnh hưởng đến thu nhập của hộ. Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách tăng tiếp cận tín dụng chính thức cho các hộ gia đình nói riêng, các thành phần khác trong nền kinh tế nói chung thông qua hàng loạt văn bản pháp lý khác nhau như: Thành lập riêng Ngân hàng Chính sách xã hội với hơn 20 chương trình tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách, Luật hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa (2017) trong đó khuyến khích các định chế tài chính hỗ trợ các doanh nghiệp này, Nghị định về tín dụng đối với nông nghiệp nông thôn, các quyết định về nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế…. (Chính phủ, 2016, Chính phủ, 2019c, Chính phủ, 2019d). Thậm chí, một quy định riêng về hình thức tổ chức họ, hụi, biêu, phường cũng đã được ban hành nhằm hạn chế sự biến tướng của hình thức này sang “tín dụng đen” (Chính phủ, 2019a). Tuy vậy, tình trạng tín dụng phi chính thức - đặc biệt là tín dụng đen vẫn hoành hành tại Việt Nam trong suốt thời gian dài, và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt - nhất là vấn đề áp dụng cho các hộ gia đình vay vốn. Thực tế cho thấy, “tín dụng đen” là hình thức cho vay, đi vay hoặc huy động vốn với lãi suất vượt quá mức lãi suất pháp luật quy định, được thực hiện bởi các cá nhân, nhóm người hoặc tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính, thường gắn với các hành vi đòi nợ, chiếm đoạt tài sản trái pháp luật. (Chính phủ, 2019a). Để có thể đảm bảo được các định hướng mà chính phủ đặt ra, thì việc tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng chính thức và phi chính thức trong bối cảnh mới đóng vai trò quan trọng. Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến đến tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam” được lựa chọn để nghiên cứu..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> 4. 2.Tổng quan nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu 1.1. Tổng quan nghiên cứu 1.1.1. Nghiên cứu chung về các mô hình “Ý định sử dụng” Trên thế giới, hướng nghiên cứu về “Ý định sử dụng” rất phổ biến và thường được giải thích bằng việc áp dụng: Mô hình hành động hợp lý (Theory of Reasoned Action - TRA), Mô hình hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior - TPB), mô hình chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model - TAM)… Mô hình hành động hợp lý TRA được xây dựng và phát triển bởi Ajzen và Fishbein. Theo lý thuyết này, hành vi con người được quyết định bởi yếu tố quan trọng nhất chính là “Ý định hành vi” (Behavior intention) (Ajzen và Fishbein, 1980). Bên cạnh đó, “Ý định hành vi” lại được giải thích bằng “Thái độ” (Attitude) đối với hành vi và “Mức quy chuẩn chủ quan” (Subjective Norm) đối với hành vi đó. Mô hình hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior - TPB) là sự mở rộng của lý thuyết hành động hợp lý (TRA), nhân tố hành vi “Kiểm soát cảm nhận” (Perceived Behavioral Control) được thêm vào để thể hiện sự khó khăn hay dễ dàng khi thực hiện một hành vi cụ thể và việc thực hiện hành vi đó có bị kiểm soát hay không (Ajzen, 1991a). Mô hình chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model - TAM) được xây dựng và phát triển bởi Davis vào năm 1989. Mô hình này đã nêu ra sự ảnh hưởng của các yếu tố: sự “Cảm nhận dễ sử dụng” (Perceived Ease of Use) và sự “Cảm nhận hữu dụng” (Perceived Usefulness) lên “Thái độ” dẫn đến sử dụng công nghệ và sau đó ảnh hưởng đến quyết định sử dụng công nghệ (Davis và cộng sự, 1989a). Ngoài ra còn có các mô hình như lý thuyết về sự đổi mới (IDT), mô hình chấp nhận và sử dụng công nghệ (Unified Theory of Acceptance and Use Technology - UTAUT) (nội dung cụ thể của các mô hình phục vụ cho nghiên cứu này sẽ được tác giả nêu cụ thể ở phần cơ sở lý thuyết). Tuy nhiên, xét trong phạm vi ngành ngân hàng tài chính, các nghiên cứu về ý định hành vi sử dụng áp dụng các mô hình này hiện nay mới chỉ tập trung các lĩnh vực như dịch vụ ngân hàng, viễn thông hoặc ý định vay tiêu dùng nói chung… chưa có nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể, liên quan đến “Ý định sử dụng” tín dụng phi chính thức. Rất nhiều nghiên cứu về “Ý định sử dụng” hành vi được thực hiện trong lĩnh vực dịch vụ Internet Banking như Shergill và Li (2005), Giovanis và cộng sự (2012), Yiu và cộng sự (2007), Malhotra và Singh (2009), Saibaba và Murthy (2013)... Nhìn chung các nghiên cứu này đã thiết lập được các nhân tố ảnh hưởng đến “Ý định sử dụng” Internet Banking của khách hàng gồm giới tính, thu nhập, giáo dục, tuổi, hiểu biết về Internet, ngoài ra các nghiên cứu này còn phân tích các thuộc tính của sự đổi mới như hữu ích, bảo mật, an ninh, tin cậy, rủi ro..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> 5 Nghiên cứu của Abadi và cộng sự (2012) sử dụng mô hình chấp nhận công nghệ (TAM), mô hình hành vi có kế hoạch (TPB) và mô hình chấp nhận rủi ro để thiết lập các yếu tố cản trở hoặc thúc đẩy sự chấp nhận sử dụng Mobile Banking. Các kết luận của tác giả là nhận thức rủi ro có tác động ngược chiều đến “Ý định sử dụng” dịch vụ Mobile Banking và là nhân tố có tầm ảnh hưởng nhất. “Nhận thức hữu ích”, “Nhận thức kiểm soát” hành vi và “Nhận thức chủ quan” có mối quan hệ thuận chiều đến “Ý định sử dụng” Mobile Banking. Trong đó “Nhận thức hữu ích” có tác động gián tiếp và mạnh nhất đến “Ý định sử dụng” dịch vụ. Cũng nghiên cứu về “Ý định sử dụng” Mobile Banking, nghiên cứu của Lee và cộng sự (2012) sử dụng mô hình TAM, TRA và kết hợp các nhân tố “Phù hợp nhiệm vụ”, “Giá trị tiền tệ”, “Kết nối”, “Sáng tạo cá nhân”, “Khả năng tiếp nhận” để giải thích “Ý định sử dụng” của người tiêu dùng. Nghiên cứu của Nguyễn Mai Phương và cộng sự (2019) mang tính khám phá các yếu tố ảnh hưởng và bước đầu có những đánh giá mức độ tác động của những yếu tố này đến “Ý định vay tiêu dùng” của sinh viên trên địa bàn Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng kết hợp TAM, TPB để xây dựng mô hình. Trong đó, một vài kết luận được đưa ra là (1) sinh viên nhận thức sự hữu ích và sự tiện dụng của việc vay tiêu dùng tăng thì họ sẽ có thái độ tích cực hơn về vay tiêu dùng; (2) “Thái độ” là yếu tố quyết định có tính chủ chốt đến “Ý định vay tiêu dùng” của sinh viên; (3) sinh viên sẽ sẵn sàng đi vay nếu thấy cần thiết hơn so với đi vay để mua được thứ mình thích; (4) bạn bè có mức độ ủng hộ “Ý định vay tiêu dùng” của sinh viên lớn hơn gia đình mà những người khác mà sinh viên tin tưởng; (5) sinh viên có xu hướng quan tâm đến các yếu tố trực tiếp thể hiện đặc tính sản phẩm vay tiêu dùng khi nhận biết về sự hữu ích và sự tiện dụng của sản phẩm; (6) chưa có đủ bằng chứng để khẳng định mối liên hệ giữa “Nhận thức kiểm soát hành vi” và “Ý định vay tiêu dùng”. Tuy nhiên nghiên cứu này có phạm vi hẹp và mới chỉ tìm hiểu về ý định vay tiêu dùng nói chung, không thể sử dụng để giải thích các nhân tố ảnh hưởng đến ý định, hành vi sử dụng tín dụng đen.. 1.1.2. Nghiên cứu liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng quyết định tiếp cận tín dụng Nhóm nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng dựa trên đặc điểm của người đi vay Okurut (2006) đánh giá tác động của việc tiếp cận tín dụng của các hộ kinh doanh cá thể ở Nam Phi bằng phương pháp kết nối điểm xu hướng với ba mô hình khác nhau cho ba phạm vi nghiên cứu khác nhau. Ở cấp độ tổng thể, tác giả chỉ ra rằng độ tuổi, giới tính, quy mô hộ gia đình, trình độ giáo dục, tiêu dùng bình quân của chủ hộ kinh doanh.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> 6 cá thể tác động tích cực và đáng kể tới khả năng tiếp cận tín dụng. Đồng thời, khi nghiên cứu nhóm đối tượng là người nghèo, tác giả đưa ra kết luận nam giới, người da màu và dân cư ba tỉnh Western Cape, Gauteng và Mpumalanga dễ dàng tiếp cận TDCT hơn những nhóm đối tượng khác. Cụ thể, trong dân số da đen, tiếp cận TDCT chịu ảnh hưởng tích cực và đáng kể bởi tuổi tác, giới tính, chi tiêu bình quân đầu người và trình độ học vấn. Akram và Hussain (2008) cho rằng các hộ kinh doanh cá thể đã phải đối mặt với nhiều hạn chế để tiếp cận tín dụng nông nghiệp một cách kịp thời. Vấn đề về tài sản thế chấp được đánh giá là một trong những hạn chế lớn bởi phần lớn hộ đều cho rằng họ không thể tiếp cận TDCT vì cần có tài sản thế chấp. Kết quả cũng cho thấy thu nhập, trình độ học vấn và lãi suất dự đoán có ảnh hưởng quan trọng đến hành vi vay vốn. Chisasa (2019) cũng chỉ ra rằng thu nhập có tác động đáng kể tới việc tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ. Tuy nhiên, nghiên cứu này lại cho thấy tài sản thế chấp có ảnh hưởng tiêu cực đến cơ hội có được sự chấp thuận tín dụng từ phía người cho vay. Điều này làm gia tăng khả năng bị hạn chế TDCT của các nông hộ. Trần và Huỳnh (2013) cho rằng trình độ học vấn của chủ hộ, giá trị tài sản, diện tích đất thổ cư của hộ có tác động ngược chiều tới khả năng bị giới hạn tín dụng của hộ. Đồng thời, nghề nghiệp của chủ hộ cũng ảnh hưởng tới khả năng hạn chế tín dụng của hộ. Cụ thể, chủ hộ có nghề nghiệp với thu nhập ổn định có khả năng bị giới hạn tín dụng thấp hơn hộ thuần túy sản xuất nông nghiệp. Ngược lại, sử dụng tín dụng không chính thức là yếu tố làm gia tăng rào cản tiếp cận TDCT của các hộ gia đình. Tuy nhiên, trong nghiên cứu trước đó được thực hiện ở Đồng bằng sông Cửu Long của Phan (2013), tác giả lại chỉ ra rằng số tiền vay tín dụng phi chính thức làm tăng khả năng tiếp cận TDCT. Trịnh (2015) có chỉ ra một số nhân tố tác động đến khả năng tiếp cận tín dụng của hộ gia đình. Cụ thể, chủ hộ trên 50 tuổi gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng. Nếu chủ hộ có trình độ đại học trở lên có thể dễ dàng nhận được một khoản vay từ các ngân hàng bởi vì họ có thể tìm việc với mức lương cao hơn. Kết quả cũng cho thấy tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có sử dụng vốn vay trong cả Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng đều cao hơn so với các vùng khác. Các hộ gia đình có nhiều hơn bốn thành viên có xác suất khá cao trong việc tiếp cận tín dụng. Ngoài ra, các hộ nông dân có thu nhập cao dễ tiếp cận nguồn vốn hơn. Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ người Kinh vay vốn cao hơn so với các nhóm dân tộc khác (ví dụ như người Khmer) do dễ tiếp cận nguồn vốn vay hơn và có khả năng trả nợ lớn hơn. Nguyên nhân được đưa ra là do địa bàn triển khai nghiên cứu phần lớn là người Khmer, những hộ này thường nằm trong diện những hộ nghèo hoặc cận nghèo có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận được với những chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> 7 của Nhà nước. Mặt khác, địa bàn nghiên cứu tập trung phần lớn là người dân tộc thiểu số sinh sống nên xác suất tiếp cận TDCT của hộ cũng cao hơn so với những hộ là người Kinh. Do đặc điểm dân cư được khảo sát không mang tính đại diện cao nên kết quả thu được khó có thể suy rộng, từ đó khiến cho nghiên cứu ít có ý nghĩa thực tiễn. Nguyen (2007) cho rằng hoạt động tài chính của hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi quy mô hộ gia đình và nghề nông. Ở cấp độ xã, khoảng cách đến các TCTD không ảnh hưởng đến việc tiếp cận TDCT. Khi nghiên cứu tác động của trình độ học vấn đến quyết định vay, tác giả nhận thấy chúng có mối tương quan dạng chữ U ngược, hay nói cách khác là những hộ gia đình có trình độ học vấn thấp nhất hay cao nhất đều vay ít nhất. Nghiên cứu của Nguyễn và Phạm (2015) cũng chỉ ra nhân tố khoảng cách đến các TCTD không ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn TDCT của nông hộ. Tuy nhiên, khác với nghiên cứu của Nguyen (2007), nghiên cứu này kết luận trình độ học vấn không ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận TDCT. Ngoài ra, nhu cầu vay là nhân tố tác động mạnh mẽ nhất đến khả năng tiếp cận TDCT của các hộ gia đình. Nhóm nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng dựa trên đặc điểm của cả khách hàng và tổ chức tín dụng Khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đi vay từ nguồn TDCT, một số tác giả đưa đồng thời cả nhóm đặc điểm của người đi vay và nhóm đặc điểm của TCTD vào trong mô hình nghiên cứu của mình. Yehuala (2008) đã xác định các yếu tố tác động đến khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình ở Ethiopia bao gồm các yếu tố về nhân khẩu học, đặc điểm kinh tế xã hội, đặc điểm giao tiếp xã hội của hộ gia đình và đặc điểm của các TCTD. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc không thể tiếp cận TDCT là nhân tố cản trở sản xuất, năng suất và thu nhập của các hộ gia đình. Đồng thời, do việc tiếp cận TDCT còn nhiều hạn chế nên phần lớn người nghèo buộc phải tìm kiếm dịch vụ tín dụng thông qua các kênh không chính thức. Kết luận này cũng được ủng hộ bởi nghiên cứu của (Hananu và cộng sự, 2015). Đồng thời, những phát hiện trong nghiên cứu của Saqib và cộng sự (2018) cũng cho thấy các yếu tố kinh tế xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc tiếp cận tín dụng nông nghiệp của nông dân. Kết luận từ nghiên cứu của Nguyễn và Phạm (2010) cho thấy địa vị xã hội, trình độ học vấn, tài sản thế chấp và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như thu nhập bình quân ảnh hưởng tích cực đến khả năng tiếp cận TDCT của hộ nông dân. Về mục đích, vay vốn cho sản xuất bao giờ cũng vay được nhiều hơn. Trong nhóm các nhân tố liên quan đến đặc điểm của TCTD, thủ tục vay vốn được coi là nhân tố quyết định đến khả năng vay vốn. Đồng thời, qua nghiên cứu, tác giả cho rằng lãi suất tiền vay có ảnh.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> 8 hưởng không rõ ràng đến lượng vốn vay được từ khu vực chính thống. Điều này có thể là do lãi suất tiền vay của các TCTD chính thức thường thấp hơn so với lãi suất của các TCTD không chính thức. Hơn nữa, nhu cầu vay vốn tín dụng của các hộ nông dân thường không được đáp ứng đầy đủ bởi các TCTD chính thức nên vì thế mà ảnh hưởng của lãi suất đến lượng vốn cần vay không rõ ràng. Điều này phù hợp với kết luận rút ra từ nghiên cứu trước đây của Diagne (1999). Đào (2019) lại kết luận mức độ tiếp cận của các tổ chức TCVM ngày càng được cải thiện. Khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng từ các tổ chức TCVM được nhìn nhận từ hai phía là người đi vay vốn và TCTD với 12 nhân tố độc lập. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 6 nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng với tổ chức TCVM tại Việt Nam được sắp xếp theo mức độ ảnh hưởng thấp dần lần lượt là: điều kiện vay, mục đích vay, trình độ học vấn của người vay, điều kiện kinh tế của khách hàng vay, số lượng lao động trong gia đình người vay, giá trị khoản vay. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng lãi suất không ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận vốn vay. Kết quả này mâu thuẫn với nghiên cứu của Michael và cộng sự (2018) khi cho rằng lãi suất cao là nhân tố chính giới hạn khả năng tiếp cận TDCT. Có thể thấy, khi đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng, có rất nhiều nghiên cứu chỉ nhìn nhận đặc điểm của khách hàng vay vốn. Trong khi đó, rất ít nghiên cứu dựa trên cả đặc điểm của người đi vay và người cung cấp tín dụng. Tác giả nhận thấy việc đánh giá đồng thời các đặc điểm thuộc về người đi vay và TCTD là cần thiết để xem xét đầy đủ các nhân tố tác động đến khả năng tiếp cận kênh TDCT cũng như giúp đưa ra các giải pháp triệt để và toàn diện hơn. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất thêm một số nhân tố mới được cho là có tác động đến việc tiếp cận TDCT, sẽ được đề cập trong phần sau của bài nghiên cứu. Mặt khác, do đặc điểm về kinh tế xã hội, thời gian và phạm vi nghiên cứu của các đề tài khác nhau dẫn đến kết quả nghiên cứu có sự khác nhau, phù hợp với từng giai đoạn, địa phương được nghiên cứu.. 1.1.3. Nghiên cứu về rào cản tiếp cận tín dụng Dựa trên nghiên cứu về tiếp cận tín dụng, thì nhóm nghiên cứu về rào cản tiếp cận tín dụng ra đời, và cũng vì thế, nó được làm nền tảng để nhóm nghiên cứu về tiếp cận dịch vụ tín dụng phi chính thức phát triển. Theo Beck và cộng sự (2006b) thì tiếp cận tín dụng được chia thành: (1) Khía cạnh đầu tiên là sự sẵn có (số lượng các dịch vụ tài chính sẵn có); (2) Khía cạnh thứ hai là về tổng giá trị của những dịch vụ tài chính sẵn có hay sự thuận tiện sẵn có bao gồm những chi phí cơ hội của việc phải chờ giao dịch viên, phải đi quãng đường dài đến chi.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> 9 nhánh TCTD; (3) Khía cạnh thứ ba là về phạm vi, loại hình, chất lượng của dịch vụ tín dụng được cung cấp, các yếu tố này có thể được xác định là độ tin cậy của nhà cung cấp tài chính, dịch vụ tài chính có sẵn khi cần thiết, sự thuận tiện, dễ dàng tiếp cận các loại hình dịch vụ này. Các dịch vụ tài chính có thể được tiếp cận nhiều lần và linh hoạt phù hợp với nhu cầu cá nhân của khách hàng. Nghiên cứu về tiếp cận tín dụng sẽ đánh giá được khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của người dân và đưa ra lý do dẫn đến sự phát triển của tín dụng đen. Nghiên cứu về tiếp cận tín dụng được chia thành 3 nhóm nghiên cứu như sau: Nhóm nghiên cứu về rào cản tiếp cận tín dụng từ phía cầu Claessens (2006) chỉ ra rằng các hộ kinh doanh cá thể không sử dụng các dịch vụ tài chính là do các rào cản tiếp cận tín dụng rất cao, điển hình là việc hồ sơ tín dụng không đáp ứng được yêu cầu của các tổ chức tín dụng, dịch vụ tài chính được cung cấp kém không thỏa mãn họ, chi phí phải trả cho các khoản vay lớn, sự phân biệt đối xử của bên cung cấp các khoản vay... Bên cạnh đó, khách hàng không sử dụng dịch vụ tài chính cũng là do thu nhập đầu vào của họ thấp, không thể tiết kiệm, thông tin và tài liệu về các dịch vụ tài chính còn hạn chế. Nhiều hộ gia đình không tin tưởng vào những tổ chức tín dụng do độ an toàn còn thấp, độ phủ sóng chưa rộng rãi, hoăc các tổ chức tài chính không có chi nhánh phân phối trong khu vực sinh sống của họ. Ngoài ra, các khách hàng có ít lịch sử tín dụng thường bị các TCTD áp dụng chi phí tín dụng cao, thậm chí bị ngăn cản tiếp cận tín dụng vì sợ rủi ro mà người vay có thể đem lại. Lịch sử dụng kém xuất phát từ chính rào cản môi trường thể chế yếu kém (bao gồm hệ thống pháp lý, cơ sở hạ tầng thông tin yếu và thiếu khả năng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng…). Đặc biệt, các cá nhân thường đề cập đến tiền gửi tối thiểu cao, những khoản vay nhỏ thường có chi phí cố định lớn khi đăng kí vay, tỷ lệ từ chối cho vay cao và yêu cầu về tài sản thế chấp lớn. Chính vì vậy, việc tiếp cận tín dụng chính thức ngày càng gặp nhiều khó khăn khiến các hộ gia đình thường tìm kiếm đến các dịch vụ tín dụng không chính thức không yêu cầu tài sản thế chấp. Đây chính là một điều kiện để tín dụng phi chính thức có thể phát triển. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những hộ gia đình ở những nước phát triển thường sử dụng tín dụng chính thức nhiều hơn hẳn so với những hộ gia đình ở những nước đang phát triển. Beck và cộng sự (2009) ủng hộ nghiên cứu này khi cho rằng vấn đề về địa lý, tiếp cận vật lý là một trong những yếu tố điển hình trong việc ngăn cản người tiêu dùng tiếp cận vào các dịch vụ tài chính. Mặc dù có nhiều dịch vụ có thể sử dụng thông qua mạng Internet nhưng vẫn có nhiều dịch vụ yêu cầu khách hàng đến tận chi nhánh ngân hàng hoặc sử dụng ATM. Nghiên cứu chỉ ra ở những nước có mật độ chi nhánh và ATM.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> 10 dày hơn thì số lượng hộ gia đình có tài khoản ngân hàng cũng nhiều hơn hẳn. Chính vì vậy, nước phát triển thường có lượng tiếp cận dịch vụ tài chính nhiều hơn so với các nước đang phát triển. Một rào cản khác xuất phát từ các tài liệu cần thiết để tạo tài khoản ngân hàng. Các tổ chức tài chính cần một hay nhiều tài liệu để nhận diện đặc điểm của khách hàng như hộ chiếu, bằng lái xe, chứng minh thư, giấy tờ cư trú, hóa đơn điện nước… Đối với các nước phát triển thì các thông tin này thường rất dễ tiếp cận nhưng đối với người dân thu nhập thuộc các nước đang phát triển thì phần lớn họ thiếu các giấy tờ cần thiết mà các tổ chức này yêu cầu đặc biệt là khi họ không được tuyển vào các khu vực chính thức (những khu vực yêu cầu hồ sơ lý lịch). Thậm chí tại một số nước đang phát triển ở khu vực châu Phi thì để mở tài khoản cần số tiền tương đương với 50% GDP bình quân đầu người nhằm duy trì các chi phí liên quan khi tạo tài khoản. Các loại chi phí này đã loại trừ phần lớn dân số sử dụng dịch vụ tài chính. Các rào cản tiếp cận thường khác nhau giữa các quốc gia do tính chất môi trường, hệ thống tài chính khác nhau. Ở những nước có hệ thống tài chính phát triển nơi sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các ngân hàng thúc đẩy sự phát triển với nhiều hình thức mới như sở hữu tư nhân của ngân hàng, tham gia của ngân hàng nước ngoài; cơ sở hạ tầng pháp lý và thông tin đầy đủ hơn; tính tự do minh bạch và tự do truyền thông ngày càng rộng rãi khiến các rào cản nhỏ, dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ tài chính được giảm thiểu. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, nền tài chính còn non trẻ, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân, thủ tục tài chính còn gặp nhiều vướng mắc thì việc tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức còn gặp nhiều khó khăn, cản trở. Đây chính là một trong những yếu tố khiến sự mở rộng và phát triển của tín dụng đen tại Việt Nam ngày càng nhanh chóng, khó thể kiểm soát được. Beck và De La Torre (2006b) cho rằng việc tiếp cận dịch vụ tín dụng bị hạn chế chủ yếu là do chi phí giao dịch cao, sự không chắc chắn về kết quả dự án mà các doanh nghiệp hoặc hộ kinh doanh cá thể thực hiện có thể tạo ra rủi ro cho ngân hàng khi cho vay vốn và thông tin bất cân xứng giữa các bên liên quan. Về phía cầu, hộ kinh doanh cá thể không sử dụng những dịch vụ tài chính không phải vì họ gặp trở ngại khi tiếp cận mà đơn giản là do họ không muốn sử dụng. Có rất nhiều lý do dẫn đến việc không sử dụng dịch vụ tài chính, một trường hợp điển hình xuất phát từ chính sự thiếu hiểu biết tài chính hay sự xung đột, phân biệt đối xử trong quá khứ khi sử dụng dịch vụ tài chính tạo ra trải nghiệm xấu với họ. Sự phát triển kinh tế và sự gia tăng của thu nhập bình quân đầu người sẽ làm gia tăng yêu cầu về dịch vụ tài chính cao cấp nhưng nhiều tổ chức tài chính còn chưa đáp ứng được. Hơn thế nữa, nhu cầu không chỉ được phát triển bởi sự phát triển kinh tế mà còn ở yếu tố văn hóa xã hội. Thiếu kiến thức tài chính và những.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> 11 thành kiến văn hóa cũng làm giảm cầu sử dụng dịch vụ tài chính của khách hàng. Bên cạnh đó, khi giá dịch vụ tăng thì sẽ giảm nhu cầu của khách hàng đặc biệt là những đối tượng có tiềm lực tài chính còn hạn hẹp (những hộ gia đình nghèo và công ty nhỏ). Rủi ro cá nhân là một trong những vấn đề đa dạng và không được bảo hiểm khiến chi phí vay tăng cao nhằm tránh rủi ro cho các ngân hàng. Điều này cũng khiến lãi suất vay thường cao đối với những người mới và vay với khoản nhỏ. Khi rủi ro cá nhân tăng cao thì người vay sẽ trở lên khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ tín dụng, vay vốn do chi phí và lãi suất vay tăng cao. Rủi ro lựa chọn bất lợi khiến phí bảo hiểm cho các khoản vay tăng cao từ đó hạn chế việc sử dụng tín dụng của người dân. Ngoài phí bảo hiểm, các TCTD thường đánh giá mức độ tin tưởng của người vay thông qua lịch sử tín dụng. Đối với người mới thì lịch sử tín dụng thường trống nên các tổ chức này yêu cầu tài sản thế chấp khi vay vốn nhưng đối với những đối tượng dễ bị tổn thương thì tài sản thế chấp thường không nhiều hoặc không có giá trị đảm bảo cho các khoản vay, tạo ra rào cản lớn cho việc tiếp cận nguồn vốn từ phía ngân hàng. Theo Đặng Ngọc Đức (2020) thì trong số 250 hộ từng vay tín dụng phi chính thức (chủ yếu là tín dụng đen) được khảo sát các câu hỏi về phía sự hỗ trợ từ phía chính quyền, đoàn thể và cơ quan khi cần vay tiền thì có tới 35,2% trong số những người vay tín dụng đen cho rằng họ không biết hỏi ai để được hỗ trợ. Đây cũng là rào cản lớn nhất cản trở việc tiếp cận tín dụng chính thức của người dân. Ngoài ra, hơn 31% trong số những người vay tín dụng phi chính thức cho rằng họ “ngại” khi đi tìm; 16,3% không muốn chính quyền biết phần còn lại là không được giúp đỡ dù đã liên hệ hoặc lý do khác. Những lý do trên đây chính là rào cản trong việc tiếp cận tín dụng chính thức và mở đường cho sự phát triển của tín dụng đen. Nghiên cứu về rào cản tiếp cận tín dụng chính thức từ phía cung Claessens (2006) cho rằng: các TCTD ở các nước đang phát triển ngày càng mở rộng nhưng lại khó đáp ứng các yêu cầu về vốn của các hộ kinh doanh cá thể do không huy động tiền gửi, hoặc không đủ vốn yêu cầu để trở thành những trung gian tài chính thực thụ như các ngân hàng. Sự yếu thế của các TCTD nhỏ, phi ngân hàng trước những ngân hàng lớn trong việc tiếp cận vào mạng lưới hệ thống thanh toán và thông tin khách hàng khiến việc cung cấp dịch vụ tín dụng cho khách hàng còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Về phía ngân hàng, sự hạn chế trong việc tiếp cận dịch vụ tín dụng chủ yếu đến từ việc tốn kém trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng cho những khu vực có mật độ dân số thấp hoặc những nơi có an ninh yếu kém. Ngoài ra, chi phí giao dịch, chi phí thủ tục cho khoản vay nhỏ thường rất cao trong khi nhu cầu vay các khoản nhỏ thường lớn nhất. Bên cạnh đó, các khoản vay nhỏ này thường trả nợ theo từng đợt khiến việc mở rộng tín.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> 12 dụng của ngân hàng ngày càng gặp nhiều khó khăn, cơ hội phát triển ngày càng thu hẹp. Chính vì vậy, những ngân hàng thường tập trung cho những doanh nghiệp lớn vay những khoản lớn thay vì cho vay nhiều khoản nhỏ đối với hộ gia đình do rủi ro và chi phí rất cao. Nghiên cứu này được nghiên cứu của Beck và cộng sự (2009) ủng hộ với ý kiến cho rằng việc phát triển nhiều tổ chức vi mô ở những nước nơi có tỷ lệ hộ nghèo cao chưa chắc là ý kiến tốt đối với các ngân hàng. Các tổ chức tài chính vi mô kì vọng cung cấp những khoản vay nhỏ cần thiết cho những hộ gia đình nghèo với lãi suất thấp nhằm giúp họ có thể đầu tư, mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, đối với người nghèo thì tín dụng không phải là dịch vụ tài chính cần thiết nhất đối với họ; dịch vụ tiết kiệm, thanh toán tốt (bao gồm cả chuyển tiền quốc tế) và bảo hiểm có vai trò quan trọng hơn. Chính vì vậy hoạt động của các tổ chức vi mô này sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đạt được nhiều mục tiêu đề ra, tốc độ tăng trưởng thấp và khó tiếp cận được nhiều khách hàng. Ngoài ra, việc sử dụng công nghệ có thể giúp người nghèo tiếp cận được dịch vụ tài chính ít tốn kém hơn nhưng chi phí để các tổ chức tài chính sử dụng các công nghệ này rất lớn và chưa chắc có thể tạo ra lợi nhuận nên việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các hộ gia đình nghèo và doanh nghiệp nhỏ còn hạn chế. Nghiên cứu Beck và De La Torre (2006b) lại cho thấy: việc hạn chế và từ chối cung cấp các dịch vụ tín dụng xuất phát từ việc các TCTD sợ rủi ro về kinh tế vĩ mô (ví dụ biến động đáng kể về tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực và tỷ giá hối đoái thực), những vấn đề bất cập về đạo đức (khuyến khích người vay sử dụng số tiền cho vay vào những việc có rủi ro cao hơn so với quy định về mục đích sử dụng vốn vay trong hợp đồng tín dụng và che giấu điều đó với chủ nợ. Bằng cách chấp nhận rủi ro lớn hơn, người vay có thể thu lại lợi nhuận lớn hơn); khó khăn khi thực thi hợp đồng (đặc biệt khi người vay vốn không trả được nợ); điểm yếu trong hợp đồng và thông tin (khó định nghĩa và thực hiện quyền của chủ nợ, khó kê khai và thiếu nhân viên chuyên nghiệp)... Các ngân hàng thường sử dụng các khoản tiền gửi của khách hàng để cho vay nên việc có trách nhiệm với khoản tiền này lớn khiến những người đi vay phải tuân thủ một loạt những quy định cần thiết, chi phí giao dịch lớn, tốn thời gian... Ngoài ra, yếu tố chi phí cố định bao gồm chi phí thanh toán bù trừ, thanh toán cơ sở hạ tầng, chi phí pháp lý... là một hạn chế quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ thanh toán và tiết kiệm tạo ra rào cản cho những khách hàng muốn tiếp cận vào các dịch vụ tài chính. Nhìn chung, chi phí kinh doanh cao, tham nhũng phổ biến, mất an ninh, hoặc thậm chí thiếu điện làm yếu tố chi phí cố định của việc cung cấp dịch vụ tài chính tăng cao tạo ra những hậu quả tiêu cực đối với nhiều khách hàng có giao dịch giá trị thấp nhưng khối lượng lớn. Đặc biệt, các TCTD có quy mô nhỏ thường bị chi phối rất nhiều.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> 13 bởi chi phí cố định và yếu tố này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung cấp dịch vụ tài chính đến khách hàng. Vấn đề tiếp cận dịch vụ tín dụng ở một số nước đang phát triển chủ yếu xuất phát từ ba vấn đề chính: giao dịch nhỏ, tổ chức tài chính nhỏ, thị trường nhỏ. Việc các khách hàng có nhu cầu thanh toán nhỏ, ít giao dịch và tiết kiệm không đem lại lợi nhuận cho các tổ chức cung cấp các dịch vụ tài chính trong khi các chi phí cố định của việc xây dựng cơ sở hạ tầng pháp lý và kế toán, lắp đặt công nghệ vô cùng lớn. Chính vì vậy, các ngân hàng sẽ không sẵn sàng mở chi nhánh ở thị trường không tiềm năng. Ngoài ra, thị trường có quy mô nhỏ kéo theo việc thị trường chỉ có thể hỗ trợ một số TCTD khả thi (đạt đến quy mô hiệu quả) từ đó gia tăng sự cạnh tranh bất hợp lý giữa các ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ, giảm sự thúc đẩy trong việc mở rộng cung cấp dịch vụ tài chính. Nghiên cứu cũng chỉ ra rào cản của việc mở rộng tiếp cận tín dụng do việc mở rộng ban đầu sẽ khiến lợi nhuận trung bình trên mỗi khách hàng giảm đi khiến lợi nhuận không được cải thiện do sự dịch chuyển từ chất lượng dịch vụ cao quy mô nhỏ sang chất lượng dịch vụ thấp quy mô lớn. Ngoài ra, ngân hàng còn phải tốn thêm một khoản chi phí chuyển đổi lớn bao gồm thay đổi công nghệ, quy mô, cấu hình của văn phòng ngân hàng, chi phí tiếp thị tăng... Hơn thế nữa, lợi nhuận không chịu áp lực từ việc cạnh tranh, khi không đủ năng lực cạnh tranh thì các nhà cung cấp dịch vụ tài chính thường tập trung vào những hộ gia đình giàu có, các công ty lớn và ít quan tâm đến quản lý chi phí hiệu quả, tiếp cận khách hàng mới, cải thiện bộ máy dịch vụ và tối đa hệ thống thông tin, công nghệ để mở rộng việc tiếp cận dịch vụ tín dụng. Chính vì vậy, có rất ít động lực để ngân hàng đang có nguồn lợi nhuận ổn định đánh đổi để tăng quy mô tiếp cận dịch vụ tín dụng. Bên cạnh những yếu tố mà các nhà cung cấp dịch vụ tín dụng có thể ảnh hưởng được thì các nhân tố sau nằm ngoài sự ảnh hưởng của họ bao gồm quy mô thị trường, nền tảng kinh tế vĩ mô, mức trung bình và phân phối thu nhập bình quân đầu người, công nghệ có sẵn, cơ sở hạ tầng, các yếu tố đảm bảo việc thực hiện hợp đồng và rủi ro đạo đức tạo ra sự cản trở chung đối với việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Việc tăng cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính không đủ để thúc đẩy mở rộng tiếp cận dịch vụ tín dụng. Trừ khi một sự tăng trưởng đáng kể về quy mô thị trường, một bước đột phá về công nghệ trong công nghệ thông tin và truyền thông, một sự cải thiện đáng chú ý về cơ sở hạ tầng đường bộ hoặc viễn thông, hoặc sự giảm thiểu rõ rệt về vấn đề rủi ro đạo đức mới khiến các ngân hàng quyết định mở rộng cung cấp tiếp cận dịch vụ tín dụng trong khi vẫn đảm bảo được tăng trưởng của lợi nhuận. Chính vì vậy, nhiều người dân không tiếp cận được với nguồn vốn chính thức từ phía ngân hàng và các tổ chức tài chính chính thức..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> 14 Nghiên cứu Beck và cộng sự (2009) đồng ý với quan điểm trên và cho rằng sự không hoàn hảo của thị trường tài chính (ví dụ như sự bất cân xứng về thông tin và chi phí giao dịch) tạo ra sự khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ tín dụng của người nghèo và những doanh nghiệp nhỏ. Các tổ chức tài chính từ chối cung cấp dịch vụ vì thiếu tài sản thế chấp, lịch sử tín dụng sơ sài, không có mối quan hệ với người có uy tín và chỉ có các khoản tiết kiệm nhỏ, nguồn thu nhập không đảm bảo. Vấn đề về tiếp cận dịch vụ tín dụng này thường bị bỏ qua do lỗ hổng thông tin nghiêm trọng giữa các tổ chức tài chính và những người sử dụng dịch vụ tài chính, xuất phát từ mâu thuẫn giữa các yếu tố loại hình, chất lượng dịch vụ được cung cấp và chi phí cho những dịch vụ đó. Ngoài ra hàng rào về thông tin cũng ngăn cản sự tiếp cận dịch vụ tín dụng của người dân. Nghiên cứu Diagne và Zeller (2001) xem xét việc hình thành các tổ chức tài chính nông thôn bền vững là một nhiệm vụ khó đạt được ở các nền kinh tế lạc hậu, nông thôn thiếu thủy lợi, cơ sở hạ tầng yếu kém, thu nhập thấp, người dân còn chưa được đáp ứng về các yếu tố về phúc lợi xã hội. Lợi ích việc mở rộng tín dụng ở cấp hộ gia đình có thể không đạt được trong những năm hạn hán kéo dài. Chính vì vậy, việc mở rộng sử dụng các dịch vụ tài chính ở những vùng sâu vùng xa là vô cùng khó khăn, cần chú ý đến địa điểm và thời gian của việc đưa các chương trình mở rộng tín dụng. Nghiên cứu về rào cản tiếp cận dịch vụ tín dụng chính thức từ phía chính phủ Beck và cộng sự (2006b) cho biết nhiều chính sách lại đem lại những yếu tố tiêu cực đến việc tiếp cận dịch vụ tín dụng của khách hàng. Các chi phí về việc tuân thủ một số quy định phức tạp như "Know your customer (KYC)" (xác minh danh tính của các khách hàng nhằm giúp cho hệ thống tuân thủ luật chống rửa tiền và bảo vệ khỏi những hoạt động vi phạm pháp luật) và luật chống rửa tiền sẽ khiến các TCTD khó tiếp cận với những khách hàng ở khu vực thu nhập thấp, không thể chi trả được những chi phí khi vay các khoản vay từ phía ngân hàng. Claessens (2006) ủng hộ nghiên cứu trên và cho rằng sự can thiệp của chính phủ cũng là một rào cản lớn trong việc mở rộng hình thức cho vay, hạn chế các TCTD đưa ra các dịch vụ hấp dẫn đến khách hàng. Các quy định và thủ tục cho vay được chính phủ ban hành nhằm ngăn chặn tình trạng rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố lại khiến cho chi phí cho dịch vụ tài chính tăng, hạn chế người tiêu dùng tiếp cận tín dụng chính thức. Bên cạnh đó, các công ty thường không dám vay dịch vụ tài chính thức vì việc kinh doanh của họ không tốt hay họ không muốn để lộ những bí mật của công ty nhằm hạn chế rủi ro đặc biệt là với bên quản lý thuế. Ngoài ra, các ngân hàng thường tập trung vào những dịch vụ tiền gửi thanh toán và tiết kiệm vì nhu cầu cao của người dân trong khi những dịch vụ cho vay nhỏ lẻ thì lại rải rác, chưa được chú trọng..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> 15 Nghiên cứu Beck và cộng sự (2009) cho rằng các chính sách của chính phủ không phải lúc nào cũng hiệu quả thậm chí một số chính sách còn phản tác dụng. Ngay cả hệ thống tài chính được hỗ trợ bởi cơ sở hạ tầng thông tin và hợp đồng “vững mạnh” cũng vẫn có thể gặp vấn đề. Không phải người vay nào cũng đáng tin và nhiều phúc lợi quốc gia đã bị ảnh hưởng bởi các chính sách tín dụng nới lỏng. Một ví dụ điển hình về ảnh hưởng tiêu cực của các chính sách này chính là cuộc khủng hoảng nợ dưới tiêu chuẩn của Mỹ xuất phát từ cho các hộ gia đình có thu nhập thấp các khoản vay mà họ không thể trả nợ được. Ngoài ra, đối với những nước có hệ thống tài chính phát triển thì việc thực thi quyền chủ nợ là quan trọng hơn và chính phủ thường đưa ra những chính sách nhằm cải thiện điều đó nhưng điều này thường rất khó thực hiện. Nghiên cứu Haselmann và cộng sự (2010) phát hiện ra rằng việc xây dựng các cơ quan đăng ký tín dụng và cải cách các thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp có khả năng dễ dàng hơn là cải thiện lâu dài trong việc thực thi quyền của chủ nợ. Chính vì vậy, chính phủ cần cân nhắc trong việc đưa ra các chính sách phù hợp nhằm cải thiện việc tiếp cận tín dụng của khách hàng. Nghiên cứu Kumar (2004) cho rằng nhiều chính sách truyền thống được ban hành ở Brazil để mở rộng tiếp cận dịch vụ tín dụng với mục đích phân bổ lượng tín dụng với lãi suất thấp, các nguồn tài chính hỗ trợ dành cho người vay và được quản lý thông qua các ngân hàng thương mại Brazil với chi phí cao. Ước tính việc tài trợ cho việc mở rộng quyền tiếp cận tín dụng lên đến hàng tỷ Reals. Tuy nhiên, thông qua phân tích kết quả của các chương trình tài chính nông thôn, thì nhiều chương trình không đến tay được nhiều người nông dân nghèo mà bị “chi phối” bởi một bộ phận người khá giả gây ra bất lợi cho việc mở rộng tiếp cận diện rộng. Theo thống kê thì trong số những người tham gia chương trình vay thì những người được vay nhiều nhất (thường là các hộ khá giả) chiếm 2% trên tổng số người tham gia chương trình nhưng lại nhận được 57% tổng tín dụng cung cấp của các tổ chức chính thức. Trong khi những người vay nhỏ chiếm đến 75% trên tổng số người vay nhưng chỉ nhận được chưa đầy 6% tổng tín dụng cung cấp của các tổ chức chính thức. Bên cạnh đó, việc đưa ra các chính sách về các khoản vay với lãi suất thấp để mở rộng việc tiếp cận các khách hàng đặc biệt là các đối tượng tổn thương thường gây ra tốn kém được đánh giá bằng khối lượng tín dụng cung cấp và hậu quả mà xã hội phải gánh chịu. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thị trường tài chính là một phần quan trọng của nhóm thị trường nhân tố rộng lớn, bao gồm thị trường đất đai và lao động, là những tổ chức cơ bản làm cơ sở cho hoạt động hiệu quả của nền kinh tế và sản xuất và cung ứng hóa. Việc thiếu tiếp cận tín dụng sẽ làm giảm phúc lợi tiềm năng của các cá nhân và năng suất của các doanh nghiệp trong.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> 16 một nền kinh tế. Do đó, việc tiếp cận các đối tượng dễ bị tổn thương vào thị trường tài chính có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển kinh tế và xã hội và hòa nhập xã hội. Thất bại ở những thị trường này có tác động đặc biệt bất lợi đến năng suất kinh tế và lợi ích xã hội. Tuy nhiên, việc sử dụng các chính sách tạo ra sự hỗ trợ cho thị trường này chưa chắc tạo ra kết quả tốt, thậm chí còn phản tác dụng. Do đó, những thị trường này thường được quy định chặt chẽ. Tuy nhiên những quy định này, đến lượt nó, tạo ra nguy cơ thất bại trong quá trình thực hiện và nhiều quy định có thể cản trở việc tiếp cận người nghèo. Diagne và Zeller (2001) chỉ ra rằng ở Malaysia, thông qua các chương trình tín dụng ưu đãi, các tổ chức cung cấp tín dụng cho những hộ nông dân nghèo giúp họ mở rộng sản xuất và tăng thu nhập. Tuy nhiên, khi so sánh thu nhập ròng giữa các hộ nông dân tham gia chương trình tín dụng và các hộ nông dân không tham gia thì kết quả lại không như mong đợi. Các hộ nông dân tham gia chương trình tín dụng ưu đãi thường kết thúc với thu nhập nhỏ hơn so với những hộ không tham gia chương trình. Nghiên cứu đã phản ánh rõ ràng việc cung cấp tín dụng cho các người nghèo cần phải tính đến những cơ hội và hạn chế thực tế mà nông dân nghèo phải đối mặt để tín dụng hoạt động một cách hiệu quả. Ví dụ, tín dụng thường bị hạn chế cho những người nông dân ít tiếp cận với đường xá, thị trường, chăm sóc sức khỏe và thường chịu những đợt hạn hán có thể xóa bỏ mùa màng của họ như Malawi. Chính vì vậy, các chính sách đưa ra nhằm hỗ trợ với người nghèo cần tính toán đến những rủi ro nhất định. Việc thi hành những chính sách của chính phủ không đúng cách tạo ra một rào cản lớn ảnh hưởng đến việc sử dụng các dịch vụ tài chính và tiếp cận nguồn vốn chính thức của người dân, đặc biệt là những đối tượng dễ bị tổn thương cần sự trợ giúp của chính phủ khi họ khó có thể đáp ứng được điều kiện vay vốn từ phía ngân hàng trong khi nhu cầu tín dụng cao.. 1.1.4. Nghiên cứu về tiếp cận tín dụng phi chính thức và tín dụng đen Hiện nay trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về tiếp cận tín dụng phi chính thức, tín dụng đen và ảnh hưởng của nó, tuy nhiên lại có rất ít tác giả nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi ảnh hưởng đến việc vay tín dụng đen. Nhìn một cách tổng thể, các cuộc nghiên cứu thường nói đến những ảnh hưởng của tín dụng đen, so sánh tín dụng đen với các loại hình cho vay khác, sự ra đời và phát triển của tín dụng đen, tương lai của tín dụng đen… Các nghiên cứu về tín dụng phi chính thức có thể chia thành 2 nhóm chính:.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> 17 Nhóm thứ nhất tiếp cận từ góc độ các nhân tố dẫn đến hành vi tín dụng phi chính thức và tín dụng đen Theo Fishbein và Bunce (2000) thì những khoản tín dụng đen thường xuất hiện ở trong thị trường thế chấp dưới chuẩn nơi những người đi vay thế chấp tài sản của họ nhằm những mục đích tiêu dùng cá nhân hoặc trả các khoản nợ. Hầu hết những người đi vay đều bị hạn chế khả năng tiếp cận với nguồn tín dụng chính thức do một số lý do như tài sản đảm bảo không đảm bảo điều kiện. Tương tự, Carr và Kolluri (2001a) cũng cho rằng tín dụng đen là việc cho vay với những người có lịch sử thanh toán tín dụng kém, nợ quá hạn, không thanh toán các khoản chi phí như phí phá sản, các khoản phí phạt hành chính… khiến cho họ không có khả năng tiếp cận những khoản tín dụng chính thức từ các ngân hàng và tổ chức tài chính được công nhận. Đa số những người đi vay là những người thiếu hiểu biết tài chính, có thu nhập thấp nhưng lại có một lượng lớn tài sản có giá trị có thể đem đi thế chấp hoặc bán đi để trả nợ. Ví dụ như các hộ kinh doanh mà người đứng đầu là người già, không có nhiều tiền mặt, ít hiểu biết về tài chính, không tiếp cận được nguồn tín dụng chính thức nhưng lại có nhiều tài sản giá trị như đất đai hoặc tài sản đảm bảo cho khả năng trả nợ, hoặc tài sản thuộc sở hữu của con cái họ như nhà, xe…; vì vậy, có thể dùng các tài sản này để đi vay tín dụng phi chính thức. Theo McCoy (2005) những người sử dụng tín dụng phi chính thức (mà phần lớn là tín dụng đen) thường là những người đang gặp vấn đề tài chính với các khoản nợ đến hạn, không có khả năng tiếp cận các khoản tín dụng chính thức từ phía ngân hàng do chưa thanh toán các khoản nợ cũ và có khả năng mất nhà nếu không thanh toán đúng hạn. Ngoài ra, những người đi vay bị lôi kéo bởi những lời chào mời hấp dẫn về những khoản vay nhanh, lãi suất thấp khi đang có những nhu cầu cấp thiết về tiền. Những người đi vay bị những người cho vay làm “mờ mắt” về những khoản tiền lãi khổng lồ, điều khoản thiếu minh bạch và coi các khoản vay này như một khoản thanh toán có thể quản lý mỗi tháng. Hơn thế nữa, các tổ chức cung cấp tín dụng phi chính thức thường nhấn mạnh vào khoản tiền mặt tức thời mà người vay nhận được. Chính vì các lý do trên mà các hộ kinh doanh cá thể tại các nước đang phát triển sử dụng tín dụng đen ngay càng nhiều hơn, đặc biệt là những người thiếu hiểu biết, tự tin vào khả năng của mình. Kelso (1941a) cho rằng việc sử dụng tín dụng đen thường bị ảnh hưởng bởi một số lý do sau: (1) đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của gia đình như ốm đau, bệnh tật… Các khoản vay nhỏ từ các TCTD đen càng nhiều, chứng tỏ các gia đình càng có nhiều vấn đề chi tiêu ngoài kế hoạch; (2) do mức thu nhập càng thấp, ngân sách tài chính của gia đình càng eo hẹp không đủ đáp ứng các nhu cầu chi tiêu tối thiểu, không có khả năng vay tại các TCTD chính thức khiến họ “bắt buộc” phải vay từ các TCTD đen để trang.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> 18 trải cuộc sống; (3) những người có công việc không ổn định, hoặc ở mức bán thất nghiệp như công nhân các nhà máy, người làm công ăn lương ở các ngành thu nhập thấp… thường có xu hướng sử dụng tín dụng đen nhiều hơn những người có công việc tốt, thu nhập cao, ổn định; (4) ốm đau, bệnh tật mà không có bảo hiểm y tế là một trong những nguyên nhân lớn khiến cho người dân phải tìm đến tín dụng đen do không còn lựa chọn nào khác. Theo Đặng Ngọc Đức (2020) thì những người vay thường là người nghèo, hoặc người có thu nhập thấp, dân trí về tài chính không cao, hoặc vay tiền chủ yếu để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cấp bách, trả nợ, xây nhà, mua nhà, sản xuất, kinh doanh, đóng học phí, chữa bệnh… Vì nhu cầu cần vốn thì hầu như ai cũng có nên đối tượng tham gia cho vay hay đi vay bao gồm đầy đủ các thành phần trong xã hội, nhưng đặc biệt phổ biến là những người dân nghèo, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Những hộ nông dân cần vốn để mua trồng cây giống, vật nuôi, tiếp tục một mùa vụ mới hay để bù lỗ của mùa vụ trước; để chi trả chi phí sản xuất, trả lương nhân viên hoặc giải quyết tình huống cấp bách... Trong khi đó, mục đích chính của bên cho vay là kiếm lời nhanh, giàu nhanh mà bỏ qua nguy cơ nợ xấu cũng như vi phạm pháp luật. Tương tự như vậy, Phạm Văn Tám (2018) cũng cho rằng nguyên nhân dẫn đến hành vi sử dụng tín dụng đen do người vay tiền tham gia những hoạt động tệ nạn hay có những nhu cầu bất hợp pháp cần che giấu. Ngoài ra, chế tài xử phạt của pháp luật về xử lý tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến “Tín dụng đen” còn nhiều vướng mắc chưa có sự răn đe với các Tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức tạo ra lỗ hổng lớn cho việc phát triển của tín dụng đen. Theo Nguyễn Kim Hùng (2019) thì hiện nay nguồn vốn của ngân hàng chỉ tiếp cận chủ yếu bởi các doanh nghiệp trong khi những hộ kinh doanh cá thể vẫn khó khăn trong việc tiếp cận vốn và buộc phải sử dụng tín dụng đen như nguồn vốn thay thế. Nhóm thứ hai tiếp cận từ hành vi của người cho vay Fishbein và Bunce (2000); Eggert (2001) đều đề cập đến tín dụng đen là những hành vi liên quan đến việc lừa dối, lừa đảo và lợi dụng người vay được thực hiện bởi các chủ nợ, nhà môi giới, các tổ chức… Eggert (2001) cũng cho rằng tín dụng đen là các khoản vay thiếu công bằng, lừa đảo, quảng bá sai sự thật, thiếu trung thực khi thực hiện hợp đồng vay và lợi dụng sử thiếu hiểu biết của người vay để chuộc lợi. Ngoài ra, những Tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức còn đe dọa, tạo ra áp lực, sử dụng vũ lực, đối xử không công bằng nếu như người vay không trả được nợ đúng hạn. Bên cạnh đó, Eggert (2001) cũng chia tín dụng đen thành hai hoạt động chính: (1) Những.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> 19 hoạt động bất hợp pháp hoặc vô lương tâm bao gồm những hoạt động như trình bày sai, biến tấu, che giấu các điều khoản bất lợi đối với người vay, giả mạo chữ ký người vay và các tài liệu thông tin cá nhân của người đi vay…; (2) Những hoạt động gây cản trở, khó khăn cho cơ quan quản lý của ngành tín dụng. Hoạt động tín dụng là hợp pháp nhưng khi bị các TCTD bất hợp pháp lợi dụng khiến cho người vay phải chịu những khoản vay với chi phí và lãi suất cao hơn thị trường gấp nhiều lần. Tương tự, Morgan (2007) cho rằng tín dụng đen là một khoản giảm phúc lợi liên quan đến những hành vi vay với lãi suất cho vay vượt mức pháp luật quy định gấp nhiều lần và lừa dối nhằm vào một số phân khúc khách hàng đang gặp khó khăn về tài chính, thiếu hiểu biết về tài chính. Những Tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức sử dụng những chiêu trò như phóng đại thu nhập trong tương lai của người đi vay có thể có được nếu vay vốn từ các tổ chức này để tạo tâm lý tốt cho người vay nhằm thúc đẩy quyết định vay của họ. Ngoài ra, các tổ chức này còn quảng cáo về tính hấp dẫn của khoản vay để thu hút người đi vay. Theo Eubank (1917) thì ở Hoa Kỳ tồn tại những người cho vay nặng lãi “khai thác” triệt để những cá nhân không thể hoặc không muốn sử dụng tín dụng ở các khu vực tài chính chính thức. Bằng việc tận dụng sự cần thiết tín dụng ngay lập tức của những người này, những người cho vay nặng lãi đã đáp ứng những khoản vay đó với những điều khoản đặc biệt, chi phí lớn, lãi suất cao để có thể chiếm đoạt tài sản của người đi vay. Nhiều tổ chức cho vay nặng lãi thường ẩn thân dưới các công ty sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hỗ trợ tài chính… và thường không có biển hiệu nhằm che giấu những hành vi của mình. Nghiên cứu này được ủng hộ bởi nghiên cứu của Bond và cộng sự (2009). Theo Bond và cộng sự (2009) thì những người cho vay này thường tiếp cận những chủ nhà đang phải đối mặt với việc bị tịch thu nhà nếu không trả được nợ cho ngân hàng. Những người này tái cấp vốn cho họ thông qua những khoản vay giúp họ để có thể giữ lại ngôi nhà và sử dụng ngôi nhà như một thế chấp mới cho khoản vay này. Tuy nhiên, cuối cùng mục đích của những người cho vay nặng lãi này là chiếm đoạt ngôi nhà và bất động sản thông qua những điều khoản bất lợi cho người vay. Nghiên cứu Eggert (2001) cũng cho rằng mục tiêu của người cho vay nặng lãi là ép buộc hoặc lừa chủ nhà vay tiền với lãi suất hoặc phí cao hơn so với thị trường do phải trả các loại phí khi vay, độ tín nhiệm thấp, lịch sử nợ xấu ở các ngân hàng và TCTD... Hơn thế nữa, những người cho vay nặng lãi còn khuyến khích người đi vay vay các khoản lớn hoặc khác với những gì người vay cần, muốn hoặc có thể chi trả nhằm giảm chi phí, lãi suất nhưng thực chất là muốn tối đa hóa lợi nhuận đem lại từ khoản vay, chiếm đoạt tài sản. Những người cho vay nặng lãi có thể giảm thiểu nếu như có sự cạnh tranh giữa các Tổ chức cung cấp dịch.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> 20 vụ tín dụng phi chính thức, nhưng đa số những người cho vay này thường dụ dỗ người vay kí vào bản hợp đồng vay thế chấp trước khi họ có thể tìm được một nguồn vay tốt hơn. Nghiên cứu cũng chỉ ra những người cho vay nặng lãi thường chỉ quan tâm đến những người sở hữu nhà bất động sản có giá trị cao. Theo McCoy (2005) thì đa số những người cho vay nặng lãi thường theo dõi những báo cáo tín dụng về các vấn đề nợ nần, mua danh sách những khoản nợ quá hạn từ những người đòi nợ. Ngoài ra, họ còn kiểm tra những hồ sơ trả nợ thế chấp, giấy triệu tập ly hôn, thế chấp thuế, trường hợp thu nợ quá hạn… để có thể biết tiếp cận được những người có vấn đề về tín dụng. Những người cho vay nặng lãi tận dụng điều đó với những lời mời chào thông qua điện thoại, hay “đến tận cửa” để chào mời về những khoản vay tiền nhanh chóng với số lượng lớn, lãi suất ưu đãi có thể điều chỉnh với nhiều khuyến mại giúp những người đi vay có thể trì hoãn các khoản nợ khác, giải quyết vấn đề tài chính tức thời và che đi mối hiểm họa đằng sau. Chính điều này góp phần dẫn đến sự leo thang của tín dụng đen. Nhóm tác giả Carr và Kolluri (2001a), Venkatesan (2004) cũng cho rằng bên cạnh các hành vi tạo ra những hợp đồng gây bất lợi dành cho người đi vay nhằm tạo ra khoản lợi nhuận lớn nhất dành cho người cho vay thì các khoản vay này cũng được “thiết kế” nhằm ngăn chặn người vay trả đủ hết số tiền nợ bằng cách khiến cho các khoản lãi được dồn vào gốc khiến những khoản tiền dư nợ gốc tăng lên, từ đó có thể dễ dàng chiếm đoạt tài sản. Những nghiên cứu của Booth (1991), Chin (1995) và sau đó của Morgan (2000) về các nhóm tội phạm của Trung Quốc ở Hồng Kông và Bắc Mỹ chỉ ra: hoạt động cho vay nặng lãi còn được các tổ chức tội phạm Trung Quốc đấu giá để chọn lãnh thổ hoạt động. Điều này rất có ý nghĩa vì hoạt động tội phạm có tổ chức thường kiểm soát ngành công nghiệp cờ bạc, và việc cho vay đối với những người nghiện đánh bạc hoặc “con bạc khát nước” là một nguồn thu quan trọng của các cơ sở đánh bạc. Theo Đặng Ngọc Đức (2020) những Tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức thành lập công ty tài chính, tạo vỏ bọc kinh doanh có lãi, sau đó tổ chức huy động vốn với mức lãi suất cao hơn quy định về trần lãi suất của ngân hàng nhà nước nhằm đánh vào tâm lý hám lợi của người có tiền nhàn rỗi, tổ chức huy động vốn theo mô hình đa cấp... Tiền huy động được đối tượng sử dụng cho mục đích cá nhân hoặc đem đầu tư, kinh doanh ngành nghề rủi ro cao từ đó mất khả năng thanh toán, trả nợ vốn vay. Quảng cáo rộng rãi về hình thức cho vay tiêu dùng với thủ tục đơn giản, không cần chứng minh tài chính để thu hút những người có nhu cầu vay vốn nhưng khi ký hết hợp đồng. Nhân.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> 21 viên công ty tài chính này thường giải thích qua loa nội dung hợp đồng và yêu cầu bên vay nhanh chóng ký xác nhận vào các bản hợp đồng đã được lập sẵn với các nội dung điều khoản có lợi cho công ty và hoàn thiện giải ngân các khoản vay. Khi nhận được hợp đồng hoặc khi đáo hạn, người vay mới phát hiện ra thông tin về mức lãi suất thường cao hơn nhiều so với tư vấn ban đầu hoặc phát sinh các khoản phí khác ngoài lãi suất đi vay. Hơn thế nữa, trên bản hợp đồng vay tiền, nhận tiền mà hai bên đã cam kết với nhau, không thể hiện mức lãi suất thỏa thuận. Bên cho vay thường sử dụng các thỏa thuận bằng miệng và thu lãi ngay khi giao tiền cho bên vay. Thực chất trong hợp đồng đã bỏ qua các thông tin về lãi suất, điều kiện và điều khoản với bên vay. Sau đó khi kí kết hợp đồng xong, các đối tượng bổ sung thông tin về lãi suất, điều kiện hoàn vốn, đáo hạn vốn với lợi thế thuộc về bên cho vay. Khi người vay hoàn vốn mới biết khoản vay có lãi suất cao quá mức quy định nhưng vẫn phải chấp nhận hoàn trả. Bên cạnh đó, các tổ tín dụng đen còn sử dụng đội ngũ chân rết để tìm kiếm, mở rộng hoạt động cho vay, tập trung vào những người nghèo, có hoàn cảnh éo le, cần tiền để sản xuất chữa bệnh, phục vụ nhu cầu cuộc sống nhưng không có khả năng tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng do không có tài sản thế chấp theo quy định. Theo Anh Phan (2020) thì những Tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức lợi dụng sự kém hiểu biết về quy trình, thủ tục cho vay của các ngân hàng, tâm lý và thói quen thụ động trong thực hiện các giao dịch kinh tế của một bộ phận người dân khi có nhu cầu vốn để có thể phát triển và mở rộng. Đặc biệt, các tổ chức “tín dụng đen” đã thâm nhập tới các địa bàn vùng sâu, vùng xa, nơi nhận thức người dân còn hạn chế, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, nông dân để tiếp thị các gói tín dụng với nhiều ưu đãi, thủ tục đơn giản rồi lập các hợp đồng ủy quyền để người dân ký giấy ủy quyền cho các tổ chức này đứng ra vay vốn ngân hàng nhưng thực chất đây là các ủy quyền cho Tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức toàn quyền quyết định liên quan tới tài sản thế chấp. Các đối tượng tiếp tục sử dụng giấy ủy quyền để vay vốn ngân hàng, trong nhiều trường hợp, có sự tiếp tay của cán bộ ngân hàng nên khoản vay được duyệt mà không đảm bảo quy trình vay vốn. Khi Tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức vỡ nợ hoặc bỏ trốn, ngân hàng tiến hành thu hồi tài sản cầm cố thì chủ nhân đích thực của mảnh đất đó cũng như ngân hàng mới biết rõ tình trạng tài sản của mình, các gia đình đối mặt với việc mất tài sản còn ngân hàng thì chịu rủi ro vì nợ quá hạn nhưng không xử lý tài sản đảm bảo được do đang có tranh chấp. Theo Phạm Thành Thôi (2020) thì những Tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức thường sử dụng nhiều phương thức để tiếp cận với khách hàng và dễ dàng nhân rộng phạm vi hoạt động dựa trên sức mạnh và sức ảnh hưởng của cộng đồng, người.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> 22 thân tín và nhân sự địa phương. Các tổ chức này cũng phân bổ nhân viên theo các cấp và thực hiện nhiệm vụ theo các vùng được chỉ định, quảng cáo và tiếp cận tư vấn 24/24. Ngoài ra, những TCTD này cũng sử dụng những hệ thống phòng ngừa rủi ro và giải quyết nợ như gửi tin nhắn, gọi điện thoại, thư gửi, thuê công ty thu nợ (dành cho những khách hàng vay mà không sợ và không muốn trả nợ)… để răn đe, nhắc nhở những người vay phải trả tiền. Theo Phạm Văn Tám (2020) thì những Tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức thường có những thủ đoạn tinh vi như cất giấu hợp đồng ở những nơi kín đáo, dễ tiêu hủy, sử dụng mạng xã hội để chốt hợp đồng, chia nhỏ gói vay, không hiện lãi suất trong hợp đồng, cho vay dưới dạng chơi họ, hụi trong thời gian ngắn, lợi dụng công nghệ thông tin, phần mềm, ứng dụng điện thoại để cho vay… để tránh những trách nhiệm về hình sự.. 2.2. Khoảng trống nghiên cứu Từ tổng quan nghiên cứu có thể thấy một số khoảng trống nghiên cứu như sau: Thứ nhất, những nghiên cứu trước ở trong nước và trên thế giới về các nhân tố ảnh hưởng đã đề cập đến “Ý định sử dụng” các hàng hóa và dịch vụ thông thường như Internet Banking, Mobile Banking, vay tiêu dùng thông thường… Những dịch vụ này đều được cung cấp công khai và các nghiên cứu được thực hiện với mục đích khảo sát mức độ quan tâm, sử dụng những dịch vụ này của khách hàng để từ đó phát triển sản phẩm. Trong khi đó, vấn đề ý định sử dụng dịch vụ tín dụng chính thức thì chưa có nhiều nghiên cứu tiến hành đối với các hộ kinh doanh cá thể. Mà đối với hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam thì các thành viên vừa chịu trách nhiệm đối với nhau, vừa chịu ảnh hưởng của những người được cho là có uy tín trong xã hội (Mai và cộng sự, 2009). Bên cạnh đó, cũng chưa có nghiên cứu nào đánh giá ý định sử dụng tín dụng phi chính thức, đặc biệt là tín dụng đen. Tín dụng đen là lại chỉ phổ biến trong nên kinh tế ngầm, là vấn đề nhạy cảm khiến cho việc bước đầu tiếp cận và thu thập thông tin từ các đối tượng cung - cầu làm cơ sở để thực hiện nghiên cứu về đề tài này gặp nhiều khó khăn. Việc ứng dụng mô hình TAM, TRA, UTAUT để nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới “Ý định sử dụng” dịch vụ tín dụng chính thức và phi chính thức khá mới mẻ. Thứ hai, các nghiên cứu trước về tiếp cận tín dụng đã khai thác cả 2 phía cung và cầu về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi vay và cung cấp tín dụng cũng như những hạn chế trong tiếp cận dịch vụ tín dụng như McCoy (2005), Fishbein và Bunce (2000) và Eggert (2001), Beck và De La Torre (2006), Claessens (2006)… Các nghiên cứu này đã.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> 23 đưa ra được các yếu tố tạo điều kiện cho sự mở rộng tín dụng phi chính thức và giải thích chúng dựa trên thực trạng tại các nước được nghiên cứu, ngoài ra cũng đưa ra được đánh giá hợp lí về cách thức hạn chế tín dụng đen. Tuy nhiên các tác giả chưa chỉ ra những ảnh hưởng cụ thể cũng như thiếu bằng chứng thực nghiệm để đo lường mức độ ảnh của những yếu tố này. Thứ ba, đa phần các nghiên cứu trên thế giới về tiếp cận tín dụng đen đều tiếp cận theo hướng: hoặc là những tác động tiêu cực của tín dụng phi chính thức (Nugent, 1941b, Miller, 1966, Kaplan và Matteis, 1968, Engel và McCoy, 2001a) hoặc những tiếp cận theo hướng tài chính vi mô (Ledgerwood và cộng sự, 2013a, Lê Thanh Tâm, 2013, Phạm Bích Liên, 2016a) nhằm hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế; hoặc theo hướng marketing nhằm đánh giá mức độ sẵn sàng sử dụng dịch vụ của các hộ trong nền kinh tế (Beck và De La Torre, 2006a, Bougheas và cộng sự, 2006). Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ tập trung vào (1) nhóm hộ kinh doanh cá thể tại vùng nghèo theo chuẩn mực của từng quốc gia, (2) từng cá thể. Trong khi đó, hộ kinh doanh tại Việt Nam lại có những điểm đặc trưng như đa phần các hộ đều kinh doanh với mức vốn nhỏ, việc chứng minh tài chính không tốt, và lại bị ảnh hưởng bởi các đối tượng xung quanh, hay dễ thay đổi bởi các chính sách của chính phủ (Mai và Tambyah, 2011). Sự khác biệt về bối cảnh, thời gian, đặc điểm kinh tế xã hội làm phong phú thêm các nghiên cứu, nhưng lại giảm tính chính xác và phù hợp của các kết quả nghiên cứu nếu muốn áp dụng vào bối cảnh các nước đang phát triển như Việt Nam. Vì vậy, việc đánh giá tiếp cận tín dụng trên cả góc độ chính thức và phi chính thức đang trở nên cấp thiết, vừa giúp các hộ kinh doanh cá thể có vốn để kinh doanh, vừa giúp các TCTD chính thức có thể cung ứng vốn đến các đối tượng khác nhau, đồng thời tiết kiệm chi phí “huấn luyện” người dân sử dụng dịch vụ tín dụng chính thức, vũng như hạn chế tín dụng đen.. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu: đề xuất khuyến nghị nhằm thúc đẩy tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam Để đạt được mục tiêu trên, nghiên cứu cần giải quyết những nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản (khung lý thuyết) về tiếp cận tín dụng và các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam trong đó được chia thành tiếp cận tín dụng chính thức và tiếp cận tín dụng phi chính thức. - Đánh giá thực trạng tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam thông qua việc khảo sát..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> 24 - Phân tích và đánh giá những nhân tố ảnh hưởng tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam. - Đưa ra những khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy tiếp cận tín dụng chính thức, hạn chế sử dụng tín dụng đen của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam.. 4. Câu hỏi nghiên cứu Nghiên đưa ra nhằm trả lời những câu hỏi sau đây: - Khung lý thuyết mà nghiên cứu sử dụng bao gồm những điều gì? - Hiện trạng tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam ra sao? - Các nhân tố “Hiệu quả kỳ vọng”, “Nỗ lực kỳ vọng”, “Điều kiện thuận lợi”, “Ảnh hưởng xã hội”, “Tiện lợi”, “Hiểu biết tài chính”, “Bảo mật” có tác động thế nào đến tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam? - Các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy tiếp cận tín dụng chính thức, hạn chế sử dụng tín dụng đen của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam bao gồm những vấn đề gì?. 5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là: tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam - trong đó được chia thành tiếp cận tín dụng chính thức và tiếp cận tín dụng phi chính thức. Cụ thể, tín dụng chính thức được cung cấp bởi các TCTD được cấp phép; còn tín dụng phi chính thức cung cấp bởi các tổ chức không được cấp phép hoạt động – hoặc không được quản lý bởi chính quyền các cấp (ví dụ như ủy ban nhân dân xã). Trong tín dụng phi chính thức, tác giả tập trung vào tiếp cận tín dụng đen của các hộ kinh doanh cá thể. Luận án không nghiên cứu tín dụng bán chính thức. Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu tập trung vào các hộ kinh doanh cá thể có đăng kí kinh doanh trên cả nước. Đối tượng khảo sát: chủ các hộ kinh doanh cá thể. Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện từ 2017 - 2020, trong đó tập khung khảo sát trong thời gian từ tháng 3/2019 - 11/2019.. 6. Cách tiếp cận Nghiên cứu này tiếp cận đồng thời trên 2 hướng (1) khả năng các hộ kinh doanh cá thể có thể có được các khoản mục vốn vay từ phía các tổ chức tín dụng - trong đó tập trung vào việc ý định sử dụng vốn vay của các hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam (bao gồm cả chính thức và phi chính thức. Đối với phi chính thức thì tập trung vào tín dụng đen). Cách tiếp cận này đang được cho là phù hợp với quan điểm Việt Nam trong thời.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> 25 điểm hiện tại, bởi các hộ gia đình được khuyến khích phát triển kinh tế (Trần Thọ Đạt, 2018, Võ Trí Thành, 2018), đồng thời bản thân các tổ chức tín dụng cũng đang chịu những áp lực khác nhau trong việc phát triển các món vay. Thêm vào đó, để có thể phát triển kinh tế thì các hộ gia đình có nhiều các khác nhau để có vốn, như vốn vay từ bên ngoài, vốn tự có của bản thân gia đình hay hỗ trợ từ phía tín dụng xoay vòng (trường hợp vốn vay theo ROSCA) - trích dẫn theo Lê Thanh Tâm (2015). Do vậy, việc tiếp cận tín dụng từ góc độ ý định sử dụng sẽ là một căn cứ của nghiên cứu này. Đồng thời, luận án cũng tiếp cận theo hướng tài chính toàn diện (Financial Inclusion). Ngoài việc các hộ gia đình được tiếp cận các khoản vốn, các hộ phải sử dụng được các dịch vụ khác từ phía ngân hàng, ví dụ như dịch vụ thanh toán, dịch vụ nhận tiền gửi, dịch vụ tư vấn, dịch vụ thu và chi hộ, cũng như sử dụng dịch vụ này ở mức giá chấp nhận được. Việc tiếp cận tín dụng từ góc độ hình thành nên nguồn vốn ổn định (từ tiền gửi của khách hàng), và sử dụng các dịch vụ khác (được cho là sản phẩm bán chéo) sẽ thúc đẩy độ ổn định cho cả ngân hàng và khách hàng.. 6. Những đóng góp mới của luận án Dựa trên cách tiếp cận từ phía cầu của tài chính toàn diện và phát triển mô hình TPB, luận án đã có những đóng góp mới về mặt lý luận như sau: Thứ nhất, đối với mô hình tiếp cận tín dụng chính thức, tác giả đã thêm 1 biến là “hiểu biết tài chính” vào trong mô hình. Với việc thêm một biến vào mô hình, sẽ góp phần làm giầu thêm các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng phi chính thức của các hộ gia đình, cũng như mô hình lý thuyết gốc TPB được mở rộng ra đối với các hành phi không được khuyến khích. Thứ hai, đối với mô hình tiếp cận tín dụng chính thức, tác giả đã thêm 1 biến là “ngân hàng điện tử”. Việc thêm biến này kết hợp được sự thay đổi về mặt thực tế khi các hộ đều có thể tiếp cận vốn qua kênh ngân hàng ảo, đồng thời cũng bổ sung thêm các nhân tố ảnh hưởng đến ý định tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ kinh doanh cá thể. Những đóng góp mới về mặt thực tiễn Thứ nhất, luận án đã đưa ra những bằng chứng thực nghiệm về các nhân tố tác động đến tiếp cận tín dụng chính thức bằng mô hình cấu trúc tuyến tính, và đưa ra được những bằng chứng về các nhân tố như kinh nghiệm chủ hộ, lãi suất, khoảng cách, ngân hàng điện tử… đều tác động đến ý định tiếp cận tín dụng. Đồng thời, đối với tiếp cận tín dụng phi chính thức, ảnh hưởng xã hội, nỗ lực, hiểu biết tài chính và bảo mật có tác động dương..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> 26 Thứ hai, luận án đã kiểm định được các biến kiểm soát (giới tính chủ hộ tác động đến chiều hướng của ảnh hưởng xã hội và hiểu biết tài chính, số năm kinh doanh tác động đến nỗ lực kỳ vọng và hiểu biết tài chính) có tác động đến ý định sử dụng tín dụng đen. Thứ ba, từ các nhân tố tác động đến tiếp cận tín dụng, tác giả đưa ra một số hàm ý chính sách đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức tín dụng, khách hàng, tổ chức đoàn thể như tăng vai trò của chính quyền địa phương, tăng khả năng sử dụng ngân hàng điện tử, thiết kế các sản phẩm vay mới nhằm giúp các hộ kinh doanh cá thể có thể tiếp cận được vốn chính thức nhiều hơn, đồng thời giảm tín dụng đen.. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, danh mục bảng biểu và từ viết tắt, luận án gồm 4 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể và các nhân tố ảnh hưởng Chương 2: Phương pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu Chương 3: Kiểm định tác động của các nhân tố tới tác động tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam Chương 4: Thảo luận kết quả nghiên cứu và hàm ý chính sách.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> 27. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIẾP CẬN TÍN DỤNG CỦA HỘ KINH DOANH CÁ THỂ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG 1.1. Khái quát về hộ kinh doanh cá thể và tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể 1.1.1. Khái quát về hộ kinh doanh cá thể Trên góc độ ngân hàng, hộ gia đình được coi là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam, hộ kinh doanh cá thể được xem như một chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn vị mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung. Một số thuật ngữ khác được dùng để thay thế thuật ngữ này là “hộ”, “hộ sản xuất”, “hộ gia đình”. Hộ là đơn vị kinh tế cơ sở được ra đời từ rất lâu. Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của đất nước thì nó cũng luôn là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Chính vì vậy, khái niệm về hộ cũng có nhiều khái niệm khác nhau. Trên quan điểm thống kê, Campbell (2006) đưa ra định nghĩa: Hộ là những người cùng chung sống dưới một mái nhà , cùng ăn chung và cùng có chung một ngân quỹ. Bên cạnh đó, Godoy và cộng sự (1997) lại nhìn nhận hộ dưới góc độ nhân chủng học như sau: Hộ là những người có chung huyết tộc có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tại ra sản phẩm để bảo tồn chính bản thân họ và cộng đồng. Theo quan điểm về thu nhập, các tác giả đã đưa ra khái niệm: Thành viên của hộ không nhất thiết phải sống chung dưới mái nhà, miễn là họ có đóng góp chung vào ngân quỹ của gia đình. Từ các khái niệm trên, có thể hiểu rằng hộ kinh doanh cá thể là một đơn vị sản xuất cơ bản vừa kinh doanh vừa tiêu dùng. Nó sử dụng nguồn nhân lực tự có, quy mô sản xuất nhỏ, ngành nghề đa dạng phong phú, và vốn kinh doanh chủ yếu từ tiết kiệm trong hộ. Nó bao gồm những đặc điểm sau đây Về nhân lực: Hộ gia đình chủ yếu sử dụng nguồn lực tự có trong gia đình, bạn bè thân thuộc. Về quy mô kinh doanh: Hộ gia đình có quy mô nhỏ, phạm vi kinh doanh nhỏ hẹp. Vốn kinh doanh: chủ yếu là vốn tự có của gia đình, vay mượn bạn bè, người thân. Số hộ gia đình được tiếp cận với các khoản vay ngân hàng chưa nhiều..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> 28 Về quản lý kinh doanh: Khả năng quản lý của hộ còn hạn chế, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ người đi trước để lại. Bên cạnh đó, quản lý tài chính theo gia đình, người chủ thống nhất và quyết định mọi việc liên quan đến kinh doanh. Từ những đặc điểm trên, có thể khái quát về hộ gia đình hoạt động phong phú, có khả năng thích nghi và tự điều chỉnh cao. Theo điều 106 về “Hộ gia đình”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này.” Tại Nghị định 78/2015/NĐ-CP có định nghĩa rất rõ hộ gia đình hoạt động sản xuất kinh doanh là “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh” (Chính phủ, 2015). Do có quy mô nhỏ nên trong trường hợp gặp điều kiện thuận lợi, hộ có thể huy động mọi nguồn lực để đầu tư, khi gặp điều kiện bất lợi có thể thu hẹp quy mô sản xuất. Tuy nhiên, thiếu vốn để mở rộng kinh doanh là một trong những vấn đề khó khăn thường thấy ở các hộ gia đình. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện để các hộ tiếp cận với tín dụng có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất kinh doanh. Hộ gia đình cũng là một đối tượng khách hàng tham gia vào thị trường TDCT. Do đó việc tiếp cận TDCT của hộ gia đình có thể xem xét theo quan điểm của tiếp cận tín dụng nhưng với phạm vi hẹp hơn.. 1.1.2. Tín dụng chính thức và tín dụng phi chính thức Tín dụng là phạm trù kinh tế đã được sử dụng rất nhiều trong các nghiên cứu. Trong phạm vi này, tác giả chỉ nêu ra 2 quan điểm phổ biến: Rose và Hudgins (2015) dựa trên việc phân tích hệ thống pháp luật Anh - Mỹ đã cho rằng: tín dụng là một khoản nợ được cung cấp bởi một thực thể (tổ chức hoặc cá nhân) cho một thực thể khác thông qua các giấy nợ, trong đó quy định rõ ràng về mức lãi suất, thời hạn trả nợ. Do đặc trưng của các nước theo hệ thống pháp luật này đều có nền kinh tế phát triển, hệ thống các TCTD khi cấp tín dụng dựa trên kết quả thẩm định được mua sẵn của các công ty xếp hạng tín nhiệm nên gần như không cần thẩm định hồ sơ, vì vậy quan điểm này chỉ tập trung vào khả năng trả nợ của khách hàng. Tất nhiên, đối với các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi thì quan điểm này không sai, nhưng rất khó có thể.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> 29 áp dụng. Quan điểm này cũng tiếp cận một cách gián tiếp rằng: tín dụng ở đây là tín dụng chính thức, tức là hoạt động tín dụng được cung cấp bởi các tổ chức được cấp phép. Casu và cộng sự (2013) lại dựa trên hệ thống pháp luật Pháp - Đức, và cho rằng: tín dụng là một hoạt động trong đó một chủ thể cấp hoặc cam kết cho chủ thể khác một khoản tiền để sử dụng với mục đích nhất định và thời hạn xác định. Quan điểm này được các nước theo đạo Hồi hưởng ứng, do không đề cập đến vấn đề lãi suất của khoản vay thứ bị cấm bởi kinh Koran. Quan điểm này được Quốc hội (2010) sử dụng khi xây dựng Luật các tổ chức tín dụng. Trong luận án này, đây cũng là quan điểm mà tác giả sử dụng khi định nghĩa tín dụng. Đối với tín dụng chính thức, thì Beck và De La Torre (2006a); Sarma và Pais (2011); Demirguc-Kunt và cộng sự (2012); Rose và Hudgins (2015) đều cho rằng: đây là dịch vụ được cung cấp bởi các TCTD được cấp phép, ví dụ như dịch vụ tín dụng được cung cấp bởi các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính... Bổ sung quan điểm này, Ledgerwood và cộng sự (2013b); Lê Thanh Tâm (2013) cho rằng, tại các nước đang phát triển và kém phát triển thì cần phải đề cập đến 1 nhóm đối tượng nữa là tín dụng bán chính thức, được cung cấp bởi các tổ chức đoàn thể xã hội (ví dụ như các hội nhóm: hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên). Tín dụng phi chính thức được hiểu chung là các hình thức vay vốn ngoài sự quản lý và giám sát của các cơ quan quản lý về tài chính tiền tệ, gồm cho vay của các cá nhân, cho vay thông qua các hình thức hụi, họ, phường, hoặc cho vay của gia đình, bạn bè, người thân (Nguyễn Kim Anh và cộng sự, 2017). Một cách đơn giản hơn thì tín dụng phi chính thức là các khoản tín dụng sau khi đã loại đi tín dụng chính thức và bán chính thức. Đối với tín dụng phi chính thức, thì một phần cần quan tâm là tín dụng đen - vì đây là các khoản mục gây ảnh hưởng nhiều nhất đến các hộ kinh doanh cá thể - đặc biệt tại vùng nông thôn bởi những ảnh hưởng tiêu cực của nó (Ledgerwood và cộng sự, 2013b). Theo Nugent (1941b) thuật ngữ “tín dụng đen” thường được sử dụng để mô tả những người cho vay những khoản vay nhỏ, thời hạn cho vay và trả nợ ngắn với mức phí cao hơn so với luật pháp cho phép. Tại thời điểm nghiên cứu, “tín dụng đen” được liên hệ hoàn toàn với những khoản vay cho người làm công ăn lương. Người cho vay thường yêu cầu chứng từ chuyển nhượng tiền lương của người đi vay để có quyền nhận tiền lương của người đi vay trong trường hợp vỡ nợ. Những yếu tố làm cho hình thức cho vay này phát sinh gồm có lòng tham của người cung cấp các khoản vay, sự cả tin của người sử dụng và sự cấp thiết buộc người vay tìm đến tín dụng đen. Nhóm các nghiên cứu Miller (1966), Kaplan và Matteis (1968), Shergold (1978).

<span class='text_page_counter'>(40)</span> 30 đều cho rằng tín dụng đen là việc cho vay với tỷ lệ cao hơn giới hạn theo quy định của pháp luật hoặc định mức được xã hội chấp nhận. Đây là nguồn thu quan trọng nhất của hoạt động tội phạm có tổ chức, bên cạnh nguồn thu từ đánh bạc. Các khoản thanh toán phải được trả vào ngày giờ xác định, sự chậm trễ trong việc trả nợ có thể sẽ dẫn đến một mức lãi suất cao hơn thậm chí là sự truy đòi gắt gao. Ngoài ra, những kẻ cho vay nặng lãi đã thâm nhập được cả vào các ngân hàng và doanh nghiệp hợp pháp; “núp bóng” các tổ chức này để tiếp tục mở rộng các hoạt động phi pháp. Venkatesh và cộng sự (2003a) lại mở rộng tín dụng đen dựa vào 6 đặc điểm sau: (1) Lãi suất vô cùng cao. Các khoản vay có lãi suất rất cao về mặt pháp lý và các điều khoản mờ ám khác nhằm phá vỡ hoặc lách các điều luật của địa phương, chính quyền; (2) Các khoản phí “bồi thường”. Các khoản phí khá đáng kể dành cho người cho vay như một phần “bồi thường” về việc đồng ý cho vay, các khoản phí này thường cao đối với những người đi vay dưới tiêu chuẩn vì những lịch sử tín dụng xấu khi vay ở các ngân hàng và các tổ chức tín dụng nên cần đảm bảo; (3) Những khoản vay mang tính chất nhanh chóng mà không cần thủ tục, mang lại lợi ích tức thời nhưng lại không mang lại ích lâu dài cho người vay; (4) Các khoản phí bảo hiểm tín dụng không liên quan đến khoản vay chính. Những người cho vay yêu cầu những loại chi phí bảo hiểm không liên quan đến khoản vay chính và được thiết kế trong trường hợp người vay ốm đau, tử vong hoặc các khoản dự phòng khác và thường được trả theo tháng lên chi phí cho khoản vay thường đội lên rất cao. Người đi vay phải trả phí thanh toán cho các loại bảo hiểm; (5) Những khoản vay có lãi dồn vào gốc. Người vay phải đối mặt những khoản vay có gốc và lãi vượt quá khả năng trả nợ của mình và từ đó phải từ bỏ tài sản thế chấp. Trong một số trường hợp, con nợ phải bắt buộc trả một khoản nợ cực lớn khi tài sản thế chấp không thể bù đắp và đáp ứng giá trị của khoản nợ; (6) Những khoản cho vay không tính đến khả năng trả nợ của người vay. Những người cho vay bất hợp pháp không tính đến khả năng trả nợ của những người đi vay, không quan tâm đến thu nhập của người đi vay, trong trường hợp những người đi vay không trả được nợ thì những người cho vay sẽ tìm đến người trả nợ thay thế là gia đình của họ. Ngoài ra, những khoản vay này thường tập trung vào những người có thu nhập thấp và trung bình nhằm loại bỏ khả năng trả nợ của người vay từ đó có thể dễ dàng chiếm đoạt tài sản. Engel và McCoy (2001a) cho rằng tín dụng đen là một tập hợp con của các khoản vay dưới chuẩn, là các khoản vay có lãi suất cao hơn được thiết kế đối với những người vay có tín dụng bị suy giảm hoặc những người không đủ điều kiện để vay trên thị trường tài chính chính thức. Các khoản vay tín dụng đen được xác định dựa theo các đặc trưng sau: (i) Khoản vay không mang lại lợi ích cho người vay; (ii) Khoản vay được thiết kế.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> 31 để thu được lợi nhuận rất cao; (iii) Khoản vay có tính chất gian lận hoặc lừa đảo; (iv) khoản vay gây hiểu lầm vì không rõ ràng và phi pháp; (v) khoản vay yêu cầu người vay từ bỏ các quyền hợp pháp khi có tranh chấp. Trong khi đó, Carr và Kolluri (2001a) cho rằng vay dưới tiêu chuẩn và tín dụng đen là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, các tác giả này nhấn mạnh thêm rằng mặc dù lãi suất hoặc phí cao là đặc điểm phổ biến của các khoản vay này nhưng không phải các khoản vay nào có lãi suất hoặc chi phí cao cũng là tín dụng đen nếu không đi kèm các điều khoản lừa đảo hoặc hình phạt “đáng sợ” hoặc chi phí phi lí của bên cho vay. Theo quan điểm của Demyanyk (2006) thì tín dụng đen thường liên quan đến việc cho vay với những người nghèo, những người có điểm tín dụng thấp, thiếu hiểu biết và không biết về quy trình cho vay. Khoản cho vay được gọi là tín dụng đen hoặc lừa đảo khi người cho vay hoặc môi giới có hành vi tính phí rất cao nhưng không tương xứng với rủi ro phải chịu, cho vay dù biết người vay không có khả năng hoàn trả đầy đủ, đơn phương thay đổi các điều khoản cho vay dẫn đến hiểu lầm giữa hai bên. Schmulow (2016a) đồng quan điểm như trên và bổ sung thêm rằng người cho vay có thể thực hiện các hành vi gian lận hoặc giả mạo - ví dụ như giả mạo các loại giấy tờ, chữ ký... Delgadillo và cộng sự (2008) cũng nhận định rằng thuật ngữ “tín dụng đen” là khó nắm bắt đến mức tạo ra những khó khăn về quy định để quản lí. Đây là một thuật ngữ từ vựng khó định nghĩa trong thị trường thế chấp, tín dụng đen thường bị hiểu lầm bởi nó mang theo sự kì thị, có sự khác biệt về ý nghĩa tùy thuộc vào bối cảnh nó được sử dụng. Tác giả chỉ rõ các khoản vay với “hình phạt” trả trước có thể phù hợp để mô tả tín dụng đen nhưng các khoản vay chỉ đơn giản là được cung cấp cao hơn lãi suất thông thường không thể gọi là tín dụng đen mà nên được gọi là “cho vay lạm dụng”. Các nhà nghiên cứu trong nước cũng đề xuất các khái niệm về tín dụng đen như sau: Nghiên cứu của Nguyễn Vân Hà và cộng sự (2018) đưa ra khái niệm chủ yếu từ góc độ quản lí: Tín dụng đen gồm những hoạt động cho vay không thông qua hệ thống các tổ chức tín dụng được cấp phép, và không chịu sự quản lí chính thức bời các cơ quan quản lý Nhà nước. Giao dịch tín dụng đen là giao dịch ngầm, nội bộ, có lãi suất huy động và cho vay cao, trong khi thủ tục thực hiện đơn giản so với các hoạt động tín dụng ngân hàng chính thức. Theo Cấn Văn Lực (2019) thì ở Việt Nam hiện đang có nhiều cách hiểu không đúng về “tín dụng đen”. Trong nền kinh tế, có 2 loại tín dụng là chính thức và phi chính thức. Phi chính thức là khái niệm rất rộng (vay bạn bè, người thân, vay các công ty, vay cầm đồ, vay ở các tổ chức tài chính vi mô…) và “tín dụng đen” chỉ là một phần nhỏ.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> 32 trong đó. “Tín dụng đen” có tám đặc điểm dễ nhận biết: (1) cho vay quen biết giữa các cá nhân; (2) địa lý gần nhau, chủ yếu xảy ra ở nông thôn; (3) không theo chuẩn mực nào, chủ yếu là vay nóng; (4) thủ tục cực kỳ đơn giản, mọi lúc, mọi nơi, đáp ứng yêu cầu của người vay, linh hoạt; (5) các khoản vay thường nhỏ; (6) tài sản đảm bảo cực kỳ đa dạng (có thể ti vi, tủ lạnh, sổ đỏ...); (7) có thể gia hạn nếu cần; (8) cực kỳ rủi ro. Theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 12/CT-TTg về vấn đề “Tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tín dụng đen”, “Tín dụng đen là hình thức cho vay, đi vay hoặc huy động vốn với lãi suất vượt quá mức lãi suất pháp luật quy định, được thực hiện bởi các cá nhân, nhóm người hoặc tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính, thường gắn với các hành vi đòi nợ, chiếm đoạt tài sản trái pháp luật” (Chính phủ, 2019b). Bản chất của việc tồn tại tín dụng đen là các hoạt động được diễn ra ngầm khiến cho các cơ quản bộ ngành gặp khó khăn trong việc quản lý và phát hiện các cá nhân, tổ chức hoạt động này. Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn tiếp cận vấn đề tín dụng đen theo khái niệm được nêu ra trong chỉ thị 12/CTTTg của Thủ tướng Chính phủ do đây là khái niệm bao quát nhất rõ nhất thực trạng tín dụng đen tại Việt Nam.. 1.1.3. Tiếp cận tín dụng Tiếp cận tín dụng chính thức có thể hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Rose và Hudgins (2015) và Casu và cộng sự (2013) cho rằng tiếp cận tín dụng chính thức là việc khách hàng có khả năng sử dụng được đồng vốn của tổ chức tín dụng chính thức dựa trên việc đáp ứng các nghĩa vụ về tài chính - trong đó nhấn mạnh khả năng hoàn trả cả gốc và lãi. Quan điểm này được Nguyen (2014), Ha (2015), Dao và cộng sự (2016) thừa nhận khi cho rằng: Tiếp cận tín dụng chính thức là việc người dân, hộ gia đình, hộ kinh doanh hiểu biết và có thể vay vốn được tại các TCTD. Hay nói cách khác, đây là hình thức phát sinh giao dịch bằng tài sản giữa một bên là các TCTD gọi là bên cho vay và một bên là các cá thể, doanh nghiệp gọi là bên vay. Bên cho vay sẽ chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định, đồng thời bên đi vay sẽ có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay cả vốn lẫn lãi khi đến hạn phải thanh toán đã thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu tiếp cận 1 phần dưới góc độ tài chính vi mô thì Ledgerwood (1998) cho rằng đây là việc ngân hàng cung cấp vốn cho nhóm đối tượng khó tiếp cận vốn với mức giá phải chăng. Ledgerwood và cộng sự (2013b) tiếp tục cho rằng tiếp cận tín dụng chính thức không chỉ bao gồm việc có được đồng vốn vay của TCTD mà còn cần phải sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng - nhằm thực hiện các mục tiêu khác.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> 33 nhau trong tiếp cận dịch vụ tài chính và hướng đến xóa đói giảm nghèo. Như vậy, nhóm quan điểm này cho rằng tiếp cận tín dụng chính thức không chỉ là việc khách hàng vay vốn của TCTD mà còn sử dụng các dịch vụ tài chính khác. Theo Beck và cộng sự (2005), “Tiếp cận với các dịch vụ tài chính không phải là đồng nghĩa với việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Tác nhân kinh tế có thể tiếp cận với các dịch vụ tài chính, nhưng có thể quyết định không sử dụng chúng, hoặc do các lý do văn hóa - xã hội, hoặc bởi vì chi phí cơ hội là quá cao”. Như vậy, có thể hiểu khách hàng có nhu cầu và đã tìm hiểu về dịch vụ của ngân hàng - có nghĩa là đã tiếp cận với dịch vụ ngân hàng, song do chi phí cao nên quyết định không vay ngân hàng cũng vẫn được coi là tiếp cận tín dụng. Dựa vào phạm vi đề tài nghiên cứu, tác giả cho rằng việc tiếp cận theo quan điểm có sử dụng vốn tín dụng thì sẽ có ý nghĩa hơn. Bởi vì nếu chỉ dừng lại ở nhu cầu hiểu về vốn tín dụng thì sẽ rất khó đánh giá chính xác được số lượng người đã tiếp cận và sử dụng vốn tín dụng để từ đó có những giải pháp phù hợp. Đối với tiếp cận tín dụng phi chính thức, thì có thể hiểu là việc các hộ kinh doanh cá thể sẽ sử dụng các dịch vụ tín dụng không được cung cấp bởi các TCTD được cấp phép hoặc các tổ chức chính trị xã hội. Việc này gần giống với sử dụng tín dụng đen. Doan (2015) cho rằng, tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể là việc hộ gia đình, hộ kinh doanh hiểu biết và có thể vay vốn được tại các TCTD chính thức (đối với tiếp cận tín dụng chính thức) hoặc đủ khả năng vay và trả tại các tổ chức khác (đối với tiếp cận tín dụng phi chính thức). Hay nói cách khác, đây là hình thức phát sinh giao dịch bằng tài sản giữa một bên là các tổ chức cung ứng dịch vụ tín dụng, gọi là bên cho vay và một bên là các hộ gia đình, gọi là bên vay. Bên cho vay sẽ chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định, đồng thời bên đi vay sẽ có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay cả vốn lẫn lãi khi đến hạn phải thanh toán đã thỏa thuận. Diagne và cộng sự (2000) đưa ra sự khác biệt giữa hai khái niệm “tiếp cận tín dụng” và “tham gia vào các chương trình cấp tín dụng”. Trong một số trường hợp, hai khái niệm này được dùng thay thế nhau. Tuy nhiên, trong khi tham gia vào chương trình tín dụng là việc các hộ kinh doanh cá thể tự lựa chọn và tham gia vào các chương trình này thì tiếp cận tín dụng thường ám chỉ bao gồm cả những rào cản khi tham gia, có thể xuất phát từ bản thân hộ gia đình hoặc từ các nhân tố bên ngoài. Ở Việt Nam, rào cản pháp lý đã tạo ra sự khác biệt trong việc đánh giá tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể so với các nước khác. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, chủ thể tham gia quan hệ dân sự chỉ bao gồm pháp nhân và cá nhân. Để thực.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> 34 hiện quy định này, NHNN đã ban hành Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định khách hàng vay vốn tại TCTD phải là pháp nhân, cá nhân. Theo đó, các đối tượng không phải là pháp nhân (ví dụ như hộ kinh doanh, hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân) không đủ tư cách chủ thể vay vốn tại các TCTD. Họ chỉ có thể vay vốn với tư cách là doanh nghiệp hoặc cá nhân. Nói cách khác, việc vay vốn sẽ tiến hành trên danh nghĩa từng cá nhân, cá nhân tự chịu trách nhiệm trả nợ thay vì với danh nghĩa hộ gia đình, hộ kinh doanh (Ngân hàng Nhà nước, 2016). Có thể thấy, tiếp cận tín dụng của hộ gia đình là mối quan hệ giữa các TCTD và các hộ gia đình. Các TCTD sẽ cung cấp vốn cho khách hàng của họ là các hộ gia đình để phục vụ cho mục đích tiêu dùng, sản xuất kinh doanh và các mục đích khác. Mối quan hệ này chỉ hình thành khi khách hàng hội đủ được các điều kiện của TCTD và thỏa mãn các điều kiện được ký kết trong hợp đồng ký kết giữa hai bên. Thông thường, hộ gia đình khi tiếp cận các dịch vụ của các TCTD thường chịu mức phí cao do các tổ chức phải chịu nhiều khoản chi phí liên quan đến việc tổ chức mạng lưới, việc thẩm định, theo dõi khách hàng hay món vay cũng như việc phòng ngừa rủi ro. Cụ thể, cho vay đối với hộ gia đình thì chi phí nghiệp vụ cho một đồng vốn vay thường cao do quy mô của từng món vay thường là nhỏ. Ngoài ra, do số lượng khách hàng đông, phân bổ ở khắp nơi nên mở rộng cho vay thường liên quan tới việc mở rộng mạng lưới cho vay và thu nợ, cũng là yếu tố làm tăng chi phí. Trong quan hệ tín dụng, hộ gia đình có độ rủi ro khá cao nên chi phí dự phòng rủi ro của các TCTD tương đối lớn so với các ngành khác. Lãi suất thu hút nguồn vốn cho vay gia đình cũng khá cao do các TCTD bị giới hạn bởi các nguồn tại chỗ, phải chuyển dịch vốn từ nơi khác làm chi phí vốn tăng. Không chỉ vậy, hộ gia đình sản xuất quy mô nhỏ, chính đặc điểm này ảnh hưởng lớn đến tổ chức cho vay và việc áp dụng các phương thức, kỹ thuật cho vay. Mọi thành viên trong hộ tham gia lao động và cùng hưởng thu nhập chung, do đó mọi thành viên trong hộ gia đình đều liên đới trong quan hệ giao dịch tín dụng. Về mặt thủ tục pháp lý, chỉ cần đại diện hộ đứng tên giao dịch với ngân hàng trên cơ sở ủy quyền của các thành viên trong hộ. Lúc này quyền và nghĩa vụ của hộ đã phát sinh, do đó hộ phải có trách nhiệm về quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện hộ xác lập, thực hiện nhân danh hộ. Tài sản của hộ bao gồm cả tài sản chung trong hộ và các tài sản riêng của các thành viên góp vào sử dụng chung, đây cũng chính là năng lực tài chính của các hộ gia đình. Do đó, hộ phải chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ; nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> 35. 1.2. Tác động của tiếp cận tín dụng đối với các hộ kinh doanh cá thể Đối với tiếp cận tín dụng, được chia thành 2 nhánh nhỏ là tiếp cận tín dụng chính thức và tiếp cận phi chính thức. Cả 2 khía cạnh này đều có những tác động nhất định đến hộ kinh doanh cá thể.. 1.2.1. Các tác động tích cực 1.2.1.1. Của tín dụng chính thức Theo Alhassan và Akudugu (2012), việc tiếp cận TDCT đã cung cấp cho khách hàng vay cơ hội tạo ra năng lực sinh kế, phát huy khả năng tự làm chủ của họ. Với quan điểm của Brown và Zehnder (2010), tín dụng được cấp cho những người không có khả năng truy cập vào các dịch vụ tài chính nào khác, giúp họ có thể tạo dựng hoạt động kinh doanh hoặc theo đuổi một công việc cụ thể nào đó tạo ra nguồn thu nhập. Tương tự, Yunus (2007) và Nguyễn (2014) cũng cho rằng tiếp cận tín dụng có sức mạnh cải thiện năng lực sản xuất cho những ai tiếp cận được nó, đồng thời nâng cao khả năng tạo dựng các dự án kinh doanh, sản xuất, các hoạt động lao động và việc làm góp phần cải thiện thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống. Lý thuyết sinh kế bền vững chỉ ra, thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, TDCT đã và đang làm tốt với vai trò như một phương tiện giải quyết đói nghèo. Nó đặt nguồn lực tài chính trực tiếp vào tay của người nghèo, cung cấp vốn tài chính cần thiết theo mức cho phép để người nghèo sử dụng hiệu quả hơn vốn con người và vốn xã hội mà họ đang sở hữu (DfID, 1999). Đứng trên quan điểm kinh tế của TCVM, Bateman (2010); Ledgerwood và cộng sự (2013b) đã chứng minh tính hiệu quả của tín dụng vi mô nói riêng và tín dụng nói chung đối với cuộc chiến chống lại cái nghèo, cải thiện thu nhập. Theo đó, với mỗi khoản vay được từ tín dụng ưu đãi với chi phí đầu vào giảm, giá rẻ hơn người nghèo có khả năng mở rộng quy mô sản xuất. Tại hình 1.1a cho thấy giá trị sản lượng (Q) sản xuất được tăng từ Q1 đến Q2 và tại đây thặng dư của người thay đổi từ (a+b) sang (b+c+f+g). Nếu a > (c+f+g) thì người sản xuất không được lợi và ngược lại. Thặng dư người tiêu dùng tăng thêm (a+d+e). Như vậy, tín dụng vi mô có tác động đến quá trình tạo ra giá trị thặng dư nhiều hơn nhờ tăng trưởng sản xuất, từ đó gia tăng tích lũy đầu tư và tiêu dùng của hộ gia đình, kéo theo sự tăng lên của thu nhập. Tại hình 1.1b, an sinh của người nghèo mang lại trên mỗi khoản hỗ trợ về vốn và người nghèo có thể mở rộng quy mô sản xuất. Lúc này thặng dư của người sản xuất là.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> 36 (a+b), các khoản chi phí trợ giá cho người nghèo là (b+c+d), an sinh xã hội là (-c), nguồn lực xã hội được sử dụng thêm (b+c+d). Như vậy tín dụng vi mô đã góp phần tạo việc làm, cải thiện thu nhập, đồng thời góp phần giải phóng con người khỏi đói nghèo và góp phần phát triển kinh tế văn hóa xã hội. Hình 1.1a: Lợi ích cho sản xuất. Hình 1.1b: Lợi ích cho an sinh xã hội. Hình 1.1: Ảnh hưởng của tín dụng vi mô đối với thu nhập hộ kinh doanh Nguồn: Bateman (2010). Ismail và Yussof (2010) đưa ra lý thuyết về nguồn vốn, theo đó, thu nhập được tạo nên bởi yếu tố vốn vật chất và vốn con người. Vốn vật chất có được do tự có hoặc vay mượn dưới hình thái tiền tệ hoặc vật chất. Vốn con người có được do quá trình tích lũy lao động, là các kỹ năng, kiến thức tích lũy được trong quá trình học tập và trải nghiệm cuộc sống (vốn phi tài chính). Trong khi đó, Nguyễn và Bùi (2011) chỉ ra các yếu tố nguồn lực tác động đến thu nhập của người dân tộc thiểu số ở đồng bằng sông Cửu Long bao gồm: nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, nguồn vật lực, nguồn lực xã hội và nguồn lực tự nhiên. Do đó, việc đánh giá tác động của tiếp cận tín dụng nói chung và TDCT nói riêng cần được xem xét ảnh hưởng của nó với các yếu tố khác nó tạo nên sự khác biệt cơ bản về thu nhập của từng hộ gia đình. Trong nghiên cứu này, thu nhập được xem xét dựa trên sự tác động của nguồn lực tài chính (khả năng tiếp cận TDCT), nguồn nhân lực (tuổi, giới tính, trình độ học vấn của chủ hộ, quy mô hộ gia đình, số nguồn tạo thu nhập của hộ), nguồn vật lực (diện tích đất) và nguồn lực tự nhiên (vị trí địa lý).. 1.2.1.2. Của tín dụng phi chính thức Theo Kelso (1941a), tín dụng phi chính thức (và kể cả tín dụng đen) không phải lúc nào cũng hoàn toàn xấu vì đã giúp người cần vốn được vay ngay, với thủ tục đơn.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> 37 giản, đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của người vay. Trong khi một lượng lớn các trường hợp khách hàng với các nhu cầu tín dụng nhanh, cấp thiết không thể đáp ứng từ các tổ chức tài chính chính thức với những rào cản về tài sản thế chấp thì các tổ chức tín dụng đen luôn sẵn sàng thế chỗ các tổ chức này với những khoản vay không cần tài sản thế chấp, thủ tục đơn giản, nhanh chóng… Nguyễn Vân Hà và cộng sự (2018) cũng chỉ ra mặt ích lợi của nó xét trong bối cảnh nền kinh tế Trung Quốc. Tín dụng đen cũng đóng một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, đặc biệt đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp tư nhân và là nơi các nhà đầu tư cá nhân tìm đến để chống lại lạm phát. Tín dụng đen đã cung cấp cho nhiều doanh nghiệp nhỏ, cần nhiều vốn nhưng bị từ chối bởi các ngân hàng thông thường có cơ hội để tiếp cận vốn. Vì tín dụng từ các tổ chức chính thức bị thắt chặt, lãi suất bị giữ ở mức thấp khiến khách hàng phải đi tìm các dịch vụ tài chính hấp dẫn hơn. Ngoài ra, ngân hàng thường ưu tiên cho vay doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có quan hệ tốt khiến các công ty nhỏ phải tìm đến các hoạt động tín dụng phi chính thức. Chính phủ Trung Quốc đã chính thức công nhận vai trò quan trọng của ngành ngân hàng ngầm trong đó có tín dụng đen trong nền kinh tế. Theo Đặng Ngọc Đức (2020) thì thuận lợi hàng đầu của việc vay tín dụng phi chính thức và tín dụng đen là hoạt động cho vay này không cần tài sản thế chấp và giải ngân nhanh chóng (chỉ cần 10 - 30 phút là có được khoản vay). Đây là vấn đề mà không phải ngân hàng nào cũng có thể đáp ứng được trong thời điểm hiện tại. Tiếp theo đó là thủ tục nhanh chóng hoặc không cần thủ tục vì chỉ cần 30 phút là hoàn thành thủ tục vay vốn. Ngoài ra, một vấn đề cần đề cập là đối với tín dụng xoay vòng (ROSCAs) thì đây là nguồn bổ sung vốn vô cùng quan trọng cho các hộ kinh doanh bởi mang tính chất tin tưởng lẫn nhau (Calomiris và Rajaraman, 1998, Anderson và Baland, 2002, Levenson và Besley, 1996). Tựu trung lại thì tín dụng phi chính thức có thể giải quyết được vấn đề về vốn nhanh hơn hẳn so với tín dụng chính thức.. 1.2.2. Các tác động tiêu cực 1.2.1.1. Của tín dụng chính thức Tín dụng chính thức không phải lúc nào cũng có những tác động tích cực đối với các hộ kinh doanh cá thể, dù rằng nó mang lại những lợi ích nhất định như người vay được pháp luật bảo vệ, lãi suất thấp hơn. Mặc dù có ít tác động tiêu cực, song vẫn cần đề cập. Tín dụng chính thức sẽ làm tăng chi phí của các hộ kinh doanh cá thể trong giai đoạn đầu, bởi các yêu cầu minh chứng về thu nhập, các loại báo cáo minh chứng khả năng trả nợ. Do đa phần các hộ kinh doanh cá thể ở các nước đang phát triển có đăng kí nhưng trình độ kế toán thấp, khả năng tài chính không ổn định nên khi tiếp cận chính.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> 38 thức dòng vốn của các TCTD sẽ thường lúng túng, và như thế phải trả nhiều hơn (Beck và cộng sự, 2005, Bougheas và cộng sự, 2006). Thêm vào đó, thời gian thẩm định các khoản vay của tín dụng chính thức thường dài, nhất là với những hộ chưa có lịch sử tín dụng (hoặc đối với các nước hệ thống thông tin tín dụng chưa phát triển). Do đó, các hộ thường sẽ bỏ qua những cơ hội làm ăn trong ngắn hạn, hoặc có nhu cầu đột xuất về tiền (Campbell, 2006). Nguồn vốn của các TCTD chính thức tuy dồi dào, nhưng các khoản vay phi chính thức thường ngắn, và quy mô nhỏ nên có thể không đáp ứng các yêu cầu sinh lời (Coco, 2000).. 1.2.1.2. Của tín dụng phi chính thức Hầu hết các nghiên cứu như Morgan (2007); Miller (1966); Kaplan và Matteis (1968); Shergold (1978); Chin (1995); Booth (1991); Engel và McCoy (2001a); Carr và Kolluri (2001a); Soudijn và Zhang (2013); Cấn Văn Lực (2019); Chính phủ (2019b) đều đánh giá hậu quả của tín dụng đen rất nghiêm trọng (đối với các nước phát triển thì đồng nhất tín dụng phi chính thức và tín dụng đen làm một), và vì vậy cần phòng ngừa và hạn chế tín dụng đen ở mức cao nhất có thể để đảm bảo ổn định xã hội, bảo vệ khách hàng. Các nghiên cứu đề cập ảnh hưởng tiêu cực của tín dụng đen trên nhiều mặt, tập trung vào an ninh kinh tế, mức sống của dân cư, an ninh trật tự xã hội… Theo Nugent (1941b) với mức phí cao, các khoản vay nặng lãi sẽ không tạo ra quá nhiều áp lực cho người vay nếu người vay có thể trả nợ các khoản vay của họ khi đến hạn. Chính vì vậy, nhiều người vay đã không thể thoát khỏi khoản vay của mình. Áp lực trả nợ liên tục lên người vay khiến họ buộc phải cắt giảm mức sống, mắc nợ tín dụng đen khiến cho gia đình đổ vỡ, tinh thần và thể chất suy sụp, có thể dẫn đến hành vi trộm cắp hoặc tự tử. Nghiên cứu của Reynolds (2004) nêu ra những người vay tín dụng phi chính thức và tín dụng đen ở Mỹ thiệt hại khoảng 9,1 triệu USD mỗi năm. Khoản thiệt hại này đến từ việc người cung cấp tín dụng đen tước đoạt tài sản thuộc sở hữu của người vay và tính những mức phí lãi rất cao cho người vay. Ví dụ ở thành phố Chicago, tỷ lệ tịch thu tài sản tăng 500% từ năm 1993 đến 2001. Hậu quả kinh tế mà tín dụng đen gây ra cho cá nhân người đi vay và gia đình của họ là rất lớn. Hầu hết những người đi vay mất cả nhà và các tài sản họ tích lũy được trong nhiều năm và buộc phải cắt giảm mức sống. Nghiên cứu còn chỉ ra ảnh hưởng của tín dụng đen vượt ngoài phạm vi cá nhân và gia đình người đi vay tới toàn bộ vùng lân cận. Những khu phố có nhiều người tham gia vào tín dụng đen xảy ra tình trạng nhà ở bị bỏ trống sau khi bị tước đoạt, giá nhà ở những khu vực này giảm trong khi tăng các loại tội phạm và tình trạng bất ổn..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> 39 Tương tự, Peterson (2013) cho rằng tín dụng đen, đặc biệt dưới hình thức cho vay theo ngày đã làm suy yếu an ninh kinh tế Mỹ và kinh tế của cá nhân hộ gia đình. Hai phần ba số người vay nhận được bảy khoản vay tín dụng đen trở lên mỗi năm và hậu quả của việc vay mượn liên tục này là vô cùng nghiêm trọng. Nhiều khoản vay theo ngày được sử dụng cho các chi phí sinh hoạt chung của gia đình. Ví dụ, 69% người vay đã sử dụng các khoản vay để trả cho các chi phí định kỳ khiến cho việc đi vay trở thành một vòng luẩn quẩn và phụ thuộc vào người cho vay. Người vay buộc phải bán tài sản cần thiết để trả nợ. Các khoản vay có thể được bán cho các công ty thu hồi nợ hoặc phải chịu các hình phạt pháp lý của tòa án. Tác giả còn nhấn mạnh tính nguy hại của khoản vay tín dụng đen trên khía cạnh làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo. Tín dụng đen thường diễn ra trong các cộng đồng dễ bị tổn thương; cụ thể, 75% những người đi vay có thu nhập dưới 50.000 USD/năm và họ thường sống tập trung tại những khu vực dân cư nghèo. Tại Texas, hơn 75% số cửa hàng cung cấp tín dụng đen được đặt tại các khu phố nơi tập trung các hộ gia đình có thu nhập trung bình dưới 50.000 USD. 37% người vay nói rằng họ đã ở trong tình trạng tài chính khó khăn đến mức họ sẽ vay một khoản thanh toán theo bất kì điều khoản nào được đưa ra. Theo Cấn Văn Lực (2019) rủi ro và hệ lụy của tín dụng đen rất cao cho cả phía người cho vay (khó thu hồi nợ), người đi vay (lãi suất cao, có nguy cơ vỡ nợ) và rủi ro về mặt pháp lý (rất khó giải quyết). Trong nhiều trường hợp, chủ nợ sẽ tìm cách để thu hồi số tiền đã cho vay bằng cách siết nợ, thậm chí đe dọa để giải quyết, thu hồi nợ. Ngoài ra, theo Đặng Ngọc Đức (2020) thì người đi vay vốn sẽ gặp phải rủi ro lớn nhất đó là phải chứng minh được khả năng trả nợ nên bắt buộc người đi vay phải để lại các giấy tờ quan trọng hoặc có giá trị. Tiếp theo đó, lãi suất đi vay siêu cao và phải cung cấp thông tin của người thân và không có chính quyền đứng ra làm chứng. Khi khoản vay không được trả đúng hạn thì lãi kép sẽ làm cho lượng tiền phải trả tăng lên nhanh chóng. Nhiều khoản vay trở thành vòng luẩn quẩn khi người vay buộc phải vay các bên khác để trả nợ các khoản vay hiện tại. Tín dụng đen làm cuộc sống của người đi vay trở nên khánh kiệt, cùng quẫn, từ những người có tài sản và chỉ thiếu chút tiền tạm thời do đi vay nặng lãi không trả được nợ dẫn đến phá sản, thậm chí vướng vòng lao lý khi túng quẫn quá nên làm liều, vi phạm pháp luật. Nhiều nạn nhân bị các đối tượng khống chế, đe dọa nhưng không dám tố cáo, hợp tác, cung cấp tài liệu với cơ quan công an. Đặc biệt là số các đối tượng trong các công ty có chức năng đòi nợ thuê được Nhà nước cấp phép hoạt động, thực chất là không ít các băng, nhóm tội phạm “núp bóng” công ty, doanh nghiệp để dễ bề tổ chức các hoạt động che mắt những hành vi phi pháp. Số tiền thu lời bất chính từ hoạt động tín dụng đen lại được các chủ nợ tài trợ cho các đối tượng hoặc các hoạt.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> 40 động bất hợp pháp. Ngoài ra, tín dụng đen gây thất thu nguồn thu ngân sách nhà nước. Các chủ nợ của tín dụng đen thu lời rất lớn từ hoạt động cho vay nặng lãi nhưng vì là hoạt động bất hợp pháp nên nhà nước không thu được một đồng tiền thuế nào. Nếu nguồn tín dụng này được chuyển sang cho các tổ chức được nhà nước cho phép thực hiện hoạt động cấp tín dụng thì các tổ chức này sẽ phải đóng thuế trên các khoản lợi nhuận mà họ có được.. 1.3. Lý thuyết nền tảng và mô hình dự kiến 1.3.1. Các lý thuyết nền tảng 1.3.1.1. Lý thuyết hành động hợp lý (Theory of Reasoned Action - TRA) Lý thuyết này được xây dựng và phát triển bởi Ajzen và Fishbein từ cuối những năm 1960 và được mở rộng vào những năm 1970 (Fishbein, 1979). Theo lý thuyết này, hành vi con người được quyết định bởi yếu tố quan trọng nhất chính là “Ý định hành vi” (Behavior intention). Bên cạnh đó, “Ý định hành vi” lại được giải thích bằng “Thái độ đối với hành vi” (Attitude) và “Mức quy chuẩn chủ quan” (Subjective Norm) đối với hành vi đó. Trong đó, “Thái độ đối với hành vi” là “niềm tin hay cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực của một cá nhân về một sản phẩm nào đó” còn “Mức quy chuẩn chủ quan” được hiểu là “mọi người xung quanh sẽ cảm thấy thế nào khi bạn thực hiện hành vi đó”. Lý thuyết này được sử dụng trong nhiều nghiên cứu về các hành vi và chủ yếu trong một số lĩnh vực như Y học và Công nghệ. Tuy nhiên, đối với nghiên cứu về hành vi tiếp cận tín dụng (chính thức và phi chính thức) lý thuyết này vẫn chưa được sử dụng.. Niềm tin vào hành vi. Thái độ hành vi Ý đinh hành vi. Niềm tin vào mức quy chuẩn chủ quan. Thực hiện hành vi. Mức quy chuẩn chủ quan. Hình 1.2: Mô hình lý thuyết hành động hợp lý TRA. Nguồn: Ajzen và Fishbein (1980) Theo lý thuyết này, “Thái độ đối với hành vi” không phải yếu tố quyết định đến với việc thực hiện hành vi mà là “Ý định hành vi”, nghiên cứu cũng nêu rõ ra được mối quan hệ nhất quán giữa “Thái độ” và “Hành vi” trong việc ra quyết định (Ajzen và Fishbein, 1980). Hạn chế của nghiên cứu lý thuyết hành động hợp lý (TRA) xuất phát từ việc giả định sự quyết.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> 41 định của ý chí đối với hành vi của con người. Lý thuyết này cho rằng, ý thức là cái có trước và quyết định hành vi của con người. Tuy nhiên, đối với những hành vi chấp nhận công nghệ trong trường hợp người tiêu dùng hành động theo thói quen hoặc thực hiện những hành vi không có ý thức. Ngoài ra, lý thuyết này chỉ nói đến mối quan hệ giữa “Thái độ” hành vi và quyết định thực hiện hành vi mà không xem xét các yếu tố về “Xã hội” mà trong thực tế những yếu tố này có ảnh hưởng đến sự quyết định về “Hành vi” của con người.. 1.3.1.2. Lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior - TPB) Để khắc phục những nhược điểm của mô hình nghiên cứu lý thuyết hành động hợp lý TRA, vào năm 1985 Ajzen đã đưa ra mô hình lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB). Mô hình hành vi có kế hoạch là sự mở rộng của lý thuyết hành động hợp lý (TRA), cũng giống như lý thuyết hành động hợp lý (TRA) lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) cho rằng yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định của con người là “Ý định hành vi”. Sự mở rộng của lý thuyết TPB khi nghiên cứu cho rằng “Thái độ”, hành vi “Kiểm soát cảm nhận” và “Mức quy chuẩn chủ quan” có ảnh hưởng đến “Ý định hành vi” và “Hành vi” chấp nhận sử dụng công nghệ (Ajzen, 1985). Nhân tố hành vi “Kiểm soát cảm nhận” (Perceived Behavioral Control) được thêm vào để thể hiện sự khó khăn hay dễ dàng khi thực hiện một hành vi cụ thể và việc thực hiện hành vi đó có bị kiểm soát hay không. Lý thuyết này được một số nghiên cứu cho rằng là tối ưu hơn trong việc giải thích và dự đoán hành vi của người tiêu dùng trong một nội dung và hoàn cảnh nghiên cứu. Lý thuyết này đã khắc phục được khuyết điểm của lý thuyết hành động hợp lý (TRA) với lập luận hành vi của con người là có chủ ý và được lên kế hoạch. Lý thuyết này cũng được áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực nhưng vẫn chưa có một nghiên cứu cụ thể sử dụng làm nền tảng trong việc nghiên cứu hành vi chấp nhận sử dụng tín dụng đen. Tuy nhiên, lý thuyết TPB không nêu rõ ra thế nào là hành vi có kế hoạch và làm thế nào để lên hành vi kế hoạch cho con người..

<span class='text_page_counter'>(52)</span> 42. Thái độ hành vi. Mức quy chuẩn chủ quan. Ý định hành vi. Hành vi tiêu dùng. Hành vi kiểm soát cảm nhận. Hình 1.3: Mô hình lý thuyết hành vi có kế hoạch TPB. Nguồn: Ajzen (1985). 1.3.1.3. Lý thuyết chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model - TAM) Mô hình TAM được xây dựng và phát triển bởi Davis vào năm 1985. Mô hình này đã nêu ra sự ảnh hưởng của các yếu tố: “Cảm nhận dễ sử dụng” (Perceived ease of use) và “Cảm nhận hữu dụng” (Perceived usefulness) lên “Thái độ” dẫn đến sử dụng công nghệ và sau đó ảnh hưởng đến quyết định sử dụng công nghệ (Davis, 1985). Mô hình TAM chính là sự mở rộng có tầm ảnh hưởng nhất của lý thuyết hành động hợp lý (TRA) của Fishbein và Ajzen, lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) của Ajzen. Mô hình TAM đã khắc phục được một số hạn chế của mô hình TRA và TPB. Đầu tiên, mô hình TRA và TPB đều chỉ cho rằng nhân tố ảnh hưởng tới “Ý định hành vi” chỉ có “Thái độ hành vi”, “Mức quy chuẩn chủ quan” và “Hành vi kiểm soát cảm nhận”. Tuy nhiên, nhân tố “Ý định hành vi” còn có thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khác. Thứ hai, các mô hình TRA và TPB đều cho rằng “Ý định hành vi” đều ảnh hưởng tới việc sử dụng công nghệ nhưng từ “Ý định hành vi” cho đến quyết định sử dụng phải mất một khoảng thời gian nhất định. Ngoài ra, TRA và TPB đều cho rằng các hành động được đưa ra đều dựa vào những tiêu chí nhất định nhưng cá nhân không nhất thiết phải làm theo những tiêu chí đã dự đoán (Đỗ Thị Ngọc Anh, 2017). TAM cung cấp góc nhìn sâu sắc để dự đoán các đặc tính hệ thống có ảnh hưởng đến “Thái độ” và “Hành vi sử dụng” hệ thống thông tin. Theo Davis thì “Cảm nhận về tính hữu dụng” là “mức độ mà một người tin vào việc sử dụng một hệ thống đặc biệt nào đó.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> 43 sẽ làm nâng cao hiệu suất làm việc của mình” còn đối với “Cảm nhận dễ sử dụng” được hiểu là “mức độ mọi người tin tưởng sử dụng hệ thống đặc thù mà không cần sự nỗ lực”. Bên cạnh đó, mô hình TAM cũng chỉ ra rằng nhân tố “Cảm nhận dễ sử dụng” có tác động trực tiếp đến nhân tố “Cảm nhận hữu ích”. Nhận thức hữu ích Các nhân tố bên ngoài. Thái độ hành vi. Ý định sử dụng. Hành vi sử dụng. Nhận thức dễ sử dụng. Hình 1.4: Mô Hình chấp nhận công nghệ TAM. Nguồn: Davis và cộng sự (1989a) Mô hình được sử dụng rộng rãi ở trong các lĩnh vực di động, dịch vụ ngân hàng, thương mại điện tử… Tuy nhiên đối với lĩnh vực sử dụng tín dụng đen thì vẫn còn chưa được áp dụng. Hạn chế của mô hình chấp nhận công nghệ TAM là mô hình chỉ đề cập đến hai nhân tố “Hữu ích” và “Dễ sử dụng” ảnh hưởng đến “Thái độ hành vi” trong khi “Thái độ hành vi” còn bị nhiều yếu tố khác tác động như “Tính bảo mật”, yếu tố thuộc về “Xã hội”…. 1.3.1.4. Lý thuyết chấp nhận và sử dụng công nghệ (Unified Theory of Acceptance and Use Technology - UTAUT) Lý thuyết này được phát triển và xây dựng bởi Venkatesh và cộng sự (2003a). Mô hình này được xây dựng và phát triển dựa trên mô hình lý thuyết về sự chấp nhận công nghệ của người tiêu dùng của 8 nghiên cứu trước như TRA, TPB, TAM, SCT (Lý thuyết về nhận thức xã hội), kết hợp TAM - TPB, IDT (Lý thuyết về sự đổi mới), MM (Mô hình động lực), và MPCU (Mô hình nguồn PC máy tính) để xây dựng mô hình UTAUT. Mô hình này được chứng minh là mô hình tối ưu trong việc giải thích hành vi công nghệ. Mô hình này gồm có bốn nhân tố chính: “Hiệu quả kỳ vọng”, “Nỗ lực kỳ vọng”, “Ảnh hưởng xã hội”, “Điều kiện thuận lợi” ảnh hưởng trực tiếp lên “Ý định hành vi” và “Hành vi sử dụng”. Ngoài ra, các biến kiểm soát “Tuổi”, “Giới tính”, “Kinh nghiệm” và “Sự tự nguyện sử dụng” cũng tác động vào “Ý định sử dụng” công nghệ của người tiêu dùng Venkatesh và cộng sự (2003a). Hạn chế duy nhất của mô hình chính là mô hình chỉ nghiên cứu về vấn đề chấp nhận sử dụng công nghệ..

<span class='text_page_counter'>(54)</span> 44. Hiệu quả kỳ vọng Ý định sử dụng. Nỗ lực kỳ vọng. Hành vi sử dụng. Ảnh hưởng xã hội. Điều kiện thuận lợi Tuổi. Giới tính. Kinh nghiệm. Tự nguyện sử dụng. Hình 1.5: Mô hình lý thuyết chấp nhận sử dụng công nghệ (UTAUT). Nguồn: Venkatesh và cộng sự (2003a). 1.3.2. Mô hình nghiên cứu dự kiến 1.3.1.1. Lựa chọn lý thuyết làm nền tảng nghiên cứu Hiện nay, có rất ít những nghiên cứu sử dụng các mô hình nền tảng lý thuyết khi nghiên cứu về vấn đề tiếp cận tín dụng (kể cả dưới dạng tín dụng chính thức hay phi chính thức). Các lý thuyết được xây dựng đều có những ưu điểm và khuyết điểm nhất định, mô hình sau thường phát triển và mở rộng hơn mô hình trước trong việc giải thích hành vi sử dụng công nghệ của người tiêu dùng. Các mô hình sau thường kết hợp và phát triển hơn mô hình trước nhằm tạo ra sự tối ưu trong việc giải thích hành vi của người tiêu dùng. Mô hình lý thuyết chấp nhận sử dụng công nghệ UTAUT là lý thuyết kết hợp dựa vào 8 mô hình trước và đã tối đa hóa được việc giải thích hành vi sử dụng công nghệ của người tiêu dùng. Ngoài ra, các mô hình TAM, TRA đều có những hạn chế trong việc giải thích ý định hành vi của người tiêu dùng. Do đó, luận án này tiếp cận mô hình nền tảng là mô hình TPB và bổ sung thêm các dữ kiện trong nghiên cứu của UTAUT.. 1.3.2.2. Xây dựng mô hình nghiên cứu sơ bộ Nghiên cứu sử dụng lý thuyết hành vi có kế hoạch của Ajzen (1985) và lý thuyết chấp nhận và sử dụng công nghệ UTAUT của Venkatesh và cộng sự (2003a) làm nền tảng lý thuyết nghiên cứu để giải thích hành vi tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> 45 Đối với mô hình thứ nhất, tiếp cận tín dụng chính thức, tác giả sử dụng mô hình TPB để đánh giá, trong đó có kết hợp với mô hình UTAUT để đưa ra những biến phụ thuộc. Cụ thể, tác giả dự kiến sử dụng các biến như Tài sản đảm bảo, Thu nhập của hộ kinh doanh cá thể, Kinh nghiệm của chủ hộ, Khoảng cách địa lý, Lãi suất vay vốn, Thủ tục vay vốn, Kinh nghiệm của NHTM nhằm tác động đến khả năng tiếp cận vốn chính thức của hộ kinh doanh cá thể. Đối với mô hình thứ 2 (tiếp cận tín dụng phi chính thức, trong đó tập trung vào tín dụng đen), tác giả xây dựng mô hình gồm bốn yếu tố chính: “Hiệu quả kỳ vọng”, “Nỗ lực kỳ vọng”, “Ảnh hưởng xã hội”, “Điều kiện thuận lợi” giống như mô hình lý thuyết gốc. Ngoài ra, trong mô hình UTAUT cũng tính đến những yếu tố: “Tuổi”, “Giới tính”, “Kinh nghiệm sử dụng” và “Tự nguyện sử dụng” ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa các nhân tố tới “Ý định sử dụng” của khách hàng. Tuy nhiên trong nghiên cứu này chỉ sử dụng nhân tố “Giới tính”, mà không sử dụng yếu tố “Tự nguyện đi vay”, “Kinh nghiệm đi vay” vì những người đi vay đều là những người tự nguyện. Bên cạnh đó, nghiên cứu bổ sung thêm kiểm soát bao gồm “số năm kinh doanh” để đánh giá..

<span class='text_page_counter'>(56)</span> 46. CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 2.1. Phương pháp nghiên cứu 2.1.1. Quy trình nghiên cứu Nghiên cứu này sử dụng cả phương pháp định tính và định lượng để trả lời câu hỏi nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu định tính (sử dụng trong giai đoạn phát triển bảng hỏi và thang đo) và phương pháp nghiên cứu định lượng sau khi đã thực hiện xong nghiên cứu định tính và điều chỉnh bảng hỏi. Quy trình nghiên cứu: Nhằm đạt được những mục tiêu của nghiên cứu thì quy trình nghiên cứu được thực hiện theo những bước sau: Bước 1: Dựa trên những cơ sở lý thuyết nền tảng của các cuộc nghiên cứu trước đây để tiến hành xây dựng khái niệm, lựa chọn thang đo cho các nhân tố nghiên cứu và xây dựng mô hình nghiên cứu. Bước 2: Xây dựng bảng hỏi sơ bộ và tiến hành nghiên cứu định tính thông qua các cuộc phỏng vấn sâu với những chuyên gia, các TCTD, các đơn vị cung cấp tín dụng phi chính thức và các hộ kinh doanh cá thể đã sử dụng tín dụng nhằm mục đích chuẩn hóa những thuật ngữ, điều chỉnh và bổ sung những biến quan sát trong thang đo cho phù với bối cảnh hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam, phát triển thang đo và hiệu chỉnh thang đo. Đối với những biến nhân tố mới thì dựa vào cơ sở lý thuyết nền tảng để có thể xây dựng khái niệm, lựa chọn thang đo, đưa ra giả thuyết phù hợp với mô hình nghiên cứu. Từ đó, tiến hành điều chỉnh mô hình và hoàn chỉnh bảng hỏi cho nghiên cứu định lượng. Bước 3: Dựa trên phân tích tiến hành hoàn chỉnh bảng hỏi cho nghiên cứu định lượng. Thực hiện nghiên cứu định lượng để đưa ra kết quả nghiên cứu nhằm phân tích kết quả, đánh giá độ tin cậy của thang đo, kiểm định giả thuyết và đưa ra hàm ý chính sách..

<span class='text_page_counter'>(57)</span> 47. Nghiên cứu tổng quan. Xây dựng khái niệm, mô hình sơ bộ. Nghiên cứu định tính. Phân tích, hiệu chỉnh thang đo và hoàn thành bảng hỏi, điều chỉnh mô hình. Nghiên cứu định lượng. Đánh giá độ tin cậy của thang đo, kiểm định giả thuyết, phân tích kết quả. Đánh giá kết quả và đưa ra hàm ý chính sách. Hình 2.1: Quy trình nghiên cứu Nguồn: Đề xuất của tác giả. 2.1.2. Nghiên cứu định tính Mục tiêu nghiên cứu định tính: Để kiểm tra, sàng lọc và xác định mối quan hệ giữa các biến trong mô hình lý thuyết ban đầu (đã được hình thành dựa trên nghiên cứu tổng quan lý thuyết). Phương pháp nghiên cứu định tính: Phỏng vấn sâu vì đây là cách thích hợp nhất để kiểm tra sự phù hợp của mô hình nghiên cứu đề xuất, xây dựng bảng hỏi khảo sát và tính chính xác phù hợp của kết quả nghiên cứu. Thứ nhất, kiểm tra, sàng lọc các biến độc lập trong mô hình lý thuyết được nhóm tác giả đề xuất và xác định sơ bộ mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc. Các mô hình đã đề cập được nghiên cứu tại nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, không phải nhân tố nào cũng phù hợp và được nghiên cứu tại thị trường Việt Nam. Các cuộc thảo luận, trao đổi sẽ giúp nhóm tác giả khẳng định được những nhân tố phù hợp với địa bàn nghiên cứu và sơ bộ về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó tới khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và phi chính thức của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam. Thứ hai, kiểm định sự phù hợp của thang đo. Thang đo được tác giả đưa ra trong nghiên cứu là những thang đo đã được công nhận và sử dụng rộng rãi trên thế giới. Tuy.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> 48 nhiên trong điều kiện lĩnh vực nghiên cứu là khả năng tiếp cận tín dụng chính thức và phi chính thức của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam, những thang đo này cũng cần phải được xem xét để điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp. Bên cạnh đó, trong quá trình phỏng vấn, các chuyên gia cho ý kiến hoàn thiện về nội dung câu hỏi, các khái niệm dùng trong những câu hỏi được sử dụng trong phiếu điều tra định lượng sau này. Trước khi thảo luận, nhóm tác giả tiếp xúc và gửi thư mời chính thức gặp mặt để thực hiện thảo luận nhóm nhằm đảm bảo đạt được hiệu quả mong muốn. Đối tượng phỏng vấn: Tác giả đã thực hiện các cuộc phỏng vấn chuyên sâu và được chia thành gồm 3 nhóm sau. Nhóm 1 gồm 6 chuyên gia lí thuyết, bao gồm: - GS. TS Hồ Đức Hùng, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. - PGS. TS Phạm Đức Chính, Đại học Kinh tế - Luật. - PGS. TS Lê Thanh Tâm, Đại học Kinh tế Quốc dân. - TS. Nguyễn Thị Hương Liên, Đai học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. - PGS. TS. Phạm Thị Hoàng Anh, Học viện Ngân hàng. - PGS. TS. Phan Thị Thu Hà, Đại học Kinh tế Quốc dân. Đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng chính thức, tác giả tiến hành phỏng vấn những chuyên gia sau - TS. Phạm Bích Liên, NHTM cổ phần Bưu Điện Liên Việt. - TS. Lại Thị Thanh Loan, NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam. - TS. Trần Hữu Ý, Ngân hàng Chính sách và xã hội Việt Nam. - ThS. Dương Ngọc Linh, Tổ chức tài chính vi mô Tình thương (TYM) - TS. Nguyễn Cảnh Hiệp, Ngân hàng Phát triển Việt Nam Đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng phi chính thức, tác giả tiến hành phỏng vấn với 5 người (yêu cầu giấu tên), dưới hình thức chủ yếu là “cầm đồ”, tại các tỉnh: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Thái Bình, Dak Lak và Đà Nẵng. Đối với những hộ kinh doanh cá thể, tác giả tiến hành phỏng vấn với những chủ hộ như sau: - Ông Lê Văn Minh, lĩnh vực kinh doanh: đồ gỗ. Địa điểm kinh doanh: tỉnh Bình Dương. - Ông Nguyễn Phúc, lĩnh vực kinh doanh: nông nghiệp. Địa điểm kinh doanh: tỉnh Hòa Bình. - Ông Đậu Văn Công, lĩnh vực kinh doanh: đánh bắt thủy hải sản. Địa điểm kinh doanh: tỉnh Thái Bình..

<span class='text_page_counter'>(59)</span> 49 - Ông Nguyễn Phước Hùng, lĩnh vực kinh doanh: dịch vụ. Địa điểm kinh doanh: thành phố Hà Nội. - Ông Tô Xuân Phúc, lĩnh vực kinh doanh: dịch vụ. Địa điểm kinh doanh: thành phố Hồ Chí Minh. - Ông Vũ Hải Bằng, lĩnh vực kinh doanh: sản xuất và dịch vụ (đồ đồng, đồ mỹ nghệ). Địa điểm kinh doanh: Đà Nẵng - Ông Lê Văn Phước, lĩnh vực kinh doanh: nông nghiệp và dịch vụ (trồng trọt và tự bán). Địa điểm kinh doanh: Hà Nội. - Bà Nguyễn Thị Hoa, lĩnh vực kinh doanh: nông nghiệp và dịch vụ (trồng trọt và tự bán). Địa điểm kinh doanh: Dak Lak. Những đối tượng được phỏng vấn đều hiểu biết và chuyên môn về trong lĩnh vực vay cung cấp dịch vụ tín dụng như có nhiều năm cho vay, có nhiều nghiên cứu về vấn đề tiếp cận tín dụng và tài chính toàn diện; hoặc sử dụng các khoản vay chính thức và phi chính thức nên kết quả nghiên cứu về định tính được kì vọng mang lại sự chính xác cao. Thời gian phỏng vấn: Mỗi cuộc phỏng vấn có thời lượng trung bình là 30 phút. Kết quả của cuộc phỏng vấn được dỡ băng trong vòng 24 giờ. Các cuộc phỏng vấn được tiến hành tại phòng làm việc, nhà riêng, giảng đường, quán café, phỏng vấn online thông qua Skype, Teams… để đảm bảo tính thoải mái và riêng tư cho đối tượng được phỏng vấn. Các cuộc phỏng vấn được được tiến hành từ 9/2018 đến tháng 3/2019. Nội dung phỏng vấn: Cuộc phỏng vấn được tiến hành với bảng câu hỏi sơ bộ (Phụ lục 1) nhằm xin ý kiến đánh giá sự phù hợp thang đo, các câu hỏi giúp cho việc xây dựng bảng hỏi cho nghiên cứu chính thức. Ngoài ra còn có những câu hỏi mở xoay quanh vấn đề sử dụng tín dụng phi chính thức của các hộ kinh doanh cá thể (Các câu hỏi phỏng vấn được trình bày ở Phụ Lục 2). Trong quá trình phỏng vấn, tác giả có giải thích thêm về nội dung nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, diễn giải nội dung câu hỏi. Phát triển bảng hỏi: Dựa vào quá trình các tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước, dựa vào mục tiêu nghiên cứu, mô hình nghiên cứu tác giả tiến hành phát triển một bảng hỏi. Bảng hỏi thiết kế dựa vào các nghiên cứu nước ngoài bằng Tiếng Anh về các nhân tố “Ý định sử dụng” và dịch sang tiếng Việt. Ngoài ra, nghiên cứu cũng dựa vào những bảng hỏi đã dịch sang tiếng Việt về các nhân tố “Ý định sử dụng” để xây dựng bảng hỏi sơ bộ. Kết quả nghiên cứu định tính Thứ nhất, đối với tiếp cận tín dụng chính thức, tác giả cho rằng việc sử dụng các biến theo mô hình TPB phù hợp, nhưng cần phải thêm 1 biến là biến Ngân hàng Điện tử, bởi trong điều kiện hiện tại, việc giải ngân và vay vốn thông qua các ứng dụng điện.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> 50 tử rất phù hợp với các hộ gia đình, đặc biệt là từ khi thông tư 39/2016/TT-NHNN ra đời (theo kết quả phỏng vấn của các chuyên gia về tín dụng chính thức). Tuy nhiên, khi tiến hành các biến đối với mô hình tiếp cận tín dụng chính thức, có nhiều biến ví dụ như “hiệu quả kỳ vọng” được tách thành nhiều biến như lãi suất vay vốn, thủ tục vay vốn. Như thế sẽ tránh được việc sử dụng 1 mô hình cho 2 nghiên cứu khác nhau. Thứ hai, đối với tiếp cận tín dụng phi chính thức, thì người cung cấp dịch vụ phi chính thức trả lời rằng: “người vay vốn không biết quá nhiều về cách tính toán lãi suất, thời gian trả nợ nên có thể thu được nhiều lợi ích hơn”. Do vậy, cần phải bổ sung biến “hiểu biết tài chính” vào trong mô hình nghiên cứu. Thêm vào đó, một trong những lý do mà các hộ kinh doanh cá thể trả lời cần tiếp cận tín dụng đen là rất nhanh (chỉ cần 30 phút sẽ có vốn, trong khi chờ đợi các ngân hàng rất lâu), chấp nhận cho vay trong vài ngày (điều mà các ngân hàng rất ít khi cho vay). Các chuyên gia về lý thuyết cho rằng: cần phải bổ sung tính “tiện lợi” vào mô hình. Các chủ hộ đi vay tín dụng phi chính thức thường phải chứng minh thu nhập để có thể vay được vốn từ các “cửa hàng cầm đồ”, nên cần bổ sung biến “thu nhập” vào biến kiểm soát. Khi tiếp cận tín dụng phi chính thức, thì các chủ hộ cho rằng: việc bảo mật thông tin rất quan trọng, bởi có thể chủ nợ có thể trả thù (như đòi nợ thông qua xã hội đen, hoặc công bố thông tin rộng rãi, gây ảnh hưởng đến các hộ kinh doanh cá thể). Vì vậy, biến “bảo mật” cần được thêm vào mô hình. Cuối cùng, trong quá trình phỏng vấn về bảng hỏi, ngoài việc điều chỉnh câu chữ, thì cần thay chữ “tín dụng phi chính thức” hoặc “tín dụng đen” thành cụm từ “các khoản vay tại các cửa hàng cầm đồ” để thuận tiện cho việc khảo sát một cách tốt nhất, đưa ra bảng hỏi chính thức. (Kết quả nghiên cứu định tính được trình bày một cách cụ thể ở Phụ lục 2) Như vậy, có 2 mô hình được tác giả đề cập như sau: Tài sản đảm bảo Lãi suất vay vốn. Kinh nghiệm kinh doanh Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức. Kinh nghiệm của NHTM. Khoảng cách địa lý. Dịch vụ ngân hàng điện tử. Thủ tục vay vốn. Thu nhập. Hình 2.2. Mô hình tiếp cận tín dụng chính thức Nguồn: Tác giả điều chỉnh từ phỏng sâu.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> 51. Hiệu quả kỳ vọng Nỗ lực kỳ vọng Ảnh hưởng xã hội Khả năng tiếp cận tín dụng phi chính thức. Điều kiện thuận lợi Hiểu biết tài chính Tiện lợi Bảo mật. Số năm KD. Giới tính chủ hộ. Hình 2.3: Mô hình tiếp cận tín dụng phi chính thức Nguồn: Tác giả điều chỉnh từ phỏng sâu. 2.1.3. Nghiên cứu định lượng Nghiên cứu định lượng bằng cách thực hiện thu thập dữ liệu được từ khảo sát trên nhóm đối tượng là các hộ gia đình đã sử dụng tín dụng chính thức và/hoặc phi chính thức (không bao gồm các khoản vay từ người thân hoặc vay thông qua phường/họ). Tác giả xử lý dữ liệu bằng phần mềm SPSS 25 và AMOS 20 để phân tích đặc điểm của hộ kinh doanh cá thể, độ tin cậy thang đo, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM), ảnh hưởng của biến điều tiết tới mối quan hệ của mô hình cấu trúc. Chọn mẫu và thu nhập số liệu Phương pháp chọn mẫu: các hộ kinh doanh cá thể đã được đăng kí tại Việt Nam, đã sử dụng ít nhất 1 trong 2 hình thức tín dụng: chính thức (cung cấp bởi các TCTD được cấp phép, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách xã hội, công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô); phi chính thức (chủ yếu là các tổ chức cầm đồ hoặc các tổ chức kinh doanh có điều kiện). Kích thước mẫu: Hair và cộng sự (1998) thì kích thước tối thiểu để sử dụng EFA là 50 và tốt hơn là 100, kích thước mẫu dự kiến tối thiểu là gấp 5 lần tổng số biến quan sát và nên có 5 biến quan sát cho mỗi biến độc lập trong sự khác. Như vậy, một biến độc lập thì thường phải có 20 đến 25 quan sát để đạt được mức độ mong muốn của nghiên cứu..

<span class='text_page_counter'>(62)</span> 52 Phương pháp phân tích số liệu Sau khi thu nhận các câu trả lời, tác giả xử lý bảng hỏi, mã hóa số liệu và nhập số liệu, sau đó tiến hành phân tích dữ liệu bảng hỏi bằng phần mềm SPSS 25. Bước 1: Giới thiệu về đặc điểm nhân khẩu và thống kê mô tả mẫu nghiên cứu Giới thiệu về đặc điểm nhân khẩu của những người tham gia khảo sát nhằm dùng cho việc kiểm định sự điều tiết của một số đặc điểm nhân khẩu trong mối quan hệ mô hình cấu trúc. Thống kê mô tả nhằm đưa ra những đặc tính cơ bản của dữ liệu thu được từ nghiên cứu thực nghiệm. Nghiên cứu thực hiện việc thống kê mô tả cho các biến kiểm soát: “Giới tính”, “thu nhập”, “số năm kinh doanh”, lý do chưa sử dụng tín dụng chính thức và phi chính thức. Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành đánh giá thang đo cho các biến độc lập thông qua 2 kiểm định Skewness và Kurtosis để xét xem các thang đo của các biến này có phân phối chuẩn nhằm đảm bảo yêu cầu kiểm định và phân tích cho các phần tiếp theo. Bước 2: Đánh giá độ tin cậy và giá trị thang đo qua Cronbach’s Alpha Hệ số Cronbach’s Alpha thường được các nhà nghiên cứu sử dụng để đánh giá mức độ tin cậy của thang đo đưa ra khảo sát. Kiểm định này để loại các biến mà chúng ta nghĩ rằng có thể đo lường được khái niệm nhưng thực chất không có quan hệ với các biến đo lường khác. Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) thì nhiều nghiên cứu đồng ý rằng độ tin cậy Cronbach’s Alpha phải nằm trong khoảng từ 0,6 đến 1,0 để đảm bảo các biến tổng cùng một nhóm có tương quan về ý nghĩa. Trong khoảng từ 0,8 đến 1,0 thì thang đo lường là tốt, từ 0,7 đến gần 0,8 là sử dụng được và từ 0,6 đến gần 0,7 là có thể sử dụng được trong trường hợp khái niệm đo lường là mới hoặc mới đối với người trả lời trong bối cảnh nghiên cứu. Hệ số Cronbach’s Alpha càng lớn thì thang đo có độ tin cậy càng cao. Tuy nhiên nếu hệ số này quá lớn (> 0,95) thì lại cho thấy nhiều biến trong thang đo không có gì khác biệt. Nghiên cứu về tín dụng đen tương đối mới trong bối cảnh Việt Nam, vì vậy nếu hệ số Cronbach’s Alpha ≥ 0,6 thì thang đo có thể chấp nhận được về mặt độ tin cậy và các biến quan sát có hệ số tương quan biến - tổng lớn hơn hoặc bằng 0,4 vì các biến quan sát được coi là biến “rác”. Những biến quan sát nào có chỉ số “Cronbach’s Alpha nếu loại biến” lớn hơn chỉ số Cronbach’s Alpha chung của thang đo thì có thể xem xét kiến nghị loại bỏ biến quan sát đó ra khỏi thang đo. Bước 3: Phân tích nhân tố khám phá (EFA) Sau khi đánh giá độ tin cậy của thang đo với hệ số Cronbach’s Alpha thì bước tiếp theo phải làm là phân tích nhân tố khám phá EFA nhằm đánh giá giá trị của nó. Hai.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> 53 giá trị quan trọng của thang đo là giá trị hội tụ và giá trị phân biệt. Phương pháp phân tích nhân tố EFA thuộc nhóm phân tích đa biến phụ thuộc lẫn nhau (Interdependence techniques), nghĩa là không có biến phụ thuộc và biến độc lập mà nó dựa vào mối tương quan giữa các biến với nhau (Interrelationships). EFA dùng để rút gọn một tập “k” biến quan sát thành một tập “F” (F < k) các nhân tố có ý nghĩa hơn. Cơ sở của việc rút gọn này dựa vào mối quan hệ tuyến tính của các nhân tố với các biến quan sát. Tác giả tiến hành phân tích EFA cho toàn bộ các tiêu chí đo lường với phép quay góc Varimax đi cùng phương pháp trích Pricipal Components Analysis để phân tích. Tiêu chuẩn kiểm định giá trị hội tụ theo tiêu chuẩn của Hair và cộng sự (1998) bao gồm: Kiểm định Bartlett (Bartlett’s test of sphericity) dùng để xem xét các biến quan sát trong nhân tố có tương quan với nhau hay không. Cần lưu ý rằng, điều kiện cần để áp dụng phân tích nhân tố là các biến quan sát phản ánh những khía cạnh khác nhau của cùng một nhân tố phải có mối tương quan với nhau. Điểm này liên quan đến giá trị hội tụ trong phân tích EFA được nhắc ở trên. Do đó, nếu kiểm định cho thấy không có ý nghĩa thống kê thì không nên áp dụng phân tích nhân tố cho các biến đang xem xét. Phép kiểm định Bartlett có p < 5% thì kiểm định này có ý nghĩa thống kê và từ chối giả thuyết H଴ (ma trận tương quan là ma trận đơn vị), nghĩa là các biến có tương quan với nhau trong nhân tố. Hệ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin) là một chỉ số dùng để xem xét sự thích hợp của phân tích nhân tố. Trị số của KMO phải đạt giá trị 0,5 trở lên (0,5 ≤ KMO ≤ 1) là điều kiện đủ để phân tích nhân tố là phù hợp. Nếu trị số này nhỏ hơn 0,5, thì phân tích nhân tố có khả năng không thích hợp với tập dữ liệu nghiên cứu (Hair và cộng sự, 2016). Trị số Eigenvalue là một tiêu chí sử dụng phổ biến để xác định số lượng nhân tố trong phân tích EFA. Với tiêu chí này, chỉ có những nhân tố nào có Eigenvalue ≥ 1 mới được giữ lại trong mô hình phân tích. Tổng phương sai trích (Total Variance Explained) ≥ 50% cho thấy mô hình EFA là phù hợp. Coi biến thiên là 100% thì trị số này thể hiện các nhân tố được trích cô đọng được bao nhiêu % và bị thất thoát bao nhiêu % của các biến quan sát. Hệ số tải nhân tố (Factor Loading) hay còn gọi là trọng số nhân tố, giá trị này biểu thị mối quan hệ tương quan giữa biến quan sát với nhân tố. Hair et al (1998) cho rằng Factor loading (hệ số tải nhân tố hay trọng số nhân tố) là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực của EFA: Factor loading > 0,3 được xem là đạt mức tối thiểu. Factor loading > 0,4 được xem là quan trọng..

<span class='text_page_counter'>(64)</span> 54 Factor loading > 0,5 được xem là có ý nghĩa thực tiễn. Ở đây luận án chọn hệ số tải nhân tố (Factor loading) > 0,4. Bước 4: Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) Sau khi phân tích nhân tố khám phá EFA thì phân tích đến nhân tố khẳng định CFA (Confirmatory Factor Analysis) nhằm khẳng định lại tính đơn biến, đa biến, giá trị hội tụ và phân biệt của bộ thang đo sử dụng tín dụng đen. Phân tích nhân tố khẳng định CFA là một trong những kỹ thuật của mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. Khi đo lường mức độ phù hợp của mô hình với thông tin thị trường, người ta thường sử dụng hệ số Chi-square (CMIN), chỉ số thích hợp so sánh (CFI), chỉ số Tucker và Lewis (TLI); Chỉ số RMSEA (Root Mean Square Error Appoximation) và Chi-quare điều chỉnh theo bậc tự do (CMIN/df). Mô hình được xem là thích hợp với dữ liệu khi kiểm định Chi-quare có P-value > 0,05. Giá trị của Chi-quare điều chỉnh theo bậc tự do (CMIN/df) ≤ 5 được coi là chấp nhận được, ≤ 3 được coi là tốt. Các giá trị GFI, CFI, TLI ≥ 0,8 được coi là chấp nhận được và ≥ 0,9 được coi là tốt. Theo Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2009) mô hình nhân được giá trị GFI, TLI, CFI ≥ 0,9, CMIN/df < 3, RMSEA < 0,08 thì mô hình phù hợp với dữ liệu. Bước 5: Phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) và kiểm định Boostrap Sau khi hoàn tất được CFA và khẳng định những thang đo trong mô hình lý thuyết nghiên cứu được đánh giá và cho kết quả phù hợp thì chúng ta đến với phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) để kiểm định mô hình lý thuyết nghiên cứu đã đề xuất. Mô hình cấu trúc tuyến tính chỉ rõ mỗi quan hệ giữa các biến tiềm ẩn với nhau. Bước 6: Kiểm định sự ảnh hưởng của các biến điều tiết Đánh giá sự tác động của các biến điều tiết (Giới tính, số năm kinh nghiệm, thu nhập) tới mối quan hệ giữa các nhân tố trong mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng biến đại diện trong mô hình hồi quy. Phương trình hồi quy có các biến điều tiết như sau: Y = β଴ + βଵ × X + βଶ × X × M + i Để đo lường được tác động của các biến điều tiết này đến mối quan hệ của các biến độc lập tới biến phụ thuộc thì M sẽ đóng vai trò là biến đại diện cho các biến điều tiết từ đó tạo ra một biến mới là biến F = XM và hệ số hồi quy ߚଶ sẽ cho thấy được sự tác động của biến đại diện đến mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc..

<span class='text_page_counter'>(65)</span> 55. 2.2. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 2.2.1. Mô hình tiếp cận tín dụng chính thức Dựa trên mô hình TPB, UTAUT và kết quả phỏng vấn sâu, tác giả đưa ra các biến tác động đến tiếp cận tín dụng chính thức như sau:. 2.2.1.1. Tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo là toàn bộ các khoản mục tài sản nhằm minh chứng cho việc chi trả các nghĩa vụ nợ trong tương lai của khách hàng vay vốn ngân hàng (Casu và cộng sự, 2013, Rose và Hudgins, 2015) - trong trường hợp này là tài sản của hộ kinh doanh cá thể (đã hình thành hoặc sẽ hình thành từ món vay; hoặc đảm bảo của bên thứ ba). Tài sản đảm bảo đóng vai trò là phương tiện để giảm thiểu rủi ro do thông tin bất cân xứng và rủi ro đạo đức khi thực hiện việc cho vay dựa trên tài sản (Nguyen, 2018, Fatoki và Asah, 2011). Việc thiếu tài sản đảm bảo là một trong những rào cản lớn đối với việc tiếp cận tín dụng chính thức - đặc biệt tại vùng nông thôn (Ha, 2015). Các nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh rằng tài sản đảm bảo tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tài chính (Claessens, 2006, Dao và cộng sự, 2016), nguồn tài chính dài hạn (Beck và cộng sự, 2007, Kira và He, 2012), và tiếp cận tín dụng nói chung (Peria và cộng sự, 2012). Bester (1987) lập luận rằng các tài sản thế chấp báo hiệu mức độ rủi ro của hộ gia đình, chỉ những người vay có rủi ro thấp mới sẵn sàng cầm cố số lượng tài sản thế chấp cao. Barbosa và Moraes (2004) cũng cho rằng khi chủ hộ đầu tư nhiều vào tài sản hữu hình thì họ có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính cao hơn vì họ có thể vay với lãi suất thấp hơn nếu khoản nợ của họ được bảo đảm bằng tài sản. Vì vậy, mối quan hệ tích cực giữa tài sản thế chấp và khả năng tiếp cận vốn vay của chủ hộ là điều kiện cơ bản nhất khi ngân hàng xem xét quyết định vay vốn của hộ gia đình. Do đó, có thể cho rằng H1: TSĐB có tác động thuận chiều đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ kinh doanh cá thể. Thang đo tài sản đảm bảo (TSĐB) thể hiện khả năng chủ quan đánh giá của ngân hàng về việc đảm bảo cho khoản vay của khách hàng, thu hồi nợ và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Thang đo tài sản đảm bảo được đánh giá qua đánh giá qua 4 câu hỏi. Thang đo này được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Fatoki và Asah (2011); Kira và He (2012), Dao và cộng sự (2016) các câu hỏi đã được kiểm định bởi nhiều các công trình nghiên cứu khác và đã đạt được kết quả nghiên cứu tốt..

<span class='text_page_counter'>(66)</span> 56 Bảng 2.1. Thang đo tài sản đảm bảo. Khái niệm nghiên cứu. Ký hiệu. Tài sản đảm TSĐB1 bảo (TSĐB). Mô tả thang đo. Tham chiếu. TSĐB2. Chủ hộ là người sở hữu chính của Fatoki và Asah (2011); TSĐB Kira và He (2012), Dao và cộng sự (2016) Có tính thanh khoản cao. TSĐB3. Có giá trị thị trường ít thay đổi. TSĐB4. Có bảo hiểm kèm theo Nguồn: Phân tích của tác giả. 2.2.1.2. Thu nhập Thu nhập của hộ kinh doanh cá thể được hiểu là toàn bộ khoản tiền có được từ kinh doanh của các hộ gia đình (không tính tiền lương nếu đi làm các công việc khác). Chauke và cộng sự (2013), Nguyen (2018), Peria và cộng sự (2012) cùng chỉ ra rằng một trong những điều kiện để vay vốn từ các TCTD chính là khả năng trả nợ của người vay. Do đó, các TCTD xem thu nhập của một hộ gia đình là một trong những tiêu chí để xác định giới hạn cho vay và thời gian trả nợ. Các hộ gia đình có thu nhập cao, ổn định sẽ được ưu tiên cho vay hơn các hộ gia đình khác có thu nhập ít hơn. Các hộ gia đình cần phát triển kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả, chứng minh nguồn tiền và cho vay với mục đích phù hợp để tiếp cận nhiều hơn với các nguồn tín dụng NHTM. Do đó, có thể giả thiết H2: Thu nhập có tác động thuận chiều đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ kinh doanh cá thể. Thang đo thu nhập thể hiện khả năng chủ quan đánh giá của ngân hàng về khả năng trả nợ của khách hàng trong suốt thời gian vay vốn. Thang đo thu nhập được đánh giá qua đánh giá qua 3 câu hỏi. Thang đo này được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Duy và cộng sự (2012), Chauke và cộng sự (2013), Nguyen (2018), Peria và cộng sự (2012). Các câu hỏi đã được kiểm định bởi nhiều các công trình nghiên cứu khác và đã đạt được kết quả nghiên cứu tốt..

<span class='text_page_counter'>(67)</span> 57 Bảng 2.2. Thang đo thu nhập. Khái niệm nghiên cứu Thu Nhập. Ký hiệu TN1. (TN). TN2. TN3. Mô tả thang đo. Tham chiếu. Thu nhập được hình thành từ hoạt Duy và cộng sự động sản xuất kinh doanh hàng tháng (2012), Chauke và ổn định cộng sự (2013), Nguyen (2018), Peria Có sự gia tăng về thu nhập từ hoạt và cộng sự (2012) động sản xuất kinh doanh đã vay vốn Số người phụ thuộc ít Nguồn: Phân tích của tác giả. 2.2.1.3. Kinh nghiệm kinh doanh của chủ hộ Kinh nghiệm kinh doanh của chủ hộ thể hiện mức độ hiểu biết cũng như các trải nghiệm kinh doanh trước đây, thường tính từ khi các hộ bắt đầu tham gia sản xuất kinh doanh đến hiện tại. Số năm kinh nghiệm kinh doanh của chủ hộ càng dài chứng tỏ rằng, chủ thể kinh tế này có thể đã kinh doanh từ rất sớm hoặc là người lớn tuổi trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Lee (2006), Ha (2015), Ngoc (2016), Dao và cộng sự (2016) cho rằng càng có nhiều kinh nghiệm thì hộ gia đình và doanh nghiệp siêu nhỏ tại vùng nông thôn càng dễ dàng tiếp cận vốn ngân hàng.Vì vậy, tác giả đưa ra giả thuyết: H3: Số năm kinh nghiệm kinh doanh có tác động thuận chiều đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ kinh doanh cá thể. Thang đo kinh nghiệm của chủ hộ (KNCH) thể hiện khả năng chủ quan đánh giá của ngân hàng về khả năng kinh doanh làm ăn có lãi của chủ hộ. Thang đo kinh nghiệm của chủ hộ được đánh giá qua đánh giá qua 3 câu hỏi. Thang đo này được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Lee (2006), Ha (2015), Ngoc (2016), Dao và cộng sự (2016). Các câu hỏi đã được kiểm định bởi nhiều các công trình nghiên cứu khác và đã đạt được kết quả nghiên cứu tốt..

<span class='text_page_counter'>(68)</span> 58 Bảng 2.3. Thang đo kinh nghiệm của chủ hộ. Khái niệm nghiên cứu. Ký hiệu. Mô tả thang đo. Tham chiếu. KNCH1 Kinh nghiệm kinh doanh càng Lee (2006), Ha (2015), Kinh nghiệm của nhiều thì càng dễ tiếp cận nguồn Ngoc (2016), Dao và chủ hộ vốn tín dụng NHTM cộng sự (2016) (KNCH) KNCH2 Dễ dàng tiếp cận tín dụng hơn nếu kinh nghiệm trong lĩnh vực vay vốn lớn hơn 3 năm KNCH3 Đã từng vay vốn ngân hàng để phục vụ sản xuất kinh doanh trước đây Nguồn: Phân tích của tác giả. 2.2.1.4. Khoảng cách Theo Beck và cộng sự (2005), khoảng cách địa lý là khoảng cách địa lý từ nơi kinh doanh của các hộ kinh doanh đến các chi nhánh của các TCDT, và là một trong những yếu tố tác động đến khả năng tiếp cận tín dụng của hộ gia đình. Nguyên nhân là do những hộ sinh sống cách xa trung tâm với điều kiện đi lại khó khăn sẽ ảnh hưởng nhiều đến khả năng tiếp cận nguồn vốn của hộ, những hộ ở vùng sâu thường trình độ học vấn và khả năng nắm bắt tình hình còn hạn chế do cách xa trung tâm, nơi tập trung nhiều trung tâm thương mại và các TCTD. Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Ha (2015), Ngoc (2016), Dao và cộng sự (2016) cũng đồng thuận với kết quả trên. Do đó, H4: Khoảng cách địa lý có tác động ngược chiều đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ kinh doanh cá thể. Thang đo khoảng cách (KC) thể hiện khả năng chủ quan đánh giá của chủ thể vay vốn về mức độ thuận tiện, nhanh chóng trong việc tiếp cận tín dụng NHTM hiện nay. Thang đo khoảng cách được đánh giá qua đánh giá qua 3 câu hỏi. Thang đo này được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Lee (2006), Ha (2015), Ngoc (2016), Dao và cộng sự (2016) các câu hỏi đã được kiểm định bởi nhiều các công trình nghiên cứu khác và đã đạt được kết quả nghiên cứu tốt..

<span class='text_page_counter'>(69)</span> 59 Bảng 2.4. Thang đo khoảng cách. Khái niệm nghiên cứu Khoảng cách (KC). Ký hiệu KC1. KC2. KC3. Mô tả thang đo. Tham chiếu. Khoảng cách từ địa điểm kinh doanh Lee (2006), Ha đến các TCTD gần (2015), Ngoc (2016), Dao và Chi nhánh các TCTD được đặt tại cộng sự (2016) những vị trí thuận tiện cho khách hàng Mạng lưới chi nhánh ngân hàng rộng khắp Nguồn: Phân tích của tác giả. 2.2.1.5. Lãi suất vay vốn Lãi suất (và phí suất) của các khoản vay là chi phí được tính cho các khoản vốn vay các TCTD chính thức của các hộ kinh doanh cá thể. Chúng không chỉ ảnh hưởng đến các khoản thanh toán cho bên cho vay mà còn có tác động đến nguồn vốn của doanh nghiệp (Bougheas và cộng sự, 2006). Lãi suất cao làm tăng chi phí kinh doanh, từ đó khiến cho lợi nhuận từ việc kinh doanh giảm, điều này cản trở năng lực phát triển của doanh nghiệp. Lãi suất cao cũng ảnh hưởng đến dòng tiền kinh doanh trong đó người vay phải dành nhiều tiền hơn để trả nợ (Campbell, 2006, Godoy và cộng sự, 1997). Lãi suất cao cũng tăng rủi ro mất khả năng thanh toán do người vay không tận dụng được hết năng lực tài chính của khoản vay (Malesky và Taussig, 2009). Do đó, H5: Lãi suất vay vốn có tác động ngược chiều đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ kinh doanh cá thể. Thang đo lãi suất vay vốn (LS) thể hiện khả năng chủ quan đánh giá của chủ thể vay vốn về lãi suất vay vốn và các chi phí liên quan đến tiếp cận tín dụng NHTM. Thang đo lãi suất được đánh giá qua đánh giá qua 3 câu hỏi. Thang đo này được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Bougheas và cộng sự (2006), Malesky và Taussig (2009), Ngoc (2016). Các câu hỏi đã được kiểm định bởi nhiều các công trình nghiên cứu khác và đã đạt được kết quả nghiên cứu tốt..

<span class='text_page_counter'>(70)</span> 60 Bảng 2.5. Thang đo lãi suất vay vốn. Khái niệm nghiên Ký cứu hiệu Lãi suất (LS). LS1. Mô tả thang đo. Tham chiếu. Lãi suất thấp hơn so với ngân hàng Bougheas và cộng khác. LS2. LS3. sự (2006), Malesky và Taussig (2009), Lãi suất ưu đãi hơn nhưng nhiều Ngoc (2016), Duy điều kiện kèm theo và cộng sự (2012) Chi phí giao dịch, vay vốn thấp (Nguồn: Phân tích của tác giả). 2.2.1.6. Thủ tục vay vốn Thủ tục vay vốn cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tín dụng của hộ gia đình. Christelis và cộng sự (2010), Coco (2000) đã chỉ ra rằng chính sách cho vay, thủ tục vay vốn và chất lượng dịch vụ có ảnh hưởng mạnh nhất đến quyết định vay vốn của chủ thể. Hầu hết các hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam có quy mô vừa, nhỏ cho đến rất nhỏ, kỹ năng trong việc quản lý kinh doanh và thiết lập các kế hoạch kinh doanh còn hạn chế, chủ yếu mang tính kinh nghiệm, ghi chép trên sổ sách mà không được hạch toán cặn kẽ, cũng như những hiểu biết về các điều kiện tiếp cận vốn tín dụng còn chưa đầy đủ (Hoàng Trần Hậu, 2018, Nguyễn Phúc Chánh, 2016, Võ Trí Thành, 2018, Vũ Tiến Lộc, 2018). Điều này khiến cho các thủ tục cho vay nghiêm ngặt mà các TCTD yêu cầu cũng góp phần ngăn cản khả năng tiếp cận tín dụng các doanh nghiệp vừa và nhỏ (Beck và cộng sự, 2007). Do đó, H6: Thủ tục vay vốn có tác động ngược chiều đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ kinh doanh cá thể. Thang đo thủ tục vay vốn (TTV) thể hiện khả năng chủ quan đánh giá của chủ thể vay vốn về quy trình và thời gian xem xét quyết định vay vốn của NHTM. Thang đo thủ tục vay vốn được đánh giá qua đánh giá qua 3 câu hỏi. Thang đo này được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Christelis và cộng sự (2010), Nguyễn Phúc Chánh (2016), Ha (2015), Ngoc (2016), Dao và cộng sự (2016). Các câu hỏi đã được kiểm định bởi nhiều các công trình nghiên cứu khác và đã đạt được kết quả nghiên cứu tốt..

<span class='text_page_counter'>(71)</span> 61 Bảng 2.6. Thang đo sự phức tạp trong thủ tục vay vốn. Khái niệm nghiên cứu. Ký hiệu. Thủ tục vay TTV1 vốn (TTV) TTV2. Mô tả thang đo. Tham chiếu. Thủ tục vay vốn khó đáp ứng. Christelis và cộng sự (2010), Nguyễn Thời gian giải ngân chậm Phúc Chánh (2016), Ha (2015), Thời gian xem xét và phê duyệt hồ sơ Ngoc (2016), Dao vay vốn dài và cộng sự (2016) Kém linh động trong việc thực hiện thủ tục. TTV3 TTV4. Nguồn: Phân tích của tác giả. 2.2.1.7. Kinh nghiệm của ngân hàng thương mại Nghiên cứu của Coco (2000), Campbell (2006) chỉ ra rằng lãi suất vay vốn; uy tín ngân hàng; số năm thành lập TCTD; phí dịch vụ thấp và dễ thực hiện khoản vay có ảnh hướng tới khả năng tiếp cận tín dụng. Trong đó, nhân tố về số năm thành lập ngân hàng và dễ thực hiện khoản vay tác động mạnh nhất đến quyết định lựa chọn ngân hàng của khách hàng (Ha, 2015, Ngoc, 2016, Dao và cộng sự, 2016). Do đó, H7: Kinh nghiệm TCTD có tác động thuận chiều đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ kinh doanh cá thể. Thang đo kinh nghiệm của TCTD (KNNH) thể hiện khả năng chủ quan đánh giá của chủ thể vay vốn về uy tín, chất lượng dịch vụ và quy mô của TCTD. Thang đo kinh nghiệm của ngân hàng được đánh giá qua đánh giá qua 3 câu hỏi. Thang đo này được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Campbell (2006), Ha (2015), Ngoc (2016), Dao và cộng sự (2016). Các câu hỏi đã được kiểm định bởi nhiều các công trình nghiên cứu khác và đã đạt được kết quả nghiên cứu tốt. Bảng 2.7. Thang đo kinh nghiệm của ngân hàng thương mại. Khái niệm nghiên cứu. Ký hiệu. Mô tả thang đo. Tham chiếu. Kinh nghiệm của TCTD. KNNH1. Có hướng đến khu vực hộ kinh doanh cá thể. Campbell (2006), Ha. (KNNH). KNNH2. Có lịch sử hình thành và phát. (2015), Ngoc (2016), Dao và cộng sự (2016).. triển lâu đời KNNH3. Có quy mô lớn, có tiếng tăm. Nguồn: Phân tích của tác giả.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> 62. 2.2.1.8. Dịch vụ ngân hàng điện tử Theo Gaurav (2017), Ngân hàng số (Digital Banking) là một hình thức ngân hàng số hóa tất cả những hoạt động và dịch vụ ngân hàng truyền thống. Dịch vụ ngân hàng số sẽ rút ngắn chi phí di chuyển, thời gian chờ đợi xét duyệt hồ sơ, làm giảm tác động của khoảng cách địa lý tới khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp siêu nhỏ và các hộ kinh doanh. Kết quả phỏng vấn sâu các chuyên gia trong lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng cho thấy: hiện tại dịch vụ ngân hàng số được coi là xu thế tất yếu của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, là dịch vụ “mới” và hiện đại được coi là tiêu biểu và tăng khả năng tiếp cận cho hộ gia đình mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên, tiện ích dịch vụ ngân hàng số hiện nay đang được cung cấp chủ yếu cho đối tượng khách hàng cá nhân, đối với các khách hàng doanh nghiệp mới chỉ dừng ở bước cơ bản như thanh toán online và chủ yếu qua internet banking (Rehman và Ahmed, 2008). Trong thời gian tới, ngân hàng số chính là một trong các yếu tố tích cực tác động lên khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của hộ kinh doanh. Chỉ tiêu này được phát triển thêm dựa trên hàm ý của các chuyên gia trong quá trình phỏng vấn sâu, do đó, tác giả đề xuất giả thuyết. H8: có mối quan hệ thuận chiều giữa chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử với khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ kinh doanh cá thể. Thang đo dịch vụ ngân hàng điện tử của TCTD (NHĐT) thể hiện khả năng chủ quan đánh giá của chủ thể vay vốn về việc cập nhật công nghệ hiện đại trong các dịch vụ của ngân hàng, giảm thiểu chi phí và thời gian giao dịch, đem lại cảm giác hữu ích và dễ sử dụng dịch vụ cho khách hàng. Thang đo dịch vụ ngân hàng điện tử được đánh giá qua đánh giá qua 5 câu hỏi. Thang đo này được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Rehman và Ahmed (2008) và sự phát triển của tác giả từ kết quả nghiên cứu định tính. Bảng 2.8. Thang đo dịch vụ ngân hàng điện tử. Khái niệm nghiên cứu. Ký hiệu. Dịch vụ Ngân hàng NHĐT1 điện tử (NHĐT) NHĐT2. Mô tả thang đo Cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử. Tham chiếu. Rehman Dịch vụ ngân hàng điện tử có hệ Ahmed (2008) thống công nghệ hiện đại. NHĐT3. Dịch vụ ngân hàng điện tử dễ sử dụng. NHĐT4. Dịch vụ ngân hàng điện tử tích hợp nhiều tiện ích. NHĐT5. Dịch vụ ngân hàng điện tử có sự tin. &. tưởng, an toàn Nguồn: Phân tích của tác giả.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> 63. 2.2.1.9. Khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng của hộ kinh doanh cá thể Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ kinh doanh cá thể đã được đề cập, nên tác giả không trình bày lại ở đây. Thang đo khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình (Y) thể hiện mức độ tiếp cận tín dụng NHTM của hộ gia đình hiện nay. Thang đo khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng thương mại được đánh giá qua đánh giá qua 4 câu hỏi. Bảng 2.9. Thang đo khả năng tiếp cận tín dụng NHTM của hộ gia đình. Khái niệm nghiên cứu. Ký hiệu. Khả năng tiếp Y1 cận tín dụng NHTM của hộ Y2 gia đình (Y)7 Y3. Mô tả thang đo. Tham chiếu. Khoản vay từ các ngân hàng có chi phí Campbell phù hợp (2006), Ha Việc vay vốn ngân hàng là hoàn toàn (2015), Ngoc (2016), Dao và trong khả năng Dịch vụ tín dụng của ngân hàng khó để cộng sự (2016). tiếp cận. Y4. Dễ dàng vay vốn ngân hàng tại khu vực sinh sống Nguồn: Phân tích của tác giả. Như vậy, tổng hợp các nhân tố tác động như sau: Bảng 2.10: Tổng hợp chiều tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể. STT. Nhân tố ảnh hưởng. Kỳ vọng. Kết quả các nghiên cứu trước. 1. H1. Tài sản đảm bảo. +. +. 2. H2. Thu nhập. +. +. 3. H3. Kinh nghiệm của chủ hộ. +. +. 4. H4. Khoảng cách địa lý. -. -. 5. H5. Lãi suất vay vốn. -. -. 6. H6. Thủ tục vay vốn. -. -. 7. H7. Kinh nghiệm của NHTM. +. +. 8. H8. Dịch vụ NHĐT. +. +. Nguồn: Phân tích của tác giả.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> 64. 2.2.2. Mô hình tiếp cận tín dụng phi chính thức Đối với tiếp cận tín dụng phi chính thức, tác giả tập trung vào tiếp cận tín dụng đen. Không giống như tín dụng phi chính thức, tín dụng phi chính thức và tín dụng đen rất dễ tiếp cận, tức là chỉ cần có ý định thì có thể vay được, và chắc chắn sẽ không bị từ chối. Do vậy, mô hình nền tảng trong nghiên cứu này sẽ là mô hình UTAUT.. 2.2.1.1. Hiệu quả kỳ vọng “Cảm nhận hữu ích” của mô hình TAM và được định nghĩa như sau là “mức độ người tiêu dùng tin tưởng rằng việc sử dụng hệ thống công nghệ sẽ giúp họ cải thiện được hiệu quả công việc của họ” (Davis, 1985). Tương tự như vậy, định nghĩa của Venkatesh và cộng sự (2003a) cho rằng “Hiệu quả kỳ vọng” là “sự tin tưởng của cá nhân rằng việc sử dụng hệ thống công nghệ sẽ giúp công việc đạt hiệu quả cao hơn”. Các định nghĩa của “Lợi thế tương đối” trong mô hình IDT (Rogers, 1995), “Phù hợp công việc” (Thompson và cộng sự, 1991a) cũng cho rằng “một sự thay đổi mới sẽ làm tăng lên hiệu quả công việc cao hơn so với trước đó”. Ngoài ra, nghiên cứu về “Lợi thế tương đối” của mô hình IDT (Moore và Benbasat, 1991a) cũng định nghĩa là “mức độ sử dụng một sự đổi mới là nhiều hơn so với tiền thân của nó”. Như vậy, “Hiệu quả kỳ vọng” được hiểu là “niềm tin về việc sử dụng công nghệ sẽ tạo ra hiệu quả cao hơn cho công việc cho người tiêu dùng”. Trong nghiên cứu này, “Hiệu quả kỳ vọng” được định nghĩa là “niềm tin của hộ kinh doanh cá thể về việc sử dụng tín dụng đen sẽ tăng hiệu quả công việc của họ”. Đo lường: Hiệu quả kỳ vọng trong nghiên cứu của mô hình UTAUT của lý thuyết về chấp nhận và sử dụng công nghệ của Venkatesh và cộng sự (2003b). Sau khi phỏng vấn sâu, tác giả đưa ra bảng hỏi hiệu chỉnh như sau Bảng 2.11. Thang đo hiệu quả kỳ vọng Nhân tố. Ký hiệu. Nội dung. Hiệu quả HQ1. Tín dụng phi chính thức giúp giải quyết vấn đề của những người tôi. kỳ vọng (HQ). thân thiết HQ2. Tín dụng phi chính thức giúp cho phép tôi thực hiện việc vay nhanh hơ n. HQ3. Tín dụng phi chính thức sẽ giúp tôi giải quyết được các nhu cầu cá nhân nhanh chóng (mua sắm,đầu tư). HQ4. Tín dụng phi chính thức sẽ giúp tôi tăng thu nhập của mình. Nguồn: Venkatesh và cộng sự (2003b).

<span class='text_page_counter'>(75)</span> 65 Lý thuyết chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT) của Venkatesan (2003) chỉ ra rằng nhân tố “Hiểu quả kỳ vọng” có ảnh hưởng không hề nhỏ đến việc chấp nhận sử dụng công nghệ. Ngoài ra, nghiên cứu Venkatesh và cộng sự (2003b) cho rằng độ tuổi, giới tính điều tiết mối quan hệ giữa “Hiệu quả kỳ vọng” tới “Ý định sử dụng”. Mối quan hệ thuận chiều giữa “Hiệu quả kỳ vọng” tới “Ý định sử dụng” mạnh hơn ở nam giới so với nữ giới và mạnh hơn đối với người trẻ tuổi. Như vậy, tác giả đề xuất: H1. Hiệu quả kỳ vọng có ảnh hưởng thuận chiều với Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình Nguồn: Tác giả đề xuất. 2.2.2.2. Nỗ lực kỳ vọng “Nỗ lực kỳ vọng” được định nghĩa là “con người dễ dàng tham gia và sử dụng hệ thống và sử dụng hệ thống công nghệ” (Venkatesh và cộng sự, 2003a). Nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” cũng có định nghĩa tương đồng với các nhân tố của các nghiên cứu khác như “Nhận thức dễ sử dụng” của mô hình TAM (Davis, 1985), “Phức tạp của mô hình” của mô hình MPCU (Thompson và cộng sự, 1991a), “Dễ sử dụng” của mô hình IDT (Moore và Benbasat, 1991a). Trong đó, “Nhận thức về dễ sử dụng” được định nghĩa là “mức độ cá nhân tin rằng sử dụng công nghệ không cần một chút cố gắng nào” còn “Dễ sử dụng” được định nghĩa là “một sự đổi mới sẽ ít được sử dụng nếu không dễ cảm nhận và dễ sử dụng”. Tuy nhiên, “Phức tạp” được định nghĩa là “mức độ mà một hệ thống được coi là khó để hiểu và sử dụng” tuy trái ngược hẳn so với các định nghĩa trên những nó cũng định nghĩa rõ ràng về việc thế nào là dễ hiểu và dễ sử dụng. Tổng kết lại, “Nỗ lực kỳ vọng” được hiểu là “việc sử dụng công nghệ là vô cùng dễ dàng và dễ hiểu đối với người sử dụng công nghệ”. Trong nghiên cứu này, “Nỗ lực kỳ vọng” được định nghĩa là “việc sử dụng tín dụng phi chính thức vô cùng dễ dàng, dễ hiểu”. Đo lường: Trong mô hình UTAUT của Venkatesh và cộng sự (2003b), nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” được đo lường bởi 4 biến quan sát sau.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> 66 Bảng 2.12. Thang đo nỗ lực kỳ vọng. Nhân tố. Ký hiệu. Nội dung. Nỗ lực. NL1. Việc tiếp cận tín dụng tiêu dùng thường rất dễ dàng. kỳ vọng. NL2. Các thông tin và quy định về việc vay vốn thường rất dễ hiểu.. NL3. Các thủ tục vay thường rất dễ nhớ và dễ thao tác cho lần vay tiếp theo. NL4. Tôi cảm thấy tín dụng tiêu dùng rất dễ sử dụng. NL5. Tôi có thể dễ dàng chỉ cho người khác sử dụng tín dụng tiêu dùng Nguồn: Venkatesh và cộng sự (2003b). Trong nghiên cứu Venkatesh và cộng sự (2003b) thì giới tính, độ tuổi, kinh nghiệm điều tiết mối quan hệ giữa nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” và “Ý định sử dụng”. Mối quan hệ thuận chiều giữa “ Nỗ lực kỳ vọng” tới “Ý định sử dụng” mạnh mẽ hơn với nữ giới , với những người nhiều tuổi và những người ít kinh nghiệm vay. Trong nghiên cứu này tác giả đưa ra giả thuyết là: Ký hiệu. Nội dung. H2a. Nỗ lực kỳ vọng có ảnh hưởng thuận chiều với Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình. H2b. Mối quan hệ thuận chiều giữa Nỗ lực kỳ vọng với Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình mạnh hơn ở chủ hộ là nam giới. H2c. Mối quan hệ thuận chiều giữa Nỗ lực kỳ vọng và Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình mạnh hơn ở các hộ có ít hơn 3 năm kinh nghiệm. Nguồn: Tác giả đề xuất. 2.2.2.3. Ảnh hưởng xã hội Ảnh hưởng xã hội được định nghĩa là “sự tác động của người khác tới cảm nhận của cá nhân sẽ có tác động tới việc sử dụng công nghệ mới” (Venkatesh và cộng sự, 2003b). Nhân tố ảnh hưởng xã hội cũng có định nghĩa tương đồng với các nhân tố trong nghiên cứu khác như chuẩn chủ quan của các mô hình (TRA, TAM2, TPB/IDTPB, và C-TAM-TP), yếu tố xã hội của mô hình MPCU và hình ảnh của mô hình IDT. Chuẩn chủ quan được định nghĩa là “nhận thức của người đó rằng phần lớn những người quan trọng với họ nghĩ rằng họ có nên thực hiện hay không thực hiện hành vi trong câu hỏi” Davis và cộng sự (1989b); Fishbein và Ajzen (1977); Mathieson (1991); Taylor và Todd (1995)). Ảnh hưởng xã hội là một trong những yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> 67 của cá nhân và là một nhân tố quan trọng trong việc quyết định có nên thực hiện hành vi hay không. Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng xã hội được hiểu là việc sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình sẽ bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những người xung quanh họ. Đo lường: Trong mô hình UTAUT của Venkatesh và cộng sự (2003b), nhân tố “Ảnh hưởng xã hội” được đo lường bởi 4 biến quan sát. Tuy nhiên, sau khi phỏng vấn các chuyên gia thì tác giả tiến hành hiệu chỉnh và thêm 1 biến quan sát, kết quả như sau Bảng 2.13. Thang đo ảnh hưởng xã hội Nhân tố Ảnh hưởng xã hội. Ký hiệu. Nội dung. AH1. Những người quan trọng với tôi giới thiệu và hướng dẫn tôi sử dụng tín dụng phi chính thức. AH2. Những người quen trong gia đình tôi (họ hàng,bạn bè..), nghĩ rằng tôi nên sử dụng tín dụng phi chính thức. AH3. Người của tổ chức tín dụng phi chính thức đã có những hỗ trợ hữu ích trong việc cho tôi vay tiền. AH4. Những xu hướng chung trên mạng xã hội ủng hộ việc sử dụng tín dụng phi chính thức. AH5. Những người nổi tiếng, uy tín đang ủng hộ tín dụng phi chính thức. Nguồn: Venkatesh và cộng sự (2003b) Trong nghiên cứu của Venkatesh và cộng sự (2003b) thì nhân tố “Ảnh hưởng xã hội” có ảnh hưởng tích cực đến “Ý định sử dụng tín dụng”. Ở Việt Nam, người tiêu dùng tác động bởi người khác, thường tiêu dùng theo số đông (Mai và Tambyah, 2011).Vì vậy nhân tố “Ảnh hưởng xã hội” là một trong những nhân tố ảnh hưởng tích cực đến Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của khách hàng. Ngoài ra nghiên cứu của Venkatesh và cộng sự (2003b) cho rằng giới tính,tuổi điều tiết mối quan hệ giữa nhân tố “Ảnh hưởng xã hội” và “Ý định sử dụng”. Mối quan hệ thuận chiều giữa “Ảnh hưởng xã hội” với “Ý định sử dụng”mãnh mẽ hơn ở nữ giới và người trẻ tuổi. Điều này do những người trẻ tuổi họ thường không suy nghĩ kỹ càng, dễ bị ảnh hưởng tiêu dùng bởi nhiều người khác. Tương tự, nữ giới thường dao động trước quyết định của mình và thường bị ảnh hưởng bởi người khác..

<span class='text_page_counter'>(78)</span> 68 Vì vậy tác giả đưa ra giả thuyết là: Ký hiệu. Nội dung. H3a. Ảnh hưởng xã hội có ảnh hưởng với Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình. H3b. Mối quan hệ giữa Ảnh hưởng xã hội và Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình mạnh hơn ở chủ hộ là nữ giới. H3c. Mối quan hệ giữa Ảnh hưởng xã hội và Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình mạnh mạnh hơn ở hộ có dưới 3 năm kinh nghiệm. Nguồn: Tác giả đề xuất. 2.2.2.4. Điều kiện thuận lợi đối Theo Venkatesh và cộng sự (2003b), điều kiện thuận lợi được hiểu là “mức độ người tiêu dùng tin tưởng rằng sự hỗ trợ của tổ chức và điều kiện cơ sở vật chất sẽ giúp cho họ sử dụng hệ thống một cách dễ dàng”. Nhân tố này được xây dựng dựa vào ba cấu trúc khác nhau: Hành vi kiểm soát nhận thức của các mô hình (TPBI DTPB, CTAM-TPB), tạo điều kiện của mô hình (MPCU) và khả năng tương thích của mô hình (IDT). Trong đó, hành vi kiểm soát nhận thức được định nghĩa là “Các phản ánh về sự nhận thức về những ràng buộc bên trong và bên ngoài đối với hành vi bao gồm tạo điều kiện hiệu quả cho nguồn lực và tạo điều kiện thuận lợi cho công nghệ” (Ajzen (1991b); Taylor và Todd (1995)). Tạo điều kiện là “Các yếu tố khách quan trong môi trường mà nhà quan sát đồng ý làm cho một hành động dễ thực hiện” (Thompson và cộng sự (1991b)) còn khả năng tương thích là “mức độ sự đổi mới được coi là phù hợp với các giá trị, nhu cầu và kinh nghiệm hiện có của những người chấp nhận tiềm năng” (Moore và Benbasat, 1991b). Như vậy, kết hợp nhưng yếu tố của ba lý thuyết trên chúng ta có thể tổng quan lại điều kiện thuận lợi là người tiêu dùng tin tưởng rằng sự hỗ trợ của tổ chức và điều kiện phù hợp với các giá trị, nhu cầu của họ sẽ giúp họ sử dụng hệ thống một cách dễ dàng và thuận tiện. Trong nghiên cứu này, điều kiện thuận lợi được hiểu là việc sử dụng dịch vụ tín dụng phi chính thức sẽ trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn dưới sự hỗ trợ của tổ chức/cá nhân cho vay và cơ sở vật chất cần thiết. Đo lường: Trong mô hình UTAUT của Venkatesh và cộng sự (2003b), nhân tố “Điều kiện thuận lợi” được đo lường bởi 4 biến quan sát như sau (đã hiệu chỉnh).

<span class='text_page_counter'>(79)</span> 69 Bảng 2.14. Thang đo điều kiện thuận lợi Nhân tố. Ký hiệu. Điều kiện ĐK1 thuận lợi. Nội dung các điều kiện về địa lí cũng như điều kiện của cá nhân giúp tôi dễ dàng vay các khoản vay phi chính thức. ĐK2. Tôi có đủ khả năng để vay và trả nợ các khoản vay phi chính thức. ĐK3. Nhân viên của các tổ chức tín dụng phi chính thức sẵn sàng hỗ trợ tôi khi gặp khó khăn trong việc sử dụng hệ thống. ĐK4. Tôi có đủ kiến thức để sử dụng tín dụng phi chính thức. Nguồn:Venkatesh và cộng sự (2003b) Trong nghiên cứu của Venkatesh và cộng sự (2003b) thì nhân tố “Điều kiện thuận lợi” có ảnh hưởng trực tiếp đến ý định sử dụng công nghệ. Ở Việt Nam những người có ít kinh nghiệm đi vay gặp nhiều khó khăn cản trở về mặt thủ tục pháp lý, thiếu hiểu biết nhưng nếu có sự hỗ trợ, lôi kéo, tạo điều kiện của người cho vay thì họ có lẽ sẽ chấp nhận sử dụng đối với các hộ ít có kinh nghiệm. Vì vậy, tác giả đưa ra giả thuyết là: Ký hiệu. Nội dung. H4a:. Điều kiện thuận lợi có ảnh hưởng thuận chiều với Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình. H4b. Mối quan hệ giữa Điều kiện thuận lợi tới Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình mạnh mẽ hơn ở các hộ có ít hơn 3 năm kinh nghiệm. Nguồn: tác giả đề xuất. 2.2.2.5. Hiểu biết tài chính Hiểu biết tài chính trên thế giới hiện nay có rất nhiều định nghĩa và chưa có một định nghĩa chính thống nào. Một số định nghĩa về hiểu biết tài chính như sau là “ mức độ đo lường cá nhân có thể hiểu và sử dụng thông tin liên quan đến tài chính” (Huston (2010)). Trong khi đó, OECD (2011) đã định nghĩa hiểu biết tài chính của các cá nhân là “sự kết hợp hiểu biết, kiến thức về tài chính, kỹ năng, thái độ và hành vi để đưa ra các quyết định tài chính đúng đắn và đạt được sự an toàn về tài chính cho cá nhân, hộ gia đình. Các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam như Khúc Thế Anh và cộng sự (2020) cũng sử dụng khái niệm này. Như vậy, hiểu biết tài chính được hiểu sự kết hợp các yếu tố cần thiết để đưa quyết định tài chính một cách hiệu quả và đem lại lợi ích lớn cho người tiêu dùng. Trong nghiên cứu này, hiểu biết tài chính được hiểu là dựa trên những hiểu biết, kỹ năng, kiến thức của chủ hộ để đưa ra quyết định sử dụng tín dụng phi chính thức một cách hiệu quả..

<span class='text_page_counter'>(80)</span> 70. Đo lường: “Hiểu biết tài chính” là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức. Việc hiểu biết tài chính sẽ phần nào quyết định việc sử dụng tín dụng đen thông qua việc phân tích lợi ích, rủi ro cũng như tính toán các khoản phải trả.Hiện này có nhiều nghiên cứu về “Hiểu biết tài chính” nhưng chưa có nghiên cứu nào đo lường “Hiểu biết tài chính” ảnh hưởng đến tín dụng đen. Tác giả dựa vào các nghiên cứu về “Hiểu biết tài chính” đề xuất 3 biến quan sát như sau: Bảng 2.15. Thang đo hiểu biết tài chính Nhân tố. Ký hiệu. Nội dung. Hiểu biết. HB1. Chủ hộ hiểu rõ tác động về mặt tài chính như phải trả bao nhiêu mỗi lần…. tài chính. HB2. Chủ hộ có thể tự tin ra quyết định khi sử dụng tín dụng phi chính thức. HB3. Chủ hộ có thể tính toán được dòng tiền một cách cụ thể, ví dụ như khi nào tiền về, khi nào tiền ra. Nguồn: Hiệu chỉnh từ Khúc Thế Anh và cộng sự (2020) Ở Việt Nam, đối với các hộ kinh doanh ít kinh nghiệm thường thiếu hiểu biết tài chính, đưa ra các quyết định không tốt về việc sử dụng tài chính. Chính vì vậy, “Hiểu biết tài chính” được coi là nhân tố ảnh hưởng tiêu cực tới việc Ý định sử dụng tín dụng đen Vì vậy tác giả đưa ra giả thuyết là: Ký hiệu. Nội dung. H6a. Hiểu biết tài chính ảnh hưởng ngược chiều với Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của các hộ gia đình. H6b. Mối quan hệ thuận chiều giữa Hiểu biết tài chính và Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của các hộ gia đình mạnh hơn ở các hộ có ít hơn 3 năm kinh nghiệm. H6c. Mối quan hệ thuận chiều giữa Hiểu biết tài chính và Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của các hộ gia đình mạnh hơn ở các hộ có chủ hộ là ở nữ giới. Nguồn: Tác giả đề xuất. 2.2.2.6. Tính tiện lợi Tính tiện lợi được hiểu là sự thuận tiện khi sử dụng công nghệ và được đánh giá là một yếu tố quan trọng trong việc sử dụng công nghê (Pew, 2002). Tiện lợi trong một số nghiên cứu về ứng dụng điện thoại được coi là yếu tố nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng và bất kể thời gian nào. Trong nghiên cứu này, tiện lợi được hiểu là sự nhanh chóng đáp ứng nhu cầu thực hiện giao dịch vay của tín dụng phi chính thức đối với hộ gia đình là vô cùng nhanh chóng và bất kể thời gian nào..

<span class='text_page_counter'>(81)</span> 71. Đo lường: “Tiện lợi” là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của các hộ gia đình. Sự tiện lợi của tín dụng đen là khách hàng có thể dễ dàng tiếp cận nguồn tín dụng một cách nhanh chóng không mất thời gian và thủ tục như nguồn vốn từ khu vực chính thức. Hiện chưa có nghiên cứu thực nghiệm để đo lường nhân tố “Tiện lợi” ảnh hưởng đến tín dụng phi chính thức. Tác giả đề xuất đo lường nhân tố “Tiện lợi” theo 6 biến quan sát trên cơ sở hiệu chỉnh nghiên cứu của Pew (2002) Bảng 2.16. Thang đo sự tiện lợi Nhân tố Tiện lợi. Ký hiệu. Nội dung. TL1. Tôi có thể thực hiện giao dịch bất kể thời gian.. TL2. Tín dụng phi chính thức không yêu cầu tài sản thế chấp khi vay. TL3. Giao dịch tín dụng phi chính thức không cần thẻ, thậm chí không cần gặp mặt trực tiếp mà chỉ cần Internet. TL4. Sự linh hoạt trong lãi suất vay của tổ chức tín dụng phi chính thức. TL5. Tôi có thể biết các khoản phải trả,lãi suất và thời gian trả nợ cũng như các phí bổ sung khi quá hạn. TL6. Tôi không bị đòi nợ giống như xã hội đen khi chậm hoặc không trả được nợ. Nguồn: Tác giả đề xuất Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy, người sử dụng tín dụng đen thường thiếu các tài sản thế chấp, không có thời gian đến ngân hàng để thực hiện các giao dịch, bị ngăn cản bởi các rào cản pháp lý. Chính vì vậy, “Tính tiện lợi” được coi là nhân tố có ảnh hưởng tích cực tới việc Ý định sử dụng tín dụng đen. Vì vậy tác giả đưa ra giả thuyết là: Ký hiệu H6. Nội dung Tiện lợi có ảnh hưởng thuận chiều với Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình. Nguồn: Tác giả đề xuất. 2.2.2.7. Tính bảo mật “Tính bảo mật” liên quan đến những vấn đề bảo quản thông tin của khách hàng trong giao dịch (Lee, 2009). Tuy nhiên, sau khi phỏng vấn sâu, tác giả cho rằng, “Tính bảo mật” được hiểu là sự bảo quản thông tin của người tiêu dùng trong giao dịch và sử dụng dịch vụ tín dụng phi chính thức. Đo lường: nhân tố “Tính bảo mật” được đo lường bởi 4 biến quan sát như sau (đã hiệu chỉnh).

<span class='text_page_counter'>(82)</span> 72 Bảng 2.17. Thang đo tính bảo mật Nhân tố. Ký hiệu. Nội dung. BM1. Các tổ chức tín dụng đen đảm bảo thông tin cá nhân của tôi và các thành viên trong hộ kinh doanh khi thực hiện giao dịch.. BM2 Bảo mật BM3 BM4. Thông tin của tôi không bị đưa lên mạng xã hội khi tôi chậm hoặc không trả được nợ. Thông tin của tôi không bị đưa về nơi tôi sinh sống khi tôi chậm hoặc không trả được nợ. Thông tin của mọi người xung quanh tôi đều được bảo mật khi sử dụng cho vay từ các tổ chức tín dụng đen.. Nguồn:Venkatesh và cộng sự (2003b) Các giao dịch tài chính thiếu bảo mật thường bị những kẻ xấu đánh cắp một cách nhanh chóng mà khó bị phát hiện với những thủ đoạnh tinh vi, đặc biệt là giao dịch trực tuyến (Cheung và cộng sự, 2006). Theo Wang và cộng sự (2003) thì “Tính bảo mật” đề cập đến việc bảo vệ thông tin các nhân hoặc hệ thống từ xâm nhập không mong muốn hoặc xảy ra. Sợ thiếu bảo mật là một trong những yếu tố xác định trong hầu hết các nghiên cứu ảnh hưởng xấu đến sự tăng trưởng và phát triển của giao dịch tài chính.Do vậy, giả thuyết là: H7: Bảo mật có ảnh hưởng thuận chiều đến việc Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ kinh doanh cá thể.. 2.2.2.8. Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức Có nhiều quan điểm khi nói về định nghĩa của ý định sử dụng trong các cuộc nghiên cứu. Trong đó, Fishbein và Ajzen (1977) cho rằng ý định hành vi là “xác suất chủ quan mà một người thực hiện hành vi”. Trong khi đó Davis và cộng sự (1989b) lại cho rằng ý định sử dụng được định nghĩa là “ mức độ cá nhân lập ra kế hoạch có ý thức thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi được chỉ định trong tương lai”. Theo Davis và cộng sự (1989b) thì ý định sử dụng được hiểu là sự sẵn sàng một cá nhân chấp nhận sử dụng công nghệ. Định nghĩa của Davis và cộng sự (1985, 1989) được nhiều nghiên cứu sử dụng như Venkatesh và cộng sự (2003b), Naimi Baraghani (2008)… Như vậy, Ý định sử dụng hành vi được hiểu mức độ người đó sử dụng hay không sử dụng công nghệ trong một bối cảnh nhất định. Đây là nhân tố chủ chốt trong việc tác động đến hành vi sử dụng công nghệ và nó bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác..

<span class='text_page_counter'>(83)</span> 73 Trong nghiên cứu này, ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình được định nghĩa là mức độ một chủ hộ sử dụng hay không sử dụng tín dụng phi chính thức hay sự chấp thuận của họ với tín dụng phi chính thức. Đo lường: Trong mô hình UTAUT của Venkatesh và cộng sự (2003b), nhân tố “Ý định sử dụng” được đo lường bởi 3 biến quan sát như sau: Bảng 2.18. Thang đo ý định sử dụng tín dụng phi chính thức Nhân tố Ý sử dụng. Ký hiệu. định YD1. Nội dung Trong tương lai, tôi sẽ tiếp tục sử dụng tín dụng phi chính thức. YD2. Tôi sẽ giới thiệu người thân của tôi sử dụng tín dụng phi chính thức. YD3. Tôi sẽ sử dụng tín dụng phi chính thức khi có nhu cầu. Nguồn: Venkatesh và cộng sự (2003b).

<span class='text_page_counter'>(84)</span> 74. CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Khái quát về hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam và tiếp cận tín dụng tín dụng của hộ kinh doanh cá thể 3.1.1. Tình hình hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam Theo Tổng cục Thống kê (2020), tính đến năm 2019, cả nước có trên 5,39 triệu hộ kinh doanh cá thể. Xét theo quá trình thì tổng số lượng hộ kinh doanh cá thể liên tục tăng qua các năm Bảng 3.1. Hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam phân theo vùng. Đơn vị tính: hộ Năm. 2010. 2011. 2012. 2013. 2014. 2015. 2016. 2017. Đồng bằng sông Hồng. 1.093,1. 1.113,9. 1.233,8. Trung du miền núi phía Bắc. 369,6. 380,4. 430,4. Trung bộ. 945,4. 979,4. 1.054,0. Tây Nguyên. 181,1. 187,8. 213,8. 219,5. 229,9. 226,4 2.366,5 245,7. 252,844. 271,945. Đông Nam Bộ. 664,8. 672,0. 748,9. 752,2. 779,9. 820,1. 856,3. 900,9. 942,680. 978,384. Đồng bằng sông Cửu Long. 871,0. 902,8. 947,9. 912,5. 935,6. 944,1. 983,6. 994,5. Tổng số. 4.125,0. 4.236,3. 4.628,8. 1.183,4 1.213,2 1.228,0 1.256,7 1.330,1. 423,2. 436,3. 440,3. 450,6. 487,1. 2018. 2019. 1324,377 1357,069. 481,628. 493,655. 1.045,2 1.062,8 1.095,9 1.126,1 1.184,3 1201,809 1233,100. 4.536,0 4.657,7 4.754,8 4.909,8 5.142,6. 995,397 1045,242. 5198,735 5379,395. Nguồn: Tổng cục Thống kê (2020) Các hộ kinh doanh cá thể phân bố tương đối đồng đều trên cả nước. Trong đó, Đồng bằng sông Hồng, Trung bộ, Đồng Bằng sông Cửu Long và Đông Nam bộ là những vùng chiếm tỷ trọng cao nhất, lần lượt là 25,86%; 23,03%; 19,34% và 17,52% . Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên chiếm tỷ trọng thấp nhất, lần lượt là 9,47% 4,78% tổng số hộ. Trên cơ sở phân bổ dân cư, tỷ trọng hộ kinh doanh cá thể giữa các vùng không có sự biến động đáng kể trong nhiều năm qua..

<span class='text_page_counter'>(85)</span> 75 Theo ngành nghề kinh doanh, tỷ trọng hộ kinh doanh cá thể trong ngành Thương mại - dịch vụ chiếm khoảng 80%, 20% còn lại là trong ngành Công nghiệp - xây dựng. Thống kê các năm cho thấy, tỷ trọng các hộ thương mại dịch vụ ngày càng tăng: năm 2012 là 78,9%, năm 2014 là 80% và năm 2017 là 81,9%, cùng với đó là tỷ trọng giảm đi trong ngành Công nghiệp - xây dựng. Tương ứng với đó, năm 2017 số lao động tại các HKD trong lĩnh vực công nghiệp chiếm trên 22%, gần 88% còn lại đến từ khu vực hộ trong lĩnh vực dịch vụ. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do yếu tố quy mô nên các hộ có ngành nghề công nghiệp - xây dựng đã dần chuyển sang các hình thức doanh nghiệp chính thống (Trịnh Đức Chiều, 2019). Xét ở khía cạnh đăng ký hoạt động của hộ kinh doanh cá thể cho thấy, tỷ trọng hộ có đăng ký kinh doanh vẫn khá thấp trong tổng số hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động. Số liệu thống kê năm 2018 của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2017 chỉ có trên 29% số hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp có địa điểm hoạt động ổn định, có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có tới gần 66% số hộ kinh doanh cá thể chưa đăng ký. Tỷ trọng này thấp hơn đáng kể ở lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, với chỉ trên 17% có Giấy đăng ký kinh doanh. Theo Tổng cục Thống kê, số lao động làm việc trong khu vực hộ kinh doanh cá thể tăng nhanh theo thời gian, từ trên 7,4 triệu người năm 2010 tăng lên gần 8,6 triệu người năm 2017. Số lượng lao động làm việc trong khu vực hộ kinh doanh cá thể giai đoạn 2010-2017 chiếm khoảng từ 59%-75% so với số lao động làm việc trong khu vực DN. Nếu chỉ so với số lao động làm việc trong các DN thuộc khu vực tư nhân thì số lao động làm việc trong khu vực hộ kinh doanh cá thể trong 2 năm gần đây là tương đương. Trong giai đoạn trước đó, số lao động làm việc trong khu vực hộ kinh doanh cá thể cao hơn tương đối so với số lao động làm việc trong các DN ngoài nhà nước, khoảng từ 3%24%. Số lao động trung bình một hộ kinh doanh cá thể dao động từ 1,677-1,8 người/ hộ kinh doanh cá thể trong giai đoạn 2010-2017, trong khi con số này ở khu vực DN là khoảng 26-35,2 người/DN. Ý nghĩa tạo việc làm và thu nhập cho người dân của hộ kinh doanh cá thể là khá quan trọng. Tổng cục Thống kê (năm 2018) phân tích, gần 8,6 triệu lao động làm việc tại các hộ kinh doanh cá thể có ý nghĩa quan trọng trong xã hội hiện nay. Quy mô vốn bình quân và giá trị tài sản cố định bình quân của một HKD có xu hướng tăng lên qua các năm. Trong giai đoạn 2007-2019, quy mô vốn bình quân tăng 16,5%/năm, từ 59,3 triệu đồng/hộ năm 2007 lên 150,61 triệu đồng/hộ năm 2015, gấp 2,54 lần so với năm 2007 (Tổng cục Thống kê, 2020). Trong khi đó, vốn bình quân một DN ngoài nhà nước giai đoạn này đạt khoảng từ 26,6 tỷ - 51,6 tỷ đồng..

<span class='text_page_counter'>(86)</span> 76 Mặc dù khu vực hộ kinh doanh cá thể mặc dù có đóng góp đáng kể vào nền kinh tế, nhất là trong giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động nhưng so với tiềm năng đóng góp của khu vực này còn hạn chế và chưa tương xứng với quy mô. Ví dụ, năm 2017, tuy khu vực này chiếm tới gần 30% GDP nhưng chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 1,56% trong tổng thu ngân sách nhà nước, con số này của năm 2014 là 2% của tổng nguồn thu nội địa (12.362 tỷ đồng). Xét theo chỉ số doanh thu/lao động, năng suất của hộ kinh doanh cá thể vẫn thấp hơn nhiều so với khu vực DN và khoảng cách ngày càng có xu hướng tăng lên. Năm 2009, doanh thu trung bình tính theo lao động của hộ kinh doanh cá thể là 0,13 tỷ đồng, năm 2010 là 0,15 tỷ đồng, năm 2012 tăng lên 0,2 tỷ đồng và năm 2013 là 0,24 tỷ đồng, trong khi đó, con số tương ứng của khu vực DN lần lượt là 0,67 tỷ đồng; 0,7 tỷ đồng; 1 tỷ đồng và 1,06 tỷ đồng (Tổng cục Thống kê, 2020).. 3.1.2. Tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam Hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam là hình thức tổ chức kinh doanh chủ yếu sử dụng vốn tự có để sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn 2007- 2014, tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn trung bình dao động từ gần 89% đến khoảng 93% (Tổng cục Thống kê, 2020). Điều này cho thấy, các hộ kinh doanh cá thể được thành lập và hoạt động chủ yếu dựa trên năng lực tài chính tự thân, chưa sử dụng nhiều tới nguồn lực tài chính từ bên ngoài. Với nguồn lực tự có hạn chế, khó tiếp cận với nguồn lực bên ngoài, vì vậy khả năng tham gia vào khu vực sản xuất vật chất và các ngành đòi hỏi công nghệ tiên tiến của hộ rất hạn chế. Phần lớn hộ hoạt động trong khu vực dịch vụ truyền thống như thương mại, phục vụ cá nhân và cộng đồng. Tỷ trọng nguồn vốn trong ngành “Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy, phương tiện vận chuyển có động cơ…” đã tăng từ 38% năm 2012 lên 44% năm 2014. Tính chung cả 3 ngành dịch vụ “Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy, phương tiện vận chuyển có động cơ…”, “dịch vụ lưu trú, ăn uống” và “kinh doanh bất động sản” chiếm tới gần 70% về nguồn vốn và 80% về doanh thu (Trịnh Đức Chiều, 2019). Việc tiếp cận vốn của các hộ kinh doanh của các hộ còn khó khăn hơn khi mà chỉ có 47,22% số hộ kinh doanh tiếp cận được vốn tín dụng chính thức với mức lãi suất hợp lý – khoảng 8% - 14%/năm (OXFAM, 2015, Finn, 2018). Điều này cho thấy, các hộ phải tìm đến những nguồn vốn từ khu vực bán chính thức và phi chính thức. Tuy nhiên, nếu tiếp cận vốn bán chính thức (từ quỹ của hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên)… không nhiều, lại không thể sử dụng lâu dài. Nguyên nhân của vấn đề này là tín dụng bán chính thức có số vốn nhỏ, lại phải dùng cho các nhu cầu thường xuyên (như.

<span class='text_page_counter'>(87)</span> 77 hoạt động của các hội, hoặc khen thưởng…). Do đó, với phần vốn còn thiếu thì phải sử dụng từ tín dụng phi chính thức. Nguồn này đối với các hộ kinh doanh cá thể xuất phát chính từ một số nguồn như: vốn từ vay các cá nhân trên thị trường, vay từ các cửa hàng cầm đồ với lãi suất cao (tín dụng đen), vay từ các quỹ (dưới dạng họ/hụi/phường/biêu) (OXFAM, 2015, Ban chỉ đạo trung ương chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, 2019). Đối với việc tiếp cận tín dụng qua họ/hụi/phường/biêu, các khoản tín dụng thường rơi vào 50 – 200 triệu đồng, nhưng lãi suất thường cao (khoảng 20%). Lãi suất của các khoản vay vốn của các cửa hàng cầm đồ còn cao hơn (kết quả khảo sát cho thấy, các hộ kinh doanh phải trả trên 30%/năm, cá biệt có những khoản phải trả lên đến hơn 100%/năm (Đặng Ngọc Đức, 2020). Tuy nhiên, các khoản tín dụng phi chính thức thời gian rất nhanh, đáp ứng được nhu cầu ngắn hạn của các hộ kinh doanh cá thể trong việc nhập hàng hóa, hoặc trả các khoản nợ ngắn hạn. Chi tiết, sẽ được trình bày trong phần khái quát dưới đây.. 3.2. Khái quát về mẫu nghiên cứu 3.2.1. Thông tin về nhân khẩu học Tác giả sử dụng bảng hỏi để phỏng vấn, dưới dạng trực tiếp và gián tiếp. Bảng hỏi trực tiếp được phát trực tiếp cho các chủ hộ, còn bảng hỏi gián tiếp được lập trên google form và gửi cho các chủ hộ qua đường email (hoặc thông qua các trang mạng xã hội như facebook, zalo, viber…). Các bảng hỏi được lập chung cho cả tiếp cận tín dụng chính thức và phi chính thức. Tổng số phiếu của nghiên cứu phát đi 1.000 phiếu số phiếu thu về là 882 phiếu. Sau khi sàng lọc loại bỏ các phiếu không hợp lệ (do đánh cùng 1 đáp án), số phiếu còn lại là 722 phiếu. Trong số 722 phiếu trong bảng hỏi thu được, thì có đến 550 phiếu trả lời là nam giới (chiếm 76,18%). Việc này phù hợp với tình hình Việt Nam khi có đa phần người đứng đầu các hộ kinh doanh là chủ hộ. Việc này phù hợp với tình hình Việt Nam khi đa phần các hộ kinh doanh có người đứng đầu là nam giới, do việc quyết định chi tiêu chính và kiếm tiền chính trong nhà là nam (Duong và Izumida, 2002, Tanaka và cộng sự, 2010). Tuy nhiên, khi đối chiếu với các nghiên cứu trước đây, có thể nói rằng, phụ nữ ngày càng tham gia nhiều hơn vào các công việc kinh doanh của hộ gia đình, do tỷ lệ nữ giới làm chủ hộ đã tăng lên đáng kể (23,82% theo kết quả khảo sát - so sánh với 15% trong các nghiên cứu trước đây)..

<span class='text_page_counter'>(88)</span> 78 Bảng 3.2. Kết quả nhân khẩu học từ mẫu nghiên cứu Tần suất Tỷ lệ Giới tính chủ hộ Thu nhập bình quân của hộ (bình quân tháng, đơn vị tính: triệu đồng). Khu vực hoạt động. Số năm hoạt động bình quân của hộ. Số lao động bình quân của hộ. Nam. 550. 76,18%. Nữ. 172. 23,82%. Dưới 10. 232. 32,13%. Từ 10 - dưới 20. 267. 36,98%. Từ 20 - dưới 30. 182. 25,21%. Từ 30 trở lên. 41. 5,68%. Thành thị. 354. 49,03%. Nông thôn. 368. 50,97%. Dưới 1 năm. 28. 3,88%. Từ 1 đến dưới 5 năm. 267. 36,98%. Trên 5 năm. 427. 59,14%. Dưới 3. 162. 22,44%. Từ 3 đến dưới 10. 498. 68,98%. Từ 10 trở lên. 62. 8,59%. Nguồn: Tính toán của tác giả. Trong số các quan sát thì có sự tương đồng khá lớn về khu vực hoạt động: thành thị chiếm 49,03%, số còn lại là nông thôn. Khu vực nông thôn, do sự phát triển nhanh chóng về kinh tế nên hoạt động sản xuất nông nghiệp được đầu tư khá nhiều dựa trên sự khuyến khích của nhà nước cũng như việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Bên cạnh đó, nhờ chương trình nông thôn mới nên các hộ ở các khu vực này có thể vừa sản xuất lại vừa kinh doanh, và cung cấp một chuỗi hoạt động liên quan đến khu vực khác (Ban chỉ đạo trung ương chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, 2019). Cũng chính vì các hoạt động thúc đẩy kinh tế nên thu nhập bình quân 1 tháng của hộ cũng gia tăng khá cao: tỷ trọng lớn nhất thuộc về các hộ có thu nhập bình quân từ 10 20 triệu đồng. Nghiên cứu được tiến hành cả vùng nông thôn lẫn thành thị nên số hộ có thu nhập bình quân dưới 10 triệu/tháng cũng chiếm tỷ trọng lớn (232 hộ, chiếm 32,13%). Đây là các hộ tại vùng nông thôn, tham gia buôn bán nhỏ nằm trong chuỗi cung ứng, ví dụ như sản xuất nông nghiệp và bán lại các sản phẩm cho các nhà máy sản xuất. Đây là các hộ thuộc vùng sâu, vùng xa, được khuyến khích phát triển (OXFAM, 2015, Finn, 2018). Số còn lại, có trên 30 triệu đồng/tháng có tỷ trọng nhỏ (5,68%), đa phần hoạt động ở.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> 79 vùng thành thị (thành phố, thị xã, thị trấn), và tham gia hoạt động dịch vụ, sản xuất công nghiệp nhỏ1. Các hộ kinh doanh cá thể có đa phần thời gian hoạt động trên 5 năm (59,14%) bởi các hộ này có nền tảng kinh doanh từ trước2 (với các ngành nghề truyền thống - như sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ). Đa phần các hộ này sử dụng từ 5 - 9 lao động theo thời vụ (đặc biệt đối với các hộ sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo thời vụ). Đây cũng là các hộ sử dụng trên 10 lao động thường xuyên. Số hộ có thời gian hình thành dưới 1 năm cũng rất thấp, đa phần kinh doanh dịch vụ hoặc các sản phẩm mới trên thị trường, chưa từng kinh doanh trước đây. Các hộ này thường không sử dụng lao động bên ngoài mà dùng chính người trong gia đình của mình (bản thân vợ/chồng hoặc con cái sẽ tham gia lao động). Bảng 3.3. Kết quả học vấn và tiếp cận nguồn thông tin của hộ Tần suất Học vấn cao nhất của chủ hộ. Tỷ l ệ. Từ tiểu học trở xuống. 46. 6,37%. THCS và THPT. 188. 26,04%. Trung cấp. 249. 34,49%. Cao đẳng và đại học. 196. 27,15%. Sau đại học. 43. 5,96%. Có sử dụng điện thoại thông minh. Có. 102. 14,13%. hay không. Không. 620. 85,87%. Có sử dụng internet hay không. Có. 127. 17,59%. Không. 595. 82,41%. Có. 449. 62,19%. Không. 273. 37,81%. Có sử dụng các phần mềm kế toán hay không. Nguồn: Tính toán của tác giả. Trong số các hộ kinh doanh cá thể được khảo sát thì số chủ hộ có tỉ lệ từ tiểu học trở xuống rất thấp, chỉ 46 hộ, chiếm khoảng 6,37%. Điều này cho thấy, trình độ học vấn của các hộ đã nâng lên đáng kể để tự cải thiện dân trí của mình. Đa số các hộ này và các hộ có trình độ THCS - THPT đều nằm trong khu vực nông thôn, vốn ít có. 1. Các hộ có doanh thu cao hơn đã chuyển thành các doanh nghiệp siêu vi mô hoặc doanh nghiệp nhỏ, không để kinh doanh theo hộ. 2 Một số hộ tính thời gian kinh doanh của mình từ trước khi đăng kí thành lập..

<span class='text_page_counter'>(90)</span> 80 điều kiện phát triển kinh tế cũng như học hành (ADR, 2014). Số hộ có trình độ trung cấp chiếm tỷ trọng cao nhất - bởi đa phần các chủ hộ cho rằng mình chỉ cần đào tạo nghề là có thể kinh doanh được, do vậy, đối với nhóm hộ hoạt động liên quan đến kỹ thuật (như sửa chữa các loại máy móc, kinh doanh các loại máy móc) thì việc này phù hợp. Một số hộ kinh doanh liên quan đến nông nghiệp được đào tạo các ngành nghề cơ bản từ trung cấp như cây trồng, vật nuôi, phân bón. Đa phần các hộ còn lại có trình độ cao hơn (cao đẳng - đại học - sau đại học) tập trung ở vùng thành thị, kinh doanh các mặt hàng công nghệ cao (như điện, điện tử, các dịch vụ công cộng…). Điều này phù hợp với thực tế Việt Nam khi các hộ khu vực này có điều kiện (về kinh tế, về địa lý…) để học tập. Tất cả các hộ kinh doanh đều sử dụng điện thoại, trong số đó có đến hơn 85% số hộ sử dụng điện thoại thông minh. Số hộ sử dụng internet tuy có thấp hơn nhưng cho thấy rằng: thời điểm hiện tại, Việt Nam đang phổ biến dần internet và điện thoại thông minh để hỗ trợ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nếu đối chiếu với số liệu trong việc các hộ có sử dụng phần mềm kế toán hay không thì lại khác: đa phần các hộ đều sử dụng ghi chép trên sổ sách giấy (không phải dạng sổ kế toán). Một số hộ có sử dụng phần mềm, nhưng chỉ liên quan đến “quẹt” giá của sản phẩm mà không liên quan đến kế toán. Điều này gây ra tình trạng thất thu thuế khá nhiều cho nhà nước. Kết quả khảo sát trực tiếp các hộ cho thấy, mặc dù các tỉnh thành đều hỗ trợ tải phần mềm kế toán miễn phí nhưng các hộ không biết việc này, và cũng cho rằng không cần thiết phải biết, bởi công việc kinh doanh khá đơn giản.. 3.2.2. Tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam dựa trên kết quả khảo sát Trong số các hộ được khảo sát, có đến 532 hộ sử dụng tín dụng chính thức - được vay từ các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân cở sở, tổ chức tài chính vi mô và ngân hàng chính sách xã hội. Như thế, có thể thấy rằng: có đến 74% tổng số hộ kinh doanh cá thể đủ điều kiện tiếp cận với tín dụng chính thức - cao hơn rất nhiều so với kết quả khảo sát về tiếp cận tín dụng của cá nhân vùng nông thôn Việt Nam của các nghiên cứu trước, chỉ dao động khoảng 20 - 40% tùy từng vùng (ADR, 2014, Finn, 2018). Điều này cho thấy rằng: các hộ cũng đang cố gắng để nâng cao khả năng của chính mình trong việc tiếp cận các dịch vụ chính thức..

<span class='text_page_counter'>(91)</span> 81 Bảng 3.4. Kết quả khảo sát các hộ tiếp cận tín dụng chính thức và phi chính thức. Tiêu chí. Số hộ. Sử dụng tín dụng chính thức. 532. Sử dụng tín dụng phi chính thức. 563. Sử dụng cả hai hình thức. 373. Tổng. 722 Nguồn: Tính toán của tác giả. Tuy nhiên, điều cần nói ở đây là số hộ sử dụng tín dụng phi chính thức còn cao hơn rất nhiều: 563 hộ - chiếm gần 78%. Các hộ này đa phần lấy vốn ở (1) người thân; (2) tham gia vào các tổ chức tự nguyên để chơi họ/hụi/phường/biêu; (3) vay lãi ngày của các tổ chức cung ứng dịch vụ tín dụng đen. Trong số các hộ được hỏi thì việc đi vay lãi ngày rất phổ biến. Một số hộ cho rằng: kể cả chơi họ cũng là một hình thức của việc vay tín dụng đen (như bốc bát họ, cho vay bát họ…) nhưng cần vốn trong ngắn hạn (vài ngày) nên khó có thể vay vốn chính thức được. Một tỷ lệ rất nhỏ khác (chỉ có 8 hộ) trả lời rằng: họ có thể vay qua công nghệ trên các ứng dụng trên điện thoại di động thông qua việc vay tiền trực tiếp (peer to peer lending). Số hộ sử dụng cả 2 dịch vụ này cũng khá lý thú: khoảng 1 nửa số hộ đã thực hiện hoạt động vay cả 2 loại hình là chính thức và phi chính thức. Bảng 3.5. Thời gian vay vốn bình quân của các hộ. Tiêu chí. Số hộ. Dưới 7 ngày. 72. Từ 7 đến 15 ngày. 144. Từ 15 ngày đến dưới 1 tháng. 115. Từ 1 đến 6 tháng. 66. Từ 6 tháng đến 1 năm. 183. Trên 1 năm. 142 Nguồn: Tính toán của tác giả. Trong số các hộ, thì có đến 72 hộ cho rằng họ cần vốn rất ngắn, chỉ khoảng vài ngày là có thể chi trả. Đa phần các hộ này kinh doanh liên quan đến thực phẩm (rau sạch, thịt gia súc gia cầm…) nên vốn lưu động rất nhanh - nếu không có sự thay đổi bất thường của thiên tai hay thị trường. Số hộ vay tầm từ 7 đến 15 ngày cũng rất cao, lên.

<span class='text_page_counter'>(92)</span> 82 đến 144 hộ, số hộ vay dưới 1 tháng là 115 hộ. Như vậy, có thể thấy rằng: 40% số hộ kinh doanh cần vốn trong thời gian rất ngắn. Số hộ cần vốn bình quân trong 1 năm cũng không cao, chỉ có 142 hộ, đa phần đều thực hiện kinh doanh vật liệu xây dựng hoặc các hàng hóa có chu kỳ dài. Điều này cho thấy: nếu với thời gian vay vốn như thế, thì bản thân các hộ cũng khó có thể tiếp cận được tín dụng chính thức một cách phù hợp: gần như không một ngân hàng nào có thể cho vay với thời gian dưới 7 ngày, do vậy, tín dụng phi chính thức lại trở nên phù hợp. Về số vốn vay bình quân trong một lần cũng có những sự khác biệt nhất định: 45 hộ chỉ cần vay số tiền dưới 30 triệu (tức là số tiền không lớn - rất khó để các ngân hàng thương mại cho vay. Mà khoản tiền này cũng không nhỏ khi so sánh với các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và ngân hàng chính sách xã hội). Số tiền này lại cần vay trong khoảng thời gian ngắn (dưới 7 ngày) nên người được khảo sát trả lời rằng: họ chấp nhận lãi suất cao hơn để có thể vay được - con hơn là chờ đợi từ phía ngân hàng hay các tổ chức khác. Bảng 3.6. Số vốn bình quân một lần của các hộ. Tiêu chí. Số hộ. Dưới 30 triệu. 45. Từ 30 đến dưới 50 triệu. 88. Từ 50 đến dưới 100 triệu. 179. Từ 100 đến dưới 500 triệu. 228. Từ 500 đến dưới 1 tỷ. 95. Trên 1 tỷ. 87 Nguồn: Tính toán của tác giả. Phổ biến nhất trong các khoản vay là các khoản từ 100 đến dưới 500 triệu (228 phiếu), và sau đó là các khoản từ 50 - 100 triệu (179 phiếu). Đa phần các hộ có thu nhập bình quân 1 tháng không quá 30 triệu nên số tiền này phù hợp để đầu tư vào cơ sở vật chất, mua nguyên vật liệu dự trữ để phát triển sản xuất. Mục đích của các khoản vay này là đáp ứng nhu cầu trong ngắn hạn (nhập nguyên vật liệu, mua cây giống, mua phân bón, trả cho người bán hàng…) nên thời gian cũng không cần dài. Vì thế, ngoài các NHTM thì các hộ có thể tiếp cận theo chương trình vốn vay của ngân hàng chính sách xã hội (cho vay với các hộ ở vùng kinh tế khó khăn, nhưng không quá 120 triệu.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> 83 đồng/khoản vay), vay quỹ tín dụng nhân dân (nhưng phải là người gửi tiền hoặc cổ đông), và nhanh hơn cả là vay tín dụng phi chính thức. Đối với tín dụng chính thức, một trong những trở ngại lớn nhất mà các hộ khi được khảo sát cho rằng: không phải lãi suất vay vốn là cản trở, mà lại là thời gian thẩm định. Việc các hộ không đáp ứng được các yêu cầu về hồ sơ vay vốn, việc trả qua thẻ hay vấn đề về tài sản đảm bảo (đa phần các hộ ở vùng nông thôn không có sổ đỏ để đáp ứng nhu cầu vay vốn hoặc các hộ vùng thành thị thì khó chứng minh thu nhập nếu vay theo hướng tiêu dùng) đã làm các hộ sử dụng tín dụng phi chính thức - đặc biệt là tín dụng đen. Các tổ chức cung cấp tín dụng đen thì giải ngân rất nhanh: trung bình 1 khoản vay chỉ tốn khoảng 30 phút, và chấp nhận vay số tiền nhỏ trong thời gian ngắn. Đây cũng là việc cần cân nhắc của các cơ quan quản lý nhà nước trong thời gian tới.. 3.3. Kết quả nghiên cứu các nhân tố tác động tiếp cận tín dụng của các hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam 3.3.1. Đối với mô hình tiếp cận tín dụng chính thức 3.3.1.1. Kết quả đánh giá mức độ tin cậy của thang đo Độ tin cậy của thang đo được đánh giá bằng phương pháp nhất quán nội tại qua hệ số Cronbach’s Alpha. Sử dụng phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha trước khi phân tích nhân tố EFA để loại các biến không phù hợp vì các biến rác này có thể tạo ra các yếu tố giả (Hair và cộng sự, 2016). Yếu tố khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.703 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình đạt được độ tin cậy. Yếu tố tài sản đảm bảo sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt, sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.714 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về tài sản đảm bảo đạt được độ tin cậy. Yếu tố thu nhập sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt, sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.685 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về thu nhập đạt được độ tin cậy..

<span class='text_page_counter'>(94)</span> 84 Yếu tố kinh nghiệm của chủ hộ sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt, sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.646 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về kinh nghiệm của chủ hộ đạt được độ tin cậy. Yếu tố khoảng cách sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.738 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về khoảng cách đạt được độ tin cậy. Yếu tố lãi suất sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.764 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về lãi suất đạt được độ tin cậy. Yếu tố thủ tục vay vốn sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt, sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.662 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về thủ tục vay vốn đạt được độ tin cậy. Yếu tố kinh nghiệm của TCTD sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.659 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về kinh nghiệm của TCTD đạt được độ tin cậy. Yếu tố dịch vụ ngân hàng điện tử sau khi được đánh giá thông qua Cronbach’s alpha thể hiện kết quả tốt, sử dụng được. Thang đo thể hiện phản ánh một cách tập trung các ý kiến trả lời với hệ số Cronbach’s alpha = 0.683 (> 0.6 mức chấp nhận phổ biến) và các hệ số tương quan biến - tổng đều > 0.3 nên thang đo về dịch vụ ngân hàng điện tử đạt được độ tin cậy.. 3.3.1.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA ●. Biến độc lập. Sau khi chạy kiểm định EFA, tác giả nhận thấy có sự tương quan rất mạnh giữa.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> 85 các biến về tài sản đảm bảo, thu nhập và kinh nghiệm của chủ hộ gia đình. Sau khi phỏng vấn sâu các chuyên gia về lý thuyết, tác giả quyết định gộp hai nhân tố Tài sản đảm bảo và Thu nhập thành một nhân tố đại diện là Đặc điểm của chủ hộ. Nếu kết quả kiểm định cho ra tác động thuận chiều của biến đại diện với biến phụ thuộc thì hai giả thiết H1 và H2 đều được đảm bảo. Kết quả EFA về Đặc điểm của chủ hộ cho thấy cho thấy 5 tiêu chí đo lường DDCH1, DDCH2, DDCH3, DDCH4, DDCH5 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 59,0% đến 78,6 % chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố. Kết quả EFA về Khoảng cách cho thấy 2 tiêu chí đo lường KC1, KC3 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 68,4% đến 88,4% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố. Kết quả EFA về Lãi suất cho thấy 3 tiêu chí đo lường LS1, LS2, LS3 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 73,2% đến 81,0% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố. Bảng 3.7: Kiểm định KMO và Bartlett. KMO and Bartlett's Test Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .741 Bartlett's Test of Sphericity. Approx. Chi-Square. 176.848. df. 6. Sig.. 0.000 Nguồn: Tác giả phân tích. Kết quả EFA về Kinh nghiệm của chủ hộ cho thấy 3 tiêu chí đo lường KN1, KN2, KN3 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 68,8% đến 81,6% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố. Kết quả EFA về Thủ tục vay vốn cho thấy 2 tiêu chí đo lường TTV1, TTV2 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 71,7% đến 77,3% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố. Kết quả EFA về Kinh nghiệm của ngân hàng cho thấy 2 tiêu chí đo lường KNNH1, KNNH2 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 69,2% đến 80,9% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố..

<span class='text_page_counter'>(96)</span> 86 Kết quả EFA về Dịch vụ ngân hàng điện tử cho thấy 4 tiêu chí đo lường NHĐT1, NHĐT2, NHĐT3, NHĐT4 được tải vào một nhân với các hệ số tải lần lượt từ 66.9% đến 73.5% chứng tỏ các tuyên bố gốc có quan hệ ý nghĩa với nhân tố Kết quả phân tích nhân tố khám phá với các biến quan sát khảo sát các hộ gia đình cho kết quả tốt, thể hiện ở hệ số KMO = 0.741; Sig = 0.00, đều cho thấy rằng kết quả phân tích nhân tố khám phá là có sự tin cậy cao. Giá trị tổng phương sai trích của nhân số thứ và giá trị hệ hội tụ eigenvalues của nhân tố này có giá trị là cho thấy các biến quan sát ban đầu có sự hội tụ ở 7 nhân tố, các nhân tố này biểu diễn được sự biến thiên của dữ liệu khảo sát. Do đó, các nhân tố đảm bảo được khả năng đại diện cho dữ liệu khảo sát ban đầu. ●. Biến phụ thuộc Bảng 3.8: Phân tích EFA của biến Khả năng tiếp cận tín dụng. Chỉ báo. Hệ số nhân tải. Y1. 0.613. Y2. 0.732. Y3. 0.668. Y4. 0.792. Tổng phương sai trích: 83.163% *Kiểm định Bartlett <0.05 KMO = 0.723 Nguồn: Tác giả phân tích Kết quả phân tích nhân tố khám phá với các biến quan sát của Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình cho kết quả tốt, thể hiện ở hệ số KMO = 0.723, Sig=0.00, đều cho thấy rằng kết quả phân tích nhân tố khám phá là có sự tin cậy cao. Giá trị tổng phương sai trích của nhân tố này là 83.163% >50%, từ đó cho thấy, nhân tố này biểu diễn được sự biến thiên của dữ liệu khảo sát. Do đó, nhân tố này đảm bảo được khả năng đại diện cho dữ liệu khảo sát ban đầu. ●. Tổng hợp kết quả. Thang đo về biến độc lập gồm 7 thành phần: đặc điểm của chủ hộ, kinh nghiệm.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> 87 của chủ hộ, khoảng cách, lãi suất, thủ tục vay vốn, kinh nghiệm của ngân hàng, dịch vụ ngân hàng điện tử với 21 thang đo và các thang đo này đều có trong số nhân tố đạt yêu cầu, có khả năng hội tụ, biểu diễn tốt của các biến quan sát. Thang đo biến phụ thuộc Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình (4 biến quan sát), đều đã hội tụ và biểu diễn tốt của các thang đo. Như vậy, qua phân tích nhân tố khám phá EFA cho thấy các biến độc lập, phụ thuộc đều có tính hội tụ và biểu diễn tốt các biến quan sát trong thang đo và được đưa vào kiểm định tiếp theo với phân tích CFA. Kết quả phân tích ma trận hệ số tương quan các biến số thể hiện mối liên hệ giữa các biến được đưa vào phân tích có mối liên hệ với nhau một cách có ý nghĩa thống kê. Mức ý nghĩa quan sát của các yếu tố: Lãi suất, thủ tục, kinh nghiệm, kinh nghiệm ngân hàng, đặc điểm chủ hộ trong ma trận tương quan hầu hết < 0.01 điều đó thể hiện các mối tác động này có ý nghĩa tương đối cao. Đồng thời hệ số tương quan r chạy từ 0,3 < r < 0,7 chứng tỏ các biến số có tác động với nhau và có ý nghĩa thực tế. Đồng thời khi xét riêng mối quan hệ giữa các biến độc lập KC, LS, TTV, KNCH, KNNH, NHĐT, DDCH với biến phụ thuộc Y thể hiện các biến KC, TTV, LS và KNNH có hệ số tương quan r < 0, tức là mối quan hệ ngược chiều với biến phụ thuộc. Còn tất cả các biến độc lập còn lại đều có hệ số tương quan 0,3 < r < 0,7. Qua phân tích chúng ta có thể thấy hệ số tương quan giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc thể hiện sự tương quan khá chặt chẽ với nhau. Từ đó chúng ta có thể đưa các biến vào mô hình CFA để phân tích.. 3.3.1.3. Phân tích nhân tố khẳng định CFA Sau khi móc nối các sai số để cải thiện mô hình phù hợp dữ liệu thực tế, kết quả thực hiện phân tích nhân tố khẳng định CFA có hệ số Chi-square/df = 1.889 (< 3); GFI = 0.885; TLI = 0.926 (> 0.9); CFI=0.94 (> 0.9); RMSEA=0.058 (< 0.08)..

<span class='text_page_counter'>(98)</span> 88. Hình 3.1. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định CFA. Nguồn: Tổng hợp, phân tích của tác giả Việc móc nối các sai số dùng sửa chữa sự khác nhau giữa mô hình đề xuất và mô hình ước lượng. Khi móc nối các sai số sẽ cải thiện mô hình để có thể cải thiện Chisquare. Chi-square dùng để đo mức độ phù hợp một cách chi tiết hơn của cả mô hình nghiên cứu với thực tế. Trong mô hình có Chi-square càng nhỏ càng tốt một số tác giả đề nghị 1 < χ2/df < 3 (Hair và cộng sự, 2016). Nếu móc nối giữa các sai số với nhau thì hiệp phương sai giữa chúng giảm xuống và làm cho Chi-square sẽ giảm một lượng tương ứng so với Chi- square của mô hình ban đầu. Khi đó GFI, TLI, CFI... cũng sẽ được cải thiện..

<span class='text_page_counter'>(99)</span> 89 Tác giả tiếp tục lược bớt từng yếu tố không phù hợp với mô hình bằng việc xem xét hệ số Beta chuẩn hóa của các chỉ báo trong mô hình. Hệ số Beta nào < 0,5 sẽ bị loại bỏ. Tất cả các hệ số Beta chuẩn hóa của các biến số đều > 0.5 do vậy ta có thể tạm thời chấp nhận mô hình CFA này. Kết quả đánh giá độ tin cậy thang đo, phân tích nhân tố khám phá EFA và phân tích nhân tố khẳng định CFA với các tiêu chí đo lường các giả thuyết vẫn được giữ nguyên từ lúc đầu nghiên cứu như sau: H1: có mối quan hệ thuận chiều giữa giá trị tài sản đảm bảo tới khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. H2: có mối quan hệ thuận chiều giữa thu nhập tới khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. H3: có mối quan hệ thuận chiều giữa số năm kinh nghiệm kinh doanh tới khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. H4: có mối quan hệ ngược chiều giữa khoảng cách địa lý tới khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. H5: có mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất vay vốn tới khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. H6: có mối quan hệ ngược chiều giữa mức độ phức tạp của thủ tục vay vốn tới khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. H7: có mối quan hệ thuận chiều giữa kinh nghiệm của ngân hàng tới khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. H8: có mối quan hệ thuận chiều giữa chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử tới khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình.. 3.3.1.4. Phân tích nhân mô hình cấu trúc SEM Các hệ số trong mô hình phù hợp dữ liệu thực tế, kết quả thực hiện có hệ số Chi-square/df = 1.742 (< 3); GFI = 0.896; TLI = 0.938 (> 0.9); CFI=0.950 (> 0.9); RMSEA=0.053 (< 0.08). Mô hình chỉ ra sự ảnh hưởng của yếu tố tác động đến khả năng tiếp cận tín dụng của ngân hàng thương mại gồm 8 nhân tố đã được tác giả đề cập trước đó..

<span class='text_page_counter'>(100)</span> 90 Kết quả phân tích cấu trúc SEM đã chứng minh các yếu tố: đặc điểm chủ hộ (gồm tài sản đảm bảo và thu nhập), kinh nghiệm của chủ hộ, khoảng cách, thủ tục vay vốn, lãi suất, kinh nghiệm của ngân hàng và dịch vụ ngân hàng điện tử có tác động đến khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng của hộ gia đình. Các hệ số Beta đều thỏa mãn mối quan hệ giả thuyết ban đầu ngoại trừ yếu tố kinh nghiệm của ngân hàng. Kết quả thu được từ thực tế ngược lại so với giả định ban đầu. Kinh nghiệm ngân hàng càng nhiều thì khả năng tiếp cận tín dụng của hộ gia đình càng giảm.. Hình 3.2. Kết quả phân tích mô hình cấu trúc SEM. (Nguồn: Tổng hợp, phân tích của tác giả) Kết quả trên đã trả lời cho câu hỏi nghiên cứu về chiều hướng tác động của các nhân tố. Kết quả khẳng định các biến độc lập có tác động đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. Tuy nhiên trong nghiên cứu này thì kinh nghiệm của ngân hàng có tác động ngược chiều so với giả thuyết ban đầu..

<span class='text_page_counter'>(101)</span> 91. 3.3.2. Đối với mô hình tiếp cận tín dụng phi chính thức 3.3.2.1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo Dữ liệu thu thập từ khảo sát, tiến hành phân tích đánh giá hệ số Cronbach’s Alpha. Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo tiếp cận tín dụng phi chính thức được tổng hợp trong bảng ở phụ lục. (Kết quả phân tích chi tiết xem ở phần Phụ lục) Kết quả kiểm định cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha của các thang đo đều có giá trị trên mức 0,7, do đó các thang này là đảm bảo độ tin cậy. Hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát đều lớn hơn 0,3 được cho là đạt yêu cầu. Tuy nhiên biến quan sát HQ4: “Tín dụng tiêu dùng sẽ giúp tôi có cơ hội tăng thu nhập hoặc giải quyết các nhu cầu của mình” thì có hệ số Cronbach’s Alpha nếu loại biến là lớn hơn hệ số Cronbach’s Alpha chung (0,721 > 0,707) do đó biến này bị loại bỏ để tăng độ tin cậy cho việc phân tích EFA tiếp theo.. 3.3.2.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA Sau khi chạy EFA lần 1 thì các biến quan sát TL4,TL5 bị loại ra khỏi vì có hệ số tải nhỏ hơn 0.5 và các biến quan sát ĐK4 và TL6 cũng bị loại vì không hội tụ với các biến quan sát tương ứng với các biến độc lập. Sau khi chạy EFA lần 2 thì các biến ĐK1, ĐK2, ĐK3 bị loại ra khỏi vì có hệ số tải nhỏ 0.5. Bảng 3.9. KMO và kiểm định Bartlett. KMO. 0.894. Kiểm định Bartlett. 5675.71. Sig.. 0.000 Nguồn : Tác giả tổng hợp từ phân tích dữ liệu Kết quả phân tích nhân tố khám phá với các biến quan sát khảo sát hộ gia đình. chưa sử dụng tín dụng đen cho kết quả tốt. Đầu tiên, hệ số KMO = 0.894 >0.5 cho thấy phân tích nhân tố thích hợp với dữ liệu nghiên cứu. Tiếp theo, kiểm định Barlett là 5675.71 với mức ý nghĩa Sig. = 0.000 < 0.05 nghĩa là có thể bác bỏ giả thuyết các biến quan sát không có tương quan với nhau trong tổng thể) như vậy giả thiết về mô hình nhân tố là không phù hợp sẽ bị bác bỏ, điều này chứng tỏ dữ liệu dùng để phân tích là hoàn toàn thích hợp. Giá trị của tổng phương sai trích của nhân tố thứ 6 là 64.9% >50% và hệ số hội tụ eigenvalues của nhân tố này là 1.2 >1 cho thấy các biến quan sát bắt đầu có sự hội tụ ở 6 nhân tố, các nhân tố này giải thích được 64.9% biến thiên của dữ liệu khảo sát. Do đó các nhân tố đảm bảo được khả năng đại diện cho dữ liệu khảo sát ban đầu..

<span class='text_page_counter'>(102)</span> 92 Tương tự đối với biến phụ thuộc, với hệ số kiểm định KMO=0.758, Sig=0.000, phương sai trích đạt 90.43% cho thấy khả năng hội tụ và biểu diễn tốt của các biến quan sát trong thang đo. Như vậy sau khi kiểm định độ tin cậy và giá trị, loại những thang đo không đáp ứng được nhu cầu và những thang đo còn lại được lựa chọn đã được kiểm định đều đảm bảo yêu cầu. Như vậy mô hình nghiên cứu sẽ được điều chỉnh như sau:. 3.3.2.3. Phân tích nhân tố khẳng định CFA Bảng 3.10. Tổng hợp kết quả phân tích CFA lần 1 Thang đo. Độ tin cậy tổng hợp Tổng phương sai (Composite trích (Average Variance Extracted ) Reliabilitiy). Các chỉ tiêu. Ảnh hưởng xã hội. 0.831. 0.482. Chiquare/df=2.435 <3. Bảo mật. 0.88. 0.647. GFI=0.905>0.9. Ý định sử dụng. 0.948. 0.858. CFI=0.942>0.9. Nỗ lực kỳ vọng. 0.786. 0.486. Hiệu quả kỳ vọng. 0.745. 0.424. Hiểu biết tài chính. 0.792. 0.562. Tiện lợi. 0.581. 0.322. TLI=0.932>0.9 RMSEA=0.051. Nguồn : Tác giả tổng hợp từ phân tích dữ liệu Sau khi đánh giá độ tin cậy của thang đo và phân tích nhân tố khám phá EFA, các nhân tố về ý định sử dụng tín dụng đen đều có tính hội tụ cao, biểu diễn tốt biến quan sát thì bước tiếp theo sẽ tiếp tục phân tích nhân tố khẳng định CFA để khẳng định giá trị, độ tin cậy và tính phân biệt của thang đo. Tác giả sử dụng phần mềm AMOS 20 để phân tính nhân tố khẳng định CFA. Muốn thấy rõ kết quả phân tích, tác giả đã tổng hợp kết quả phân tích CFA lần 1 cho thang đo. Nhìn vào bảng trên ta thấy một số AVE của các biến độc lập nhỏ hơn 0.5 chính vì vậy chúng ta cần phải bỏ một vài biến quan sát để cải thiện chỉ số này. Cụ thể sau khi phân tích và chạy lại CFA thì tác giả kết luận loại bỏ 2 biến nhân tố độc lập là hiệu quả kỳ vọng và tiện lợi ra khỏi thang đo. Cùng với đó là 2 biến quan sát là NL1 và AH5 để cải thiện tổng phương sai trích..

<span class='text_page_counter'>(103)</span> 93 Kết quả phân tích CFA lần 2 các chỉ tiêu đo lường sự phù hợp của mô hình cho thấy, giá trị Chi-quare/df= 2.201 < 3, TLI= 0.967, CFI=0.974, GFI= 0.948 đều lớn hơn 0.9, hệ số RMSEA = 0.046 <0.05, vì thế mô hình có phù hợp với thị trường.Ngoài ra tất cả các giá trị AVE > 0.5, giá trị của độ tin cậy tổng hợp > 0.7, độ tin cậy thang đo được đảm bảo, tính phân biệt được đảm bảo AVE > MSV. Hệ số P-value của các biến quan sát biểu diễn các nhân tố đều < 0.5, các biến quan sát này có khả năng biểu diễn tốt các nhân tố trong mô hình CFA.Từ đó có thể khẳng định thang đo đạt được giá trị hội tụ và tính đơn hướng. Như vậy, các thang đo nghiên cứu đối với các hộ kinh doanh cá thể tiếp cận tín dụng phi chính thức đã đảm bảo các yêu cầu phân tích. Bảng 3.11. Tổng hợp kết quả phân tích CFA lần 2 Độ tin cậy Thang đo. tổng hợp (Composite Reliabilitiy). Tổng phương sai trích (Average. MSV. Các chỉ tiêu. Variance Extracted ). Ảnh hưởng xã hội 0.831. 0.524. 0.441. Bảo mật. 0.88. 0.647. 0.135. Ý định sử dụng. 0.948. 0.858. 0.441. Nỗ lực kỳ vọng. 0.786. 0.524. 0.25. Hiểu biết tài chính 0.792. 0.562. 0.242. Chiquare/df=2.201 <3 GFI=0.948>0.9 CFI=0.974>0.9 TLI=0.967>0.9 RMSEA=0.046<0.5. Nguồn : Tác giả tổng hợp từ phân tích dữ liệu Hệ số tương quan giữa các thành phần với sai lệch chuẩn của các thang đo đều khác với 1 ở độ tin cậy 95%, đạt mức ý nghĩa thống kê (tất giá trị P-value đều bằng 0). Hiểu biết tài chính, Nỗ lực kỳ vọng đều đặt giá trị phân biệt có sự tương quan giữa các thành phần của thang đo..

<span class='text_page_counter'>(104)</span> 94 Bảng 3.12. Kiểm định sự tươmg quan của các biến trong mô hình tiếp cận tín dụng phi chính thức Tương quan. Ước lượng (Estimate). SE. C.R.. Pvalue. XAHOI. <-->. BAOMAT. .430. .044. 9.772. ***. XAHOI. <-->. YDINH. .522. .047. 11.201. ***. XAHOI. <-->. NOLUC. .285. .034. 8.271. ***. XAHOI. <-->. HIEUBIET. .269. .039. 6.928. ***. BAOMAT. <-->. YDINH. .336. .045. 7.442. ***. BAOMAT. <-->. NOLUC. .237. .036. 6.632. ***. BAOMAT. <-->. HIEUBIET. .261. .042. 6.197. ***. YDINH. <-->. NOLUC. .184. .036. 5.167. ***. YDINH. <-->. HIEUBIET. .257. .043. 5.963. ***. NOLUC. <-->. HIEUBIET. .308. .037. 8.324. ***. Nguồn : Tác giả tổng hợp phân tích dữ liệu Kết quả kiểm định sư tương quan của các thành phần thang đo ý định sử dụng trên cho thấy sau khi phân tích CFA thang đo ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình gồm có 4 biến độc lập (Nỗ lực kỳ vọng, Ảnh hưởng xã hội, Bảo mật và Hiểu biết tài chính ) với 18 biến quan sát và biến phụ thuộc (Ý định sử dụng ) với 3 biến quan sát. Kết quả CFA cho thấy thành phần của thang đo đều đạt được giá trị cấu trúc bao gồm: giá trị hội tụ, giá trị phân biệt, giá trị tương đồng có sự tương quan và đạt yêu cầu về giá trị.. 3.3.2.4. Phân tích nhân mô hình cấu trúc SEM Kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố trong mô hình cấu trúc Mô hình mối quan hệ giữa các nhân tố trong mô hình cấu trúc tiếp cận tín dụng phi chính thức của hộ kinh doanh cá thể được biểu hiện thông qua bảng 3.12..

<span class='text_page_counter'>(105)</span> 95. Hình 3.3. Kết quả SEM của tiếp cận tín dụng phi chính thức. Nguồn : Tác giả tổng hợp phân tích số liệu Các chỉ tiêu đo lường sự phù hợp của mô hình cho thấy, giá trị Chi-quare/df= 2.272 < 3, TLI= 0.965, CFI=0.972, GFI= 0.946 đều lớn hơn 0.9, hệ số RMSEA = 0.048 <0.05, vì thế mô hình có phù hợp với thị trường. Kết quả các giá trị P-value của các biến độc lập thì có 1 biến lớn hơn 0.05, do đó biến Bảo Mật không ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ tín dụng đen. Hệ số hồi quy chuẩn hóa của mô hình thể hiện sự ảnh hưởng lớn nhất tới “Ý định sử dụng” tín dụng đen thuộc về nhân tố Xã hội, với hệ số 0.718, tiếp theo là nhân tố “Hiểu biết tài chính “ và cuối cùng là nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” với hệ số -0.135..

<span class='text_page_counter'>(106)</span> 96 Bảng 3.13. Mối quan hệ giữa các nhân tố trong mô hình cấu trúc ý định sử dụng tín dụng phi chính thức Hệ số hồi quy chuẩn hóa. Mối quan hệ. P-value. Các chỉ tiêu mô hình. YDINH. <---. XAHOI. 0.678. ***. Chiquare/df=2.272. YDINH. <---. BAOMAT. -0.015. 0.756. <3. YDINH. <---. NOLUC. -0.106. 0.040. YDINH. <---. HIEUBIET. 0.096. 0.047. GFI=0.946>0.9 CFI=0.972>0.9 TLI=0.965>0.9 RMSEA=0.048<0.5. Nguồn : Tác giả tổng hợp từ phân tích số liệu. Kiểm định độ tin cậy của mô hình với phương pháp Boostrap Kiểm định này sẽ giúp đánh giá độ tin cậy của các ước lượng trong mô hình đánh giá thông qua kiểm định các hệ số hồi quy trong mô hình SEM có được ước lượng tốt hay không. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp Boostrap với số lượng quan sát lặp lại là N=400. Kết quả ước lượng từ 400 quan sát được tính trung bình cùng với độ lệch như sau Bảng 3.14: Kết quả ước lượng mô hình bằng Bootstrap với N=400 Nhân tố. SE. SE-SE. Mean. Bias. SE-Bias. C.R. YDINH <---. XAHOI. .052. .002. .682. .004. .003. 1.3. YDINH <---. BAOMAT. .052. .002. -.015. .000. .003. 0. YDINH <---. NOLUC. .051. .002. -.110. -.004. .003. YDINH <---. HIEUBIET. .044. .002. .096. .000. .002. 1.3 0. Nguồn : Tác giả tổng hợp từ phân tích số liệu Nhìn vào kết quả ước lượng mô hình ý định sử dụng bằng boostrap thì các giá trị C.R đều nằm trong khoảng từ -1.96 đến 1.96 như vậy độ lệch của các hệ số trong mô hình với 400 quan sát là rất nhỏ, mô hình vẫn có ý nghĩa với mẫu lớn. Do đó ước lượng mô hình là tin cậy được..

<span class='text_page_counter'>(107)</span> 97 Bảng 3.15. Kết quả kiểm định giả thuyết trong mô hình lý thuyết Yếu tố phụ thuộc. Hệ số ảnh hưởng. Giả thuyết. Ý định sử H: Ảnh hưởng xã hội có ảnh hưởng 0.678 dụng. Hệ số Sig ***. thuận chiều với ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình. Kết quả kiểm định Chấp. Thứ tự ảnh hưởng 1. nhận. H: Nỗ lực kỳ vọng có ảnh hưởng ngược -0.106. 0.040. chiều với ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình. Chấp. 3. nhận. H: Hiểu biết tài chính có ảnh hưởng 0.096. 0.047. thuận chiều với ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của hộ gia đình. Chấp. 2. nhận. Nguồn : Tác giả tổng hợp từ phân tích số liệu Kết quả cho thấy, các kiểm định về sự ảnh hưởng của nhân tố tới tiếp cận tín dụng của hộ gia đình được chấp nhận với độ tin cậy tốt.. Kiểm định sử ảnh hưởng của biến điều tiết trong mô hình cấu trúc ý định sử dụng Bảng 3.16: Kết quả kiểm định lần 1 về sự tác động của biến điều tiết Chiều tác động Ý định sử dụng (Y_DINH) Ý định sử dụng (Y_DINH).  . Ý định sử dụng (Y_DINH). . Ý định sử dụng (Y_DINH). . Ý định sử dụng (Y_DINH). . Ý định sử dụng (Y_DINH). . Giới tính_Ảnh hưởng xã hội (GT_XAHOI) Số năm_Nỗ lực kỳ vọng (SVN_NOLUC) Giới tính_Hiểu biết tài chính. Sai lệch chuẩn. Tỷ s ố tới hạn. (S.E.). (C.R). -0,192. 0,018. -10,524. ***. par_17. 0,062. 0,017. 3,569. ***. par_18. 0,128. 0,017. 7,694. ***. par_19. -0,039. 0,016. -2,354. 0,019. par_20. 0,023. 0,017. 1,291. 0,197. par_24. -0,023. 0,018. -1,242. 0,214. par_25. Ước lượng. Pvalue. (GT_HB) Số năm_Hiểu biết tài chính (SVN_HB) Giới tính_Nỗ lực kỳ vọng (GT_NOLUC) Số năm_Ảnh hưởng xã hội (SVN_XAHOI). Nguồn: tác giả tổng hợp phân tích dữ liệu.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> 98 Kết quả kiểm định sự ảnh hưởng của biến điều tiết trong mô hình cấu trúc ý định sử dụng lần 1 được thể hiện ở bảng 3.36. Kết quả phân tích lần thứ nhất cho thấy biến SVN_XAHOI không có mức ý nghĩa thống kê đối với “Ý định sử dụng” tín dụng đen (P-value > 0,5), các biến này được loại bỏ khỏi mô hình để tiền hành phân tích lần thứ hai và cho ra kết quả như sau: Bảng 3.17: Kết quả kiểm định lần 2 về sự tác động của biến điều tiết Chiều tác động Ý định sử dụng (Y_DINH) Ý định sử dụng (Y_DINH) Ý định sử dụng (Y_DINH) Ý định sử dụng (Y_DINH).    . Giới tính_Ảnh hưởng xã hội (GT_XH) Số năm_Nỗ lực kỳ vọng (SVN_NOLUC) Giới tính_Hiểu biết tài chính (GT_HB) Số năm_Hiểu biết tài chính (SVN_HB). Sai lệch. Tỷ số tới hạn (C.R). Pvalue. 0,018. -10,015. ***. 0,058. 0,017. 3,347. ***. 0,142. 0,017. 8,485. ***. -0,055. 0,016. -3,340. ***. Ước lượng. chuẩn (S.E.). -0,183. Nguồn: tác giả tổng hợp phân tích dữ liệu. * Giới tính chủ hộ Kết quả kiểm định cho thấy được rằng biến kiểm soát giới tính có sự tác động đến mối quan hệ giữa yếu tố Ảnh hưởng xã hội, Hiểu biết tài chính tới tiếp cận tín dụng phi chính thức (thông qua ý định sử dụng tín dụng phi chính thức của các hộ kinh doanh cá thể), với mức ý nghĩa thống kê dưới 0.5 Đối với mối quan hệ giữa Ảnh hưởng xã hội và Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức, mối quan hệ này mạnh hơn ở chủ hộ là nữ giới so với nam giới vì hệ số ảnh hưởng của biến GT_XH tới ý định sử dụng tín dụng phi chính thức là -0.183. Từ đó có thể kết luận được giả thuyết H4b về sự ảnh hưởng của biến điều tiết giới tính tới mối quan hệ Ảnh hưởng xã hội và Ý định sử dụng được chấp nhận Đối với mối quan hệ giữa Hiểu biết tài chính và Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức, mối quan hệ này mạnh hơn ở chủ hộ là nam giới so với nam giới vì hệ số ảnh hưởng của biến GT_XH tới ý định sử dụng tín dụng phi chính thức là 0.142. Từ đó có thể kết luận được giả thuyết H6c về sự ảnh hưởng của biến điều tiết giới tính tới mối quan hệ Hiểu biết tài chính và Ý định sử dụng được chấp nhận.

<span class='text_page_counter'>(109)</span> 99. * Số năm kinh doanh Về số năm kinh doanh thì sự tác động của biến kiểm soát này tới mối quan hệ của nhân tố Nỗ lực kỳ vọng và Hiểu biết tài chính tới Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức, với mức ý nghĩa thống kê dưới 0,5. Đối với mối quan hệ giữa Nỗ lực kỳ vọng và Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức, mối quan hệ này mạnh hơn ở các hộ có ít nhất 3 năm kinh nghiệm trở nên so với các hộ khác vì hệ số ảnh hưởng của biến SVN_HB tới ý định sử dụng tín dụng phi chính thức là 0,058. Từ đó có thể kết luận được giả thuyết H2b về sự ảnh hưởng của biến điều tiết tới mối quan hệ Nỗ lực kỳ vọng và Ý định sử dụng được chấp nhận. Đối với mối quan hệ giữa Hiểu biết tài chính và Ý định sử dụng tín dụng phi chính thức, mối quan hệ này mạnh hơn ở các hộ có ít hơn 3 năm kinh nghiệm so với các hộ khác vì hệ số ảnh hưởng của biến SVN_HB tới ý định sử dụng tín dụng phi chính thức là - 0,058. Từ đó có thể kết luận được giả thuyết H6b về sự ảnh hưởng của biến điều tiết (số năm kinh doanh) tới mối quan hệ Hiểu biết tài chính và Ý định sử dụng được chấp nhận..

<span class='text_page_counter'>(110)</span> 100. CHƯƠNG 4: THẢO LUẬN KẾT QUẢ VÀ KHUYẾN NGHỊ 4.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu 4.1.1. Đối với các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng chính thức Có tất cả 8 nhân tố được xác định là có ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình tại Việt Nam, đó là: Tài sản đảm bảo, Thu nhập, Kinh nghiệm của chủ hộ, Khoảng cách, Lãi suất, Thủ tục vay vốn, Kinh nghiệm của ngân hàng và Dịch vụ ngân hàng điện tử. Qua việc kiểm định mô hình nghiên cứu với phương pháp SEM, kết quả cho thấy các giả thuyết đều được chấp nhận. Mức độ tác động của mỗi nhân tố lên Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ gia đình là khác nhau. Trong đó, đặc điểm của chủ hộ (tài sản đảm bảo và thu nhập) là lớn nhất, tiếp theo kinh nghiệm của chủ hộ, sau đó là thủ tục vay vốn, và thấp nhất là ngân hàng điện tử. a. Tác động của Tài sản đảm bảo Giả thiết nghiên cứu 1 (H1) đưa ra nhận định rằng độ lớn của giá trị tài sản đảm bảo có mối quan hệ thuận chiều đến Khả năng tiếp cận tín dụng của hộ gia đình tại Việt Nam. Kết quả kiểm định cho thấy Tài sản đảm bảo được cảm nhận có ảnh hưởng thuận chiều với Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình với hệ số ảnh hưởng thông qua biến chung là Đặc điểm chủ hộ với hệ số ảnh hưởng là 0.597, đồng thời Sig = 0.006 < 0.05. Do đó, có cơ sở để chấp nhận giả thuyết H1. Như vậy độ lớn của Tài sản đảm bảo càng tăng thì khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình đó càng lớn. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Fatoki và Odeyemi (2010); Fatoki và Asah (2011); Kira và He (2012). Có thể giải thích cho kết quả nghiên cứu định lượng của nghiên cứu này như sau: Tại Việt Nam, do tác động của tỷ lệ lạm phát cao (khoảng 6 - 7%), những tài sản đảm bảo được ngân hàng ưa thích có thể kể đến như đất và các tài sản gắn liền với đất, chứng chỉ tiền gửi,... đều là những tài sản có giá trị lớn, khả năng chuyển đổi ra tiền cao và ít bị mất giá theo thời gian. Hiện nay, thông tư 36/2014/TT-NHNN và các thông tư sửa đổi thông tư này đều đánh giá rất cao về giá trị tài sản đảm bảo và cho hệ số rủi ro của nó không tới 100%. Những ngân hàng khi cho vay có tài sản đảm bảo sẽ giảm thiểu được rủi ro cho khoản tín dụng, hệ số rủi ro khi tính hệ số an toàn vốn của TCTD cũng giảm đi do đó ngân hàng dễ dàng chấp thuận hơn, tăng khả năng tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh đó. Đồng thời, về phía hộ gia đình, những hộ gia đình có tài sản đảm bảo.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> 101 sẽ dễ dàng vay được những khoản vay lớn, phục vụ mở rộng sản xuất kinh doanh. Tài sản thế chấp cũng là công cụ hữu hiệu để giải quyết hậu quả nếu có rủi ro gây ra nợ xấu xảy ra. Như vậy, giá trị tài sản đảm bảo càng lớn, TCTD càng dễ chấp thuận khoản vay, tăng khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình. b. Tác động của Thu nhập Giả thiết H2 được đề xuất độ lớn của thu nhập hàng tháng của chủ hộ được cảm nhận ảnh hưởng tích cực đến Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. Kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy độ lớn của Thu nhập hàng tháng của chủ hộ được cảm nhận có mối quan hệ theo chiều dương với Khả năng tiếp cận tín dụng của hộ gia đình với hệ số ảnh hưởng thông qua biến chung là Đặc điểm chủ hộ với hệ số ảnh hưởng là 0.597, và sig = 0.006 < 0.05. Do đó có cơ sở để chấp nhận H2. Kết quả này thống nhất với kết quả của Chauke và cộng sự (2013), Dao và cộng sự (2016), Ha (2015). Kết quả nghiên cứu hoàn toàn có cơ sở để khẳng định mối quan hệ mang dấu dương giữa Thu nhập hàng tháng của chủ hộ với Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. Khi cho vay bất kỳ khách hàng nào, các TCTD đều phải xét đến các nguồn tài trợ để có thể hoàn trả nợ và thêm các phần chi phí của khoản vay như chi phí lãi vay. Trong đó, thu nhập hàng tháng là một nguồn quan trọng vì đây là nguồn tài trợ ổn định, mang tính lâu dài và có thể trích tiết kiệm. Bởi vì các hộ gia đình không phân biệt đâu là vốn của từng người và đâu là vốn hoặc thu nhập của toàn bộ gia đình nên thu nhập hàng tháng của chủ hộ cũng góp phần nói lên hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ gia đình đó. Theo đó, thu nhập hàng tháng càng cao thì hiệu quả sinh lời của hoạt động kinh doanh càng lớn, rủi ro mất vốn của TCTD cũng sẽ được giảm thiểu. Hiện nay, nhiều TCTD cũng đã có dịch vụ trích tiết kiệm định kỳ dựa trên tài khoản thu nhập hàng tháng, đây là một phương án hữu hiệu để có một nguồn tài trợ ổn định cho việc chi trả khoản vay này. Do đó, nếu chủ hộ có thu nhập hàng tháng càng lớn, uy tín về tín dụng của người đó sẽ tăng lên, ngân hàng cũng sẽ ưa thích cho vay những người này hơn là người có thu nhập thấp và thiếu tính ổn định hơn, từ đó khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của những hộ gia đình đó được tăng cao. c. Tác động của Kinh nghiệm của chủ hộ Giả thuyết nghiên cứu H3 đề xuất Số năm kinh nghiệm của chủ hộ gia đình tác động thuận chiều tới Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. Kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy Số năm kinh nghiệm của chủ hộ gia đình được cảm nhận có mối quan hệ theo chiều dương với Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình với hệ số ảnh hưởng bằng 0.334; với sig = 0.00 < 0.05. Do đó có cơ sở để chấp nhận H3..

<span class='text_page_counter'>(112)</span> 102 Như vậy, số năm kinh nghiệm của chủ hộ gia đình càng lớn thì khả năng tiếp cận tiếp dụng TCTD của những hộ gia đình này càng cao. Kết quả này thống nhất với kết quả nghiên cứu của Thuku (2017), Nguyen (2018), Dao và cộng sự (2016). Kết quả nghiên cứu trên có cơ sở thực tiễn để khẳng định Số năm kinh nghiệm của chủ hộ gia đình có tác động tích cực đến Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. Kết quả này có thể được giải thích như sau. Chủ hộ gia đình có nhiều năm hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh sẽ trải nghiệm nhiều hơn những tình huống có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh, từ đó lường trước được các rủi ro có thể xảy đến, tránh được tình trạng mất vốn, giảm rủi ro cho những khoản tín dụng của ngân hàng. Hơn nữa, kinh nghiệm kinh doanh cũng giúp chủ hộ có thể có được những phương án kinh doanh tối ưu hơn, nắm bắt được thị trường và phân khúc khách hàng tốt hơn từ những trải nghiệm cả thành công và thất bại của mình. Điều này làm tăng sự ưa thích của các TCTD cho vay những người có nhiều kinh nghiệm kinh doanh hơn là những chủ hộ ít kinh nghiệm hơn. Ngoài ra, những người có nhiều kinh nghiệm cũng có khả năng sẽ thông thạo hơn trong việc chuẩn bị hồ sơ vay vốn, đáp ứng các điều kiện của TCTD, bao gồm cả tài sản đảm bảo có thể đã tích lũy được trong thời gian kinh doanh của mình. Tất cả những điều này góp phần làm tăng khả năng tiếp cận các khoản tín dụng TCTD của những hộ kinh doanh có chủ hộ giàu kinh nghiệm hơn. d. Tác động của Khoảng cách địa lý Giả thuyết nghiên cứu H4 đề xuất độ lớn Khoảng cách địa lý giữa các chi nhánh của các TCTD với khu vực sinh sống của các hộ gia đình có tác động ngược chiều đến Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ gia đình. Kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy Khoảng cách địa lý ảnh hưởng tiêu cực của độ lớn đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ gia đình với hệ số ảnh hưởng bằng -0.167; sig = 0.00 < 0.05 với mức ý nghĩa %. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định giả thiết H4. Như vậy, khoảng cách giữa chi nhánh các TCTD và các hộ càng xa thì khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ này càng giảm. Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của Dao và cộng sự (2016). Có thể giải thích cho kết quả nghiên cứu này như sau. Do đặc điểm địa hình tại Việt Nam khá phong phú, bao gồm nhiều dạng địa hình như đồng bằng, vùng núi,... độ lớn về khoảng cách địa lý giữa các hộ gia đình và chi nhánh các TCTD cũng là khác nhau. Nếu như ở vùng đồng bằng, khu trung tâm, dân cư tập trung đông đúc, các ngân hàng mở rất nhiều chi nhánh, phủ sóng trên tất cả các khu vực, người dân tại đây dễ.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> 103 dàng nhận diện cũng như biết đến các tổ chức và hoạt động tín dụng. Ngược lại, ở vùng núi, do điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc di chuyển và tập trung dân cư, hiện diện của các TCTD là các chi nhánh tại đây cũng thưa thớt hơn, người dân khó khăn hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ tín dụng. Chưa kể khi đã có nhu cầu vay tín dụng, các chủ hộ cũng có thể bị cản trở rất nhiều vì khoảng cách địa lý xa xôi, đi lại tốn nhiều thời gian và công sức, thậm chí có thể phải đi lại rất nhiều lần để hoàn thiện thủ tục vay vốn. Về phía các TCTD, khi cho vay các chủ hộ gia đình ở xa các chi nhánh, việc thẩm định hồ sơ khoản vay, điều tra kiểm soát tình hình thực tế để xác định độ rủi ro của khoản tín dụng sẽ khó khăn hơn, gây ra tâm lý e ngại các khoản vay từ những hộ sản xuất này này. Có thể thấy, độ lớn của Khoảng cách địa lý gây ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ. e. Tác động của Lãi suất vay vốn Giả thuyết nghiên cứu H3 đề xuất Lãi suất vay vốn và các khoản phí đi kèm càng cao thì Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình càng thấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, độ lớn của Lãi suất vay vốn tác động ngược chiều lên Khả năng tiếp cận tín dụng của hộ gia đình với hệ số ảnh hưởng bằng - 0.084, với sig = 0.00 < 0.05 với mức ý nghĩa %. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định giả thuyết H5. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đó của Ogolla (2013) khi cho rằng lãi suất vay vốn càng lớn thì khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình càng giảm đi. Kết quả nghiên cứu được giải thích: Lãi suất vay vốn chính là chi phí chính của khoản vay, người đi vay, ở đây là chủ hộ gia đình luôn mong đợi một mức chi phí thấp hơn, để có thể tối đa hóa lợi nhuận. Lãi suất cao khiến cho hộ cần phải trích nhiều chi phí hơn để duy trì khoản vay, cũng như doanh thu và lợi nhuận của hộ sẽ bị giảm xuống. Đối với những khoản vay có lãi suất lớn, chủ hộ sẽ có tâm lý e ngại tiếp cận những khoản tín dụng bởi họ phải cân nhắc đến hiệu quả hoạt động của mình nếu như thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh này có thể chỉ vừa bù đắp chi phí lãi vay. Lãi suất cao cũng gây khó khăn cho chủ hộ trong tận dụng tối đa khoản tín dụng cũng như lợi tức sinh ra từ việc sử dụng khoản tín dụng đầu tư sản xuất kinh doanh do buộc phải mất khoản chi phí này. Thậm chí, có những trường hợp không bù đắp được chi phí vay vốn, dẫn đến dồn ứ nợ xấu, phạt lãi vay,... có thể dẫn đến khả năng mất vốn. Có thể thấy, chi phí lãi vay càng lớn càng khiến chủ hộ e ngại việc tiếp cận các khoản tín dụng từ các TCTD. f. Tác động của Thủ tục vay vốn Giả thuyết H6 đề xuất một mối quan hệ mang dấu âm giữa độ phức tạp của thủ tục vay vốn với khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ gia đình. Kết quả kiểm.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> 104 định cho thấy thủ tục vay vốn càng phức tạp càng có tác động tiêu cực đến khả năng tiếp cận tín dụng của hộ gia đình với hệ số biến thiên bằng -0.183 với sig = 0.00 < 0.05. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định giả thuyết H6. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu trước của Frangos và cộng sự (2012), Nguyễn Phúc Chánh (2016). Có thể giải thích kết quả nghiên cứu như sau. Các loại giấy tờ, chứng từ, bảng kế hoạch, giấy chứng nhận và một số giấy tờ thủ tục khác đang trở thành một rào cản đối với hộ khi nhiều chủ hộ không nắm được mình cần chuẩn bị những loại thủ tục nào, gây ra việc phải đi lại nhiều lần, tốn nhiều thời gian, công sức và chi phí, gia tăng thêm ảnh hưởng xấu của khoảng cách địa lý lên khả năng tiếp cận tín dụng. Hơn nữa, tại một số TCTD quy trình, thủ tục xử lý còn chậm dù chủ hộ đã xuất trình đầy đủ và chính xác các bộ chứng từ giấy tờ để xin cấp tín dụng, gây ảnh hưởng đến mức độ kịp thời của nguồn vốn. Điều này còn góp gần làm gia tăng tín dụng đen với thủ tục nhanh gọn, giải ngân nhanh đang là vấn đề nhức nhối mà chính phủ tập trung tìm giải pháp đẩy lùi. g. Tác động của Kinh nghiệm của TCTD Giả thuyết H7 đưa ra đề xuất về mối quan hệ thuận chiều giữa Kinh nghiệm của TCTD với Khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình. Kết quả kiểm định cho thấy Kinh nghiệm của TCTD có ảnh hưởng tiêu cực đến Khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình với hệ số ảnh hưởng bằng -0.061 với sig = 0.007 < 0.05. Do đó, đủ cơ sở để bác bỏ H7. Kết quả nghiên cứu không phù hợp với nghiên cứu trước đó của Ogolla (2013), Dao và cộng sự (2016), Duy và cộng sự (2012) khi cho rằng Kinh nghiệm của ngân hàng càng tăng thì Khả năng tiếp cận tín dụng của hộ gia đình càng lớn. Các ngân hàng có thời gian hoạt động lâu năm, có vốn nhà nước như BIDV, Vietcombank, Agribank… có quy mô vốn lớn, đội ngũ cán bộ nhân viên đông đảo cùng mạng lưới khách hàng và đối tác rộng khắp tích lũy qua nhiều năm hoạt động. Tuy nhiên, do cạnh tranh trên thị trường, bên cạnh quy mô lớn và nhân viên đông đảo, chất lượng dịch vụ cũng là yếu tố hộ gia đình quan tâm. Hơn nữa, so với các ngân hàng thương mại khác, các ngân hàng lớn có vốn nhà nước thường kém linh động trong việc thực hiện thủ tục vay vốn với nhiều yêu cầu khó đáp ứng, chi phí và lãi suất cho vay thường lớn hơn khiến cho các hộ gia đình khó có cơ hội tiếp cận. Bên cạnh đó, để cạnh tranh được với các ngân hàng lớn trong hoạt động cho vay, các ngân hàng tư nhân nhỏ thường có chính sách tín dụng ưu đãi hơn, linh hoạt hơn. Chính vì vậy, không thể khẳng định rằng kinh nghiệm và danh tiếng của các TCTD có ảnh hưởng tích cực đến khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình..

<span class='text_page_counter'>(115)</span> 105 h. Tác động của Dịch vụ ngân hàng điện tử Giả thuyết H8 đưa ra đề xuất về mối quan hệ thuận chiều giữa Chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử với Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ gia đình. Kết quả kiểm định cho thấy Chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử có ảnh hưởng tích cực đến Khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình với hệ số ảnh hưởng bằng 0.012 với sig = 0.00 < 0.05. Do đó, đủ cơ sở để khẳng định H8. Kết quả nghiên cứu phù hợp với nghiên cứu trước đó của Rehman và Ahmed (2008), Phạm Bích Liên (2016b) khi chỉ ra rằng chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử tăng lên góp phần nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ gia đình. Khi dịch vụ ngân hàng điện tử đáp ứng được nhu cầu về thanh toán, cấp tín dụng,.. của người dân với tốc độ cao và đa dạng các loại hình dịch vụ, người tiêu dùng ở đây là các chủ hộ gia đình sẽ giảm được chi phí di chuyển, phê duyệt hồ sơ vay vốn cũng như hàng loạt các loại chi phí và thủ tục khác, từ đó giảm được tác động tiêu cực của khoảng cách địa lý hay thủ tục vay vốn lên khoản tín dụng. Ngoài ra, khi phương thức sử dụng đơn giản, dễ dàng, các dịch vụ tín dụng qua ngân hàng điện tử cũng sẽ dễ dàng tiếp cận và trở thành sự lựa chọn của các chủ hộ gia đình khi cần các nguồn vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, dịch vụ ngân hàng điện tử chưa thực sự tác động lớn đến khả năng tiếp cận vốn của hộ gia đình trên địa bàn khảo sát. Bởi vì, dịch vụ ngân hàng điện tử ở các TCTD Việt Nam còn chưa đa dạng, đặc biệt với quy trình vay vốn nghiêm ngặt, chủ hộ không thể trực tiếp vay vốn bằng dịch vụ ngân hàng điện tử mà không cần bất cứ giấy tờ cần thiết. Hơn thế nữa, độ an toàn và bảo mật chưa cao của hệ thống ngân hàng điện tử hiện nay cũng là một trong những lý do khiến việc tiếp cận qua kênh này chưa cao.. 4.1.2. Đối với các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng phi chính thức Nỗ lực kỳ vọng Trên cơ sở kết quả nghiên cứu này, nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng có ảnh hưởng ngược chiều đáng kể đến tiếp cận tín dụng phi chính thức của hộ gia đình (với ý nghĩa “ý định sử dụng”), hệ số ảnh hưởng là -0.106 và tương ứng hệ số Sig = 0,04 < 0,05, như vậy nhân tố tác động ngược chiều giả thuyết H2a. Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu về dịch vụ như (Chong và cộng sự, 2012, Fadzil, 2017, Venkatesh và cộng sự, 2012), với kết quả khảo sát của Phạm Văn Tám (2020), cho rằng những người đi vay cảm thấy phiền hà, khó hiểu với các thủ vay vốn, họ thường bị các đối tượng cho vay nặng lãi lừa đảo dẫn đến việc họ phải chịu những khoản nợ, chi phí rất khó hiểu nhằm chiếm đoạt tài sản. Thực tế cho thấy, các thủ tục vay thường rất khó hiểu cho người vay.

<span class='text_page_counter'>(116)</span> 106 với những khoản phí phải đóng trước một cách vô lý dù chưa nhận được khoản vay. Ngoài ra, nhiều đối tượng thông qua các trang mạng xã hội, lợi dụng những người đang cần gấp vốn yêu cầu họ đóng một khoản chi phí làm tin nhưng đến khi đóng phí thì khóa tài khoản, xóa tài khoản, chặn người đi vay… nhằm chiếm đoạt khoản tiền này. Như vậy, thông qua việc trải nghiệm tín dụng đen, các hộ đã cảm thấy khó hiểu, thủ tục quá rắc rối, các chi phí vay cao - nhưng lại sẵn sàng vay vì thời gian nhanh. Thông qua việc khảo sát, nhiều người cho rằng các thủ tục sử dụng tín dụng phi chính thức (đặc biệt là tín dụng đen thường rất khó hiểu, các điều khoản vay thường không minh bạch. Trừ vấn đề thời gian nhanh thì các yếu tố khác không rõ ràng. Ảnh hưởng xã hội Dựa trên kết quả phân tích dữ liệu trong nghiên cứu này, nhân tố “Ảnh hưởng xã hội” có ảnh hưởng tích cực tới “Ý định sử dụng” tín dụng phi chính thức của hộ kinh doanh cá thể với hệ số ảnh hưởng là 0,678 và hệ số tương ứng là Sig = *** < 0,05, như vậy nhân tố tác động cùng chiều giả thuyết H3a. Theo kết quả nghiên cứu thì nhân tố này có ảnh hưởng lớn nhất đến việc tiếp cận tín dụng phi chính thức của hộ gia đình. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nhiều nghiên cứu về dịch vụ như (Prayoonphan và Xu, 2019, Foon và Fah, 2011, Dawi, 2019, Cheng và cộng sự, 2009) khi cho rằng nhân tố “Ảnh hưởng xã hội” có ảnh hưởng tích cực tới “Ý định sử dụng” dịch vụ. Tương tự như kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Tám (2020) nhiều người có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản thế chấp, không đáp ứng được điều kiện vay vốn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng hợp pháp thông qua các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo hoặc bạn bè, đồng nghiệp, họ hàng để tìm đến các cá nhân, cơ sở hoạt động “tín dụng đen” để vay tiền. Ngoài ra, với sự phát triển của các ứng dụng vay tiền cũng như sự dụ dỗ, hỗ trợ nhiệt tình của các tổ chức đã khiến nhiều người “sập bẫy tín dụng” và khó thể thoát ra khỏi các khoản vay này. Điều này phù hợp với sự tác động đến tâm lý người tiêu dùng và cụ thể là các hộ kinh doanh, các yếu tố xã hội (bạn bè, sự hỗ trợ của các tổ chức, xu hướng mạng xã hội…) có ảnh hưởng đến “Ý định sử dụng” tín dụng đen của hộ kinh doanh cá thể. Thực tế hiện nay, nhiều hộ cần tiền nhanh chóng để phục vụ các nhu cầu kinh doanh, thì đã dựa theo gợi ý của bạn bè để tìm đến các tổ chức tín dụng phi chính thức. Hiểu biết tài chính Kết quả nghiên cứu phân tích dữ liệu cho thấy một điều đáng ngạc nhiên là nhân tố “Hiểu biết tài chính” có tác động tích cực đến “Ý định sử dụng” tín dụng phi chính thức của hộ kinh doanh cá thể với hệ số ảnh hưởng là 0,096 và hệ số tương ứng là Sig =.

<span class='text_page_counter'>(117)</span> 107 0,047 < 0,5, như vậy nhân tố này tác động ngược chiều giả thuyết. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu như Khúc Thế Anh và cộng sự (2020) khi đồng ý cho rằng dù các cá nhân càng hiểu biết về tài chính, càng học cao thì lại càng tiếp cận với tín dụng phi chính thức vì một số lý do như làm ăn thua lỗ, tự tin về khả năng trả nợ của mình… Hơn thế nữa, kết quả khảo sát cũng cho thấy số chủ hộ tham gia khảo sát được đánh giá là có hiểu biết tài chính chiếm phần lớn quan sát (77%) nhưng chỉ có 17% số đó cho rằng tín dụng đen ảnh hưởng đến đời sống của họ. Ngoài ra, kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy, nhiều hộ biết rõ dịch vụ “hỗ trợ tài chính” tính lãi suất rất cao nhưng do cần gấp tiền nên cần vay tín dụng đen. Giới tính Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, yếu tố “Giới tính” có tác động điều tiết mối quan hệ giữa các nhân tố “Ảnh hưởng xã hội”, “Hiểu biết tài chính” với “Ý định sử dụng” trong mô hình cấu trúc. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu dịch vụ của (AlQeisi, 2009, Đỗ Thị Ngọc Anh, 2017). Nghiên cứu cho thấy, yếu tố quyết định mạnh đến “Ý định sử dụng” tín dụng phi chính thức đối với chủ hộ là nữ giới là “Ảnh hưởng xã hội” còn với nam giới là “Hiểu biết tài chính”. Điều này đúng với thực tế, khi nữ giới thường bị nhiều đối tượng cho vay nặng lãi ảnh hưởng đến tâm lý, và có xu hướng bị tác động nhiều hơn nam giới. Trong khi đó, nam giới có tâm lý ổn định hơn nên nếu họ có sự hiểu biết tài chính, họ càng tự tin rằng mình biết cách sử dụng tín dụng đen một cách hiệu quả đáp ứng được nhu cầu của họ mà vẫn có thể trả nợ, vì vậy họ lại càng có “Ý định sử dụng” tín dụng đen nhiều hơn. Số năm kinh doanh Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng số năm kinh doanh của hộ gia đình có ảnh hưởng trong mối quan hệ giữa các nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” và “Hiểu biết tài chính” với “Ý định sử dụng” trong mô hình cấu trúc. Kết quả này không giống với các nghiên cứu trong dịch vụ vì đặc thù của nó là nghiên cứu là đối với hộ gia đình chứ không phải cá nhân. Đối với các hộ có trên 5 năm kinh nghiệm trở lên thì nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” có ảnh hưởng mạnh mẽ đến “Ý định sử dụng” tín dụng phi chính thức (đặc biệt là tín dụng đen), trong khi với các hộ có ít hơn 5 năm kinh nghiệm trở xuống thì “Hiểu biết tài chính” có ảnh hưởng mạnh đến “Ý định sử dụng” tín dụng đen. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế, khi các hộ có nhiều năm kinh nghiệm lên thường có nhiều kiến thức tài chính và có nhiều kinh nghiệm vay hơn nên thấy được những thủ tục vay thường rất phiền hà và khó hiểu nên thường ít có “Ý định sử dụng” tín dụng phi chính thức. Trong khi các hộ khác thường thiếu kinh nghiệm vay nên họ thường cho rằng họ có thể quản.

<span class='text_page_counter'>(118)</span> 108 lý các khoản vay từ các tổ chức tín dụng đen một cách hiệu quả khi khi họ có nhiều hiểu biết tài chính.. 4.2. Một số khuyến nghị 4.2.1. Khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước và pháp luật 4.2.1.1. Khuyến nghị nhằm thúc đẩy cung cấp tín dụng cho các hộ kinh doanh cá thể Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng một số quy định về tài sản đảm bảo, thủ tục vay vốn,… đã và đang là trở ngại cho việc tiếp cận tín dụng của hộ gia đình. Bên cạnh đó, các ngân hàng tại Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn khi thẩm định các hồ sơ vay vốn của các chủ hộ gia đình do nhiều quy định chưa rõ ràng, ngân hàng chưa xác định được rõ nhóm rủi ro có thể gặp phải gây ra tâm lý e ngại trong việc cấp tín dụng đối với một số nhóm các hộ gia đình. Khoảng cách địa lý, lãi suất, cũng như sự phát triển chưa đồng bộ của dịch vụ ngân hàng điện tử cũng là trở ngại trong việc tiếp cận các khoản tín dụng của các hộ kinh doanh. Muốn giải quyết các vấn đề này, cơ quan chủ quản là Ngân hàng nhà nước cần có các chính sách triệt để, quy định rõ ràng và các chính sách thúc đẩy, hỗ trợ các tổ chức tín dụng tại Việt Nam. ● Về Tài sản đảm bảo Mặc dù các tổ chức tín dụng theo quy định không yêu cầu tài sản đảm bảo cho bất cứ một khoản tín dụng (kể cả cho vay, bảo lãnh), nhưng gần như các hộ kinh doanh không thể tiêp cận được vốn nếu không có bảo đảm. Tài sản đảm bảo đang là một trở ngại lớn đối với các chủ hộ gia đình khi muốn tiếp cận tín dụng chính thức do có nhiều chủ hộ với số năm kinh doanh hạn chế cùng lượng tài sản tích trữ chưa đủ lớn khó lòng đáp ứng được quy định về tài sản đảm bảo tại các tổ chức tín dụng hiện nay như giá trị tài sản đảm bảo phải tương đương khoảng 75% tổng giá trị của khoản vay. Các NHTM cũng ưa thích những tài sản như đất và các tài sản gắn liền với đất, chứng chỉ vàng,… vì giá trị lớn và ít bị mất giá theo thời gian thay vì các loại hình tài sản khác như hàng tồn kho, hoặc tài sản hình thành trong tương lai,… Về việc này, nghị định 116/2018/NĐ-CP sửa đổi có hiệu lực từ ngày 25/10/2018 đã có quy định: “Cá nhân, hộ gia đình cư trú ngoài khu vực nông thôn có sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp được vay vốn từ 50 triệu đồng lên 100 triệu đồng, còn cư trú tại địa bàn nông thôn từ 100 triệu đồng lên 200 triệu đồng”. Nghị định cũng bổ sung quy định về việc tổ chức tín được nhận tài sản hình thành từ vốn vay của dự án, phương sản xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp làm tài sản bảo đảm cho khoản vay của khách hàng. Tuy nhiên có thể thấy, quy định đặt ra đang tập trung chủ yếu tháo gỡ vướng mắc cho khách hàng khu vực nông thôn với ngành nghề.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> 109 nông nghiệp, còn rất nhiều ngành nghề khác cần hỗ trợ. Hơn nữa, các ngân hàng vẫn còn e ngai khi cho vay các khoản vay không có tài sản thế chấp này, làm giảm bớt tác động tích cực của chính sách lên các hộ không có tài sản đảm bảo. Tác giả đề xuất các chính sách hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong việc giảm chi phí và rủi ro trên những khoản vay này như có thể giảm thuế trên doanh lợi từ các khoản vay không yêu cầu tài sản đảm bảo, yêu cầu NHNN địa phương cùng các cơ quan quản lý thương mại, cơ quan thuế địa phương cần phối hợp chặt chẽ, nhiệt tình với các NHTM để ngân hàng có được các thông tin xác thực, từ đó phê duyệt các khoản vay một cách dễ dàng hơn mà không cần thông qua tài sản thế chấp, có các chính sách khuyến khích tiếp nhận các loại hình tài sản hình thành trong tương lai hoặc tài sản vô hình như sở hữu trí tuệ, bằng sáng chế,…. ● Về Khoảng cách địa lý Việc phân bổ không đồng đều của các chi nhánh các ngân hàng thương mại trên các địa bàn gây ra sự khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ kinh doanh. Nhiều NHTM còn e ngại vì hiệu quả kinh doanh tại các chi nhánh ở khu vực thưa dân cư, địa hình khó khăn còn thấp, các khoản vay nhỏ lẻ và chi phí hoạt động cao, gây ra nhiều khó khăn trong việc duy trì hiệu quả chung của toàn hệ thống. Để giảm thiểu những tác động xấu này, Ngân hàng nhà nước cần có các kiến nghị về các chính sách hỗ trợ các Ngân hàng thương mại trong việc mở rộng các chi nhánh tại các địa bàn khó khăn, địa hình không bằng phẳng, cần hỗ trợ tiếp cận vốn tín dụng phục vụ đầu tư sản xuất kinh doanh. Cụ thể: - Nhà nước có thể xem xét giảm thuế trên doanh lợi của các chi nhánh mới thành lập tại các địa bàn này trong vòng 5 năm đầu. - Hỗ trợ trong vấn đề tìm kiếm và cấp phép mặt bằng xây dựng chi nhánh. - Hỗ trợ trong việc cung cấp thông tin về kê khai thuế, thông tin về thu nhập của các chủ hộ gia đình để ngân hàng có thể dễ dàng kiểm soát thông tin của các khoản xin cấp tín dụng, góp phần giảm trừ rủi ro cho ngân hàng thương mại. ● Về Lãi suất vay vốn Lãi suất vay vốn chính là phần chi phí của khoản vay, có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ kinh doanh vì đây là một trong những nhân tố cần cân nhắc chính khi quyết định tiếp cận các loại hình tài trợ vốn. Việc chi phí của khoản vay lớn khiến cho các hộ kinh doanh e ngại về việc liệu hiệu quả kinh doanh có thể bù.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> 110 đắp phần chi phí này. Thực tế đã chứng minh có những thời kì, lãi suất vay vốn ngân hàng lên tới 20%, là quá lớn và gần như không thể bù đắp đối với các ngành sản xuất kinh doanh thông thường. Hiện tại tuy lãi suất dã về mức ổn định tuy nhiên vẫn là khá cao so với doanh lợi thu được từ những khoản tín dụng của các hộ kinh doanh. Để giải quyết tình trạng này, nhà nước nên có các chính sách hỗ trợ về lãi suất đối với các hộ kinh doanh trong một số ngành nghề đặc thù, mũi nhọn như các ngành nghề đòi hỏi ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp, trồng cây công nghiệp,….. ● Về thủ tục vay vốn Để khuyến khích các tổ chức tín dụng giảm thiểu các thủ tục vay vốn, xét duyệt hồ sơ, khuyến nghị một số chính sách như: - Đưa chỉ tiêu tối ưu hóa thủ tục vay vốn vào chỉ tiêu đánh giá xếp hạng các tổ chức tín dụng. - Quy định rõ ràng về số ngày tối đa để giải quyết các thủ tục xin cấp tín dụng, ngoài ra có hành lang rõ ràng về một số các trường hợp thường xuyên phát sinh. ● Về Dịch vụ ngân hàng điện tử: Công nghệ 4.0 đã và đang ảnh hưởng đến nhiều mặt trong cuộc sống và các dịch vụ tín dụng cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Khoa học công nghệ, với điển hình là sự phát triển của công nghệ thông tin là một nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình đổi mới và phát triển của hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, có một thực tế là tuy có nhiều mặt tích cực như giảm được chi phí nhân công, chi phí về mặt bằng,… nhưng dịch vụ ngân hàng điện tử hiện tại còn tồn tại một số hạn chế như ẩn chứa nhiều rủi ro cho cả người dùng và tổ chức tín dụng, các bước thực hiện còn phức tạp đối với những chủ hộ gia đình lứa tuổi trung niên, chưa quen sử dụng các dịch vụ công nghệ. Ngoài ra, những người này còn có tâm lý e ngại khi chưa hiểu rõ được các ứng dụng ngân hàng điện tử. Vì vậy, việc tối đa hóa trải nghiệm người dùng và tích hợp thêm nhiều tính năng là điều thực sự cần thiết để tăng khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ kinh doanh gia đình, đặc biệt là các dịch vụ cấp tín dụng. Tác giả kiến nghị các cơ quan quản lý nên lưu tâm đến việc: - Đưa chỉ tiêu nâng cao chất lượng ngân hàng điện tử trở thành một chỉ tiêu đánh giá xếp hạng các tổ chức tín dụng. - Tổ chức các chương trình trao đổi, hướng dẫn cũng như nói rõ lợi ích, rủi ro của ngân hàng điện tử đến với những chủ hộ gia đình..

<span class='text_page_counter'>(121)</span> 111 - Xây dựng khung pháp lý, chế tài rõ ràng, mạch lạc cho các rủi ro có thể xảy ra khi giao dịch ngân hàng điện tử. ● Một số kiến nghị khác. - Có các chính sách khuyến khích, thúc đẩy các ngân hàng phát triển ngân hàng tự động LiveBank hoạt động 24/7 hỗ trợ các dịch vụ như mở tài khoản tiết kiệm, nhận tiền gửi,….có thể hướng tới hỗ trợ tín dụng nhằm thuận tiện hơn cho các cá nhân kinh doanh các ngành nghề có thời gian đòi hỏi linh động, khó có thể đến các tổ chức tín dụng trong giờ hành chính, đáp ứng nhanh nhu cầu vốn của các hộ gia đình. - Tổ chức các buổi chia sẻ, các chương trình chia sẻ kinh nghiệm giữa những người cùng ngành nghề, khuyến khích hợp tác làm ăn, cùng nhau tiến bộ. Bài học thực tế từ những hộ kinh doanh tại các chợ Thái Lan, họ hợp tác thay vì tranh giành địa bàn, cùng nhau tạo nên một môi trường làm ăn lành mạnh, cạnh tranh tích cực, cùng nhau phát triển. Việc này sẽ giúp nâng cao hiểu biết của các hộ gia đình, rút ngắn khoảng cách về kinh nghiệm, từ đó nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng chính thức. - Hiện nay, việc thanh toán điện tử không dùng tiền mặt tại Việt Nam còn rất hạn chế, lý do chính là những bất tiện trong việc thanh toán khi rất nhiều hàng hóa dịch vụ tại Việt Nam không chấp nhận hình thức thanh toán này, điển hình là những hàng quán, tiệm tạp hóa đường phố, .... Chi phí duy trì hoạt động quá lớn chính là yếu tố khiến các chủ hộ này e ngại việc lắp đặt hệ thống thanh toán thẻ. Nhà nước nên có các chính sách hỗ trợ giảm chi phí, có các khoản ưu đãi đối với các chủ hộ gia đình. Việc thanh toán không dùng tiền mặt được đẩy mạnh sẽ là một bước tiến lớn trong việc minh bạch hóa các khoản thu chi, giúp cho việc kê khai và kiểm soát doanh thu được dễ dàng hơn. Các tổ chức tín dụng cũng có thể tận dụng những nguồn này để việc xét duyệt tín dụng được nhanh chóng và chính xác, tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho các hộ gia đình nói riêng và các chủ thể trong nền kinh tế nói chung.. 4.2.1.2. Khuyến nghị nhằm quản lý và kiểm soát tín dụng đen Ở Việt Nam hiện nay mặc dù đã có các quy phạm pháp luật điều chỉnh lãi suất cho vay như Luật các tổ chức tín dụng, Luật Dân sự 2015, Bộ Luật hình sự 2015…, song vẫn còn có những khoảng trống hoặc chưa thực sự rõ ràng, chưa có sự nhất quán, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đen “lách luật” vận dụng một cách bất lợi lớn đối với nguòi cho vay và gây khó khăn cho cơ quan thanh tra giám sát. Tiếp đến, khi tiến hành xử lý các hoạt động tín dụng đen, khó khăn về mức răn đe và việc áp dụng các chế tài để xử lý tội cho vay nặng lãi hiện nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Theo Điều 468 của Luật Dân sự (2015), lãi suất vay vốn do các bên thỏa thuận; lãi suất theo thỏa thuận.

<span class='text_page_counter'>(122)</span> 112 không được vượt quá 20%/năm, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Như vậy, Luật các Tổ chức tín dụng cho phép thỏa thuận lãi suất, cho nên các tổ chức tín dụng đen đã lập luận rằng được phép áp dụng lãi suất thỏa thuận với nguòi vay tiền theo qui định đó. Tuy nhiên, Điều 201 Bộ luật hình sự (2015) qui định trần lãi suất cho vay trong giao dịch dân sự không được cao hơn 5 lần mức lãi suất cao nhất (được hiểu là trên 100%/năm) theo quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000VND (ba mươi triệu đồng) đến 200.000.000VND (hai trăm triệu đồng) sẽ bị coi là cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự. Việc Bộ luật Hình sự viện dẫn Luật dân sự mà không viện dẫn đến luật chuyên ngành dẫn đến chưa đầy đủ, chưa nhất quán và gây ra khó khăn trong việc xử lý những hành vi cho vay nặng lãi. Trên cơ sở đó, khuyến nghị thứ nhất là rà soát và bổ sung hệ thống các văn bản pháp luật để có thể phát hiện, khỏi tố điều tra và xử lý nghiêm khắc nhất các hành vi cho vay nặng lãi hay tín dụng đen. Cụ thể cần tập trung xác định và làm rõ: (1) quy định và phổ biến những dấu hiệu để nhận biết và định danh hoạt động tín dụng đen bằng cách đưa ra những tiêu chí hay chỉ tiêu cụ thể làm căn cứ phân biệt rõ tín dụng chính thức, tín dụng không chính thức và tín dụng đen thông qua các nội dung giao dịch như lãi suất, quy mô cho vay, cơ sở pháp lý của người cho vay, nội dung hợp đồng vay vốn, bao gồm các điều khoản liên quan đến hoàn trả và xử lý tranh chấp; (2) xác định hay định danh rõ hành vi tổ chức cho vay nặng lãi và các hành vi liên quan là hành vi vi phạm pháp luật; người cho vay hoặc tổ chức cho vay nặng lãi hay tín dụng đen là đối tượng phải xử lý hình sự, không phân biệt theo số tiền cũng như theo các định mức hoặc các tiêu chí khác nhau để tránh sự “lách luật” hay các hình thức tiêu cực khác; (3) xây dựng cơ chế thu thập thông tin, báo cáo về các hành vi cho vay nặng lãi hay tín dụng đen, thông qua các hình thức khuyến khích, bảo vệ người dân phát hiện và tố cáo các hành vi tín dụng đen trực tiếp hay qua số điện thoại hotline, hộp thư tố giác tội phạm, hoặc báo cáo qua các tổ chức chính quyền địa phương, các tổ chức quần chúng…, để kịp thời ngăn chặn, xử lý; (4) xây dựng cơ chế thưởng phạt nghiêm minh cho cán bộ chuyên trách, cảnh sát điều tra và xử lý những hành vi tín dụng đen hay cho vay nặng lãi khi được tiếp nhận thông tin tố giác, báo cáo và giao trách nhiệm xử lý vụ việc về tín dụng đen hay cho vay nặng lãi cho cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm để có cơ sở giám sát việc thực hiện; (5) một cách toàn diện, cần xây dựng các hình thức xử lý đối với người đi vay sau khi đã được tuyên truyền, cảnh báo về tín dụng đen và đặc biệt sau khi đã được phổ biến về cách tiếp cận các nguồn tài chính hỗ trợ khi cần thiết của các chương trình tổ chức tài chính..

<span class='text_page_counter'>(123)</span> 113 Khuyến nghị thứ hai, Chính phủ cần sớm ban hành các quy định làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý đối với các hoạt động tài chính ứng dụng công nghệ mới và có nguy cơ trở thành tín dụng đen ở Việt Nam. Trên thực tế hiện nay có rất nhiều các hình thức tín dụng đen hay cho vay nặng lãi dựa trên sự ứng dụng công nghệ thông tin, hoạt động tài chính trực tuyến và trên điện thoại smartphone. Điển hình như các hoạt động cho vay qua mạng (credit online), cho vay ngang hàng (peer to peer lending - P2P lending) và cho vay bằng cách truy cập vào các ứng dụng trên điện thoại di động hay máy tính nối mạng (Applications - App) và các hình thức khác. Trước những diễn biến này, Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/2/2019 nhằm điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của họ, hụi, biểu, phường, giảm nguy cơ bùng phát và mất kiểm soát của tín dụng đen. Tuy nhiên, đối với hình thức cho vay ngang hàng được tổ chức bởi các công ty công nghệ tài chính (fintech) vẫn chưa có các quy định pháp lý, đặc biệt đa số các hình thức cho vay ngang hàng này tại một số nước cũng như tại Việt Nam hiện nay đã cho thấy thực chất là hoạt động của tín dụng đen với lãi suất rất cao và áp dụng hình thức đòi nợ theo kiểu xã hội đen. Do đó, việc quản lý chặt hơn các hình thức này là điều cần thiết nhằm hạn chế những trường hợp biến tướng chuyển thành hoạt động tín dụng đen mà vẫn mang danh nghĩa là các hình thức công ty công nghệ tài chính (fintech). Quản lý chặt chẽ không có nghĩa là cấm hay cản trở sự phát triển các sản phẩm công nghệ tài chính hiện đại nhưng với những gì đã xảy ra ở các nước mà điển hình là ở Trung Quốc thì các hoạt động này cần phải được quản lý và giám sát trong một hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch với những quy định cụ thể và chế tài xử lý nghiêm minh nhằm hạn chế những hậu quả đối với xã hội và khả năng hát triển thành tín dụng đen hay tín dụng theo kiểu đa cấp. Khuyến nghị thứ ba là Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành một chương trình cho vay (bao gồm các quy định về điều kiện tham gia của các TCTD, các quy định nhằm khuyến phát triển các sản phẩm cho vay) để hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen. Trước hết là việc nghiên cứu và công bố một Chương cho vay đặc biệt nhằm hỗ trợ người dân có nhu cầu đặc biệt nhưng không thể tiếp cận các nguồn vốn thương mại từ hệ thống tài chính chính thức. Mục đích của Chương trình này có thể được xác định cụ thể giống như nhiều chương trình tín dụng phát triển đã được triển khai ở Việt Nam, song phương thức thực hiện thì hoàn toàn khác. Các TCTD, chủ yếu là các NHTM sẽ được đăng ký tham gia khi thỏa mãn các điều kiện nhất định: (1) tự nguyện tham gia và tham gia; (2) xác định và đăng ký quy mô nguồn vốn nhất định (từ vốn chủ sở hữu và không ảnh hưởng đến khả năng chi trả cho khách hàng); (3) cam kết cung cấp các sản phẩm có thể đáp ứng nhu cầu chính đáng của những.

<span class='text_page_counter'>(124)</span> 114 người nghèo và đang trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Kết quả khảo sát điều tra cũng như tiếp xúc với một số NHTM chỉ ra rằng các NHTM và nhiều tổ chức tài chính khác mong muốn và có thể mở rộng cung cấp thêm các sản phẩm cho vay tiêu dùng đặc biệt, góp phần đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ nghèo, nhất là khi phải giải quyết những khó khăn bất khả kháng. Đa số các chuyên gia tài chính và các nhà quản lý được hỏi đề thống nhất rằng việc các TCTD triển khai các sản phẩm cho vay tiêu dùng đặc biệt, hướng tới đối tượng khách hàng đặc biệt này là một trong những giải pháp cơ bản cần được khuyến nghị nhằm hạn chế sự tồn tại và lan rộng của tín dụng đen. Thực tế hiện nay cũng cho thấy, nhu cầu vay tiêu dùng của người dân nói chung là rất lớn trong đó một bộ phận không nhỏ những hộ gia đình có nhu cầu vay vốn là những người có thu nhập thấp, công việc không ổn định, không có tài sản thế chấp nên khả năng tiếp cận với các khoản vay từ các NHTM và các tổ chức tài chính chính thức là điều rất khó khăn. Song bên cạnh đó còn là các quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với hoạt động cho vay tiêu dùng của các TCTD. Qua đó, thấy rằng cần phải bổ sung những quy định mới, đi đôi với hoàn thiện những quy định hiện hành đối với hoạt động cho vay tiêu dùng sao cho có thể chuẩn mực hệ thống cơ sở pháp lý để các TCTD phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng nói chung và cho vay hạn chế, xóa bỏ tín dụng đen nói riêng. Một cách cụ thể hơn, NHNN nên có quy định riêng về việc đánh giá, phân loại hay xếp hạng các TCTD tín dụng khi tham gia và thực hiện Chương trình cho vay hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen. Theo đó, coi các món vay thuộc Chương trình này như những món cho vay “dưới chuẩn” và không đánh giá hay phân loại chất lượng tín dụng theo các chuẩn mực và thông lệ như các món vay thông thường. Trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc hạn chế các hoạt động cho vay nặng lãi, cụ thể là từ Trung quốc, khuyến cáo thứ ba này là rất cần thiết để tạo ra nguồn lực và động lực cho các TCTD Việt Nam sẵn sàng tham gia vào “Chương trình hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen”. Theo đó, các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần thể hiện sự khuyến khích hỗ trợ rõ ràng, cụ thể có thể cho các tổ chức tín dụng tự cân đối, hay cho phép tách cho vay tiêu dùng và cho vay hỗ trợ để loại bỏ tín dụng đen, hạch toán riêng về thu nhập và rủi ro tín dụng v.v… Khuyến nghị thứ tư, Chính phủ cần chỉ đạo sớm các Bộ, Ngành hoàn thiện các quy định và tạo điều kiện cho phép áp dụng nhận diện số, sử dụng chữ ký số và khả năng truy cập những thông tin cơ bản cần thiết để các tổ chức tín dụng có thể phát triển các sản phẩm tài chính gắn với công nghệ mới (fintech). Đồng thời, các cơ quan quản.

<span class='text_page_counter'>(125)</span> 115 lý Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia - điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế số nói chung và tài chính số nói riêng. Khuyến nghị này sẽ cho phép cho các TCTD triển khai thực hiện dịch vụ ngân hàng số để tăng cường tiện ích và giảm thấp chi phí của hoạt động cho vay đối với người ghèo, người gặp hoàn cảnh khó khăn. Được như vậy, các NHTM và các TCTD khác có thể cạnh tranh về với các tổ chức tín dụng đen không chỉ về sự tiện lợi mà còn cả về chi phí hành chính cũng như chi phí về thời gian để thực hiện giải ngân. Người dân khi đã có cơ hội được tiếp cận nguồn vốn của ác TCTD chính thức với lãi suất vừa phải một cách nhanh chóng, kịp thời chắc chắn sẽ không có lý do để tìm đến tín dụng đen. Mặt khác, với các sản phẩm huy động vốn cộng đồng, ví điện tử, v.v..., các NHTM có thể tiến hành các hoạt động cho vay ngang hàng, tận dụng tốt hơn thành quả công nghệ, song vẫn kiểm soát được rủi ro và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của người dân và doanh nghiệp. Khuyến nghị thứ năm, Chính phủ sớm chỉ đạo quyết liệt các cấp chính quyền, các Bộ, Ngành liên quan từ trung ương đến địa phương có trách nhiệm và tích cực hạn chế, ngăn chặ và loại bỏ tín dụng đen. Nếu khuyến nghị này được áp dụng sẽ tạo ra cơ chế phối hợp đồng bộ từ việc giám sát đến việc thực hiện hạn chế, ngăn ngừa và loại bỏ tín dụng đen trên tất cả các lĩnh vực và mọi địa bàn của tất cả các địa phương. Sự tham gia phối hợp đầy đủ của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội và quần chúng như vậy không chỉ tạo ra sức mạnh tổng hợp mạnh mẽ, sâu rộng của toàn bộ nền kinh tế mà còn khơi dậy những giá trị của phong tục truyền thống, tập quán và thói quen về tâm lý xã hội, góp phần giảm thiểu rủi ro cho các TCTD khi tham gia và thực hiện cho vay hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen. Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính là các cơ quan quản lý nhà nước về hệ thống tài chính, liên quan trực tiếp đến nguồn lực về tài chính, ban hành và giám sát thực hiện toàn bộ các quy định về hoạt động của các TCTD chính thức và không chính thức, cần đi đầu trong việc tư vấn chính quyền các địa phương tham gia tích cực vào Chương trình. Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan chuyển tải sự đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật và các quy định liên quan đến việc triển khai tổ chức thực hiện và cập nhật kết quả của tất cả các biện pháp hạn chế tín dụng đen. Chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức quần chúng và hiệp hội nghề nghiệp từ trung ương đến địa phương sẽ trực tiếp tham gia và góp phần quan trọng vào việc bảo đảm sự thành công của các hoạt động ngăn chặn, loại bỏ tín dụng đen..

<span class='text_page_counter'>(126)</span> 116. 4.2.2. Khuyến nghị đối với các tổ chức tín dụng 4.2.1.1. Nhằm tăng khả năng cung cấp tín dụng chính thức cho các hộ kinh doanh cá thể Các TCTD đóng một vai trò to lớn trong việc lưu chuyển dòng vốn trong nền kinh tế. Đây là kênh tín dụng TCTD, đảm bảo và an toàn đối với các hộ gia đình khi có nhu cầu về vốn tín dụng. Muốn nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình - những khoản vay tuy nhỏ nhưng tổng hợp lại chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế, các TCTD cần phải tích cực hành động, đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, hỗ trợ các cơ quan quản lý trong việc tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình tiếp cận tín dụng nguồn vay này. ● Về Tài sản đảm bảo Như đã đề cập ở trên, tài sản đảm bảo là một trong những trở ngại lớn nhất khi các hộ gia đình muốn tiếp cận các nguồn tín dụng TCTD do yêu cầu về giá trị lớn. Đây cũng là một yếu tố khiến cho tín dụng đen phát triển khi không yêu cầu tài sản thế chấp nhưng áp một mức lãi suất quá lớn, tuy nhiên lại là lựa chọn khi các hộ không thể đáp ứng điều kiện đặt ra của TCTD. Một vấn đề cốt lõi khi cần yêu cầu tài sản đảm bảo cho các khoản vay là phòng ngừa rủi ro mất vốn khi bên vay không đủ điều kiện trả nợ. Kiến nghị một số hướng phát triển của TCTD để có thể giảm thiểu phụ thuộc vào tài sản đảm bảo cũng như giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng: - Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng, yêu cầu chặt chẽ về tính xác minh của thông tin của những bộ hồ sơ yêu cầu cấp tín dụng. - Nâng cao khả năng định giá các tài sản vô hình như quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ, các tài sản hình thành trong tương lai từ khoản tín dụng hoặc các tài sản như hàng tồn kho. Việc này sẽ giúp cho các hộ gia đình dễ dàng hơn trong việc đáp ứng các yêu cầu về tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng, từ đó nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng TCTD của các hộ gia đình. - Mở rộng các loại hình tài sản đảm bảo, đặc biệt là tài sản đảm bảo vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bằng sáng chế,....), tài sản đảm bảo phát sinh từ khoản vay trong tương lai đồng thời nâng cao năng lực thẩm định giá trị các loại hình tài sản đảm bảo này. - Yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm với loại tài sản này tại doanh nghiệp mà chi nhánh chỉ định, với yêu cầu thụ hưởng thuộc về ngân hàng. Giới hạn cấp tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo là bất động sản giảm xuống 60% do khả năng thanh khoản trên thị trường trong thời gian tới có thể giảm xuống. Đối với việc cầm cố giấy tờ có giá là các.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> 117 khoản phải thu, giá trị chấp nhận nên mở rộng lên đến 95% do khả năng thanh toán của khách hàng thường cao, và cũng phù hợp hơn so với các chi nhánh của các ngân hàng khác cùng địa bàn. - Phát triển dịch vụ cho vay theo nhóm, trong đó các hộ gia đình có thể thành lập nhóm, cùng giúp nhau đảm bảo giá trị tài sản thế chấp với các khoản vay, đồng thời san sẻ trách nhiệm trả nợ, như một hình thức bảo hiểm theo nhóm nhỏ, vừa có thể có lợi cho Ngân hàng và giúp khả năng tiếp cận tín dụng được tăng lên. ● Về thu nhập Thu nhập là một trong những nguồn tài trợ chính cho việc hoàn trả các khoản tín dụng. Khoảng cách thu nhập là một rào cản đối với nhiều hộ gia đình mong muốn tiếp cận tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh. Để hỗ trợ các chủ hộ giải quyết khó khăn, đồng thời gia tăng khách hàng, đề xuất giải pháp: Các TCTD Việt Nam nên đẩy mạnh các dịch vụ kèm theo khoản tín dụng như tiết kiệm định kỳ phục vụ tài trợ hoàn trả tín dụng. Mỗi tháng, chủ hộ sẽ được tự động tiết kiệm một số tiền nhất định phục vụ cho khoản vay, từ đây giảm áp lực, gánh nặng lãi suất định kỳ cho chủ hộ khi đã có nguồn tài trợ thường xuyên, tăng khả năng tiếp cận tín dụng đối với các hộ gia đình. ● Về khoảng cách địa lý Các TCTD Việt Nam hiện nay tuy đã tiến hành mở rộng, xây dựng các chi nhánh trên đa dạng các địa bàn, tuy nhiên tại một số nơi điều kiện đi lại còn khó khăn, dân cư chưa đông đúc, sự hiện diện này còn thưa thớt, gây trở ngại cho việc tiếp cận tín dụng của các hộ. Ngoài ra, khoảng cách địa lý lớn cũng khiến rủi ro tăng cao do TCTD chưa thể nắm vững chính xác tình hình hoạt động của các hộ gia đình này. Đây là một vấn đề nan giải, cần giải quyết trong lâu dài. - Trước hết, ngân hàng nên cử cán bộ hoạt động tại các địa bàn này khi chưa thể xây dựng chi nhánh. Đem ngân hàng đến cho người dân chứ người dân không cần tự tìm đến ngân hàng. Việc này sẽ giúp các tổ chức tín dụng bám sát địa bàn hoạt động, nắm vững thông tin về các hoạt động sản xuất kinh doanh để có thể thực hiện phê duyệt tín dụng nhanh chóng, chính xác, giảm bớt rủi ro. - Phối hợp cùng các cơ quan chức năng địa phương, nhất là các cơ quan quản lý về thương mại, tài chính, cơ quan thuế để có được thông tin rõ ràng về thu nhập cũng như các điều kiện khác, giúp cho việc tiếp cận tín dụng của các hộ được nhanh chóng và dễ dàng hơn..

<span class='text_page_counter'>(128)</span> 118 - Về lâu dài, mở rộng các chi nhánh hoạt động tại những vùng này, cùng với những kiến nghị về hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước đã nêu phía trên, giúp cho TCTD mở rộng địa bàn hoạt động, nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng cho các hộ gia đình. - Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác quảng bá, quảng cáo về các dịch vụ tín dụng tại các địa bàn này, giúp cho các hộ có cơ hội tiếp cận và hiểu rõ hơn về loại hình dịch vụ này, từ đó tăng khả năng tiếp cận tín dụng TCTD cho các hộ. Đặc biệt là các tổ chức đoàn thể địa phương như: Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ... hoạt động mạnh và có hiệu quả thì người dân sẽ dễ dàng tiếp cận được nguồn thông tin cũng như các hướng dẫn thủ tục về các dịch vụ ngân hàng hơn giúp người dân tiếp cận được với các nguồn vốn đầu tư, gắn kết với các chương trình phát triển kinh tế của địa phương. ● Về thủ tục vay vốn Hiện nay, thủ tục vay vốn tại các TCTD Việt Nam bị đánh giá là còn khá phức tạp, gây khó khăn cho các hộ gia đình trong việc tiếp cận các khoản tín dụng TCTD. Để giải quyết vướng mắc này, các TCTD cần: - Tinh giản thủ tục cấp tín dụng nhằm đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của khách hàng là các hộ kinh doanh. Điểu hình như ngân hàng VPBank đã có dịch vụ có thể cấp tín dụng với thời gian chỉ 2 ngày đối với các khoản vay từ các hộ gia đình nhỏ lẻ. - Quy trình cần được niêm yết rõ ràng tại tất cả các kênh truyền thông của TCTD đồng thời ngắn gọn, dễ nhớ, rõ ràng giúp các chủ hộ có thể dễ dàng nắm bắt và không còn tâm lý e ngại tiếp cận. - Các sai sót trong hồ sơ cấp tín dụng cần được hỗ trợ chỉnh sửa rõ ràng, nhanh gọn, tránh trường hợp phải đi lại và chỉnh sửa nhiều lần. - Đối với thời gian vay vốn, rút ngắn thời gian nhận hồ sơ và thẩm định xuống còn 3 ngày. Trong thời gian đó, nhân viên tiếp nhận sẽ phải thẩm định hồ sơ thu thập được trên CIC, những chỉ tiêu mà khách hàng cung cấp rồi trả lời lại cho khách hàng. Nếu được cấp tín dụng thì giải ngân trong vòng 3 ngày tiếp theo cho đối tượng thụ hưởng chứ không trực tiếp cho đối tượng vay để tránh thất thoát vốn. ● Về kinh nghiệm của các Ngân hàng thương mại Tại Việt Nam hiện nay, hàng loạt các ngân hàng mới, với những sản phẩm “trẻ trung”, đáp ứng kịp thời và nhanh chóng những nhu cầu mới của khách hàng, bắt kịp xu hướng công nghệ thông tin đang thu hẹp lại khoảng cách về kinh nghiệm với những ngân hàng lâu đời có vốn đầu tư lớn của nhà nước. Cả hai nhóm ngân hàng này cần có biện pháp để đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường vốn ngày càng khốc liệt hiện nay..

<span class='text_page_counter'>(129)</span> 119 Về phía các TCTD đã có thâm niên hoạt động cần: - Không ngừng đổi mới, phù hợp với điều kiện thị trường để có thể duy trì lợi thế về kinh nghiệm và uy tín của mình. - Tập trung phát triển các sản phẩm mới, bắt kịp xu hướng công nghệ mới. - Nâng cao chất lượng dịch vụ, đổi mới đội ngũ cán bộ nhằm trẻ hóa bộ máy điều hành ngân hàng, linh hoạt trước các thay đổi của thị trường. Ngoài ra, những cán bộ tín dụng làm việc trực tiếp với khách hàng cần được đổi mới về cách làm việc, tránh quan liêu, xử lý tình huống một cách linh hoạt hơn. - Đưa ra các ưu đãi về dịch vụ đặc biệt là các dịch vụ tín dụng như ưu đãi về lãi suất, thời gian xử lý thủ tục và giải ngân,... - Đẩy mạnh các hình thức truyền thông trên đa dạng các kênh thông tin truyền thống và phi truyền thống. Ngoài ra hệ thống TCTD Việt Nam cần có nhiều hơn những trao đổi, chia sẻ thông tin để góp phần tạo nên một hệ thống đồng bộ và lớn mạnh hơn, từ đó gia tăng khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ. ● Về Dịch vụ ngân hàng điện tử Các TCTD là nhân tố chính giúp thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ ngân hàng điện tử. Các TCTD cần nỗ lực nhiều hơn nữa để hoàn thiện, nâng cao, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ thực hiện trên hệ thống Ngân hàng điện tử đồng thời thu hút khách hàng sử dụng vụ thông qua các hoạt động: - Đẩy mạnh truyền thông về dịch vụ Ngân hàng điện tử qua các kênh. o Truyền thống: Báo đài, TV, các chương trình của đài truyền hình o Phi truyền thống: Biển hiệu, quảng cáo, truyền thông thông qua các kênh trực tuyến, mạng xã hội,.... o Thông qua các tổ chức đoàn, đội, hội tại địa phương, các nhóm ngành nghề của các chủ hộ gia đình. o Thông tin truyền đạt cần dễ hiểu, dễ nắm bắt, có nhân viên trực tiếp giải thích cặn kẽ, rõ ràng quy trình thực hiện việc sử dụng dịch vụ tín dụng, nêu rõ những mặt tích cực của việc sử dụng các ứng dụng ngân hàng điện tử từ đó tăng sự tin tưởng ở khách hàng, tăng khả năng tiếp cận tín dụng của các chủ hộ thông qua kênh này. - Tập trung phát triển sản phẩm, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ. Dịch vụ ngân hàng điện tử hiện nay đang chủ yếu phục vụ mục đích thanh toán và tiết kiệm, cần mở.

<span class='text_page_counter'>(130)</span> 120 rộng dịch vụ cấp tín dụng. Việc xét duyệt hồ sơ có thể số hóa nhằm giảm bớt chi phí, công sức đi lại, linh hoạt thời gian cho các chủ hộ gia đình. - Đẩy mạnh hoạt động thanh toán điện tử, có các hỗ trợ, ưu đãi đối với những khách hàng, chủ hộ sử dụng dịch vụ này như chiết khấu. Khi khách hàng đã tin tưởng và thường xuyên sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử, đây cũng sẽ trở thành kênh truyền thông hữu hiệu các dịch vụ tín dụng, nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ. - Nâng cao tính bảo mật, an toàn cho khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, giải quyết nhanh chóng, chặt chẽ những trường hợp phát sinh, tạo niềm tin cho khách hàng từ đó dễ dàng triển khai các dịch vụ cấp tín dụng qua kênh này. - Phát triển dịch vụ thẩm định các khoản vay thông qua các công cụ dịch vụ điện tử: Zalo, Facebook,... - Một ví dụ như ngân hàng VPBank đã đi tiên phong trong dịch vụ thẩm định khoản tín dụng qua Zalo “Vay nhanh VP trên Zalo”. Đồng thời, TCTD cũng cần có các phương pháp nhằm hạn chế rủi ro sai lệch, làm giả thông tin qua những dịch vụ này. - Phát triển dịch vụ giao dịch sử dụng chữ ký điện tử giúp các giao dịch được thực hiện nhanh chóng và dễ dàng hơn. ● Một số đề xuất khác - Nâng cao chất lượng sản phẩm: nâng cao quy trình công nghệ cung ứng sản phẩm cho khách hàng, cải tiến quy trình cấp tín dụng đối với từng sản phẩm, tạo thuận lợi cho việc vay vốn của khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng quy định của ngân hàng. - Nâng cao chất lượng phục vụ của đội ngũ nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng thông qua việc cải tiến tác phong làm việc, nâng cao kỹ năng giao tiếp, chăm sóc khách hàng. Công tác tiếp thị đến khách hàng cần hướng đến xu hướng hiện tại như tiếp thị qua mạng xã hội, thực hiện các hoạt động tri ân theo xu hướng của giới trẻ như tặng hoa nhân dịp sinh nhất thay vì chỉ gửi lời chúc đến khách hàng thông qua tin nhắn… - Về chính sách đối với tài sản có vấn đề: Các khoản cho vay có vấn đề là các khoản nợ như nợ cơ cấu, nợ khó đòi, nợ quá hạn, nợ xấu và các khoản cho vay có dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro. Chính sách này sẽ quy định về cách thức, biện pháp phối hợp xử lý và trách nhiệm giải quyết nợ có vấn đề, chính sách này cần được xây dựng đối với từng ngành nghề, từng nhóm khách hàng. Cụ thể đối với chính sách này, chi nhánh nên áp toàn bộ các chỉ tiêu đối với nhân viên: nhân viên nào cấp tín dụng thì sẽ phải thực hiện các nghĩa vụ đối với ngân hàng trong việc xử lý các khoản phải đòi, đồng.

<span class='text_page_counter'>(131)</span> 121 thời lương và thưởng sẽ gắn chặt vào đó. Nếu không thực hiện được sẽ cắt giảm lương và thưởng trong những tháng tiếp theo, đồng thời có chế độ thông báo rộng rãi trong hệ thống. Các khoản nợ đã lâu thì chủ động xử lý dứt điểm các khoản nợ này thông qua mua bán nợ với các công ty quản lý tài sản (AMC) thuộc các ngân hàng thương mại và của nhà nước (VAMC); hoặc tiến hành thương thảo với khách hàng bán cho các doanh nghiệp hoặc người dân để thu hồi vốn trong ngân hàng. Việc này giúp cho ngân hàng giảm bớt rủi ro, tăng hiệu quả hoạt động, từ đó nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình.. 4.2.2.2. Khuyến nghị nhằm góp phần giải quyết vấn nạn tín dụng đen Các tổ chức tín dụng tại Việt Nam bao gồm các NHTM, các công ty tài chính (CTTC), các quỹ tín dụng (QTD), các tổ chức tài chính vi mô và gần đây xuất hiện các công ty cho vay ngang hàng. Mặc dù, số lượng và quy mô hoạt động của các TCTD ngày càng gia tăng nhưng có thể nói rằng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn cho nền kinh tế - xã hội, đặc biệt là của các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và những người nghèo. Theo Engel và McCoy (2001b), Schmulow (2016b), Calomiris và Rajaraman (1998) chừng nào sự phát triển của hệ thống tài chính chính thức chưa phát triển đủ để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế - xã hội thì sự phát triển của hệ thống tài chính không chính thức (trong đó có hội, họ, hụi, phường và tín dụng đen) như một tất yếu. Tại Việt Nam với mức độ phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam nói chung và thực trạng hoạt động của các TCTD nói riêng như hiện nay, một bộ phận không nhỏ các hộ gia đình có nhu cầu nhu cầu vay vốn chính đáng chưa có cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức. Kết hợp với những bất cập về sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và những hạn chế khác về thói quen và khoảng trống trong quản lý, tín dụng nặng đen đã có cơ hội để tồn tại và phát triển. Rất nhiều hình thức cho vay tiêu dùng đã được các TCTD cung cấp, song để tiếp cận các sản phẩm cho vay sẵn có này không phải là điều dễ dàng đối với nhiều hộ gia đình. Một mặt, các TCTD luôn có nguy cơ phải chịu đựng tổn thất của rủi ro tín dụng do có sự hỗ trợ của chính quyền và các tổ chức đoàn thể, quần chúng tại các địa phương. Song mặt khác, các TCTD còn phải tuân thủ những quy định và sự kiểm soát chặt chẽ của NHNN cũng như của các cơ quan quản lý nhà nước và pháp luật khác về đối tượng và điều kiện cho vay, về 0quy trình thủ tục cho vay... Do vậy, tâm lý “an phận” và sự tuân thủ một cách thụ động các quy định đã duy trì một “khoảng cách” không thể vượt qua để khách hàng là các hộ gia đình dù gặp khó khăn hay có nhu cầu cấp bách về tài chính, cũng không thể đến với các TCTD. Kết quả là các hộ gia đình khi có nhu cầu vay vốn là chính đáng và cấp thiết phải tìm đến tín dụng đen..

<span class='text_page_counter'>(132)</span> 122 Như vậy, tiếp cận ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen từ giác độ thị trường - nguồn cung vốn hay từ các TCTD cho thấy trên cơ sở sự cho phép của hệ thống pháp luật được bổ sung hoàn thiện, các TCTD cần chủ động và tích cực phát triển các sản phẩm cho vay, áp dụng các phương thức cho vay và thu nợ sao cho có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay vốn chính đáng của khách hàng, dù đó là các doanh nghiệp siêu nhỏ hay những người nghèo khó nhất với lãi suất vừa phải, thủ tục tiện lợi nhất và không đòi nợ bằng các biện pháp bạo lực. Trong điều kiện như vậy, hoạt động tín dụng đen cho dù có không cấm cũng không có cơ hội tồn tại, ít nhất là không thể “cạnh tranh” với các TCTD chính thức. Để làm được điều đó, các TCTD cần phải: - Xây dựng quyết tâm và chuẩn bị nguồn lực tài chính tham phát triển hoạt động tín dụng để ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen, có thể gọi là “chương trình cho vay để hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen”. Rõ ràng việc phát triển hoạt động cho vay để loại loại bỏ tín dụng đen là một thách thức lớn đối với các TCTD, cả về nguy cơ rủi ro, áp lực đối với hiệu quả kinh doanh hay lợi nhuận. Dù được sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước và dù được bổ sung đầy đủ cơ sở pháp lý để tham gia Chương trình thì mức độ rủi ro và chi phí tài chính của các món cho vay loại này là rất lớn so với cho vay thương mại thông thường nếu như không có những cố gắng đặc biệt. Nếu TCTD định hướng triển khai cho vay với lãi suất cao để dự phòng rủi ro và trang trải chi phí hành chính cao thì sẽ không có tác dụng ngăn chặn, hạn chế và loại bỏ tín dụng đen, thậm chí sẽ có tác động ngược lại và sẽ bị lên án. Trong khi nếu cho vay với mức lãi suất thông thường và quá trình giải ngân quá giản tiện để phù hợp với đối tượng vay vốn đặc biệt thì nguy cơ rủi ro mất vốncungx như giảm hiệu quả kinh doanh và uy tín là rất rõ ràng. Do vậy, để tham gia phát triển các hoạt động cho vay chống tín dụng đen, lãnh đạo các TCTD cần xây dựng quyết tâm cao thể hiện trách hiệm và ý thức vì sự phát triển cộng đồng, gắn hoạt động và sự phát triển của TCTD với sự phát triển bền vững của nền kinh tế và tiến bộ xã hội, sẵn sàng chia sẻ khó khăn, đồng cảm với người nghèo và tự nguyện dành nguồn lực tài chính để chung tay ngăn chặn, hạn chế và loại bỏ vấn nạn tín dụng đen. Ngoài quyết tâm mạnh mẽ được coi như điều kiện tiên quyết để vượt qua thách thức, sự chuẩn bị về nguồn lực mới là điều kiện có ý nghĩa để các TCTD có thể tham gia và thực hiện Chương trình cho vay đặc biệt này. Các TCTD nói chung và các NHTM nói riêng hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa trên uy tín và khả năng huy động vốn từ nền kinh tế. Nếu các hoạt động sử dụng vốn không hiệu quả, TCTD không hoàn thành nghĩa vụ chi trả cho khách hàng, không thể giữ uy tín và không thể huy động vốn. Do vậy, để đảm bảo ý nghĩa của sự tham gia vào Chương trình, các TCTD cần có nguồn lực dành riêng. không chỉ đủ lớn về quy mô mà còn không nhr hưởng đến các hoạt động.

<span class='text_page_counter'>(133)</span> 123 kinh doanh bình thường, đặc biệt là khả năng thanh toán hay thanh khoản. Khuyến nghị cụ thể cho vấn đề này là một tỷ lệ nhất định (15-20%) vốn chủ sở hữu của TCTD, được tích lũy từ lợi nhuận để lại; - Lựa chọn cán bộ và tiến hành tổ chức các lớp tập huấn để xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực riêng vận hành các sản phẩm cho vay thuộc Chương trình tín dụng đặc biệt này. Yêu cầu đối với cán bộ tín dụng tham gia Chương trình cho vay hạn chế tín dụng đen không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải thực sự am hiểu về những đặc điểm về nhu cầu và tâm lý khách hàng để có thể tư vấn một cách đầy đủ, chính xác và hiệu quả nhất. Ngoài ra, cán bộ tín dụng còn phải là những “cầu nối” sao cho các TCTD có thể tiếp cận và đáp ứng tốt nhất nhu cầu về tài chính, rất đa dạng của khách hàng; - Các TCTD cần xác định rõ khách hàng mục tiêu của Chương trình: (1) những hộ hoặc đại diện hộ gia đình có nhu cầu tài chính chính đáng cho các mục đích tiêu dùng nói chung và các mục đích cụ thể như khám, chữa bệnh, tổ chức tang lễ, đám cưới, v.v...; (2) các hộ sản xuất, khởi nghiệp. Đây là những đối tượng không thể đáp ứng các điều kiện vay vốn thông thường theo quy định của NHNN cũng như của các TCTD; - Các TCTD cần xây dựng cơ chế phối hợp với chính quyền, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức quần chúng và các tổ chức nghề nghiệp tại các địa phương để tổ chức khảo sát, nghiên cứu nhu cầu tín dụng của hộ gia đình tại các khu vực trên địa bàn hoạt động của mỗi TCTD để lựa chọn phát triển các sản phẩm cho vay phù hợp (cả về quy mô, thời hạn cho vay, phương thức giải ngân và thu nợ). Sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức quần chúng và tổ chức nghề nghiệp tại các địa phương còn để tiến hành các nội dung thẩm định tín dụng (đánh giá và xác nhận nhu cầu và mục đích sử dụng vốn của khách hàng tiềm năng, truy cập cơ sở dữ liệu để phân loại khách hàng và đánh giá mức độ rủi ro), dự kiến các điều kiện để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng để hình thành “hạn mức tín dụng treo” - thực chất là hạn mức dự kiến để sẵn sàng cho vay khi khách hàng phát sinh nhu cầu vay vốn. Trên cơ sở thiết lập sẵn hạn mức ín dụng cho các đối tượng khách hàng khác nhau, TCTD sẽ chuẩn bị nguồn vốn, lựa chọn sản phẩm, xác định lãi suất, xác định các phương án cho vay, quản trị tiền cho vay và thu nợ phù hợp nhất với các đối từng tượng khách hàng. Với sự sẵn sàng về hạn mức cho vay đối với từng cá nhân, hộ gia đình và các đối tượng khách hàng dự kiến, khi khách hàng phát sinh nhu cầu và cần được giải ngân vốn vay có thể chỉ cần hập một “dòng lệnh”, “nhấp chuột” hay “truy cập vào application” thì nhu cầu vay vốn của khách hàng đã được TCTD đáp ứng - thực sự là đơn giản và tiện lợi không khác gì khi khách hàng đến với các công ty cho vay ngang hàng P2P. Với sự phát triển của công nghệ tài chính, các phần mềm hiện đại và được trang bị khả năng kết nối, mỗi khi khách.

<span class='text_page_counter'>(134)</span> 124 hàng được giải ngân thì thông báo cũng được gửi đến tất cả các chủ thể liên quan như chính quyền và các tổ chức đoàn thể, quần chúng ở địa phương để cùng tham gia giám sát cũng như tạo điều kiện hỗ trợ khách hàng trong quá trình sử dụng vốn và hoàn trả nợ; - Các TCTD tổ chức nghiên cứu thiết kế các sản phẩm tín dụng phù hợp với Chương trình cho vay hạn chế tín dụng đen, đặc biệt là các sản phẩm công nghệ tài chính, sao cho có thể thỏa mãn nhu cầu tài chính chính đáng của các đối tượng khách hàng mục tiêu nêu trên. Một mặt, hãy coi những sản phẩm này là những sản phẩm cho vay đặc biệt, những sản phẩm tín dụng “dưới chuẩn” tương tự như các sản phẩm cho vay thấu chi hay cho vay “quá ngạch” được áp dụng khi khách hàng ở vào tình trạng đặc biệt hoặc các sản phẩm cho vay theo các chương trình tín dụng chính sách, ho vay xóa đói giảm nghèo của các tổ chức tài chính vi mô (microfinance). Song song với phương thức cho vay truyền thống, các TCTD nên triển khai “thí điểm” các sản phẩm cho vay ngang hàng hay tiến hành cung cấp dịch vụ như một tổ chức cho vay ngang hàng P2P (bởi lẽ các TCTD, đặc biệt là các NHTM khi được cho phép sẽ luôn có ưu thế và sẽ thực hiện dịch vụ cho và ngang hàng sẽ tốt hơn các công ty cho vay ngang hàng P2P) để trở thành một “fintech cũng như tạo ra một “flatform” giống như các công ty cho vay ngang hàng. Các cá nhân, doanh nghiệp, kể cả những người nghèo và khó khăn nhất có thể dễ dàng tiếp cận và vay được vốn mà không cần phải tìm đến các tổ chức tín dụng đen. Để giảm thiểu rủi ro, các tổ chức tài chính có thể nghiên cứu và phối hợp với các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức quần chúng và nghề nghiệp ở địa phương để thiết kế những sản phẩm cho vay theo tổ hoặc nhóm, giống như mô hình cho vay của tổ chức tài chính vi mô ở Ấn Độ hay Ngân hàng Grameen bank ở Bangladesh và các nước thực hiện cho vay xóa đói giảm nghèo khác trong khu vực và trên thế giới (Lê Thanh Tâm, 2013, Ledgerwood, 1998). - Nghiên cứu và xác định mức lãi suất phù hợp với đối tượng khách hàng mục tiêu, là hộ sản xuất đang trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Các tổ chức tín dụng có thể tham khảo phương pháp xác định lãi suất bền vững của tổ chức tài chính vi mô dựa trên các chi phí hành chính, chi phí dự phòng mất vốn, v.v… nhưng phải dựa trên cơ sở lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại (ví dụ: tổng chi phí tài chính, bao gồm cả lãi và phí, không vượt quá mức 20% năm). Mặc dù quan điểm của Tổ chức hỗ trợ cho những người ngheo nhất thuộc Ngân hàng thế giới cho rằng lãi suất cho vay của các tổ chức tài chính vi mô (microfinance) có thể cao hơn lãi suất cho vay thương mại, thậm chí còn là động lực để những người vay vốn vượt qua nghèo đói (Lê Thanh Tâm, 2015). Song luận án cho rằng lãi suất của sản phẩm cho vay thuộc Chương trình cho vay hạn chế tín dụng đen chỉ trong khoảng 20-22% năm. Ngoài ra, Chương trình cho vay hạn.

<span class='text_page_counter'>(135)</span> 125 chế tín dụng đen cần phải chứng tỏ sự ưu việt và đảm bảo mục tiêu uối cùng là hạn chế và loại bỏ được tín dụng đen. Theo đó, Chương trình cho vay này sẽ thu hút được sự quan tâm ủng hộ của xã hội và trở thành nguồn động lực tốt đối với những người nghèo có tiềm năng và trách nhiệm. Kết quả khảo sát được trình bày trong phần Phụ lục cũng cho thấy đa số ý kiến thu thập với mức lãi suất cho vay vừa phải và phù hợp (20-22% năm) mới có thể đáp ứng điều kiện kinh doanh nhỏ lẻ và những hoàn cảnh khó khăn. Nếu các TCTD áp dụng phương pháp xác định lãi suất theo những quy tắc về bù đắp rủi ro và lợi ích cũng như đưa thêm các chi phí dự phòng như cho vay thông thường sẽ ra một mức lãi suất cho vay khá cao và đây sẽ là nguyên nhân làm cho khách hàng người nghèo không thể tiếp cận hoặc nếu cố gắng vay được thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc trả nợ. Vấn đề là để cạnh tranh nhằm ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen thì ngoài các sản phẩm cho vay phù hợp, thủ tục đơn giản, tiện lợi thì mức lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng cũng là một vấn đề mang tính quyết định.. 4.2.3. Khuyến nghị đối với hộ gia đình có nhu cầu vay vốn Các hộ gia đình có nhu cầu vay vốn là các chủ thể được hướng tới và là người được hưởng lợi trong “Chương trình cho vay hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen”. Tuy nhiên, các khuyến nghị với các chủ thể này chỉ bao gồm 2 nhóm: (1) nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm để tránh xa và không mắc phải những “cạm bẫy” tín dụng đen; và, (2) hợp tác chặt chẽ với các TCTD và chính quyền, đoàn thể tại địa phương để được phục vụ một cách tốt nhất. Với nhóm thứ nhất, khách hàng của tín dụng đen thường là những người có thu nhập thấp, thiếu thông tin về các kênh cho vay tiêu dùng chính thức của các TCTD cũng như hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý tài chính cá nhân. Mặt khác, mất cảnh giác hoặc thói quen ưa thích sự tiện lợi và không muốn tìm hiểu để biết đầy đủ về bản chất cho vay theo kiểu “bóc lột” hay “trấn lột” của các tổ chức tín dụng đen. Do đó, việc trang bị kiến thức nâng cao khả năng về hoạt động tài chính và pháp luật nói chung, kiến thức về tài chính cá nhân là điều cần thiết để hạn chế và loại bỏ tín dụng đen. Các khuyến nghị về vấn đề này bao gồm: - Tự tăng cường trau dồi nhận thức về tín dụng đen và các hoạt động của các tổ chức cung cấp tín dụng đen: các dấu hiệu nhận biết, đặc biệt những thủ đoạn tinh vi, phức tạp và những hậu quả có thể xảy ra khi vay tiền từ các tổ chức tín dụng đen, v.v..., bằng cách cung cấp thông tin về các vụ việc điển hình ở các địa phương trên cả nước. Người dân cần chủ động và tích cực tham gia các hình thức phổ cập kiến thức có thể thông các buổi sinh hoạt tập trung (dưới dạng câu chuyện cảnh giác, nói chuyện thời sự,.

<span class='text_page_counter'>(136)</span> 126 báo cáo chuyên đề, v.v...) hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (đài phát thanh, truyền hình, báo chí tại địa phương, hoặc thông qua các tổ công tác được tổ chức bởi các cơ quan chức năng và các tổ chức đoàn thể tại địa phương). Người nghèo và người dân nói chung cần quan tâm đầy đủ các khuyến cáo của các cơ quan công an, Ngân hàng Nhà nước, Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công thương) cũng như những cảnh báo của chính quyền, các tổ chức đoàn thể và các tổ chức nghề nghiệp tại địa phương; - Tăng cường học hỏi để nâng cao kiến thức tài chính cá nhân để có thể lập kế hoạch tài chính (thu nhập, chi tiêu và dự trữ) cả trong ngắn hạn và dài hạn để chủ động ngăn ngừa và hạn chế nguy cơ mất khả năng thanh toán khi những rủi ro xảy ra, nhằm giảm thiểu việc buộc phải chấp nhận các khoản “vay nóng”. Ngày nay, với sự phát triển và hỗ trợ của công nghệ thông tin, mọi cá nhân có thể tiếp cận một cách khá dễ dàng với các kiến thức và kỹ năng về tài chính và quản lý tài chính cá nhân, từ các bài giảng hay những tư vấn trực tuyến online của các chuyên gia và tổ chức tín dụng; - Khi có nhu cầu chính đáng về tài chính để giải quyết những khó khăn cấp bách hay yêu cầu của cuộc sống và sản xuất, hãy chia sẻ chân thành và cởi mở với mọi người và các tổ chức đoàn thể tại địa phương để được hỗ trợ và giúp đỡ. Cố gắng tranh thủ sự hiểu biết của những người xung quanh để tìm kiếm mọi cơ hội, tuyệt đối cảnh giác với những loại hình cho vay không rõ nguồn gốc và quảng cáo hấp dẫn nhưng thực chất là những “cạm bẫy”; - Tăng cường tìm hiểu về chính sách tín dụng và các sản phẩm cho vay của các tổ chức tín dụng chính thức tại địa phương như các chi nhánh của ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân; - Ngoài kiến thức và sự hiểu biết về tài chính cá nhân, những người có nhu cầu vay vốn cần tự trang bị cho mình kiến thức về pháp luật khi tham gia vào các mối quan hệ tín dụng từ các cá nhân và tổ chức khác nhau. Khi phải thực hiện các giai dịch và ký các hợp đồng tín dụng, người đi vay phải cân nhắc thật kỹ và cần tìm hiểu rõ các thông tin cần thiết, thậm chí cần đến sự tư vấn về chuyên môn, đặc biệt các điều khoản hợp đồng cũng như các nghĩa vụ phải cam kết thực hiện nhằm tránh những rủi ro bất lợi mà bên đi vay có thể gặp phải ; Khuyến nghị về sự hợp tác của các hộ gia đình có nhu cầu vay vốn với các tổ chức tín dụng để được phục vụ bao gồm: Cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin cần thiết về cá nhân và gia đình để.

<span class='text_page_counter'>(137)</span> 127 các tổ chức tín dụng có thể tiến hành nhận dạng hay định danh và thực hiện quy trình thẩm định cũng như xử lý các vấn đề liên quan đến việc phán quyết cho vay và giải ngân một cách thuận lợi nhất; Tích cực, chủ động tham gia các hoạt động của tổ hay nhóm vay vốn và tự giác chấp hành các quy định khi tham gia “chương trình cho vay để ngăn ngừa và loại bỏ tín dụng đen” của Nhà nước. Tự giác tìm hiểu và tham gia đầy đủ các buổi tập huấn sử dụng phần mềm vay vốn, để đảm bảo thao tác chính xác và được đáp ứng giải ngân một cách kịp thời và hiệu quả nhất; Hợp tác chặt chẽ với các tổ chức tín dụng về thực hiện các cam kết vay vốn, sử dụng vốn vay đúng mục đích, chủ động và tự giác chấp hành trả nợ đúng thời hạn; Hợp tác chặt chẽ với chính quyền và các tổ chức đòa thể trong toàn bộ quá trình xác định nhu cầu và xây dựng hạn mức vay vốn, quá trình sử dụng và hoàn trả vốn vay từ các tổ chức tín dụng. Kịp thời phát hiện và báo cáo với chính quyền địa phương cũng như các tổ chức đoàn thể về những nguy cơ rủi ro tín dụng và những phát hiện vi phạm các cam kết vay vốn với địa phương và các tổ chức tín dụng.. 4.2.4. Khuyến nghị đối với chính quyền và các tổ chức đoàn thể tại địa phương Vai trò của chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể bao gồm các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức quần chúng, các tổ chức nghề nghiệp, v.v…, là rất quan trọng đối với việc hạn chế và loại bỏ tín dụng đen. Kinh nghiệm được tổng kết từ nhiều chương trình quốc gia (Báo cáo Tổng kết Chương trình 135, 2019) đã cho thấy mức độ tham gia của chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở các địa phương là đóng vai trò hiện thực hóa và nâng cao hiệu quả thực thi các giải pháp nhằm đảm bảo mục tiêu thực hiện các chương trình và chương trình hạn chế và loại bỏ tín dụng đen không phải là một ngoại lệ. Trước hết, chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể và các tổ chức nghề nghiệp ở địa phương cần xác định vai trò rất quan trọng vào việc triển khai thực hiện Chương trình cho vay hạn chế, ngăn ngừa và loại bỏ tín dụng đen của các TCTD. Hơn bất cứ chủ thể nào khác, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương có đầy đủ thông tin và hiểu rõ ràng nhất về điều kiện, hoàn cảnh và nhu cầu của những người dân sinh sống và làm việc tại địa phương. Do vậy, nếu xây dựng được cơ chế phối hợp tốt với chính quyền và các tổ chức đoàn thể tại địa phương, các tổ chức tín dụng sẽ tiếp cận được thông tin khách hàng tiềm năng một cách đầy đủ nhất, tạo điều kiện cho các bước thẩm định tín dụng khách hàng đạt được hiệu quả. Sau khi được giải ngân, việc sử dụng vốn đúng mục.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> 128 đích cũng như đảm bảo cuộc sống, lao động sản xuất là những điều kiện quan trọng cho việc hoàn trả vốn vay đúng hạn cũng được thực hiện giám sát và đôn đốc một cách tốt nhất bởi chính quyền và các tổ chức đoàn thể địa phương. Ngay đối với các khách hàng có khả năng nhưng không muốn trả nợ thì chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương vẫn có thể có những biện pháp tuyên truyền, động viên, giác ngộ… hiệu quả hơn các biện pháp của các tổ chức tín dụng và pháp lý khác. Thông qua sự tiếp xúc thường xuyên, sự hiểu biết và đồng cảm, thông qua các tác động về “tâm lý làng xã”, khơi dậy truyền thống gia đình, các tấm gương của địa phương… để người vay vốn tự giác thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tóm lại, Chính quyền và các tổ chức đoàn thể là “cầu nối” quan trọng giữa các tổ chức tín dụng và người dân trên địa bàn, góp phần quan trọng vào xóa bỏ tín dụng đen. Sự phối hợp và hỗ trợ của chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương không chỉ tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng triển khai các hoạt động cho vay mà còn góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng giám sát việc thực hiện món vay và thu hồi nợ một cách hiệu quả nhất. Mặt khác, chính quyền và các tổ chức đoàn thể địa phương cũng có đầy đủ thông tin về hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức đơn vị kinh tế hoạt động trên địa bàn, bao gồm cả các hoạt động cho vay nặng lãi, tín dụng đen, hụi, họ… Do vậy, sự phối kết hợp giữa các cấp chính quyền nhà nước và các lực lượng chức năng với chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát hiện, đấu tranh và xóa bỏ các hoạt động tín dụng đen, hụi, họ cũng như các tệ nạn xã hội khác. Để hiện thực hóa được những vai trò quan trọng được phân tích trên đây, các khuyến cáo đối với chính quyền và các tổ chức đoàn thể địa phương bao gồm như sau: Chính quyền, cấp ủy Đảng, các tổ chức đoàn thể và các tổ chức nghề nghiệp tại các địa phương hoàn thiện hệ thống thông tin dữ liệu về địa bàn quản lý và hoạt động, bao gồm sự đầy đủ về thông tin, tính cập nhật và chính xác để phối hợp với các tổ chức tín dụng, thực hiện đánh giá nhu cầu tài chính của các cá nhân và gia đình sinh sống và lao động sản xuất tại địa phương; Hỗ trợ các TCTD xác định và xác minh các thông tin cần thiết về nhân thân, tình hình lao động, sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của mỗi hộ gia đình giúp cho TCTD có thể hận biết hay định danh chính xác khách hàng mục tiêu, trên cơ sở đó có thể áp dụng các công nghệ mới nhằm đơn giản hóa quy trình và thủ tục vay vốn, tiết kiệm chi phí hời gian cũng như chi phí hành chính của mỗi món vay, góp phần làm giảm lãi suất cho vay; Tư vấn và hỗ trợ các TCTD xác định hạn mức cho vay đối với các hộ gia đình.

<span class='text_page_counter'>(139)</span> 129 trên địa bàn có nhu cầu vay vốn, tư vấn các sản phẩm cho vay phù hợp cả về quy mô, thời hạn và lãi suất cho vay; Chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể và các tổ chức nghề nghiệp thực hiện các hoạt động hỗ trợ các TCTD xây dựng và thẩm định các tổ hay nhóm vay vốn, xây dựng các nguyên tắc vay vốn, trả nợ và sinh hoạt của tổ hay nhóm vay vốn, tạo điều kiện cho các TCTD có thể áp dụng phương thức cho vay theo tổ hay nhóm giống như các tổ chức tài chính vi mô (microfinance) hay Quỹ Tình thương (TYM) của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Chính quyền các cấp và các tổ chức ở địa phương cần tích cực và chủ động trong việc hỗ trợ và phối hợp với các TCTD thực hiện giám sát sử dụng tiền vay đúng mục đích, có hiệu quả đảm bảo thời hạn và các phương thức trả nợ của người dân. Phương thức giám sát tốt nhất là thông qua sự hỗ trợ các dịch vụ công của chính quyền các cấp và sự hỗ trợ về chuyên môn của các tổ chức đoàn thể, các hiệp hội nghề nghiệp theo phạm vi quyền hạn của địa phương. Sự quan tâm, trao đổi kinh nghiệm trong đời sống, sản xuất kinh doanh..., cũng là những biện pháp tốt để thực hiện thông tin báo cáo về toàn bộ tình hình sức khỏe, đời sống, lao động sản xuất và thu nhập của người dân để kịp thời phát hiện và thông báo cho các TCTD triển khai các biện pháp hỗ trợ, kịp thời ngăn ngừa và hạn chế những nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, có thể ảnh hưởng tới khả năng hoàn trả vốn vay đúng hạn của khách hàng; Thực hiện hỗ trợ và động viên người dân hoàn trả nợ vay đúng hạn. Mỗi khi phát hiện trường hợp người dân gặp rủi ro hoặc khó khăn trong việc trả nợ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể tìm hiểu nguyên nhân và áp dụng các biện pháp hỗ trợ phù hợp. Trường hợp người dân có khả năng nhưng không muốn trả nợ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể có thể động viên, giáo dục tinh thần tự giác và trách nhiệm trong hoàn trả vốn vay. Việc động viên, giáo dục có thể thực hiện trực tiếp hoặc thông qua các thành viên gia đình, dòng họ…; Chủ động tích cực trong việc chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm ngăn ngừa, hạn chế, xử lý tín dụng đen thông qua: (1) tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân không tham gia hoạt động tín dụng đen, thông tin báo cáo kịp thời khi phát hiện về hoạt động tín dụng đen; (2) thu thập và cập nhật thông tin về các hoạt động tín dụng trên địa bàn, đặc biệt chú trọng các hoạt động tín dụng đen nếu có; (3) tổ chức các lực lượng chức năng trên địa bàn và phối hợp với các lực lượng chức năng của các địa phương khác để sẵn sang điều tra, đấu tranh và xử lý lý các hoạt động tín dụng tại địa phương nếu có;.

<span class='text_page_counter'>(140)</span> 130. 4.2.5. Khuyến nghị đối với các cơ quan an ninh, truyền thông và tổ chức hỗ trợ về kỹ thuật và công nghệ Ngoài những khuyến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và các địa phương, với TCTD, với hộ gia đình có nhu cầu vay vốn và các tổ chức đoàn thể, quần chúng tại các địa phương, để hạn chế, ngăn ngừa và loại bỏ tín dụng đen một cách hiệu quả, một số khuyến nghị đối với cơ quan an ninh, thông tin và truyền thông cũng như với các doanh nghiệp, tổ chức phát triển về kỹ thuật và công nghệ thông tin tài chính là hết sức cần thiết. Cụ thể như sau: Trước hết, Bộ công an là nơi lưu giữ hệ thống dữ liệu rất lớn, bao gồm những thông tin cơ bản và quan trọng của toàn bộ người dân, nếu được sự phối hợp, trợ giúp chia sẻ những cơ sở dữ liệu này sẽ cho phép các tổ chức tín dụng sớm áp dụng công nghệ hiện đại để định danh khách hàng, giảm thiểu đáng kể thời gian, công sức và chi phí để thực hiện các món vay nhằm ngăn chặn và xóa bỏ tín dụng đen. Tiếp theo, với vai trò là cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật, bảo vệ cuộc sống và sự an toàn của người dân, an ninh và trật tự xã hội, Bộ Công an đã vào cuộc từ rất sớm và đấu tranh rất tích cực với tín dụng đen trong thời gian qua. Tuy nhiên, đa số các vụ việc vi phạm đã xảy ra và việc điều tra, chấn áp tội phạm tín dụng đen trong thời gian quan cũng chỉ là xử lý những đối tượng có hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng và tài sản của người dân. Khuyến nghị trong thời gian tới là Bộ Công an cần chủ động và tích cực hơn nữa trong hoạt động điều tra phát hiện và cảnh báo sớm để có thể ngăn chặn, hạn chế những hậu quả nặng nề của hoạt động tín dụng đen. Với các vụ việc đã được phát hiện, Bộ Công an cần xử lý và trấn áp một cách kiên quyết và mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là sau khi có sự hoàn thiện các quy phạm pháp luật để xử lý loại tội phạm này; Bộ Thông tin và Truyền thông cần chỉ đạo hoạt động tuyên truyền của các cơ quan thông tin đại chúng cũng như chỉ đạo các cơ quan Thông tin và Truyền thông ở các địa phương ưu tiên tối đa cho các nội dung tuyên truyền chống tín dụng đen. Các cơ quan truyền thông cần hỗ trợ: (1) tuyên truyền và phổ biến một cách hệ thống các chuyên đề về tín dụng đen và các biện pháp phòng chống tín dụng đen, các bài học kinh nghiệm về chống tín dụng đen ở các nước; (2) chuyển tải đầy đủ thông điệp về sự quyết tâm và quyết liệt chống tín dụng đen của Đảng và Nhà nước, của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức đoàn thể các cấp từ trung ương đến địa phương; (3) tuyên truyền và phổ biến kiến thức cho người dân có thể nhận thức đầy đủ và nhận diện rõ ràng về tín dụng đen là tội phạm và một tệ nạn xã hội, tham giam vào hoạt động tín dụng đen là phạm pháp và tiếp tay cho các hành vi phạm tội; (4) truyền thông đầy đủ về các chương trình tín dụng chính sách, chương trình tín dụng ưu đãi; (5) truyền thông đầy đủ các sản phẩm.

<span class='text_page_counter'>(141)</span> 131 và hoạt động cho vay nhằm hạn chế và loại bỏ tín dụng đen của các tổ chức tín dụng, nhấn mạnh vào phổ biến thông tin mang tính hướng dẫn, tư vấn, giới thiệu sản phẩm dịch vụ và cách thức tổ chức thực hiện để người dân hiểu rõ và dễ dàng trong việc tiếp cận các sản phẩm này và “nói không” với tín dụng đen; Theo quan điểm của một số nhà lãnh đạo ngân hàng thương mại, tín dụng đen cần phải có dịch vụ ngân hàng số mới có thể giải quyết được triệt để vì công nghệ ngân hàng số cho phép dịch vụ tài chính nói chung bao gồm cả cho vay có thể được triển khai 24 giờ và 7 ngày trong tuần với chi phí thấp. Tuy nhiên, dịch vụ ngân hàng số lại chỉ có thể được phát triển khi có sự phát triển nhất định và đồng bộ của cơ sở hạ tầng kỹ thuật và thông tin, cho phép các tổ chức tín dụng và các chủ thể khác có thể truy cập vào các cơ sở dữ liệu của Chính phủ, các bộ, ngành, v.v… Như vậy, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen còn cần phải có sự hỗ trợ từ sự phát triển của các tổ chức công nghệ và cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phép thực hiện dịch vụ trên nền tảng dữ liệu lớn (big data), kể cả dữ liệu quốc gia, dữ liệu các doanh nghiệp và dữ liệu công dân và những cơ sở dữ liệu về hoạt động ngân hàng, cơ sở dữ liệu về tài nguyên, bất động sản…; Các tổ chức phát triển công nghệ và các cơ quan quản lý cần cho phép sự chia sẻ cơ sở dữ liệu với nhau để tăng tiện ích, giảm chi phí, trên cơ sở phân quyền truy cập.. 4.3. Hạn chế của đề tài và các hướng nghiên cứu tiếp theo Thứ nhất, đề tài phát triển tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể theo hai hướng là tín dụng chính thức và tín dụng phi chính thức, nhưng không nghiên cứu tín dụng bán chính thức. Do đó, nếu phát triển nghiên cứu theo hướng tiếp cận tín dụng theo cả 3 hướng là chính thức, bán chính thức và phi chính thức sẽ bao quát được hết các vấn đề. Thứ hai, mặc dù đã đánh giá được một số vấn đề về tiếp cận tín dụng phi chính thức, nhưng trên thực tế, nếu các hộ tiếp cận theo hướng sử dụng nguồn vốn từ phía họ/hụi/phường/biêu có thể phần nào coi là tín dụng bán chính thức, đặc biệt ở các vùng nông thôn, khi ủy ban nhân dân xã có quản lý hoạt động này. Các hoạt động dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau hoặc tín dụng ngang hàng này đóng góp một phần lớn vào tín dụng của các hộ kinh doanh cá thể. Do đó, một trong những điểm hạn chế của luận án là không đánh giá sâu vào tiếp cận tín dụng ngang hàng hoặc đánh giá tác động của tín dụng xoay vòng (ROSCAs). Thời điểm hiện tại, dưới sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ tài chính (fintech), các hoạt động cho vay ngang hàng dựa trên nền tảng số (như peer to peer lending) phát triển rất mạnh, hoặc gọi vốn cộng đồng rất giống với hoạt động của họ/hụi/phường/biêu. Nếu có thể phát triển nghiên cứu theo hướng đánh giá ý định sử.

<span class='text_page_counter'>(142)</span> 132 dụng hoặc cơ chế pháp lý cho các hoạt động này thì sẽ bổ sung một khoảng trống lớn đối với tiếp cận tín dụng của hộ gia đình. Thứ ba, một lượng lớn các hộ kinh doanh cá thể mà tác giả nghiên cứu hoạt động ở vùng nông thôn hoặc các vùng có kinh tế khó khăn, được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước trong việc tiếp cận vốn vay. Đồng thời, sau đại dịch Covid 19, các hộ kinh doanh cá thể cũng là đối tượng được hưởng vốn vay từ phía Ngân hàng Chính sách xã hội hoặc một số ưu đãi từ phía các ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Điều này góp phần thúc đẩy tín dụng chính thức phát triển. Mặc dù có đề cập đến trong phần khảo sát, nhưng luận án không phát triển vấn đề trên. Do đó, trong thời gian tới, nếu có thể xác định tiếp cận tín dụng ưu đãi hoặc tín dụng sau khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng do xuất phát từ dịch bệnh. Thứ tư, đối với lý thuyết về tiếp cận tín dụng, luận án đang đánh giá khá nhiều về thu nhập. Trên thực tế, đối với tăng trưởng kinh tế, các lý thuyết hiện đại chú ý đến một số khía cạnh khác như thúc đẩy bình đẳng giới, phát triển vùng… Vì vậy, có thể phát triển theo hướng tác động của tiếp cận tín dụng chính thức đến bình đẳng giới hoặc các mục tiêu quốc gia như xóa đói giảm nghèo..

<span class='text_page_counter'>(143)</span> 133. KẾT LUẬN Hộ kinh doanh cá thể có thể mở rộng quy mô sản xuất và tiếp cận tín dụng từ: (1) nguồn phi chính thức như vay người thân, bạn bè; (2) nguồn chính thức như vay từ các tổ chức tín dụng. Chính sự khác biệt hóa trong các sản phẩm tài chính của TCTD thể hiện chiến lược, đặc trưng của từng vùng miền để đáp ứng nhu cầu khác nhau của nhiều đối tượng. Trong điều kiện hiện nay, tiếp cận tín dụng chính thức và vai trò của các tổ chức tín dụng chính thức đặc biệt quan trọng trong việc đáp ứng kịp thời vốn cho các hộ gia đình để bổ sung vốn kinh doanh, đảm bảo quy trình sản xuất, hoạt động kinh doanh và dịch vụ được phát triển liên tục, bền vững. Dựa trên cách tiếp cận từ phía cầu của dịch vụ tài chính cũng như tài chính toàn diện, luận án đã đưa ra các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng chính thức và phi chính thức của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam. Thứ nhất, đối với mô hình tiếp cận tín dụng chính thức, tác giả đã thêm 1 biến là “hiểu biết tài chính” vào trong mô hình. Với việc thêm một biến vào mô hình, sẽ góp phần làm giầu thêm các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng phi chính thức của các hộ gia đình, cũng như mô hình lý thuyết gốc TPB được mở rộng ra đối với các hành vi không được khuyến khích. Bên cạnh đó, luận án cũng đưa ra một số đóng góp về mặt thực tiễn như đã chứng minh được bằng thực nghiệp: như kinh nghiệm chủ hộ, lãi suất, khoảng cách, ngân hàng điện tử… đều tác động đến ý định tiếp cận tín dụng. Đồng thời, đối với tiếp cận tín dụng phi chính thức, ảnh hưởng xã hội, nỗ lực, hiểu biết tài chính và bảo mật có tác động dương. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức tín dụng , các cơ quan đoàn thể tại địa phương và các hộ gia đình nhằm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng chính thức cũng như hạn chế tín dụng đen..

<span class='text_page_counter'>(144)</span> 134. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN. 1.. Lê Hoàng Anh, Khúc Thế Anh (2019), “Tín dụng đen: bằng chứng thực nghiệm từ phía cung, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia Hạn chế tín dụng đen tại Việt Nam, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.. 2.. Lê Hoàng Anh (2020), “Các yếu tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng chính thức của hộ kinh doanh cá thể”, Tạp chí Tài chính, Kỳ 1, tháng 9/2020.. 3.. Lê Hoàng Anh (2020), “Cơ sở phát triển của tín dụng phi chính thức”, Tài chính doanh nghiệp, số 9 năm 2020.. 4.. Khúc Thế Anh, Lê Hoàng Anh, Phạm Thị Nhật Linh (2020), “Access to banking capital of micro-enterprises and households”, 12th NEU-KKU International Conference Socio-Economic and Environmental Issues in development, Labours social publishing house..

<span class='text_page_counter'>(145)</span> 135. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.. 2.. 3. 4. 5. 6. 7. 8.. 9.. Abadi, H. R. D., B. Ranjbarian và F. K. Zade (2012), 'Investigate the customers' behavioral intention to use mobile banking based on TPB, TAM and perceived risk (a case study in Meli Bank)', International Journal of Academic Research in Business Social Sciences, Số 2(10),Trang: 312–322. ADR (2014), Tính sẵn có và hiệu quả của tín dụng ở nông thôn Việt Nam: Bằng chứng từ Điều tra Tiếp cận nguồn lực của hộ gia đình ở Việt Nam 2006-20082010, Chương trình Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn, Việt Nam. Ajzen, I. và M. Fishbein (1980), Understanding attitudes and predicting social behaviour, N.J.: Prentice-Hall, Engle-wood-Cliffs. Ajzen, I. (1985), From intentions to actions: A theory of planned behavior, Springer, Berlin, Heidelberg, Germany. Ajzen, I. (1991a), 'The theory of planned behavior', Organizational behavior human decision processes, Số 50(2),Trang: 179-211. Ajzen, I. J. O. b. (1991b), The theory of planned behavior, Số 50(2), Trang: 179211. Akram, W. và Z. Hussain (2008), Agricultural credit constraints and borrowing behavior of farmers in rural Punjab. Al-Qeisi, K. I. (2009), Analyzing the use of UTAUT model in explaining an online behaviour: Internet banking adoption, Doctor of Philosophy, Đại học Brunel Business School Alhassan, A.-R. và M. A. Akudugu (2012), 'Impact of microcredit on income generation capacity of women in the Tamale Metropolitan area of Ghana', Journal of Economics Sustainable Development, Số 3(5),Trang: 41-48.. 10. Anderson, S. và J.-M. Baland (2002), 'The economics of roscas and intrahousehold resource allocation', The quarterly journal of economics, Số 117(3),Trang: 963995. 11. Anh Phan (2020), Xử lý nghiêm nạn cho vay nặng lãi tại Gia Lai, Truy cập ngày 11 - 4 - 2020], từ liên kết: 12. Ban chỉ đạo trung ương chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới (2019), Báo cáo tổng kết thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2019, Tài liệu lưu hành nội bộ. 13. Barbosa, E. G. và C. d. C. Moraes (2004), 'Determinants of the firm’s capital structure: The case of the very small enterprises', Economics Working Paper.

<span class='text_page_counter'>(146)</span> 136 Archive at WUSTL, Finance, Số 30,Trang: 20-33. 14. Bateman, M. (2010), Why doesn't microfinance work?: The destructive rise of local neoliberalism, Zed Books Ltd., USA. 15. Beck, T., A. Demirguc-Kunt và M. S. Martinez Peria (2005), Reaching out: Access to and use of banking services across countries, The World Bank. 16. Beck, T. và A. De La Torre (2006a), The basic analytics of access to financial services, The World Bank, 17. Beck, T. và A. De La Torre (2006b), 'The basic analytics of access to financial services', Financial Market, Institutions & Instruments, Số 16(2),Trang: 79–119. 18. Beck, T., A. Demirguc-Kunt và M. S. Martinez Peria (2006a), 'Banking services for everyone? Barriers to bank access and use around the world', World Bank Economic Review, Số 22(3),Trang: 397–430. 19. Beck, T., A. Demirguc-Kunt và M. S. Martinez Peria (2006b), Banking services for everyone? Barriers to bank access and use around the world, The World Bank, 20. Beck, T., A. Demirgüç-Kunt và R. Levine (2007), 'Finance, inequality and the poor', Journal of economic growth, Số 12(1), Trang: 27-49. 21. Beck, T., A. D. Kunt và P. Honohan (2009), 'Access to financial services: Measurement, impact, and policies', World Bank Research Observer, Số 24(1),Trang: 119–145. 22. Bester, H. (1987), 'The role of collateral in credit markets with imperfect information', European Economic Review, Số 31(4),Trang: 887-899. 23. Bond, P., D. K. Musto và B. Yilmaz (2009), 'Predatory mortgage lending', Journal of Financial Economics, Số 94(3),Trang: 412–427. 24. Booth, M. (1991), The Triads: The Growing Global Threat from the Chinese Criminal Societies, St. Martin's Press New York, USA. 25. Bougheas, S., P. Mizen và C. Yalcin (2006), 'Access to external finance: Theory and evidence on the impact of monetary policy and firm-specific characteristics', Journal of Banking Finance, Số 30(1),Trang: 199-227. 26. Brown, M. và C. Zehnder (2010), 'The emergence of information sharing in credit markets', Journal of Financial Intermediation, Số 19(2),Trang: 255-278. 27. Bùi Kiên Trung, Phạm Bích Liên và Khúc Thế Anh (2019), 'Các nhân tố tác động đến tiếp cận dịch vụ tài chính qua ngân hàng số: Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam', Kinh tế & Phát triển, Số 261,Trang: 20-29. 28. Calomiris, C. W. và I. Rajaraman (1998), 'The role of ROSCAs: lumpy durables or event insurance?', Journal of development economics, Số 56(1),Trang: 207216..

<span class='text_page_counter'>(147)</span> 137 29. Campbell, J. Y. (2006), 'Household finance', The journal of finance, Số 61(4),Trang: 1553-1604. 30. Cấn Văn Lực (2019), Ứng xử phù hợp tín dụng phi chính thức, truy cập ngày 25/10/2019 từ liên kết: 31. Carr, J. H. và L. Kolluri (2001a), 'Predatory lending: An overview', Fannie Mae Foundation, Số 1,Trang: 1-17. 32. Carr, J. H. và L. Kolluri (2001b), Predatory lending: An overview, Fannie Mae Foundation, USA. 33. Casu, B., C. Girardone và P. Molyneux (2013), Introduction to banking, Pearson education. 34. Chauke, P., M. Motlhatlhana, T. Pfumayaramba và F. Anim (2013), 'Factors influencing access to credit: A case study of smallholder farmers in the Capricorn district of South Africa', African Journal of Agricultural Research, Số 8(7),Trang: 582-585. 35. Cheng, D., G. Liu, C. Qian và Y.-F. Song (2009), 'User acceptance of internet banking: an extension of the UTAUT model with trust and quality constructs', International Journal of Services Operations Informatics, Số 4(4),Trang: 378–393. 36. Cheung, C. M., M. K. J. J. o. t. A. s. f. I. S. Lee và Technology (2006), Understanding consumer trust in Internet shopping: A multidisciplinary approach, Số 57(4),Trang: 479-492. 37. Chin, K.-l. (1995), 'Triad societies in Hong Kong', Transnational Organized Crime, Số 1(1),Trang: 47–64. 38. Chính phủ (2015), Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, ban hành ngày 14 tháng 09 năm 2015. 39. Chính phủ (2019), Chỉ thị số 12/CT-TTg về tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động "Tín dụng đen", ban hành ngày 25/04/2019, Hà Nội 40. Chisasa, J. (2019), 'Determinants of Access to Bank Credit by Smallholder Farmers: Evidence from South Africa', Academy of Accounting Financial Studies Journal. 41. Chong, A. Y.-L., F. T. Chan và K.-B. Ooi (2012), 'Predicting consumer decisions to adopt mobile commerce: Cross country empirical examination between China and Malaysia', Decision support systems, Số 53(1),Trang: 34–43. 42. Christelis, D., T. Jappelli và M. Padula (2010), 'Cognitive abilities and portfolio choice', European Economic Review, Số 54(1),Trang: 18-38. 43. Claessens, S. (2006), 'Access to financial services: A review of the issues and.

<span class='text_page_counter'>(148)</span> 138 public policy objectives', The World Bank Research Observer, Số 21(2),Trang: 207-240. 44. Coco, G. (2000), 'On the use of collateral', Journal of Economic Surveys, Số 14(2), Trang: 191-214. 45. Đặng Ngọc Đức (2020), Thực trạng và giải pháp hạn chế tín dụng đen, Đề tài nghiên cứu khoa học được ngân hàng LienVietPostbank tài trợ, Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội. 46. Dao, H. T. T., N. T. Kim và N. T. Mai (2016), 'Poor Households’ Credit Accessibility: The case of Rural Viet Nam', Afro-Asian J. Finance and Accounting, Số 6(3), Trang: 75-86. 47. Davis, F. D. (1985), A technology acceptance model for empirically testing new end-user information systems: Theory and results, Tiến sĩ Quản trị, Đại học Massachusetts Institute of Technology. 48. Davis, F. D., R. P. Bagozzi và P. R. Warshaw (1989a), 'User acceptance of computer technology: a comparison of two theoretical models', Management science, Số 35(8),Trang: 982–1003. 49. Davis, F. D., R. P. Bagozzi và P. R. J. M. s. Warshaw (1989b), User acceptance of computer technology: a comparison of two theoretical models, Số 35(8),Trang: 982-1003. 50. Dawi, N. M. (2019), 'Factors influencing consumers intention to use QR code mobile payment – A proposed framework', International Journal of Recent Technology and Engineering, Số 8(2S),Trang: 114–120. 51. Delgadillo, L. M., L. V. Erickson và K. W. Piercy (2008), 'Disentangling the differences between abusive and predatory lending: professionals’ perspectives', Journal of Consumer Affairs, Số 42(3),Trang: 313-334. 52. Demirguc-Kunt, A., L. Klapper và M. S. M. Peria (2012), The foundations of financial inclusion: Understanding ownership and use of formal accounts, The World Bank, USA. 53. Demyanyk, Y. (2006), 'Income inequality: time for predatory lending laws?', The Regional Economist, (Oct),Trang: 10-11. 54. DfID (1999), Sustainable livelihoods guidance sheets, DFID, London. 55. Diagne, A. (1999), Determinants of household access to and participation in formal and informal credit markets in Malawi. 56. Diagne, A., M. Zeller và M. P. Sharma (2000), Empirical measurements of households'access to credit and credit constraints in developing countries: methodological issues and evidence..

<span class='text_page_counter'>(149)</span> 139 57. Diagne, A. và M. Zeller (2001), Access to credit and its impact on welfare in Malawi, International food policy research institute, Washington, D.C. 58. Đỗ Thị Ngọc Anh (2017), Các nhân tố ảnh hưởng tới việc sử dụng Internet Banking của khách hàng ở các ngân hàng thương mại Việt Nam, Tiến sĩ Marketing, Đại học Kinh tế Quốc dân. 59. Doan, T. H. (2015), Determinants of Access to Bank Credit for Agricultural Households in Vietnam. 60. Duong, P. B. và Y. Izumida (2002), 'Rural development finance in Vietnam: A microeconometric analysis of household surveys', World Development, Số 30(2), Trang: 319-335. 61. Duy, V. Q., M. D’Haese, J. Lemba và L. D’Haese (2012), 'Determinants of household access to formal credit in the rural areas of the Mekong Delta, Vietnam', African Asian studies, Số 11(3),Trang: 261-287. 62. Eggert, K. (2001), 'Held up in due course: Predatory lending, securization, and the holder in due course doctrine', Creighton L. Rev., Số 35(2002),Trang: 503–672. 63. Engel, K. C. và P. A. McCoy (2001a), 'A tale of three markets: The law and economics of predatory lending', Tex. L. Rev., Số 80,Trang: 1255-1275. 64. Engel, K. C. và P. A. McCoy (2001b), 'A tale of three markets: The law and economics of predatory lending', Tex. L. Rev., Số 80(6),Trang: 1255–1381. 65. Eubank, E. E. (1917), 'Loan sharks and loan shark legislation in Illinois', Journal of Criminal Law & Criminology, Số 8(1),Trang: 69–81. 66. Fadzil, F. (2017), 'A study on factors affecting the behavioral intention to use mobile apps in Malaysia', Social Science Research Network Electronic, Số 3090753,Trang: 1–19. 67. Fatoki, O. và A. Odeyemi (2010), 'Which new small and medium enterprises in South Africa have access to bank credit?', International Journal of Business Management, Số 5(10),Trang: 128-138. 68. Fatoki, O. và F. Asah (2011), 'The impact of firm and entrepreneurial characteristics on access to debt finance by SMEs in King Williams' town, South Africa', International Journal of Business Management, Số 6(8),Trang: 170-186. 69. Finn, T. (2018), Vietnam, The dragon that rose from the ashes UNU-WIDER, Helsinki, Finland. 70. Fishbein, A. và H. Bunce (2000), Subprime market growth and predatory lending, U.S. Department of Housing and Urban Development, USA. 71. Fishbein, M. và I. Ajzen (1977), Belief, attitude, intention, and behavior: An introduction to theory and research..

<span class='text_page_counter'>(150)</span> 140 72. Fishbein, M. (1979), 'A theory of reasoned action: some applications and implications', Nebraska Symposium on Motivation, Số 27, Trang: 65–116. 73. Foon, Y. S. và B. C. Y. Fah (2011), 'Internet banking adoption in Kuala Lumpur: an application of UTAUT model', International Journal of Business Management, Số 6(4), Trang: 161–167. 74. Frangos, C. C., K. C. Fragkos, I. Sotiropoulos, G. Manolopoulos và A. C. Valvi (2012), 'Factors affecting customers' decision for taking out bank loans: A case of Greek customers', Journal of Marketing Research Case Studies, Số 12,Trang: 1-16. 75. Gaurav, S. (2017), What is digital banking, truy cập lần cuối 15/10/2018 tại 76. Giovanis, A. N., S. Binioris và G. Polychronopoulos (2012), 'An extension of TAM model with IDT and security/privacy risk in the adoption of internet banking services in Greece', EuroMed Journal of Business, Số 7(1),Trang: 24–53. 77. Godoy, R., K. O'neill, S. Groff, P. Kostishack, A. Cubas, J. Demmer, K. Mcsweeney, J. Overman, D. Wilkie và N. Brokaw (1997), 'Household determinants of deforestation by Amerindians in Honduras', World Development, Số 25(6),Trang: 977-987. 78. Ha, D. T. (2015), 'Determinants of Access to Bank Credit for Agricultural Households in Vietnam', Journal of Economics & Development, Số 17, Trang: 111-122. 79. Hair, J. F., W. C. Black, B. J. Babin, R. E. Anderson và R. L. Tatham (1998), Multivariate data analysis, Xuất bản lần thứ 17, Prentice hall Upper Saddle River, NJ, USA. 80. Hair, J. J. F., G. T. M. Hult, C. Ringle và M. Sarstedt (2016), A primer on partial least squares structural equation modeling (PLS-SEM), Sage publications. 81. Hananu, B., A. Abdul-Hanan và H. A. Zakaria (2015), 'Factors influencing agricultural credit demand in Northern Ghana', African Journal of Agricultural Research, Số 10(7),Trang: 645-652. 82. Haselmann, R., K. Pistor và V. Vig (2010), 'How law affects lending', The Review of Financial Studies, Số 23(2), Trang: 549–580. 83. Hoàng Trần Hậu (2018 of Conference), 'Tiếp cận dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ gia đình', Kỷ yếu hội thảo: Hội thảo quốc tế: Chính sách tài chính hỗ trợ các hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp siêu nhỏ, TP. Hồ Chí Minh. 84. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân Tích Dữ Liệu Nghiên Cứu Với Spss, Hồng Đức, Trường đại học kinh tế Hồ Chí Minh. 85. Huston, J. S. (2010), 'Measuring Financial Literacy'. Journal of Consumer Affairs. 86. Ismail, R. và I. Yussof (2010), 'Human Capital and Income Distribution in Malaysia:.

<span class='text_page_counter'>(151)</span> 141. 87. 88. 89. 90.. 91.. 92. 93. 94. 95. 96. 97. 98. 99.. 100.. 101.. 102.. A Case Study', Journal of Economic Cooperation Development, Số 31(2). Kaplan, L. J. và S. Matteis (1968), 'The economics of loansharking', The American Journal of Economics Sociology, Số 27(3),Trang: 239-252. Kelso, R. W. (1941a), 'Social and economic background of the small loan problem', Law Contemp. Probs., Số 8(1),Trang: 14–22. Kelso, R. W. (1941b), 'Social and Economic Background of the Small Loan Problem', Law Contemp. Probs., Số 8,Trang: 14-22. Khúc Thế Anh, Phạm Bích Liên và Bùi Kiên Trung (2020), 'Nhân tố tác động đến dân trí tài chính của người nghèo khu vực nông thôn Việt Nam', Kinh tế & Phát triển, Số 272,Trang: 42-51. Kira, A. R. và Z. He (2012), 'The impact of firm characteristics in access of financing by small and medium-sized enterprises in Tanzania', International Journal of Business Management, Số 7(24),Trang: 108 - 119. Kumar, A. (2004), Access to financial services in Brazil, The World Bank, Washington, D.C. Lê Thanh Tâm (2013), Mức độ bền vững của các tổ chức tài chính vi mô Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị, Nhà xuất bản Giao thông Vận tải, Hà Nội. Lê Thanh Tâm (2015), 'Các trường phái cung cấp tài chính vi mô – Lý thuyết gốc và thực nghiệm tại Việt Nam', Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 218,Trang: 2-10. Ledgerwood, J. (1998), Microfinance handbook: An institutional and financial perspective, The World Bank. Ledgerwood, J., J. Earne và C. & Nelson (2013a), The new microfinance handbook: A financial market system perspective, The World Bank, USA. Ledgerwood, J., J. Earne và C. Nelson (2013b), The new microfinance handbook: A financial market system perspective, The World Bank. Lee, J. (2006), 'Family firm performance: Further evidence', Family business review, Số 19(2), Trang: 103-114. Lee, M.-C. J. E. c. r. (2009), Factors influencing the adoption of internet banking: An integration of TAM and TPB with perceived risk and perceived benefit, Số 8(3),Trang: 130-141. Lee, Y.-K., J.-H. Park, N. Chung và A. Blakeney (2012), 'A unified perspective on the factors influencing usage intention toward mobile financial services', Journal of Business Research, Số 65(11),Trang: 1590–1599. Levenson, A. R. và T. Besley (1996), 'The anatomy of an informal financial market: Rosca participation in Taiwan', Journal of development economics, Số 51(1), Trang: 45-68. Mai, N. T. T., K. Smith và J. R. Cao (2009), 'Measurement of modern and.

<span class='text_page_counter'>(152)</span> 142. 103.. 104.. 105.. 106. 107.. 108. 109.. 110. 111.. 112.. 113. 114. 115.. 116.. traditional self-concepts in Asian transitional economies', Journal of Asia-Pacific Business, Số 10(3),Trang: 201-220. Mai, N. T. T. và S. K. Tambyah (2011), 'Antecedents and Consequences of Status Consumption among Urban Vietnamese Consumers', Organizations Markets in Emerging Economies, Số 2(1),Trang: 75-98. Malesky, E. J. và M. Taussig (2009), 'Where is credit due? Legal institutions, connections, and the efficiency of bank lending in Vietnam', The Journal of Law, Economics, Organization, Số 25(2),Trang: 535-578. Malhotra, P. và B. Singh (2009), 'The impact of internet banking on bank performance and risk: The Indian experience', Eurasian Journal of Business Economics, Số 2(4),Trang: 43–62. Mankiw, N. G., D. Romer và D. N. Weil (1992), 'A contribution to the empirics of economic growth', The quarterly journal of economics, Số 107(2),Trang: 407-437. Mathieson, K. J. I. s. r. (1991), Predicting user intentions: comparing the technology acceptance model with the theory of planned behavior, Số 2(3),Trang: 173-191. McCoy, P. A. (2005), 'A behavioral analysis of predatory lending', Akron L. Rev., Số 38(4),Trang: 725–739. Michael, A., Y. D. Giroh, M. Polycarp và Z. E. Ashindo (2018), 'Analysis of rural farm households’ access to formal agricultural credit in Yola south local government area, Adamawa State, Nigeria', Acta Universitatis Agriculturae et Silviculturae Mendelianae Brunensis, Số 66(4),Trang: 947-954. Miller, R. B. (1966), 'The impingement of loansharks on the banking industry', Banker's Magazine, Số 149,Trang: 84–91. Moore, G. C. và I. Benbasat (1991a), 'Development of an instrument to measure the perceptions of adopting an information technology innovation', Information systems research, Số 2(3),Trang: 192–222. Moore, G. C. và I. J. I. s. r. Benbasat (1991b), Development of an instrument to measure the perceptions of adopting an information technology innovation, Số 2(3),Trang: 192-222. Morgan, D. P. (2007), Defining and detecting predatory lending, Staff Report. Morgan, W. (2000), Triad Societies: Triad societies in Hong Kong, Taylor & Francis. Ngân hàng Nhà nước (2016), Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016. Ngoc, L. T. B. (2016), 'Banking Relationship and Bank Financing: The Case of.

<span class='text_page_counter'>(153)</span> 143. 117. 118. 119.. 120.. 121. 122. 123.. 124. 125.. 126.. 127.. Vietnamese Small and Medium-sized Enterprises', Journal of Economics and Development, Số 15,Trang: 74-90. Nguyen, C. H. (2007), Determinants of credit participation and its impact on household consumption: Evidence from rural Vietnam. Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2009), Nghiên Cứu Khoa Học Trong Quản Trị Kinh Doanh, Lao Động - Xã hội, Hà Nội. Nguyen, H. H. (2018), 'The Factors Affecting the Access to Banking Credits of Family Businesses in Tra Vinh Province, Vietnam', International Journal of Economics Financial Issues, Số 8(5), Trang: 64-74. Nguyễn Kim Anh, Lê Thanh Tâm, Ngô Văn Thứ và Nguyễn Thị Tuyết Mai (2017), Microfinance versus Poverty Reduction in Vietnam-Diagnostic Test and Comparison, Transportation Publisher, Hanoi. Nguyễn Kim Hùng (2019), Thực trạng Tín dụng đen và giải pháp, Diễn đàn kinh tế, Hà Nội. Nguyễn, L. D. (2014), Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Nguyễn Mai Phương, Lưu Thị Minh Ngọc và Trần Hoàng Dũng (2019), 'Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định vay tiêu dùng của sinh viên trên địa bàn Hà Nội', Economics and Business, Số 35(1),Trang: 1–15. Nguyen, N. T. (2014), Credit accessibility and small and medium sized enterprise growth in Vietnam, Đại học Lincoln University. Nguyễn Phúc Chánh (2016), Phân tích các nhân tố tác động đến quyết định vay vốn của khách hàng cá nhân, hộ kinh doanh tại Agribank trên địa bàn TP. Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Trà Vinh. Nguyễn, Q. N. và V. T. Bùi (2011), 'Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người dân tộc thiểu số ở đồng bằng sông Cửu Long', Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ,Trang: 240-250. Nguyễn, Q. O. và T. M. D. Phạm (2010), 'Khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ: Trường hợp nghiên cứu ở vùng ngoại thành Hà Nội', Tạp chí Khoa học và Phát triển.. 128. Nguyễn Vân Hà, Nguyễn Thị Việt Hà, Trần Ngọc Sơn và L. T. Ly (2018), 'Bài học về quản lý tín dụng đen cho Việt Nam từ kinh nghiệm của Trung Quốc', Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, Số 194,Trang: 65–70. 129. Nugent, R. (1941a), 'The loan-shark problem', Law Contemporary Problems, Số 8(1),Trang: 3–13. 130. Nugent, R. (1941b), 'The Loan-Shark Problem', Law Contemporary Problems, Số 8(1),Trang: 3-13..

<span class='text_page_counter'>(154)</span> 144 131. Ogolla, G. A. (2013), Relationship between corporate social responsibility and financial performance of commercial banks in Kenya, PhD Thesis, Đại học University Of Nairobi. 132. Okurut, F. N. (2006), 'Access to credit by the poor in South Africa: Evidence from Household Survey Data 1995 and 2000', Stellenbosch: University of Stellenbosch. 133. OXFAM (2015), Hợp tác, liên kết nông dân trong sản xuất nông nghiệp theo tiếp cận thúc đẩy quyền lợi, tiếng nói, lựa chọn của nông dân: Hiện trạng và khuyến nghị chính sách, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội. 134. Peria, M. S. M., F. en, A. Demirguc-Kunt và L. Klapper (2012), The foundations of financial inclusion: Understanding ownership and use of formal accounts, The World Bank, USA. 135. Peterson, A. (2013), 'Predatory payday lending: Its effects and how to stop it', Center for American Progress, Số 20,Trang: 1–7. 136. Phạm Bích Liên (2016a), Phát triển hoạt động tài chính vi mô tại các tổ chức tín dụng Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân. 137. Phạm Bích Liên (2016b), Phát triển hoạt động tài chính vi mô tại các tổ chức tín dụng Việt Nam, Tiến sĩ Kinh tế, Đại học Đại học Kinh tế Quốc dân. 138. Phạm Thành Thôi (2020 of Conference), 'Thực trạng và tác động của công nhân tại các tỉnh/thành phía Nam và các yếu tố tác động', Kỷ yếu hội thảo: Hội thảo khoa học Quốc gia, Trường đại học Kinh tế Quốc dân 139. Phạm Văn Tám (2018), Tình trạng 'tín dụng đen': Luật vẫn còn nhiều kẽ hở?, Truy cập ngày [27 / 3 / 2020], từ liên kết: 140. Phạm Văn Tám (2020 of Conference), 'Khó khăn vướng mắc trong phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến “tín dụng đen” hiện nay và kiến nghị giải pháp', Kỷ yếu hội thảo: Hội thảo khoa học Quốc gia, Trường đại học Kinh tế Quốc dân. 141. Phan, Đ. K. (2013), "Các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng chính thức và phi chính thức của nông hộ ở Đồng bằng sông Cửu Long", Tạp chí khoa học, trường Đại học Cần Thơ, số 28, Trang: 38-53. 142. Prayoonphan, F. và X. Xu (2019), 'Factors influencing the intention to use the common ticketing system (spider card) in Thailand', Behavioral Sciences, Số 9(5),Trang: 46–63. 143. Quốc hội (2010), Luật số 47/2010/QH12 quy định về: Các tổ chức tín dụng, ban hành ngày 16 tháng 6 năm 2010. 144. Rehman, H. U. và S. Ahmed (2008), 'An empirical analysis of the determinants of bank selection in Pakistan: A customer view', Pakistan Economic Social Review,.

<span class='text_page_counter'>(155)</span> 145 Số 46,Trang: 147-160. 145. Reynolds, D. (2004), 'Predatory Lending in Oregon: Does Oregon Need an AntiPredatory Lending Law, or Do Current Laws and Remedies Suffice', Or. L. Rev., Số 83,Trang: 1081-1108. 146. Rogers, E. M. (1995), 'Diffusion of innovations: modifications of a model for telecommunications', Trong Die diffusion von innovationen in der telekommunikation, Springer, Berlin, Heidelberg, trang 25–38. 147. Romer, P. M. (1990), 'Endogenous technological change', Journal of Political Economy, Số 98(5, Part 2),Trang: S71-S102. 148. Rose, P. và S. Hudgins (2015), Bank management and financial services, The McGraw− Hill, USA. 149. Saibaba, S. và T. N. Murthy (2013), 'Factors influencing the behavioural intention to adopt Internet banking: An empirical study in India', Researchers World: Journal of Arts, Science Commerce, Số 4(4),Trang: 1–16. 150. Saqib, S. E., J. K. Kuwornu, S. Panezia và U. Ali (2018), 'Factors determining subsistence farmers' access to agricultural credit in flood-prone areas of Pakistan', Kasetsart Journal of Social Sciences, Số 39(2),Trang: 262-268. 151. Sarma, M. và J. Pais (2011), 'Financial inclusion and development', Journal of international development, Số 23(5),Trang: 613-628. 152. Schmulow, A. (2016a), 'Curbing reckless and predatory lending: A statutory analysis of South Africa's National Credit Act', Competition and Consumer Law Journal 220, Số 24,Trang: 1-24. 153. Schmulow, A. (2016b), 'Curbing reckless and predatory lending: A statutory analysis of South Africa's National Credit Act', Competition and Consumer Law Journal, Số 24(3),Trang: 220–247. 154. Shergill, G. S. và B. Li (2005), 'Internet Banking–An empirical investigation of a trust and loyalty model for New Zealand banks', Journal of Internet commerce, Số 4(4),Trang: 101–118. 155. Shergold, P. R. (1978), 'The Loan Shark: The Small Loan Business in Early Twentieth-Century Pittsburgh', Pennsylvania History: A Journal of Mid-Atlantic Studies, Số 45(3),Trang: 195-223. 156. Soudijn, M. R. và S. X. Zhang (2013), 'Taking loan sharking into account: a case study of Chinese vest-pocket lenders in Holland', Trends in Organized Crime, Số 16(1),Trang: 13-30. 157. Tanaka, T., C. F. Camerer và Q. Nguyen (2010), 'Risk and time preferences: Linking experimental and household survey data from Vietnam', American.

<span class='text_page_counter'>(156)</span> 146 Economic Review, Số 100(1),Trang: 557-571. 158. Taylor, S. và P. J. M. q. Todd (1995), "Assessing IT usage: The role of prior experience", MIS Quarterly, Vol. 19, No. 4 (Dec., 1995), pp. 561-570. 159. Thompson, R. L., C. A. Higgins và J. M. Howell (1991a), 'Personal computing: toward a conceptual model of utilization', Management Information Systems quarterly, Số 15(1),Trang: 125–143. 160. Thompson, R. L., C. A. Higgins và J. M. J. M. q. Howell (1991b), Personal computing: toward a conceptual model of utilization, Trang: 125-143. 161. Thuku, A. G. (2017), Factors Affecting Access to Credit By Small and Medium Enterprises in Kenya: A Case Study of Agriculture Sector in Nyeri County, PhD Thesis, Đại học United States International University-Africa. 162. Tổng cục Thống kê (2020), Niên giám Thống kê (từ 2010 đến 2020), Thống kê, Hà Nội. 163. Trần, Á. K. và T. T. Huỳnh (2013), 'Các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ trên địa bàn tỉnh An Giang', Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Trang: 17-24. 164. Trần Thọ Đạt (2018), Kinh tế Việt Nam 2017 và triển vọng 2018, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 165. Trịnh Đức Chiều (2019), Thực trạng hoạt động của hộ kinh doanh ở Việt Nam, Tài chính, Trang: link trích dẫn tại 166. Trịnh, T. T. H. (2015), 'Các yếu tố ảnh hưởng ðến tiếp cận tín dụng của hộ nông dân việt nam', Kỷ yếu công trình khoa học Trường Đại học Thăng Long. 167. Venkatesan, S. (2004), 'Abrogating the holder in due course doctrine in subprime mortgage transactions to more effectively police predatory lending', Legislature and Public Policy, Số 7,Trang: 198–200. 168. Venkatesan, S. J. N. L. (2003), "Abrogating the Holder in Due Course Doctrine in Subprime Mortgage Transactions to More Effectively Police Predatory Lending", Legislature and Public Policy , Số 7, Trang: 177. 169. Venkatesh, V., M. G. Morris, G. B. Davis và F. D. Davis (2003a), "User acceptance of information technology: Toward a unified view", Management Information Systems quarterly, Số 27(3),Trang: 425–478. 170. Venkatesh, V., M. G. Morris, G. B. Davis và F. D. J. M. q. Davis (2003b), "User acceptance of information technology: Toward a unified view", MIS Quarterly, Vol. 27, No. 3 (Sep., 2003), pp. 425-478. 171. Venkatesh, V., J. Y. Thong và X. Xu (2012), 'Consumer acceptance and use of information technology: extending the unified theory of acceptance and use of.

<span class='text_page_counter'>(157)</span> 147 technology', Management Information Systems quarterly, Số 36(1),Trang: 157–178. 172. Võ Trí Thành (2018 of Conference), 'Tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp và hộ gia đình tại vùng nông thôn Việt Nam', Kỷ yếu hội thảo: Hội thảo quốc gia về Kinh tế Việt Nam năm 2017 và Triển trọng năm 2018, Hà Nội. 173. Vũ Tiến Lộc (2018 of Conference), 'Tiếp cận dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp khu vực nông thôn Việt Nam', Kỷ yếu hội thảo: Cải cách thủ tục hành chính – Cải thiện chỉ số tiếp cận tín dụng, Hà Nội. 174. Wang, Y. S., Y. M. Wang, H. H. Lin và T. I. J. I. j. o. s. i. m. Tang (2003), "Determinants of user acceptance of Internet banking: an empirical study", International Journal of Service Industry Management, ISSN: 0956-4233 175. World Bank (2018), FinTech and Financial Inclusion, World Bank. 176. Yehuala, S. (2008), Determinants of smallholder farmers access to formal credit: the case of Metema Woreda, North Gondar, Ethiopia, Đại học Haramaya University. 177. Yiu, C. S., K. Grant và D. Edgar (2007), 'Factors affecting the adoption of Internet Banking in Hong Kong—implications for the banking sector', International journal of information management, Số 27(5),Trang: 336–351. 178. Yunus, M. (2007), 'Credit for the poor: Poverty as distant history', Harvard International Review, Số 29(3),Trang: 20..

<span class='text_page_counter'>(158)</span> 148. PHẦN PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1.1: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH A. Dàn câu hỏi phỏng vấn sâu trong nghiên cứu định tính Câu hỏi phỏng vấn sâu dành cho chuyên gia lý thuyết PHẦN MỞ ĐẦU Kính chào các chuyên gia. Tôi là Lê Hoàng Anh, giảng viên trường đại học Kinh tế Quốc dân, đang thực hiện đề tài: “Các nhân tố ảnh hưởng đến đến tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam”. Mục tiêu của đề tài nhằm tìm hiểu những nhân tố tác động đến tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể. Rất mong nhận được sự tham gia tích cực của các anh/chị. Tôi cam kết rằng, thông tin của anh/chị đều được bảo mật, chỉ phục vụ cho bài nghiên cứu này. Tất cả những ý kiến trung thực của anh/chị đều góp phần vào sự thành công của nghiên cứu này. Thông tin cá nhân người được phỏng vấn: Họ và tên: ……………………………………………………………………… Công việc hiện tại: ………………………………………………………………. PHẦN NỘI DUNG I. Đánh giá mô hình: o Anh/chị đánh giá như thế nào về tình hình tiếp cận tín dụng (chính thức và phi chính thức) của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam hiện nay? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..……………………………………………………………………………………. o Theo các anh chị, có những nhân tố nào tác động đến tiếp cận tín dụng (chính thức và phi chính thức) của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam hiện nay? …………………………………………………………………………………………. ………………………………………………………………………………………… ………..………………………………………………………………………………….

<span class='text_page_counter'>(159)</span> 149. o Theo các anh chị, việc sử dụng mô hình TAM, TPB, UTAUT trong xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam có phù hợp không? Vì sao? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………..…………………………………………………………………………………. II. Đánh giá thang đo: Các câu hỏi có nội dung xoay quanh các phần có trong bảng hỏi và theo trình tự các phần đó.. 1. Phần thông tin chung: o Theo anh/chị nội dung ở phần thông tin chung về đối tượng khảo sát, các nội dung ở các mục hỏi có phù hợp không? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..……………………………………………………………………………………. o Theo anh/chị có cần bổ sung hay điều chỉnh gì không? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………..…………………………………………………………………………………. 2. Phần tiếp cận tín dụng chính thức o Theo các anh chị, hiện tại có những rào cản nào ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng chính thức của các hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………..…………………………………………………………………………………. o Trong bảng hỏi được đưa ra dưới đây, theo các anh chị, cần hiệu chỉnh bảng hỏi như thế nào? Về thay đổi cách hỏi, về bổ sung nhân tố? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..……………………………………………………………………………………. Xin chân thành cảm ơn ý kiến đóng góp của anh/chị!.

<span class='text_page_counter'>(160)</span> 150. Câu hỏi phỏng vấn đối với đại diện các TCTD, các tổ chức cung cấp tín dụng phi chính thức và hộ kinh doanh cá thể Đây là tập hợp các câu hỏi dành cho các đối tượng phỏng vấn và câu trả lời được thu thập sau phỏng vấn.. Câu hỏi về hồ sơ vay vốn: Theo anh/chị hồ sơ vay vốn cần chuẩn bị những gì? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..……………………………………………………………………………………. Câu hỏi về tài sản thế chấp hoặc đảm bảo: các hộ vay tiền cần những gì để đảm bảo trả được nợ vay? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..……………………………………………………………………………………. Câu hỏi về giá trị khoản vay: Các khoản vay của hộ kinh doanh cá thể thường có giá trị là bao nhiêu? Lãi suất ra sao? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..……………………………………………………………………………………. Câu hỏi dành cho các tổ chức cung ứng dịch vụ phi chính thức: Theo anh/chị quan sát thì nam hay nữ đi vay nhiều hơn? Hộ kinh doanh cá thể thường đi vay với mục đích gì? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..……………………………………………………………………………………. Câu hỏi về tài sản thế chấp hoặc đảm bảo: Hộ kinh doanh cá thể vay tiền cần những gì để đảm bảo hoặc thế chấp? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..…………………………………………………………………………………….

<span class='text_page_counter'>(161)</span> 151. Câu hỏi về cách thức xử lí nợ: Khách hàng là hộ kinh doanh cá thể thường trả nợ đúng hạn hay không? Hộ kinh doanh cá thể sẽ bị xử lí thế nào nếu không trả đủ và đúng nợ? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..……………………………………………………………………………………. (Câu hỏi dành riêng cho hộ kinh doanh cá thể): Anh/ chị có tự tính toán được số tiền phải trả, anh chị có xác định được rủi ro khi vay? Lí do gì khiến anh chị vẫn lựa chọn vay tín dụng đen thay vì tổ chức tín dụng chính thức? ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..…………………………………………………………………………………….

<span class='text_page_counter'>(162)</span> 152. B. Kết quả phỏng vấn sâu 1. Kết quả phỏng vấn chuyên gia lý thuyết Từ kết quả phỏng vấn lấy ý kiến của chuyên gia, cùng với qua trình tổng quan tác giả cần nhắc và quyết định điều chỉnh bảng hỏi như sau: Ở phần A: Thông tin chung: Bỏ phần số lần đi vay trong vòng 1 năm đi vì nó không thể hiện được kinh nghiệm thực sự của người đi vay do có nhiều yếu tố cá nhân. Ở phần B: Các chuyên gia cho rằng nên bổ sung thêm ba biến phụ thuộc mới: “Hiểu biết tài chính”, “Tiện lợi” và “Bảo mật”. Thêm một phần về đo lường mức độ hiểu biết tài chính của hộ kinh doanh cá thể thông qua các câu hỏi về chủ đề tài chính. Các biến đo lường sẽ được điều chỉnh lại như sau để dễ dàng cho việc phát triển bảng hỏi. Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cho rằng nên thay thuật ngữ “tín dụng đen” bằng “tín dụng tiêu dùng” ở các hiệu cầm đồ và vay online để có thể thuận tiện cho quá trình khảo sát. Đối với tín dụng phi chính thức, thì có thể sử dụng mô hình UTAUT để đo lường tiếp cận, nhưng đối với tiếp cận tín dụng chính thức thì không nên, bởi các nhân tố cần được tách ra. Do đó, hàm ý cũng cần rõ ràng hơn.. 2. Kết quả phỏng vấn các hộ, người cho vay (tóm tắt) Đây là tập hợp các câu hỏi dành cho các đối tượng phỏng vấn và câu trả lời được thu thập sau phỏng vấn, nhìn chung các câu trả lời của các đối tượng thể hiện sự đồng nhất về quan điểm.. Câu hỏi về hồ sơ vay vốn: Theo anh/chị hồ sơ vay vốn cần chuẩn bị những gì? Kết quả phỏng vấn cho thấy, hồ sơ vay vốn được chuẩn bị gần như hoàn toàn bởi nhân viên của tổ chức tín dụng đen. Khách hàng chỉ việc lên web chụp ảnh thông tin cá nhân, CMND hoặc cung hóa đơn điện nước hay bảng lương… Những giấy tờ này sau đó sẽ được kiểm tra kĩ. Đội ngũ soạn thảo này sẽ soạn thảo hợp đồng cho đúng luật. Người vay vốn bắt buộc phải ghi rõ “Tôi hoàn toàn đồng ý, không có sự ép buộc của ai” cả trong trường hợp đến vay trực tiếp hoặc vay online. Về cơ bản, việc chuẩn bị hồ sơ vay nhanh chóng, đảm bảo tối đa yêu cầu về thủ tục cho khách hàng do đội ngũ soạn thảo của các tổ chức này rất chuyên nghiệp (các đối tượng đến tận nơi làm hồ sơ sẽ được giải ngân trong vòng 10 phút), ngoài ra cho hộ kinh doanh vay thường vay những khoản có giá trị nhỏ..

<span class='text_page_counter'>(163)</span> 153. Câu hỏi về tài sản thế chấp hoặc đảm bảo: Các hộ kinh doanh cá thể (hoặc chủ hộ) vay tiền cần những gì để đảm bảo hoặc thế chấp? Đối với trường hợp cần tiền gấp, chủ hộ thường phải cắm các tài sản vật chất như xe máy, điện thoại, và được cho vay khoảng 40 - 80% giá trị tài sản tùy tình trạng của tài sản cầm cố. Tuy nhiên đối với các khoản vay nhỏ thì cần để lại các loại giấy tờ đặc biệt như chứng minh thư. Câu hỏi về giá trị khoản vay: Các khoản vay của chủ hộ thường có giá trị là bao nhiêu? Lãi suất ra sao? Đa số chủ hộ vay khoản nhỏ, thường rơi vào khoảng dưới 20 triệu đồng với thẻ chủ hộ hoặc các giấy tờ tương tự. Cũng có những trường hợp vay số tiền lớn khoảng 15 - 20 triệu đồng, những trường hợp này phải là “khách quen” hoặc/và phải “cắm” xe máy để đảm bảo. Các khoản lãi và phí lại phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng vay vốn: nhu cầu vay gấp, giá trị khoản vay hay mức độ “thân quen”, mức độ đảm bảo của khách hàng. Khoản vay càng nhỏ, lãi suất càng cao, các khoản vay dưới 5 triệu thì có giá là 3.000 đồng 5.000 đồng/triệu/ngày hoặc sẽ khoảng 40 - 60% sau 1 tháng. Các khoản vay được tính theo lãi gộp nên tăng rất nhanh và lãi thường cao gấp nhiều lần gốc. Ngoài ra còn có hình thức cho vay gần giống “bát họ” trên thị trường, cụ thể như khách hàng muốn vay một khoản 15 triệu thì sẽ phải trả trước khoản lãi là 3 triệu và nhận về 12 triệu, sau khoảng 20 - 30 ngày khách hàng phải hoàn lại toàn bộ số tiền là 15 triệu.. Câu hỏi về đối tượng chủ hộ đi vay: Theo anh/chị quan sát thì chủ hộ nam hay chủ hộ nữ đi vay nhiều hơn? Chủ hộ thường đi vay với mục đích gì? Những người được phỏng vấn trả lời rằng theo quan sát của họ chủ hộ nam đi vay nhiều hơn, mạnh dạn tìm đến những khoản vay tín dụng đen hơn. Theo thông tin phỏng vấn từ cả phía người cung cấp và nhóm chủ hộ đã từng vay mục đích đi vay của chủ hộ rất đa dạng, đa số phục vụ cho nhu cầu ngắn hạn và có thể chia thành 2 nhóm: (1) Nhóm đi vay để phục vụ những khoản chi “tạm cho là chính đáng”. Lí do phổ biến nhất là vay để đóng học phí để được dự thi, hoặc vay để trả tiền trọ, tiền thuốc men khi ốm đau bất chợt. Phần lớn nhóm này là những chủ hộ đi học xa nhà, điều kiện kinh tế của gia đình eo hẹp nên thường không dư giả tiền, gia đình không gửi kịp tiền và cũng không thể vay ở những nguồn nào khác (như người quen, bạn bè…). Tuy nhiên đối tượng này được đánh giá là không nhiều..

<span class='text_page_counter'>(164)</span> 154 (2) Nhóm đi vay để phục vụ cho những khoản chi khác ngoài các nhu cầu thiết yếu. Đây là nhóm chủ hộ được cho là chơi bời, vay cho mục đích “tiêu dùng”. Những người cung cấp tín dụng đen cho biết có nhiều chủ hộ nam đi vay với lí do để liên hoan, tổ chức sinh nhật cho người yêu, mua quà cho người yêu những dịp lễ nhưng lại chưa có tiền của gia đình chuyển lên. Khi được hỏi sâu hơn, nhóm chủ hộ được phỏng vấn cũng đồng ý rằng chủ hộ nam thường phải chi trả nhiều hơn cho những vấn đề nêu trên. Một phần đông hơn là vay tiền để cờ bạc, cá độ, để trả nợ ở chỗ khác hoặc nghiện hút nên cần tiền mua thuốc… Những chủ hộ này thường là con nhà khá giả. Đặc biệt, những người cho vay còn cho biết có những trường hợp chủ hộ nữ đi vay để trang bị váy áo, son phấn, “đồ nghề”... đi “khách” ở quán bar hoặc nằm trong đường dây mua bán dâm. Những đối tượng này thường vay nhanh trả nhanh ngay khi kiếm được tiền từ khách làng chơi.. Câu hỏi về tài sản thế chấp hoặc đảm bảo: Chủ hộ vay tiền cần những gì để đảm bảo hoặc thế chấp? Đối với trường hợp cần tiền gấp và cần số tiền lớn (khoảng 40 triệu trở xuống) chủ hộ thường phải cắm các tài sản vật chất như xe máy, điện thoại, và được cho vay khoảng 40 - 80% giá trị tài sản tùy tình trạng của tài sản cầm cố. Tuy nhiên đối với các khoản vay nhỏ thì cần để lại các loại giấy tờ đặc biệt như chứng minh thư, thẻ chủ hộ…. Câu hỏi về cách thức xử lí nợ: Khách hàng là chủ hộ thường trả nợ đúng hạn hay không? Chủ hộ sẽ bị xử lí thế nào nếu không trả đủ và đúng nợ? Nhóm chủ hộ vay để phục vụ cho nhu cầu thiết yếu, chính đáng thường trả nợ đúng hạn khi có tiền từ gia đình gửi lên. Thêm nữa, nhóm này không phải bọn ăn chơi nên ý thức ngay từ đầu đã ý thức rõ mức độ rủi ro cũng như khả năng trả nợ. Nhiều chủ hộ có nguồn thu nhập từ công việc làm thêm nhưng do cần tiền gấp mà chưa có lương, vay ngân hàng thì thủ tục mất nhiều thời gian nên đành tìm đến tín dụng đen. Nhóm còn lại, thường mất nhiều thời gian để thu hồi nợ hơn vì nguồn thu nhập bấp bênh (cờ bạc lúc thắng lúc thua) hoặc không có việc làm nhưng ỷ lại vào gia đình vẫn sẽ phải trả nợ cho, đi vay xoay vòng (vay ở chỗ này để trả cho chỗ khác)… Những đối tượng không trả đúng hạn và trả đủ sẻ bị khủng bố điện thoại, bom thư, bom điện thoại, nếu tiếp tục “không tự giác” trả nợ thì bên cung cấp tín dụng đen sẽ tìm đến gia đình để gây áp lực.. (Câu hỏi dành riêng cho chủ hộ): Anh chị có tự tính toán được số tiền phải trả, anh chị có xác định được rủi ro khi vay? Lí do gì khiến anh chị vẫn lựa chọn vay tín dụng đen thay vì tổ chức tín dụng chính thức? Kết quả phỏng vấn 10/12 chủ hộ trả lời rằng họ có thể ước chừng/ tính toán được giá của khoản vay một phần nhờ vào kiến thức tài chính được cung cấp bởi việc học tập,.

<span class='text_page_counter'>(165)</span> 155 một phần là nhờ kinh nghiệm, đặc biệt với những chủ hộ đã tìm đến tín dụng đen nhiều lần. Các chủ hộ cũng đồng ý rằng tín dụng đen chưa đựng rủi ro rất lớn: mức lãi suất cao hơn nhiều các tổ chức tài cung cấp tín dụng chính thức, rất nhiều khoản chi phí tiềm ẩn, nhiều thủ đoạn để ngăn con nợ dứt nợ, chưa kể cách thức đòi nợ của những tổ chức này đối với những người trả chậm cũng gây tâm lí lo ngại lớn. Khi được hỏi tại sao vẫn sử dụng tín dụng đen thì những chủ hộ này đưa ra những lí do như sau: Lí do đưa ra nhiều nhất là họ “không còn nguồn nào khác để vay”. Hiện tại chưa có nhiều ngân hàng hay tổ chức tín dụng hỗ trợ cho chủ hộ vay, ngay cả khi chủ hộ đi vay với lí do chính đáng như để đóng học phí thì điều kiện vay cũng khắt khe và tốn rất nhiều thời gian cho thủ tục trong khi nhu cầu vay của họ là cấp bách; còn những chủ hộ vay với mục đích chơi bời thì tất nhiên không thể vay ngân hàng. Các lí do khác thúc đẩy việc chủ hộ vay tín dụng đen liên quan đến hiệu quả, sự thuận lợi, tiện ích. Tín dụng đen cung cấp dịch vụ nhanh chóng (giải ngân trong 10 phút), hợp đồng và hồ sơ được chuẩn bị bởi nhân viên những tổ chức này nên khách hàng tiết kiệm được thời gian. Nhóm chủ hộ cũng gợi ý thêm rằng gần trường đại học mà họ đang theo học có rất nhiều cơ sở cho chủ hộ vay tín chấp, tiệm cầm đồ, thậm chí còn nằm tập trung trong một địa bàn nên không mất nhiều thời gian để đi hoặc người có nhu cầu vay thay vì đến trực tiếp, có thể lựa chọn một hình thức vay qua app, qua mạng Internet cũng rất nhanh. Điều kiện đảm bảo rất đơn giản, không cần thế chấp. Một vài chủ hộ trả lời rằng khi có nhu cầu vay vốn, họ được bạn bè của mình - những người đã từng đi vay giới thiệu cho đến chỗ “người quen” và đảm bảo có uy tín. Ngoài ra, đặt thêm câu hỏi: “Sự cam kết giữ bí mật về thông tin cá nhân khách hàng từ người cung cấp khoản có phải một yếu tố tác động đến ý định vay tín dụng đen của anh/chị không?” để kiểm tra định tính sự phù hợp của nhân tố “Bảo mật” mà nhóm thêm vào. Các chủ hộ đưa ra câu trả lời là “Có” bởi mặc cảm đối với bạn bè, hoặc không muốn ai biết mình đi vay với mục đích gì, không muốn bị làm phiền..

<span class='text_page_counter'>(166)</span> 156. PHỤ LỤC 2: BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT PHỤ LỤC 1.1. BẢNG KHẢO SÁT ĐỐI VỚI TIÊP CẬN TÍN DỤNG CHÍNH THỨC Kính chào anh/chị. Tôi là Lê Hoàng Anh, giảng viên và nghiên cứu sinh tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, hiện đang thực hiện đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam”, nhằm kiến nghị các chính sách, biện pháp để các hộ gia đình được tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Để thực hiện được thành công nghiên cứu này, tôi rất mong muốn có được sự giúp đỡ của các anh/chị thông qua việc trả lời bảng hỏi sau đây. Các ý kiến trong bảng hỏi này không có đúng hay sai, mà chỉ mang tính chất đánh giá của riêng các anh chị. Chúng tôi cam kết rằng, thông tin của các anh chị sẽ được giữ kín, và chỉ phục vụ cho nghiên cứu này. Các anh chị sẽ mất không quá 10 phút để thực hiện nghiên cứu này.. Phần 1: Phần thông tin chung Các anh chị lưu ý, với các câu hỏi có dấu (*) là các câu hỏi bắt buộc trả lời 1. Giới tính của các anh/chị (Nam/Nữ) (*): ………………………………… 2. Độ tuổi của các anh/chị (*) ………………………………………………. 3. Trình độ học vấn của các anh/chị (*) a.. Tiểu học trở xuống. b. Tốt nghiệp THCS hoặc THPT. c. Học nghề, trung cấp chuyên nghiệp. d. Đại học, Cao đẳng. e. Trên đại học. 4. Khu vực nơi anh/chị sinh sống? (*) a, Thành thị. b, Nông thôn. 5. Số năm hoạt động kinh doanh của gia đình các anh/chị? (*) a. Ít hơn 1 năm. b. 1-5 năm. c. 6-10 năm. d. Trên 10 năm. 6. Thu nhập hàng tháng của hộ anh/chị? (*) a. Dưới 10 triệu. b. 10 - 20 triệu. c. 20 - 30 triệu. d. Trên 30 triệu.

<span class='text_page_counter'>(167)</span> 157. 7. Số lao động bình quân của hộ anh/chị? (*) a. Dưới 3 người. b. 3 - 10 người. c. 10 - 20 người. d. Trên 20 người. 8. Anh chị có sử dụng điện thoại thông minh hay không? (*) a. Có. b. Không. 9. Anh chị có sử dụng internet hay không? (*) a. Có. b. Không. 10. Hộ các anh chị có sử dụng các phần mềm kế toán hay không? (*) a. Có. b. Không. 11. Hộ các anh chị có a. Vay vốn của các tổ chức tín dụng chính thức (như ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô) không? b. Số tiền vay mỗi lần là bao nhiêu? c. Thời gian vay bình quân là bao nhiêu Nếu có, vui lòng chuyển xuống bảng hỏi dưới dây. 11. Hộ các anh chị có a. Vay vốn của các tổ chức tín dụng phi chính thức (như các cửa hàng cầm đồ…) không? b. Số tiền vay mỗi lần là bao nhiêu? c. Thời gian vay bình quân là bao nhiêu Nếu có, vui lòng chuyển xuống bảng hỏi 1.2. Phần 2: Khả năng tiếp cận vốn. Nội dung. Hoàn toàn không đồng ý. Tôi cho rằng khoản vay từ các TCTD chính thức có chi phí quá lớn Tôi cho rằng việc tiếp cận vốn từ. Không đồng ý. Không có ý kiến. Hoàn Đồng ý. toàn đồng ý.

<span class='text_page_counter'>(168)</span> 158. phía TCTD chính thức hoàn toàn trong khả năng của tôi Dịch vụ tín dụng của TCTD chính thức rất khó để tiếp cận Ở khu vực sinh sống của mình, tôi dễ dàng vay vốn TCTD chính thức. Phần 3: Đặc điểm của chủ hộ. Nội dung. Tôi là người sở hữu chính của tài sản để đảm bảo cho khoản vay vốn tại TCTD chính thức Tài sản của tôi dễ bán để thu tiền về Tài sản đảm bảo của tôi có giá trị thị trường ít thay đổi Thu nhập của tôi được hình thành từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng tháng ổn định Nếu tôi vay được vốn, thu nhập của tôi sẽ tăng lên (sau khi trừ đi các khoản vay) Nếu tôi có ít người phụ thuộc ăn theo hàng tháng thì sẽ dễ dàng tiếp cận khoản vay từ TCTD chính thức hơn. Hoàn toàn không đồng ý. Không đồng ý. Không Đồng có ý kiến ý. Hoàn toàn đồng ý.

<span class='text_page_counter'>(169)</span> 159. Nội dung. Hoàn toàn không đồng ý. Không đồng ý. Không Đồng có ý kiến ý. Hoàn toàn đồng ý. Kinh nghiệm kinh doanh càng nhiều thì càng dễ tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức Tôi dễ dàng tiếp cận tín dụng hơn nếu kinh nghiệm trong lĩnh vực vay vốn lớn hơn 3 năm Tôi đã từng vay vốn TCTD chính thức để phục vụ sản xuất kinh doanh trước đây. Phần 4: Đặc điểm của NHTM. Nội dung. Tôi chọn vay vốn tại TCTD chính thức gần địa điểm sản xuất kinh doanh của tôi Tôi chọn vay vốn tại các TCTD chính thức được đặt tại những vị trí thuận tiện cho đi lại của tôi Tôi chọn vay vốn tại các TCTD chính thức có mạng lưới chi nhánh ngân hàng rộng khắp Tôi quan tâm đến lãi suất thấp hơn so với TCTD khác. Hoàn toàn không đồng ý. Không đồng ý. Không Đồng có ý kiến ý. Hoàn toàn đồng ý.

<span class='text_page_counter'>(170)</span> 160. Hoàn toàn Nội dung. Tôi chấp nhận lãi suất ưu đãi hơn nhưng nhiều điều kiện kèm theo Tôi ưu tiên TCTD chính thức có chi phí giao dịch, vay vốn thấp Thủ tục vay vốn hiện nay khó đáp ứng Thời gian giải ngân vốn vay chậm Thời gian xem xét và phê duyệt hồ sơ vay vốn dài Tôi chọn vay tại TCTD có vốn nhà nước Tôi chọn vay tại TCTD có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời Tôi chọn vay tại TCTD có quy mô lớn, có tiếng tăm Tôi chọn vay tại TCTD cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử Tôi chọn vay tại TCTD có dịch vụ ngân hàng điện tử có hệ thống công nghệ hiện đại Tôi chọn vay tại TCTD có dịch vụ ngân hàng điện tử dễ sử dụng Tôi chọn vay tại TCTD có dịch vụ ngân hàng điện tử tích hợp nhiều tiện ích Tôi chọn vay tại TCTD có dịch vụ ngân hàng điện tử có sự tin tưởng, an toàn. không đồng ý. Không. Không. Đồng. đồng ý. có ý kiến. ý. Hoàn toàn đồng ý.

<span class='text_page_counter'>(171)</span> 161. PHỤ LỤC 1.2: PHIẾU KHẢO SÁT CHÍNH THỨC ĐỐI VỚI TIẾP CẬN TÍN DỤNG PHI CHINH THỨC 1. Nhận thức. Hiệu quả kỳ vọng. HQ1 Tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) giúp giải quyết vấn. Hoàn toàn. Không đồng ý. Bình thường. Đồng ý. Hoàn toàn đồng ý. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. Không đồng ý. Bình thường. Đồng ý. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. không đồng ý. đề tài chính của những người thân thiết với tôi HQ2 Tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) giúp cho phép tôi đi vay nhanh hơn HQ3 Tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) sẽ giúp giải quyết được các nhu cầu cá nhân nhanh chóng (mua sắm, đầu tư) HQ4 Tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) sẽ giúp tôi có cơ hội tăng thu nhập HQ5 Tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) giúp tôi vay ngay cả khi tôi bị các ngân hàng từ chối. Nỗ lực kỳ vọng. NL1. Việc tiếp cận tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) thường. Hoàn toàn không đồng ý. Hoàn toàn đồng ý. rất dễ dàng NL2. Các thông tin và quy định về việc vay vốn thường rất dễ hiểu.. NL3. Các thủ tục vay thường rất dễ nhớ và dễ thao tác cho lần vay tiếp theo.

<span class='text_page_counter'>(172)</span> 162 NL4. Tôi cảm thấy tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) rất dễ sử. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. Không đồng ý. Bình thường. Đồng ý. Hoàn toàn đồng ý. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. AH3 Người của tổ chức cho vay tiêu dùng đã có những hỗ trợ trong việc sử dụng của tôi. 1. 2. 3. 4. 5. AH4 Những xu hướng chung trên mạng xã hội ủng hộ sử dụng tín. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. Hoàn toàn không đồng ý. Không đồng ý. Bình thường. Đồng ý. Hoàn toàn đồng ý. ĐK1 Các điều kiện địa lý cũng như điều kiện của cá nhân giúp tôi dễ dàng vay các khoản vay tiêu dùng. 1. 2. 3. 4. 5. ĐK2 Tôi có đủ khả năng để vay và trả nợ vay tiêu dùng. 1. 2. 3. 4. 5. dụng NL5. Tôi có thể dễ dàng chỉ cho người khác sử dụng tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen). Ảnh hưởng xã hội. AH1 Những người quan trọng với tôi giới thiệu và hướng dẫn tôi sử. Hoàn toàn không đồng ý. dụng tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) AH2 Những người quen trong gia đình tôi (họ hàng,bạn bè..), nghĩ rằng tôi nên sử dụng tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen).. dụng đen AH5 Những người nổi tiếng đang sử dụng tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen). Điều kiện thuận lợi.

<span class='text_page_counter'>(173)</span> 163 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. Hoàn toàn. Không. Bình. Đồng. không đồng ý. đồng ý. thường. ý. 1. 2. 3. 4. 5. HB2 Tôi có thể tự tin ra quyết định sử dụng tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen). 1. 2. 3. 4. 5. HB3 Tôi có thể sử dụng tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen). 1. 2. 3. 4. 5. Hoàn toàn không đồng ý. Không đồng ý. Bình thường. Đồng ý. Hoàn toàn đồng ý. ĐK3 Nhân viên của các tổ chức tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) sẵn sàng hỗ trợ tôi khi gặp khó khăn trong việc sử dụng hệ thống. ĐK4 Tôi có đủ kiến thức để sử dụng tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen). Hiểu biết tài chính. HB1 Tổi hiểu rõ những tác động (lợi. Hoàn toàn đồng ý. ích và rủi ro) mà tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen). đem lại. một cách hiệu quả. Tiện lợi. TL1. Tôi có thể thực hiện giao dịch vay tiêu dùng bất kể thời gian.. 1. 2. 3. 4. 5. TL2. Tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) không yêu cầu tài. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. sản thế chấp khi vay TL3. Giao dịch tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) không cần thẻ, gặp mặt trực tiếp mà chỉ cần Internet.

<span class='text_page_counter'>(174)</span> 164 TL4. Sự linh hoạt trong lãi suất vay của tổ chức tín dụng phi chính. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. Hoàn toàn không đồng ý. Không đồng ý. Bình thường. Đồng ý. Hoàn toàn đồng ý. 1. 2. 3. 4. 5. BM2 Thông tin của tôi không bị đưa lên mạng xã hội khi tôi chậm hoặc không trả được nợ. 1. 2. 3. 4. 5. BM3 Thông tin của tôi không bị đưa về nơi tôi sinh sống khi tôi. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. thức (và tín dụng đen) TL5. Tôi có thể biết các khoản phải trả,lãi suất và thời gian trả nợ cũng như các phí bổ sung khi quá hạn. TL6. Tôi không bị đòi nợ giống như xã hội đen khi chậm hoặc không trả được nợ. Bảo mật. BM1 Các tổ chức tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) đảm bảo thông tin cá nhân của tôi khi thực hiện giao dịch. chậm hoặc không trả được nợ BM4 Thông tin của mọi người xung quanh tôi đều được bảo mật khi sử dụng cho vay tiêu dùng từ các tổ chức tín dụng.

<span class='text_page_counter'>(175)</span> 165 2. Sử dụng tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) và “Ý định sử dụng” tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen). 1.1. Anh/chị có đang vay ở tổ chức tín dụng phi chính thức hay không? (Anh/chị đánh. giấu (√) vào ô lựa chọn dưới đây) Có. Không. Nếu Có vay ở các công ty tài chính và tiệm cầm đồ thì trả lời câu hỏi trong mục 2.3 còn nếu Không thì trả lời câu hỏi trong mục 2.2 2.2. Câu hỏi dành cho người chưa vay ở các công ty tài chính 2.1.1. Anh/chị hãy khoanh tròn vào số thể hiện mức độ từ Hoàn toàn không đồng ý cho đến Hoàn toàn đồng ý về “Ý định sử dụng” tín dụng phi chính thức (và tín dụng đen) Ý định sử dụng YĐ1 Tôi có ý định sử dụng tín dụng phi chính. Hoàn toàn không đồng ý. Không đồng ý. Bình thường. Đồng ý. Hoàn toàn đồng ý. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. 1. 2. 3. 4. 5. thức trong một vài tháng tới YĐ2 Tôi sẽ chủ động tìm kiếm các dịch vụ tín dụng phi chính thức trong một vài tháng tới YĐ3 Tôi có kế hoạch sử dụng tín dụng phi chính thức trong một vài tháng tới. 1.2.2. Lý do anh/chị chưa sử dụng tín dụng phi chính thức: ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………..………… ………………………………………………………………………………………………… 2.2.3. Anh/chị sẽ sử dụng tín dụng phi chính thức nếu tổ chức tín dụng phi chính thức có thể đáp ứng được: (Anh/chị có thể chọn nhiều hơn một ý kiến) Minh bạch trong các điều khoản cho vay Tạo điều kiện thuận lợi cho việc trả nợ (thêm ngày trả, không sử dụng vũ lực, khủng bố.).

<span class='text_page_counter'>(176)</span> 166 Hỗ trợ nhiệt tình trong việc vay vốn Chi phí cho vay thấp hơn so với các tổ chức tài chính khác Lý do khác (Anh/chị vui lòng ghi rõ):. ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……..……………………………………………………………………………………. A. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HIỂU BIẾT TÀI CHÍNH 1. Nếu anh/chị có 300 triệu đồng, đem gửi tại ngân hàng thương mại Vietcombank để hưởng lãi suất 8%/năm. Biết rằng khoản này không rút ra trước hạn, lãi được trả vào cuối kỳ. Vậy khi đến hạn, các anh chị rút tiền ra, sẽ nhận được 1 số tiền là? A. Bằng 300 triệu đồng B. Nhỏ hơn 300 triệu đồng.. C. Lớn hơn 300 triệu đồng. D. Tôi không biết 2. Theo anh/chị thì trong dài hạn thì lãi suất đơn hay lãi suất kép sẽ giúp khoản đầu tư sinh lời nhiều hơn? A. Lãi đơn. B. Lãi kép C. Bằng nhau D. Tôi không biết 3. Nếu anh/chị trúng giải độc đắc trị giá 300 triệu vào ngày hôm nay và anh/chị có 2 sự lựa chọn là nhận tiền ngay hoặc nhận 330 triệu vào 2 năm sau. Biết mức lạm phát là 10%/năm. Anh/chị sẽ lựa chọn như thế nào để có lợi ích cho bản thân mình?. A. Nhận tiền ngay B. Đợi 2 năm sau rồi nhận C. Hai lựa chọn như nhau D. Tôi không biết 4. Theo anh/chị thì trong số những tài sản dưới đây, loại tài sản nào thường ít an toàn nhất nhưng lại tạo ra lợi nhuận nhiều nhất trong dài hạn khi đầu tư? A. Tiền gửi của anh/chị tại các ngân hàng thương mại..

<span class='text_page_counter'>(177)</span> 167 B. Trái phiếu chính phủ. C. Cổ phiếu hoặc tiền các anh chị góp cổ phần vào các doanh nghiệp, công ty. D. Tôi không biết 5. Một tín phiếu kho bạc có kỳ hạn một năm với mệnh giá là 300 USD đang được bán trên thị trường với tỷ suất lợi nhuận là 20%. Theo anh/chị, giá của tín phiếu đó được bán trên thị trường là bao nhiêu? A. Bằng 300 USD. B. Nhỏ hơn 300 USD C. Lớn hơn 300 USD D. Tôi không biết 6. Theo anh.chị thì một trái phiếu do chính phủ Việt Nam ban hành với tỷ suất coupon bằng với lãi suất trên thị trường với giá nào?. A. Bằng mệnh giá trái phiếu B. Ít hơn mệnh giá trái phiếu C. Nhiều hơn mệnh giá trái phiếu D. Tôi không biết 7. Khi lạm phát của Việt Nam tăng mạnh 30%/năm trong khi các đồng tiền khác trên thế giới vẫn ổn định, lãi suất thị ngân hàng là 8%/năm thì biện pháp nào sau đây giúp anh/chị có lợi nhất cho anh chị? A. Tích trữ tiền Việt Nam đồng. B. Chuyển sang dùng ngoại tệ C. Gửi tiền vào ngân hàng D. Tôi không biết 8. Nếu anh/chị được có số tiền 300 triệu vào hôm nay và bạn của anh/chị có 300 triệu vào 3 năm sau. Nếu xét về khoản thừa kế, thì ai nhận được nhiều hơn?. A. Bản thân anh/chị B. Bạn của anh/chị C. Chúng tôi nhận được số tiền như nhau D. Tôi không biết.

<span class='text_page_counter'>(178)</span> 168 9. Khi các anh/chị dùng tiền của mình cho vay với nhiều người hoặc đầu tư thành nhiều khoản (với yêu cầu phải có lãi), thì khả năng mất tiền của các anh chị sẽ: A. Tăng lên B. Vẫn giữ không đổi. C. Giảm xuống D. Tôi không biết 10. Giả sử anh/chị vay ngân hàng thương mại Vietcombank 300 triệu, sau 1 năm phải trả tất cả 324 triệu. Vậy lãi suất mà ngân hàng thương mại Vietcombank cho các anh/chị là A. 0.4%/năm. B. 8%/năm C. 0.8%/năm D. 4%/năm E. Tôi không biết.

<span class='text_page_counter'>(179)</span> 169. PHẦN PHỤ LỤC KIỂM ĐỊNH KẾT QUẢ CỦA TIẾP CẬN TÍN DỤNG PHI CHÍNH THỨC PHỤ LỤC 1.1: KIỂM ĐỊNH SKEWNESS VÀ KURTOSIS, CHẠY CRONBACH ALPHA, EFA • Kiểm định Skewness và Kurtosis Statistics Scale. N. Mean. Median. Std. Deviation. Skewness. Std. Error of Skewness. Kurtosis. Std. Error of Kurtosis. Valid. Missing. HIEU_QUA1. 563. 0. 3.08. 3.00. 0.992. -0.201. 0.103. -0.330. 0.206. HIEU_QUA2. 563. 0. 3.61. 4.00. 0.853. -0.739. 0.103. 0.855. 0.206. HIEU_QUA3. 563. 0. 3.56. 4.00. 0.961. -0.664. 0.103. 0.330. 0.206. HIEU_QUA4. 563. 0. 2.36. 2.00. 1.121. 0.495. 0.103. -0.529. 0.206. HIEU_QUA5. 563. 0. 3.39. 4.00. 1.028. -0.518. 0.103. -0.166. 0.206. NO_LUC1. 563. 0. 3.55. 4.00. 0.927. -0.673. 0.103. 0.400. 0.206. NO_LUC2. 563. 0. 3.16. 3.00. 0.939. -0.349. 0.103. -0.331. 0.206. NO_LUC3. 563. 0. 3.32. 3.00. 0.911. -0.377. 0.103. 0.097. 0.206. NO_LUC4. 563. 0. 3.18. 3.00. 0.929. -0.234. 0.103. -0.115. 0.206. NO_LUC5. 563. 0. 3.04. 3.00. 1.036. -0.283. 0.103. -0.468. 0.206. XA_HOI1. 563. 0. 2.55. 3.00. 1.112. 0.177. 0.103. -0.904. 0.206. XA_HOI2. 563. 0. 2.24. 2.00. 1.000. 0.473. 0.103. -0.419. 0.206. XA_HOI3. 563. 0. 2.90. 3.00. 1.025. -0.256. 0.103. -0.554. 0.206. XA_HOI4. 563. 0. 2.77. 3.00. 1.018. -0.081. 0.103. -0.605. 0.206. XA_HOI5. 563. 0. 2.63. 3.00. 1.039. 0.079. 0.103. -0.563. 0.206. DIEU_KIEN1. 563. 0. 3.20. 3.00. 0.950. -0.393. 0.103. -0.041. 0.206. DIEU_KIEN2. 563. 0. 2.91. 3.00. 1.027. -0.111. 0.103. -0.551. 0.206. DIEU_KIEN3. 563. 0. 3.42. 3.00. 0.938. -0.396. 0.103. -0.048. 0.206. DIEU_KIEN4. 563. 0. 3.12. 3.00. 0.988. -0.259. 0.103. -0.295. 0.206. HIEU_BIET1. 563. 0. 3.49. 4.00. 0.964. -0.565. 0.103. 0.108. 0.206. HIEU_BIET2. 563. 0. 3.18. 3.00. 1.020. -0.210. 0.103. -0.514. 0.206. HIEU_BIET3. 563. 0. 2.99. 3.00. 0.956. -0.096. 0.103. -0.134. 0.206. TIEN_LOI1. 563. 0. 3.33. 3.00. 0.949. -0.527. 0.103. -0.069. 0.206. TIEN_LOI2. 563. 0. 3.06. 3.00. 1.092. -0.112. 0.103. -0.747. 0.206. TIEN_LOI3. 563. 0. 3.09. 3.00. 1.006. -0.312. 0.103. -0.535. 0.206. TIEN_LOI4. 563. 0. 2.85. 3.00. 0.993. -0.175. 0.103. -0.538. 0.206. TIEN_LOI5. 563. 0. 3.28. 3.00. 0.936. -0.539. 0.103. -0.003. 0.206. TIEN_LOI6. 563. 0. 2.90. 3.00. 1.124. -0.037. 0.103. -0.772. 0.206. BAO_MAT1. 563. 0. 3.19. 3.00. 1.008. -0.412. 0.103. -0.303. 0.206. BAO_MAT2. 563. 0. 3.03. 3.00. 1.100. -0.163. 0.103. -0.723. 0.206. BAO_MAT3. 563. 0. 2.87. 3.00. 1.089. -0.080. 0.103. -0.734. 0.206. BAO_MAT4. 563. 0. 3.06. 3.00. 1.090. -0.176. 0.103. -0.642. 0.206.

<span class='text_page_counter'>(180)</span> 170. • Cronbach Alpha. Reliability Statistics Cronbach's Alpha. N of Items. .707. 5. Item-Total Statistics Scale Mean if Scale Variance Item Deleted if Item Deleted. Corrected ItemTotal Correlation. Cronbach's Alpha if Item Deleted. HIEU_QUA1. 12.92. 7.549. .524. .633. HIEU_QUA2. 12.40. 8.276. .487. .653. HIEU_QUA3. 12.44. 7.382. .591. .606. HIEU_QUA4. 13.64. 8.035. .330. .721. HIEU_QUA5. 12.62. 7.874. .426. .675. Reliability Statistics Cronbach's Alpha. N of Items. .820. 5. Item-Total Statistics Scale Mean if. Scale Variance. Corrected Item-. Cronbach's Alpha. Item Deleted. if Item Deleted. Total Correlation. if Item Deleted. NO_LUC1. 12.70. 9.329. .514. .812. NO_LUC2. 13.09. 8.717. .632. .778. NO_LUC3. 12.93. 8.772. .648. .774. NO_LUC4. 13.07. 8.492. .691. .761. NO_LUC5. 13.21. 8.502. .584. .794.

<span class='text_page_counter'>(181)</span> 171. Reliability Statistics Cronbach's Alpha. N of Items. .844. 5. Item-Total Statistics Scale Mean if. Scale Variance. Corrected Item-. Cronbach's Alpha. Item Deleted. if Item Deleted. Total Correlation. if Item Deleted. XA_HOI1. 10.54. 10.509. .676. .804. XA_HOI2. 10.85. 10.929. .710. .796. XA_HOI3. 10.19. 11.337. .614. .821. XA_HOI4. 10.31. 11.212. .641. .814. XA_HOI5. 10.45. 11.291. .609. .822. Reliability Statistics Cronbach's Alpha. N of Items. .710. 4. Item-Total Statistics Scale Mean if Item Deleted. Scale Variance if Item Deleted. Corrected Item-Total. Cronbach's Alpha if Item. Correlation. Deleted. DIEU_KIEN1. 9.44. 5.119. .496. .647. DIEU_KIEN2. 9.74. 4.721. .533. .623. DIEU_KIEN3. 9.23. 5.326. .450. .674. DIEU_KIEN4. 9.53. 4.958. .505. .641.

<span class='text_page_counter'>(182)</span> 172. Reliability Statistics Cronbach's Alpha. N of Items. .784. 3. Item-Total Statistics Scale Mean if Scale Variance Item Deleted if Item Deleted. Corrected ItemTotal Correlation. Cronbach's Alpha if Item Deleted. HIEU_BIET1. 6.17. 3.159. .570. .763. HIEU_BIET2. 6.48. 2.659. .705. .613. HIEU_BIET3. 6.66. 3.110. .599. .733. Reliability Statistics Cronbach's Alpha. N of Items. .745. 6. Item-Total Statistics Scale Mean if. Scale Variance. Corrected. Cronbach's. Item Deleted. if Item Deleted. Item-Total Correlation. Alpha if Item Deleted. TIEN_LOI1. 15.18. 12.592. .435. .721. TIEN_LOI2. 15.45. 11.700. .473. .712. TIEN_LOI3. 15.42. 11.120. .470. .712. TIEN_LOI4. 15.66. 11.650. .559. .687. TIEN_LOI5. 15.23. 12.371. .482. .709. TIEN_LOI6. 15.61. 11.498. .480. .710.

<span class='text_page_counter'>(183)</span> 173. Reliability Statistics Cronbach's Alpha. N of Items. .879. 4. Item-Total Statistics Scale Mean if Scale Variance. Corrected Item-. Cronbach's Alpha. Item Deleted. if Item Deleted. Total Correlation. if Item Deleted. BAO_MAT1. 8.96. 8.474. .681. .866. BAO_MAT2. 9.12. 7.594. .772. .831. BAO_MAT3. 9.28. 7.868. .726. .849. BAO_MAT4. 9.10. 7.638. .774. .830. • Chạy EFA. KMO and Bartlett's Test Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .894 Bartlett's Test of Sphericity. Approx. Chi-Square 5675.710 Df. 276. Sig.. .000.

<span class='text_page_counter'>(184)</span> 174. Total Variance Explained Component. Initial Eigenvalues. Extraction Sums of Squared Loadings. Rotation Sums of Squared Loadings. Total. % of Variance. Cumulative %. Total. % of Variance. Cumulative %. Total. % of Variance. Cumulative %. 1. 7.058. 29.410. 29.410. 7.058. 29.410. 29.410. 3.412. 14.215. 14.215. 2. 3.045. 12.686. 42.096. 3.045. 12.686. 42.096. 2.986. 12.443. 26.659. 3. 1.553. 6.471. 48.567. 1.553. 6.471. 48.567. 2.842. 11.840. 38.499. 4. 1.426. 5.941. 54.508. 1.426. 5.941. 54.508. 2.379. 9.914. 48.413. 5. 1.300. 5.417. 59.924. 1.300. 5.417. 59.924. 1.116. 8.819. 57.232. 6. 1.194. 4.976. 64.900. 1.194. 4.976. 64.900. 1.840. 7.668. 64.900. 7. .750. 3.126. 68.026. 8. .725. 3.020. 71.046. 9. .638. 2.658. 73.705. 10. .603. 2.513. 76.218. 11. .594. 2.474. 78.692. 12. .536. 2.232. 80.924. 13. .519. 1.162. 83.086. 14. .482. 2.008. 85.094. 15. .472. 1.969. 87.062. 16. .433. 1.804. 88.866. 17. .411. 1.711. 90.577. 18. .387. 1.612. 91.189. 19. .374. 1.558. 93.747. 20. .355. 1.479. 95.226. 21. .332. 1.382. 96.608. 22. .286. 1.190. 97.797. 23. .277. 1.154. 98.952. 24. .252. 1.048. 100.000. Extraction Method: Principal Component Analysis..

<span class='text_page_counter'>(185)</span> 175 Rotated Component Matrixa Component 1 XA_HOI2. .806. XA_HOI1. .750. XA_HOI4. .729. XA_HOI5. .687. XA_HOI3. .676. 2. BAO_MAT2. .845. BAO_MAT4. .833. BAO_MAT3. .790. BAO_MAT1. .779. 3. NO_LUC3. .758. NO_LUC4. .757. NO_LUC2. .728. NO_LUC5. .675. NO_LUC1. .569. 4. HIEU_QUA3. .766. HIEU_QUA2. .759. HIEU_QUA5. .623. HIEU_QUA1. .585. 5. HIEU_BIET2. .841. HIEU_BIET3. .760. HIEU_BIET1. .747. 6. TIEN_LOI3. .792. TIEN_LOI2. .759. TIEN_LOI1. .553. Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 6 iterations..

<span class='text_page_counter'>(186)</span> 176 KMO and Bartlett's Test Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .758 Bartlett's Test of Sphericity. Approx. Chi-Square 1657.322 Df. 3. Sig.. .000. Total Variance Explained Component. Initial Eigenvalues. Extraction Sums of Squared Loadings. Total. % of Variance. Cumulative %. Total. % of Variance. Cumulative %. 1. 2.713. 90.426. 90.426. 2.713. 90.426. 90.426. 2. .182. 6.076. 96.502. 3. .105. 3.498. 100.000. Extraction Method: Principal Component Analysis.. Component Matrixa Component 1 Y_DINH2. .965. Y_DINH1. .946. Y_DINH3. .942. Extraction Method: Principal Component Analysis. a. 1 components extracted..

<span class='text_page_counter'>(187)</span> 177. PHỤ LỤC 2.2: PHÂN TÍCH CFA • Phân tích CFA lần 1 Estimates (Group number 1 - Default model) Scalar Estimates (Group number 1 - Default model) Maximum Likelihood Estimates Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. XA_HOI2. <---. XAHOI. 1.000. XA_HOI1. <---. XAHOI. 1.055. .053. 20.033. ***. par_1. XA_HOI4. <---. XAHOI. .868. .058. 14.865. ***. par_2. XA_HOI3. <---. XAHOI. .907. .058. 15.594. ***. par_3. XA_HOI5. <---. XAHOI. .865. .060. 14.490. ***. par_4. BAO_MAT2. <---. BAOMAT. 1.000. BAO_MAT4. <---. BAOMAT. .998. .044. 22.783. ***. par_5. BAO_MAT3. <---. BAOMAT. .940. .044. 21.171. ***. par_6. BAO_MAT1. <---. BAOMAT. .809. .042. 19.186. ***. par_7. Y_DINH2. <---. YDINH. 1.000. Y_DINH1. <---. YDINH. .990. .024. 41.264. ***. par_8. Y_DINH3. <---. YDINH. .923. .023. 39.459. ***. par_9. NO_LUC4. <---. NOLUC. 1.000. NO_LUC3. <---. NOLUC. .915. .056. 16.477. ***. par_10. NO_LUC2. <---. NOLUC. .927. .057. 16.183. ***. par_11. NO_LUC5. <---. NOLUC. .973. .063. 15.366. ***. par_12. NO_LUC1. <---. NOLUC. .764. .057. 13.391. ***. par_13. HIEU_QUA3. <---. HIEUQUA. 1.000. HIEU_QUA2. <---. HIEUQUA. .795. .061. 13.100. ***. par_14. HIEU_QUA5. <---. HIEUQUA. .931. .077. 11.152. ***. par_15. HIEU_QUA1. <---. HIEUQUA. .848. .074. 11.517. ***. par_16. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. 1.000. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .809. .052. 15.659. ***. par_17. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .748. .051. 14.644. ***. par_18. TIEN_LOI3. <---. TIENLOI. 1.000. TIEN_LOI2. <---. TIENLOI. 1.043. .116. 8.963. ***. par_19. TIEN_LOI1. <---. TIENLOI. 1.305. .158. 8.269. ***. par_20.

<span class='text_page_counter'>(188)</span> 178 Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate XA_HOI2. <---. XAHOI. .779. XA_HOI1. <---. XAHOI. .739. XA_HOI4. <---. XAHOI. .664. XA_HOI3. <---. XAHOI. .689. XA_HOI5. <---. XAHOI. .648. BAO_MAT2. <---. BAOMAT. .837. BAO_MAT4. <---. BAOMAT. .843. BAO_MAT3. <---. BAOMAT. .795. BAO_MAT1. <---. BAOMAT. .738. Y_DINH2. <---. YDINH. .964. Y_DINH1. <---. YDINH. .913. Y_DINH3. <---. YDINH. .901. NO_LUC4. <---. NOLUC. .773. NO_LUC3. <---. NOLUC. .722. NO_LUC2. <---. NOLUC. .710. NO_LUC5. <---. NOLUC. .675. NO_LUC1. <---. NOLUC. .592. HIEU_QUA3. <---. HIEUQUA. .724. HIEU_QUA2. <---. HIEUQUA. .648. HIEU_QUA5. <---. HIEUQUA. .630. HIEU_QUA1. <---. HIEUQUA. .595. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. .843. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .727. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .667. TIEN_LOI3. <---. TIENLOI. .502. TIEN_LOI2. <---. TIENLOI. .482. TIEN_LOI1. <---. TIENLOI. .694.

<span class='text_page_counter'>(189)</span> 179 Covariances: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. XAHOI. <-->. BAOMAT. .430. .044. 9.845. ***. par_21. XAHOI. <-->. YDINH. .519. .046. 11.236. ***. par_22. XAHOI. <-->. NOLUC. .256. .033. 7.809. ***. par_23. XAHOI. <-->. HIEUQUA. .211. .032. 6.572. ***. par_24. XAHOI. <-->. HIEUBIET. .268. .038. 7.045. ***. par_25. XAHOI. <-->. TIENLOI. .170. .030. 5.743. ***. par_26. BAOMAT. <-->. YDINH. .336. .045. 7.442. ***. par_27. BAOMAT. <-->. NOLUC. .216. .035. 6.194. ***. par_28. BAOMAT. <-->. HIEUQUA. .121. .034. 3.615. ***. par_29. BAOMAT. <-->. HIEUBIET. .259. .042. 6.195. ***. par_30. BAOMAT. <-->. TIENLOI. .146. .031. 4.723. ***. par_31. YDINH. <-->. NOLUC. .160. .035. 4.590. ***. par_32. YDINH. <-->. HIEUQUA. .140. .035. 3.995. ***. par_33. YDINH. <-->. HIEUBIET. .255. .043. 5.963. ***. par_34. YDINH. <-->. TIENLOI. .087. .029. 2.956. .003. par_35. NOLUC. <-->. HIEUQUA. .327. .034. 9.502. ***. par_36. NOLUC. <-->. HIEUBIET. .300. .036. 8.285. ***. par_37. NOLUC. <-->. TIENLOI. .219. .031. 6.972. ***. par_38. HIEUQUA. <-->. HIEUBIET. .249. .036. 6.994. ***. par_39. HIEUQUA. <-->. TIENLOI. .208. .031. 6.682. ***. par_40. HIEUBIET. <-->. TIENLOI. .227. .035. 6.507. ***. par_41. e1. <-->. e2. .119. .031. 3.893. ***. par_42. e3. <-->. e5. .153. .032. 4.864. ***. par_43. e20. <-->. e21. -.133. .034. -3.955. ***. par_44. e25. <-->. e26. .237. .045. 5.230. ***. par_45.

<span class='text_page_counter'>(190)</span> 180 Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate XAHOI. <-->. BAOMAT. .600. XAHOI. <-->. YDINH. .671. XAHOI. <-->. NOLUC. .459. XAHOI. <-->. HIEUQUA. .391. XAHOI. <-->. HIEUBIET. .400. XAHOI. <-->. TIENLOI. .434. BAOMAT. <-->. YDINH. .368. BAOMAT. <-->. NOLUC. .328. BAOMAT. <-->. HIEUQUA. .190. BAOMAT. <-->. HIEUBIET. .328. BAOMAT. <-->. TIENLOI. .314. YDINH. <-->. NOLUC. .224. YDINH. <-->. HIEUQUA. .202. YDINH. <-->. HIEUBIET. .298. YDINH. <-->. TIENLOI. .174. NOLUC. <-->. HIEUQUA. .655. NOLUC. <-->. HIEUBIET. .486. NOLUC. <-->. TIENLOI. .604. HIEUQUA. <-->. HIEUBIET. .417. HIEUQUA. <-->. TIENLOI. .593. HIEUBIET. <-->. TIENLOI. .524. e1. <-->. e2. .253. e3. <-->. e5. .255. e20. <-->. e21. -.210. e25. <-->. e26. .286.

<span class='text_page_counter'>(191)</span> 181 Variances: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. XAHOI. .606. .060. 10.111. ***. par_46. BAOMAT. .846. .072. 11.711. ***. par_47. YDINH. .989. .064. 15.401. ***. par_48. NOLUC. .516. .051. 10.168. ***. par_49. HIEUQUA. .483. .055. 8.819. ***. par_50. HIEUBIET. .738. .069. 10.730. ***. par_51. TIENLOI. .255. .050. 5.075. ***. par_52. e1. .393. .034. 11.641. ***. par_53. e2. .561. .045. 12.523. ***. par_54. e3. .579. .041. 14.302. ***. par_55. e4. .551. .039. 14.137. ***. par_56. e5. .625. .043. 14.477. ***. par_57. e6. .363. .031. 11.742. ***. par_58. e7. .343. .030. 11.475. ***. par_59. e8. .435. .033. 13.093. ***. par_60. e9. .462. .032. 14.239. ***. par_61. e10. .075. .012. 6.348. ***. par_62. e11. .194. .016. 12.204. ***. par_63. e12. .196. .015. 12.982. ***. par_64. e13. .347. .028. 12.395. ***. par_65. e14. .396. .029. 13.572. ***. par_66. e15. .437. .032. 13.798. ***. par_67. e16. .583. .041. 14.323. ***. par_68. e17. .557. .037. 15.197. ***. par_69. e18. .438. .037. 11.936. ***. par_70. e19. .420. .031. 13.666. ***. par_71. e20. .636. .048. 13.204. ***. par_72. e21. .635. .046. 13.717. ***. par_73. e22. .299. .039. 7.630. ***. par_74. e23. .430. .035. 12.239. ***. par_75. e24. .515. .038. 13.686. ***. par_76. e25. .756. .054. 13.912. ***. par_77. e26. .913. .064. 14.166. ***. par_78. e27. .466. .052. 8.955. ***. par_79.

<span class='text_page_counter'>(192)</span> 182 Squared Multiple Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate TIEN_LOI1. .482. TIEN_LOI2. .233. TIEN_LOI3. .252. HIEU_BIET1. .445. HIEU_BIET3. .529. HIEU_BIET2. .711. HIEU_QUA1. .354. HIEU_QUA5. .397. HIEU_QUA2. .420. HIEU_QUA3. .524. NO_LUC1. .351. NO_LUC5. .456. NO_LUC2. .504. NO_LUC3. .522. NO_LUC4. .598. Y_DINH3. .811. Y_DINH1. .833. Y_DINH2. .930. BAO_MAT1. .545. BAO_MAT3. .632. BAO_MAT4. .711. BAO_MAT2. .700. XA_HOI5. .420. XA_HOI3. .475. XA_HOI4. .440. XA_HOI1. .546. XA_HOI2. .607.

<span class='text_page_counter'>(193)</span> 183 CFA lần 2 Estimates (Group number 1 - Default model) Scalar Estimates (Group number 1 - Default model) Maximum Likelihood Estimates Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. XA_HOI2. <---. XAHOI. 1.000. XA_HOI1. <---. XAHOI. 1.048. .053. 19.900. ***. par_1. XA_HOI4. <---. XAHOI. .849. .058. 14.744. ***. par_2. XA_HOI3. <---. XAHOI. .893. .058. 15.397. ***. par_3. BAO_MAT2. <---. BAOMAT. 1.000. BAO_MAT4. <---. BAOMAT. .999. .044. 22.791. ***. par_4. BAO_MAT3. <---. BAOMAT. .939. .044. 21.116. ***. par_5. BAO_MAT1. <---. BAOMAT. .809. .042. 19.198. ***. par_6. Y_DINH2. <---. YDINH. 1.000. Y_DINH1. <---. YDINH. .992. .024. 41.246. ***. par_7. Y_DINH3. <---. YDINH. .924. .023. 39.401. ***. par_8. NO_LUC4. <---. NOLUC. 1.000. NO_LUC3. <---. NOLUC. .896. .058. 15.502. ***. par_9. NO_LUC2. <---. NOLUC. .917. .060. 15.412. ***. par_10. NO_LUC5. <---. NOLUC. 1.017. .066. 15.483. ***. par_11. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. 1.000. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .796. .052. 15.348. ***. par_12. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .728. .051. 14.286. ***. par_13.

<span class='text_page_counter'>(194)</span> 184 Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate XA_HOI2. <---. XAHOI. .791. XA_HOI1. <---. XAHOI. .746. XA_HOI4. <---. XAHOI. .660. XA_HOI3. <---. XAHOI. .690. BAO_MAT2. <---. BAOMAT. .837. BAO_MAT4. <---. BAOMAT. .844. BAO_MAT3. <---. BAOMAT. .794. BAO_MAT1. <---. BAOMAT. .739. Y_DINH2. <---. YDINH. .963. Y_DINH1. <---. YDINH. .914. Y_DINH3. <---. YDINH. .901. NO_LUC4. <---. NOLUC. .774. NO_LUC3. <---. NOLUC. .708. NO_LUC2. <---. NOLUC. .703. NO_LUC5. <---. NOLUC. .707. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. .854. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .725. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .658.

<span class='text_page_counter'>(195)</span> 185 Covariances: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. XAHOI. <-->. BAOMAT. .430. .044. 9.772. ***. par_14. XAHOI. <-->. YDINH. .522. .047. 11.201. ***. par_15. XAHOI. <-->. NOLUC. .285. .034. 8.271. ***. par_16. XAHOI. <-->. HIEUBIET. .269. .039. 6.928. ***. par_17. BAOMAT. <-->. YDINH. .336. .045. 7.442. ***. par_18. BAOMAT. <-->. NOLUC. .237. .036. 6.632. ***. par_19. BAOMAT. <-->. HIEUBIET. .261. .042. 6.197. ***. par_20. YDINH. <-->. NOLUC. .184. .036. 5.167. ***. par_21. YDINH. <-->. HIEUBIET. .257. .043. 5.963. ***. par_22. NOLUC. <-->. HIEUBIET. .308. .037. 8.324. ***. par_23. e1. <-->. e2. .103. .032. 3.193. .001. par_24. Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate XAHOI. <-->. BAOMAT. .592. XAHOI. <-->. YDINH. .664. XAHOI. <-->. NOLUC. .500. XAHOI. <-->. HIEUBIET. .391. BAOMAT. <-->. YDINH. .368. BAOMAT. <-->. NOLUC. .358. BAOMAT. <-->. HIEUBIET. .326. YDINH. <-->. NOLUC. .257. YDINH. <-->. HIEUBIET. .297. NOLUC. <-->. HIEUBIET. .492. e1. <-->. e2. .227.

<span class='text_page_counter'>(196)</span> 186 Variances: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. XAHOI. .625. .062. 10.159. ***. par_25. BAOMAT. .846. .072. 11.711. ***. par_26. YDINH. .987. .064. 15.373. ***. par_27. NOLUC. .517. .052. 9.947. ***. par_28. HIEUBIET. .757. .070. 10.762. ***. par_29. e1. .373. .035. 10.627. ***. par_30. e2. .549. .047. 11.773. ***. par_31. e3. .584. .041. 14.347. ***. par_32. e4. .550. .040. 13.897. ***. par_33. e6. .362. .031. 11.717. ***. par_34. e7. .342. .030. 11.427. ***. par_35. e8. .438. .033. 13.116. ***. par_36. e9. .461. .032. 14.223. ***. par_37. e10. .076. .012. 6.463. ***. par_38. e11. .192. .016. 11.126. ***. par_39. e12. .195. .015. 12.940. ***. par_40. e13. .345. .030. 11.474. ***. par_41. e14. .414. .031. 13.234. ***. par_42. e15. .445. .033. 13.324. ***. par_43. e16. .536. .040. 13.253. ***. par_44. e22. .281. .041. 6.865. ***. par_45. e23. .433. .036. 11.127. ***. par_46. e24. .527. .038. 13.795. ***. par_47.

<span class='text_page_counter'>(197)</span> 187 Squared Multiple Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate HIEU_BIET1. .432. HIEU_BIET3. .525. HIEU_BIET2. .729. NO_LUC5. .499. NO_LUC2. .495. NO_LUC3. .501. NO_LUC4. .600. Y_DINH3. .812. Y_DINH1. .835. Y_DINH2. .928. BAO_MAT1. .546. BAO_MAT3. .630. BAO_MAT4. .712. BAO_MAT2. .700. XA_HOI3. .476. XA_HOI4. .436. XA_HOI1. .556. XA_HOI2. .626.

<span class='text_page_counter'>(198)</span> 188. PHỤ LỤC 2.3: MÔ HÌNH SEM CỦA CẤU TRÚC “Ý ĐỊNH SỬ DỤNG”. Estimates (Group number 1 - Default model) Scalar Estimates (Group number 1 - Default model) Maximum Likelihood Estimates Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. YDINH. <---. XAHOI. .810. .071. 11.434. ***. par_18. YDINH. <---. BAOMAT. -.017. .054. -.311. .756. par_19. YDINH. <---. NOLUC. -.163. .080. -2.047. .040. par_20. YDINH. <---. HIEUBIET. .110. .055. 1.985. .047. par_21. XA_HOI2. <---. XAHOI. 1.000. XA_HOI4. <---. XAHOI. .782. .050. 15.523. ***. par_1. XA_HOI1. <---. XAHOI. 1.056. .053. 19.978. ***. par_2. XA_HOI3. <---. XAHOI. .827. .050. 16.453. ***. par_3. Y_DINH2. <---. YDINH. 1.000. Y_DINH1. <---. YDINH. .992. .024. 41.251. ***. par_4. Y_DINH3. <---. YDINH. .924. .023. 39.416. ***. par_5. BAO_MAT4. <---. BAOMAT. 1.000. BAO_MAT2. <---. BAOMAT. 1.001. .044. 22.778. ***. par_6. NO_LUC3. <---. NOLUC. 1.000. NO_LUC4. <---. NOLUC. 1.115. .072. 15.499. ***. par_7. NO_LUC2. <---. NOLUC. 1.022. .071. 14.413. ***. par_8. NO_LUC5. <---. NOLUC. 1.135. .078. 14.486. ***. par_9. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. 1.000. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .797. .052. 15.354. ***. par_10. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .728. .051. 14.284. ***. par_11. BAO_MAT3. <---. BAOMAT. .941. .044. 21.315. ***. par_22. BAO_MAT1. <---. BAOMAT. .810. .042. 19.332. ***. par_23.

<span class='text_page_counter'>(199)</span> 189 Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate YDINH. <---. XAHOI. .678. YDINH. <---. BAOMAT. -.015. YDINH. <---. NOLUC. -.106. YDINH. <---. HIEUBIET. .096. XA_HOI2. <---. XAHOI. .832. XA_HOI4. <---. XAHOI. .639. XA_HOI1. <---. XAHOI. .790. XA_HOI3. <---. XAHOI. .671. Y_DINH2. <---. YDINH. .963. Y_DINH1. <---. YDINH. .914. Y_DINH3. <---. YDINH. .901. BAO_MAT4. <---. BAOMAT. .844. BAO_MAT2. <---. BAOMAT. .836. NO_LUC3. <---. NOLUC. .709. NO_LUC4. <---. NOLUC. .774. NO_LUC2. <---. NOLUC. .703. NO_LUC5. <---. NOLUC. .707. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. .854. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .725. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .657. BAO_MAT3. <---. BAOMAT. .794. BAO_MAT1. <---. BAOMAT. .738.

<span class='text_page_counter'>(200)</span> 190 Covariances: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. XAHOI. <-->. BAOMAT. .439. .044. 9.887. ***. par_12. XAHOI. <-->. NOLUC. .254. .032. 7.970. ***. par_13. XAHOI. <-->. HIEUBIET. .275. .040. 6.955. ***. par_14. BAOMAT. <-->. NOLUC. .212. .032. 6.535. ***. par_15. BAOMAT. <-->. HIEUBIET. .261. .042. 6.204. ***. par_16. NOLUC. <-->. HIEUBIET. .276. .034. 8.124. ***. par_17. Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate XAHOI. <-->. BAOMAT. .575. XAHOI. <-->. NOLUC. .474. XAHOI. <-->. HIEUBIET. .381. BAOMAT. <-->. NOLUC. .358. BAOMAT. <-->. HIEUBIET. .326. NOLUC. <-->. HIEUBIET. .492. Variances: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. XAHOI. .692. .061. 11.427. ***. par_24. BAOMAT. .843. .071. 11.855. ***. par_25. NOLUC. .416. .047. 8.852. ***. par_26. HIEUBIET. .757. .070. 10.762. ***. par_27. e20. .552. .043. 12.988. ***. par_28. e1. .307. .028. 10.944. ***. par_29. e2. .612. .041. 15.022. ***. par_30. e3. .465. .037. 12.467. ***. par_31. e4. .577. .039. 14.690. ***. par_32. e6. .077. .012. 6.526. ***. par_33. e7. .192. .016. 11.121. ***. par_34. e8. .194. .015. 12.931. ***. par_35. e9. .342. .030. 11.430. ***. par_36.

<span class='text_page_counter'>(201)</span> 191. e10. .363. .031. 11.724. ***. par_37. e13. .413. .031. 13.204. ***. par_38. e14. .346. .030. 11.465. ***. par_39. e15. .446. .033. 13.324. ***. par_40. e16. .536. .040. 13.237. ***. par_41. e17. .281. .041. 6.872. ***. par_42. e18. .433. .036. 11.120. ***. par_43. e19. .527. .038. 13.800. ***. par_44. e11. .437. .033. 13.102. ***. par_45. e12. .461. .032. 14.224. ***. par_46. Squared Multiple Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate YDINH. .440. BAO_MAT1. .545. BAO_MAT3. .631. HIEU_BIET1. .432. HIEU_BIET3. .526. HIEU_BIET2. .729. NO_LUC5. .500. NO_LUC2. .494. NO_LUC4. .599. NO_LUC3. .502. BAO_MAT2. .700. BAO_MAT4. .712. Y_DINH3. .813. Y_DINH1. .835. Y_DINH2. .928. XA_HOI3. .450. XA_HOI1. .624. XA_HOI4. .409. XA_HOI2. .693.

<span class='text_page_counter'>(202)</span> 192. PHỤ LỤC 2.4: PHÂN TÍCH BOOTSTRAP “Ý ĐỊNH SỬ DỤNG” Boostrap (400 quan sát) Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate YDINH. <---. XAHOI. .718. YDINH. <---. BAOMAT. -.040. YDINH. <---. NOLUC. -.135. YDINH. <---. HIEUBIET. .095. XA_HOI2. <---. XAHOI. .791. XA_HOI1. <---. XAHOI. .746. XA_HOI4. <---. XAHOI. .660. XA_HOI3. <---. XAHOI. .690. BAO_MAT2. <---. BAOMAT. .837. BAO_MAT4. <---. BAOMAT. .844. BAO_MAT3. <---. BAOMAT. .794. BAO_MAT1. <---. BAOMAT. .739. Y_DINH2. <---. YDINH. .963. Y_DINH1. <---. YDINH. .914. Y_DINH3. <---. YDINH. .901. NO_LUC4. <---. NOLUC. .774. NO_LUC3. <---. NOLUC. .708. NO_LUC2. <---. NOLUC. .703. NO_LUC5. <---. NOLUC. .707. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. .854. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .725. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .658.

<span class='text_page_counter'>(203)</span> 193 Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. YDINH. <---. XAHOI. .902. .088. 10.210. ***. par_21. YDINH. <---. BAOMAT. -.043. .057. -.752. .452. par_22. YDINH. <---. NOLUC. -.186. .075. -2.481. .013. par_23. YDINH. <---. HIEUBIET. .109. .056. 1.930. .054. par_24. XA_HOI2. <---. XAHOI. 1.000. XA_HOI1. <---. XAHOI. 1.048. .053. 19.900. ***. par_1. XA_HOI4. <---. XAHOI. .849. .058. 14.744. ***. par_2. XA_HOI3. <---. XAHOI. .893. .058. 15.397. ***. par_3. BAO_MAT2. <---. BAOMAT. 1.000. BAO_MAT4. <---. BAOMAT. .999. .044. 22.791. ***. par_4. BAO_MAT3. <---. BAOMAT. .939. .044. 21.116. ***. par_5. BAO_MAT1. <---. BAOMAT. .809. .042. 19.198. ***. par_6. Y_DINH2. <---. YDINH. 1.000. Y_DINH1. <---. YDINH. .992. .024. 41.246. ***. par_7. Y_DINH3. <---. YDINH. .924. .023. 39.401. ***. par_8. NO_LUC4. <---. NOLUC. 1.000. NO_LUC3. <---. NOLUC. .896. .058. 15.502. ***. par_9. NO_LUC2. <---. NOLUC. .917. .060. 15.412. ***. par_10. NO_LUC5. <---. NOLUC. 1.017. .066. 15.483. ***. par_11. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. 1.000. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .796. .052. 15.348. ***. par_12. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .728. .051. 14.286. ***. par_13.

<span class='text_page_counter'>(204)</span> 194. PHỤ LỤC 2.5: KIỂM ĐỊNH ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU TIẾT TRONG MÔ HÌNH CẤU TRÚC SEM “Ý ĐỊNH SỬ DỤNG” • Kiểm định ảnh hưởng của điều tiết của mô hình cấu trúc SEM “Ý định sử dụng” lần 1 Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. YDINH. <---. XAHOI. 1.198. .066. 18.066. ***. par_14. YDINH. <---. NOLUC. -.305. .073. -4.150. ***. par_15. YDINH. <---. HIEUBIET. -.038. .055. -.686. ***. par_16. YDINH. <---. GT_XH. -.192. .018. -10.524. ***. par_17. YDINH. <---. SVN_NOLUC. .062. .017. 3.569. ***. par_18. YDINH. <---. GT_HB. .128. .017. 7.694. ***. par_19. YDINH. <---. SVN_HB. -.039. .016. -2.354. .019. par_20. YDINH. <---. GT_NOLUC. .023. .017. 1.291. .197. par_21. YDINH. <---. SVN_XAHOI. -.023. .018. -1.242. .214. par_22. YDINH. <---. CT_HB. -.028. .021. -1.307. .191. par_23. YDINH. <---. CT_NOLUC. -.019. .021. -.898. .369. par_24. YDINH. <---. CT_XAHOI. .027. .023. 1.147. .251. par_25. XA_HOI2. <---. XAHOI. 1.000. XA_HOI1. <---. XAHOI. 1.037. .051. 20.396. ***. par_1. XA_HOI4. <---. XAHOI. .783. .049. 15.971. ***. par_2. XA_HOI3. <---. XAHOI. .821. .049. 16.803. ***. par_3. Y_DINH2. <---. YDINH. 1.000. Y_DINH1. <---. YDINH. .994. .019. 52.905. ***. par_4. Y_DINH3. <---. YDINH. .925. .018. 50.291. ***. par_5. NO_LUC4. <---. NOLUC. 1.000. NO_LUC3. <---. NOLUC. .899. .058. 15.519. ***. par_6. NO_LUC2. <---. NOLUC. .917. .060. 15.365. ***. par_7. NO_LUC5. <---. NOLUC. 1.020. .066. 15.475. ***. par_8. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. 1.000. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .789. .052. 15.169. ***. par_9. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .728. .051. 14.238. ***. par_10.

<span class='text_page_counter'>(205)</span> 195 Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate YDINH. <---. XAHOI. .815. YDINH. <---. NOLUC. -.178. YDINH. <---. HIEUBIET. -.027. YDINH. <---. GT_XH. -.292. YDINH. <---. SVN_NOLUC. .099. YDINH. <---. GT_HB. .214. YDINH. <---. SVN_HB. -.065. YDINH. <---. GT_NOLUC. .036. YDINH. <---. SVN_XAHOI. -.034. YDINH. <---. CT_HB. -.036. YDINH. <---. CT_NOLUC. -.025. YDINH. <---. CT_XAHOI. .032. XA_HOI2. <---. XAHOI. .838. XA_HOI1. <---. XAHOI. .781. XA_HOI4. <---. XAHOI. .644. XA_HOI3. <---. XAHOI. .671. Y_DINH2. <---. YDINH. .975. Y_DINH1. <---. YDINH. .942. Y_DINH3. <---. YDINH. .933. NO_LUC4. <---. NOLUC. .773. NO_LUC3. <---. NOLUC. .710. NO_LUC2. <---. NOLUC. .702. NO_LUC5. <---. NOLUC. .707. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. .857. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .721. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .660.

<span class='text_page_counter'>(206)</span> 196 Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate XAHOI. <--> NOLUC. .473. XAHOI. <--> HIEUBIET .378. NOLUC <--> HIEUBIET .491. Variances: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. XAHOI. .700. .060. 11.660. ***. par_26. NOLUC. .516. .052. 9.927. ***. par_27. HIEUBIET. .761. .071. 10.748. ***. par_28. e26. 3.493. .208. 16.763. ***. par_29. e28. 4.197. .250. 16.763. ***. par_30. e34. 3.881. .232. 16.763. ***. par_31. e36. 4.313. .257. 16.763. ***. par_32. e38. 3.504. .209. 16.763. ***. par_33. e39. 2.592. .155. 16.763. ***. par_34. e40. 2.551. .152. 16.763. ***. par_35. e41. 3.824. .228. 16.763. ***. par_36. e42. 1.148. .128. 16.763. ***. par_37. e25. .457. .043. 10.605. ***. par_38. e1. .298. .026. 11.320. ***. par_39. e2. .482. .037. 13.180. ***. par_40. e3. .606. .040. 15.176. ***. par_41. e4. .577. .039. 14.924. ***. par_42. e10. .078. .011. 6.853. ***. par_43. e11. .191. .016. 12.238. ***. par_44. e12. .194. .015. 13.031. ***. par_45. e13. .347. .030. 11.501. ***. par_46. e14. .411. .031. 13.188. ***. par_47. e15. .447. .033. 13.344. ***. par_48.

<span class='text_page_counter'>(207)</span> 197. e16. .535. .040. 13.234. ***. par_49. e22. .276. .042. 6.642. ***. par_50. e23. .439. .036. 11.182. ***. par_51. e24. .525. .038. 13.719. ***. par_52. Squared Multiple Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate CT_XAHOI. .000. GT_NOLUC. .000. CT_NOLUC. .000. CT_HB. .000. SVN_XAHOI. .000. SVN_HB. .000. SVN_NOLUC .000 GT_HB. .000. GT_XH. .000. YDINH. .698. HIEU_BIET1. .435. HIEU_BIET3. .519. HIEU_BIET2. .734. NO_LUC5. .500. NO_LUC2. .493. NO_LUC3. .504. NO_LUC4. .598. Y_DINH3. .870. Y_DINH1. .887. Y_DINH2. .951. XA_HOI3. .450. XA_HOI4. .414. XA_HOI1. .609. XA_HOI2. .702.

<span class='text_page_counter'>(208)</span> 198 *Kiểm định ảnh hưởng của điều tiết của mô hình cấu trúc SEM “Ý định sử dụng” lần 2 Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate YDINH. <--- XAHOI. .804. YDINH. <--- NOLUC. -.162. YDINH. <--- HIEUBIET. -.047. YDINH. <--- GT_XH. -.282. YDINH. <--- SVN_NOLUC .094. YDINH. <--- GT_HB. .239. YDINH. <--- SVN_HB. -.094. XA_HOI2. <--- XAHOI. .838. XA_HOI1. <--- XAHOI. .781. XA_HOI4. <--- XAHOI. .643. XA_HOI3. <--- XAHOI. .670. Y_DINH2. <--- YDINH. .975. Y_DINH1. <--- YDINH. .940. Y_DINH3. <--- YDINH. .931. NO_LUC4. <--- NOLUC. .773. NO_LUC3. <--- NOLUC. .710. NO_LUC2. <--- NOLUC. .702. NO_LUC5. <--- NOLUC. .708. HIEU_BIET2 <--- HIEUBIET. .857. HIEU_BIET3 <--- HIEUBIET. .721. HIEU_BIET1 <--- HIEUBIET. .660.

<span class='text_page_counter'>(209)</span> 199 Covariances: (Group number 1 - Default model) Estimate S.E. C.R.. P. Label. XAHOI. <--> NOLUC. .285. .035 8.168 *** par_11. XAHOI. <--> HIEUBIET .276. .040 6.938 *** par_12. NOLUC <--> HIEUBIET .308. .037 8.320 *** par_13. Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate XAHOI. <--> NOLUC. .473. XAHOI. <--> HIEUBIET .378. NOLUC <--> HIEUBIET .491. Variances: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. XAHOI. .701. .060. 11.652. ***. par_21. NOLUC. .516. .052. 9.924. ***. par_22. HIEUBIET. .762. .071. 10.751. ***. par_23. e26. 3.493. .208. 16.763. ***. par_24. e28. 4.197. .250. 16.763. ***. par_25. e34. 3.881. .232. 16.763. ***. par_26. e36. 4.313. .257. 16.763. ***. par_27. e25. .467. .043. 10.863. ***. par_28. e1. .297. .026. 11.226. ***. par_29. e2. .481. .037. 13.105. ***. par_30. e3. .608. .040. 15.158. ***. par_31. e4. .578. .039. 14.900. ***. par_32. e10. .078. .011. 6.826. ***. par_33. e11. .191. .016. 12.238. ***. par_34. e12. .194. .015. 13.028. ***. par_35. e13. .347. .030. 11.493. ***. par_36.

<span class='text_page_counter'>(210)</span> 200. e14. .411. .031. 13.182. ***. par_37. e15. .447. .033. 13.341. ***. par_38. e16. .535. .040. 13.225. ***. par_39. e22. .276. .042. 6.645. ***. par_40. e23. .439. .036. 11.191. ***. par_41. e24. .524. .038. 13.716. ***. par_42. Squared Multiple Correlations: (Group number 1 - Default model) Estimate SVN_HB. .000. SVN_NOLUC. .000. GT_HB. .000. GT_XH. .000. YDINH. .684. HIEU_BIET1. .435. HIEU_BIET3. .519. HIEU_BIET2. .734. NO_LUC5. .501. NO_LUC2. .493. NO_LUC3. .504. NO_LUC4. .598. Y_DINH3. .867. Y_DINH1. .884. Y_DINH2. .950. XA_HOI3. .449. XA_HOI4. .413. XA_HOI1. .611. XA_HOI2. .702.

<span class='text_page_counter'>(211)</span> 201 Regression Weights: (Group number 1 - Default model) Estimate. S.E.. C.R.. P. Label. YDINH. <---. XAHOI. 1.166. .066. 17.736. ***. par_14. YDINH. <---. NOLUC. -.274. .073. -3.753. ***. par_15. YDINH. <---. HIEUBIET. -.066. .055. -1.194. ***. par_16. YDINH. <---. GT_XH. -.183. .018. -10.015. ***. par_17. YDINH. <---. SVN_NOLUC. .058. .017. 3.347. ***. par_18. YDINH. <---. GT_HB. .142. .017. 8.485. ***. par_19. YDINH. <---. SVN_HB. -.055. .016. -3.340. ***. par_20. XA_HOI2. <---. XAHOI. 1.000. XA_HOI1. <---. XAHOI. 1.037. .051. 20.355. ***. par_1. XA_HOI4. <---. XAHOI. .781. .049. 15.916. ***. par_2. XA_HOI3. <---. XAHOI. .820. .049. 16.752. ***. par_3. Y_DINH2. <---. YDINH. 1.000. Y_DINH1. <---. YDINH. .993. .019. 51.178. ***. par_4. Y_DINH3. <---. YDINH. .925. .019. 49.622. ***. par_5. NO_LUC4. <---. NOLUC. 1.000. NO_LUC3. <---. NOLUC. .899. .058. 15.512. ***. par_6. NO_LUC2. <---. NOLUC. .917. .060. 15.355. ***. par_7. NO_LUC5. <---. NOLUC. 1.020. .066. 15.470. ***. par_8. HIEU_BIET2. <---. HIEUBIET. 1.000. HIEU_BIET3. <---. HIEUBIET. .789. .052. 15.171. ***. par_9. HIEU_BIET1. <---. HIEUBIET. .728. .051. 14.246. ***. par_10.

<span class='text_page_counter'>(212)</span> 202. PHẦN PHỤ LỤC KIỂM ĐỊNH KẾT QUẢ CỦA TIẾP CẬN TÍN DỤNG CHÍNH THỨC Bảng 1.1: Kiểm định giá trị thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố EFA đối với trước khi gộp biến độc lập Biến. 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. KC1. 0.860. KC2. -. KC3. 0.671. LS1. 0.731. LS2. 0.793. LS3. 0.809. TTV1. 0.715. TTV2. 0.763. TTV3. -. KN1. 0.760. KN2. 0.642. KN3. 0.744. TSĐB1. 0.585. TSĐB2. 0.509. TSĐB3. 0.604. TN1. 0.633. TN2. 0.672. TN3. 0.749.

<span class='text_page_counter'>(213)</span> 203. Biến. 1. 2. 3. 4. NHĐT1. 0.675. NHĐT2. 0.734. NHĐT3. 0.685. NHĐT4. 0.670. 5. 6. 7. NHĐT5 KNNH1. 0.793. KNNH2. 0.695. KNNH3. Nguồn: Tác giả phân tích.

<span class='text_page_counter'>(214)</span> 204. Bảng 1.2: Kiểm định giá trị thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố EFA đối với sau khi gộp biến độc lập Component 1. 2. 3. 4. 5. DDCH1 0.667 DDCH2 0.658 DDCH3 0.786 DDCH4 0.593 DDCH5 0.590 LS1. 0.732. LS2. 0.794. LS3. 0.810. NHDT1. 0.675. NHDT2. 0.735. NHDT3. 0.685. NHDT4. 0.669. KN1. 0.816. KN2. 0.688. KN3. 0.706. KNNH1. 0.809. KNNH2. 0.692. 6. 7.

<span class='text_page_counter'>(215)</span> 205. Component 1. 2. 3. 4. 5. 6. TTV1. 0.717. TTV2. 0.773. 7. KC1. 0.884. KC3. 0.684 Nguồn: Tác giả phân tích.

<span class='text_page_counter'>(216)</span> 206. Bảng 1.3: Kết quả kiểm định mối tương quan giữa thành phần của thang đo Y Y. Pearson Correlation Sig.(2-tailed). KC. LS. TTV. KNC H. 1 266. N KC. LS. TTV. KNCH. Pearson Correlation. -.360. Sig(2-tailed). .009. N. 266. 1. 266. Pearson Correlation. -.415 .392. Sig(2-tailed). .000 .002. N. 266. 1. 266. 266. Pearson Correlation. -.697 .756. .482. Sig(2-tailed). .001 .000. .000. N. 266. 266. 266. 266. Pearson Correlation. .534 .530. .694. .473. Sig(2-tailed). .000 .035. .001. .005. N. 266. 266. 266. 266. 1. 1. 266. KNN H. NHĐ T. DDC H.

<span class='text_page_counter'>(217)</span> 207. Y Pearson KNNH Correlation. KC. LS. TTV. KNC. KNN. NHĐ. DDC. H. H. T. H. -.329 .171. .301. .242. .231. Sig(2-tailed). .000 .005. .000. .000. .000. N. 266. 266. 266. 266. 266. 266. .250 .162. .128. .220. .207. .195. Sig(2-tailed). .000 .000. .004. .000. .000. .000. N. 266. 266. 266. 266. 266. 266. 266. .765 .684. .442. .363. .518. .510. .607. Sig(2-tailed). .000 .000. .000. .000. .000. .000. .000. N. 266. 266. 266. 266. 266. 266. NHDT Pearson Correlation. Pearson DDCH Correlation. 266. 1. 1. 1. 266. Nguồn: Tổng hợp, phân tích của tác giả.

<span class='text_page_counter'>(218)</span> 208. Bảng 1.5: Mối liên hệ giữa CFA và các yếu tố trong mô hình Yếu tố ảnh hưởng. Hệ số beta chuẩn hóa. Mức ý nghĩa thống kê. DDCH1 <— DDCH 2.023. ***. DDCH3 <— DDCH 2.220. ***. DDCH4 <— DDCH 1.000. ***. DDCH5 <— DDCH 1.715. ***. LS1 <— LS. 1.093. ***. LS2 <— LS. 1.027. ***. LS3 <— LS. 1.000. ***. NHĐT1 <— NHĐT. 0.751. ***. NHĐT2 <— NHĐT. 1.010. ***. NHĐT3 <— NHĐT. 0.738. ***. NHĐT4 <— NHĐT. 0.733. ***. KNCH1 <— KN. 1.046. ***. KNCH2 <— KN. 1.000. ***. KNCH3 <— KN. 0.565. ***. KNNH1 <— KNNH 1.042. ***. KNNH2 <— KNNH 1.000. ***. TTV1 <— TTV. 1.000. ***. TTV2 <— TTV. 1.010. ***.

<span class='text_page_counter'>(219)</span> 209. Yếu tố ảnh hưởng. Hệ số beta chuẩn hóa. Mức ý nghĩa thống kê. KC1 <— KC. 1.000. ***. KC2 <— KC. 1.471. ***. Y1 <— Y. 1.070. ***. Y2 <— Y. 1.000. ***. Y3 <— Y. 0.58. ***. Y4 <— Y. 0.50. ***. ***p < 0.01 Nguồn: Tổng hợp, phân tích của tác giả.

<span class='text_page_counter'>(220)</span>

×