Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990 – 2005.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.09 KB, 43 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, xu hướng chung của tất cả các quốc gia là xây dựng một nền
kinh tế với cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Cơ cấu kinh tế chính là tiêu thức phản ảnh sự thay đổi về chất, là dấu
hiệu đàn giá, so sánh về các giai đoạn của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế được
biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng
kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu khu vực thể chế.v.v …Trong đó cơ
cấu ngành kinh tế là quan trọng nhất vì nó phản ảnh sự phát triển của phân
công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với Việt Nam, công cuộc đổi mới nền kinh tế chính thức bắt đầu từ
năm 1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi
mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung
bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ
kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó
đã giúp Việt Nam giảm nhanh đựơc tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng
nền kinh tế công nghiệp hoá hiện đại hoá, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội. Và song song với những
kết quả nảy là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tích cực: tăng
dần tỉ trọng của các ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỉ
trọng của các ngành nông – lâm – thuỷ sản.
Từ những lí do trên cho thấy được tầm quan trọng của chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế đối với sự phát triển bền vững của quốc gia. Do đó em chọn
đề tài “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với phát triển kinh tế Việt Nam
giai đoạn 1990 – 2005”.
Trong thời gian thực hiện đề tài em đã được sự hướng dẫn tận tình của
TS. Phan Thị Nhiệm. Em xin chân thành cảm ơn TS. Phan Thị Nhiệm đã giúp
đỡ em hoàn thành đề tài này. Tuy nhiên do điều kiên về thời gian và khả năng
có hạn nên không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của cô
giáo và những người quan tâm tới đề tài này.


1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ
1.1 Một số lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1.1 Khái niệm về cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế: là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ
lệ biểu hiện mối liên hệ giáa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội
chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thay đổi
mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi
phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta phân tích theo 3 nhóm
ngành chính: nông nghiệp (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp),
công nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng), dịch vụ (bao gồm các
ngành kinh tế còn lại như: thương mại, bưu điện, du lịch...).
Việc phân tích cơ cấu ngành của nền kinh tế không chỉ dừng lại ở những
biểu hiện về mặt lượng (số lượng ngành, tỷ trọng) mà quan trọng hơn là phân
tích được mặt chất của cơ cấu: vị trí, vai trò của ngành hiện tại trong nền kinh
tế, sự tương tác giữa công nghiệp và nông nghiệp trong phát triển, khả năng
hướng ngoại, quan hệ giữa cơ cấu ngành với cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu theo
thành phần kinh tế...
Mặt khác, cơ cấu ngành "luôn luôn vận động, phát triển", nhất là trong
điều kiện cơ chế thị trường. Bởi vậy, khi phân tích cơ cấu ngành cần thấy rõ
tính quy luật của sự vận động và luôn đặt ra phương hướng chuyển dịch cơ
cấu ngành cho thích ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.
1.1.1.2 Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế: là sự thay đổi có mục đích, có
định hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn

cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu
ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác hợp lý và hiệu quả hơn. Đây
không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, tỷ trọng và quan hệ giữa các ngành
mà là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở cơ cấu hiện có, do
đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ
nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Xu hướng có tính quy luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế là chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nghĩa là tỷ trọng
và vai trò của ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng nhanh còn tỷ
trọng của ngành nông nghiệp có xu hướng giảm. Kinh nghiệm trên thế giới
cho thấy muốn chuyển từ một nền nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp
đều phải trải qua các bước: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp (tỷ trọng
ngành nông nghiệp chiếm 40-60%, công nghiệp từ 10-20%, dịch vụ từ 10-
30%) sang nền kinh tế công, nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp 15-
25%, công nghiệp 25-35%, dịch vụ 40-50%) để từ đó chuyển sang nền kinh tế
công nghiệp phát triển (tỷ trọng ngành nông nghiệp dưới 10%, công nghiệp
35-40%, dịch vụ 50-60%).
1.1.1.3 Những yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành của nền
kinh tế.
- Sự phát triển các loại thị trường trong nước và thị trường quốc tế có
ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành của nền kinh tế.
Bởi lẽ, thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều xuất phát từ quan hệ cung -
cầu trên thị trường để định hướng chiến lược kinh doanh của minh. Sự hình
thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thích
ứng với các điều kiện của thị trường, dẫn tới từng bước thúc đẩy sự hình

thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Bởi vậy, sự hình thành và phát
triển đồng bộ các loại thị trường trong nước (thị trường hàng hoá dịch vụ, thị
trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ...) có tác
động mạnh đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền váng và có hiệu quả. Việc xác định
các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển phải dựa trên cơ sở xác
định lợi thế so sánh và các nguồn lực (cả trong và ngoài nước có khả năng
khai thác) để chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các ngành mà quốc gia
có lợi thế và có điều kiện phát triển mới tạo đà hội nhập và tham gia có hiệu
quả vào phân công lao động quốc tế, ví dụ như tài nguyên thiên nhiên và điều
kiện tự nhiên phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công
nghiệp du lịch, ngư nghiệp, nông nghiệp...
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Dân số lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh
tế, sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế được xem xét trên các mặt sau:
+ Kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật
mới... là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các ngành đang hoạt động, là
nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất các ngành kinh tế
quốc dân.
+ Quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng lớn
đến quy mô và cơ cấu của nhu cầu thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các
ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng.
- Môi trường thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Môi trường thể chế là biểu hiện cụ thể của nháng quan
điểm, ý tưởng và hành vi của Nhà nước can thiệp và định hướng sự phát triển
tổng thể cũng như sự phát triển các bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Vai trò

đó được thể thiện:
+ Nhà nước xây dựng và Quyết định chiến lược và kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội tổng thể của đất
nước. Đó thực chất là quá trình định hướng phân bố nguồn lực và hướng đầu
tư theo ngành.
+ Bằng hệ thống pháp luật, chính sách... Nhà nước khuyến khích hay hạn
chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư (cả trong và
ngoài nước) phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng Nhà nước đã xác
định. Ví dụ: để khuyến khích công nghiệp ô tô phát triển, trong những năm
1970 nhiều tổ hợp công nghiệp của Hàn Quốc được khuyến khích phát triển
chế tạo ô tô và xuất khẩu ô tô. Các tổ hợp này được hưởng chế độ miễn thuế
đặc biệt và trong trường hợp doanh nghiệp bị thua lỗ thì Nhà nước sẽ bù lỗ.
- Tiến bộ khoa học - công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng
sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của
chúng trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế) mà còn tạo
ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp non trẻ
công nghệ tiên tiến như: dầu khí, điện tử... do đó có triển vọng phát triển
mạnh mẽ trong tương lai.
Trên đây, chúng ta vừa xem xét một số khái niệm cơ bản cũng như các
nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Qua đó, giúp cho
chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của vấn đề để từ đó có thể rút ra những kết
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
luận mang tính giải pháp nhằm hoàn thiện cơ cấu kinh tế hợp lý trong quá
trình phát triển.
1.1.2 Vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển
kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hợp lý giúp cho việc thu được mức tăng sản xuất xã hội
lớn nhất, mới có thể phân bố hợp lý lực lượng sản xuất, phát triển các mối
quan hệ đối ngoại, đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất.

Để làm sáng tỏ kết luận trên, ta có thể phân tích ví dụ sau đây về cơ cấu
ngành sản xuất của hệ thống kinh tế - xã hội cho năm 1976 ở Việt Nam.
Bảng 1: Bảng cân đối liên ngành của Việt Nam năm 1976
ĐV: Triệu
Ngành sản xuất
Giá trị
tổng sản
lượng
Tiêu dùng sản xuất Sản
lượng
cuối
cùng
I II III
C«ng nghiÖp (I)
Nông nghiệp (II)
Các ngành sản xuất khác
(III)
X
1
= 9180
X
2
= 7940
X
3
= 6310
3850
900
1200
0

1100
1160
350
1170
250
1160
3060
5630
3600
Chi phí lao động
Lợi nhuận
Giá trị tổng sản lượng
1940
1290
9180
3550
1780
7940
2200
1530
6310
Năm
1976
Nguồn: Niên giám thống kê
Theo tỷ lệ % ta có:
Bảng 2:
I II III Cộng
Giá trị tổng sản
lượng
39.18 33.89 26,93 100

Chi phí lao động 25.22 56.16 28,62 100
Tổng số vốn đầu tư (trong và ngoài nước) có thể huy động cho năm sau
là 1878 triệu đồng và có thể phân bố cho các ngành với mức tiếp nhận cùng
hiệu quả thu được như sau:
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 3:
Công
nghiệp
Nông
nghiệp
Các ngành
khác
Mức % tiếp nhận
Hiệu quả (Mức tăng sản
lượng /1 triệu đồng vốn đầu tư)
25 %- 38%
20%
25 – 35%
25%
30 – 42%
22%
Vượt quá mức, hiệu quả là 15% 22% 20%
Nguồn: Niên giám thống kê.
Ta xét 2 phương án phân bố vốn đầu tư như sau:
Bảng 4:
Vốn đầu tư Công nghiệp Nông nghiệp Các ngành khác
1878 35%(657,3) 25%(469,5) 40%(751,2)
Hiệu quả 131,46 117,38 165,26
Giá trị tổng sản lượng 9311,46 8057,38 6475,26

Bảng 5:
Vốn đầu tư
Công
nghiệp
Nông nghiệp Các ngành khác
1878 40% (751,2) 20% (375,6) 40% (751,2)
Hiệu quả 112,68 82,63 150,24
Giá trị tổng sản lượng 9292,68 8022,63 6460,24
Với 2 phương án phân bổ vốn đầu tư trên, ta thu được hai phương án kế
hoạch của năm 1977 như sau: (Bảng 6 và bảng 7 có hiệu quả khác nhau với
cơ cấu khác nhau - với ký hiệu: Xi (i = I, II, II) là giá trị tổng sản phẩm của
ngành i; CPLĐ: Chi phí lao động; LN : lợi nhuận; GTTSL : giá trị tổng sản
lượng.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 6: Bảng cân đối liên ngành năm 1977 (Phương án I)
Đơn vị: Triệu đồng
Ngành sản xuất
Giá trị
tổng sản
lượng
Tiêu dùng sản xuất
Sản lượng
cuối cùng
I II III
X
1
X
2
X

3
9311
8057,38
6475,26
3905
913
12172
1116,76
1177,15
355,17
1200,64
259
1191,45
CPLĐ
LN
GTTSL
1967,8
1308,48
9311,46
3602,48
1806,32
8057,38
2259,87
1564,3
6475,26
Năm 1977
Phương
án 1
Bảng 7: Bảng cân đối liên ngành năm 1977 (Phương án II)
Đơn vị: Triệu đồng

Ngành sản
xuất
Giá trị tổng
sản lượng
Tiêu dùng sản xuất
Sản lượng
cuối cùng
I II III
X
1
X
2
X
3
9292,6
8022,63
-
3897,3
910,70
1214,6
1111,13
1172,11
1214,6
1195,14
258,41
1188,68
CPLĐ
LN
GTTSL
1963,58

1306,54
9292,68
3586,12
1797,07
8022,63
2254,62
1563,39
6460,24
Năm 1977
Phương
án 2
Như vậy, với cùng một mức vốn đầu tư như nhau (2878 triệu) nếu đầu tư
theo tỷ lệ khác nhau vào các ngành khác nhau, sẽ dẫn tới kết cấu chi phí lao
động khác nhau và hiệu quả thu được mức tăng sản phẩm xã hội khác nhau
(Bảng 6,7,8)
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phương án I Phương án II
I II III I II III
Kết cấu vốn 35% 25% 40% 40% 20% 40%
Kết cấu lao động 25,13% 46% 28,87% 25,16% 45,95% 28,89%
Mức tăng TSL + 414, 1 triệu đồng + 345, 28 triệu đồng
Ta thấy phương án I hơn hẳn phương án II mặc dù số vốn đầu tư như nhau.
Chính vì vai trò cơ cấu kinh tế trong việc phát triển, cho nên có nhiều tác
giả đã nói rằng: thực chất của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là chiến
lược không ngừng hoàn thiện và chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
1.1.3 Lý luận về mối liên hệ giũa chuyển dịch cơ cấu và quá trình phát
triển nền kinh tế.
Quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thường được
xem xét như là một quá trình làm thay đổi thu nhập bình quân đầu người. Mặc

dù có nhiều thay đổi trong quan niệm về phát triển và tăng trưởng nhưng chỉ
tiêu trên vẫn được coi trọng và làm thước đo cho sự phát triển kinh tế. Một xu
hướng mang tính quy luật là cùng với sự phát triển của kinh tế là một quá
trình thay đổi về cơ cấu kinh tế, tức là một sự thay đổi tương đối về mức đóng
góp, tốc độ phát triển của từng thành phần, từng yếu tố riêng về cấu thành nên
toàn bộ kinh tế. Một trong những cơ cấu kinh tế được quan tâm và nghiên cứu
nhiều trong mối liên hệ với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế là cơ
cấu ngành. Ngay từ cuối thế kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E.Engle đã
phát hiện ra mối quan hệ giữa phát triển kinh tế (thu nhập bình quân tăng lên)
với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Theo E.Engle, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của
họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông
nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông
nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.
Quy luật E.Engle được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm
nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu
tiêu dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm
là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và
việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ
phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho
hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng
cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập, tức là tỷ trọng của ngành công
nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế đã có sự thay đổi
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engle đã làm rõ tính xu
hướng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nói
riêng trong quá trình phát triển.
1.2 Cơ cấu ngành kinh tế trong các lý thuyết phát triển.
Với tư cách là loại lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đường phát

triển kinh tế của các nước chậm phát triển hiện đang tiến hành công nghiệp
hoá, các lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tới một trong
những vấn đề cơ bản nhất của công nghiệp hoá là chuyển dịch cơ cấu ngành.
Song do bản thân thế giới chậm phát triển bao gồm nhiều quốc gia với những
đặc điểm đặc thù khác nhau. Do xuất phát từ các quan điểm và các góc độ
nghiên cứu khác nhau nên vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình
công nghiệp hoá của các loại lý thuyết phát triển cũng rất khác nhau. Có thể
thấy điều này qua một số lý thuyết phát triển chủ yếu sau:
1.2.1. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế.
Năm 1960 cuốn "Các giai đoạn phát triển kinh tế" của nhà kinh tế học
Mỹ Walt -Rostow đã tạo ra sự quan tâm lớn về nghiên cứu quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế của các nước. Theo W.Rostow, nhìn chung quá
trình phát triển kinh tế của một nước có thể chia ra 5 giai đoạn: Xã hội truyền
thống, chuẩn bị cất cánh, trưởng thành và mức tiêu dùng cao.
* Giai đoạn I. Xã hội truyền thống: Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này
là sản xuất nông nghiệp giá vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh tế. Năng suất
lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, khoa học - kỹ thuật
chưa phát triển mạnh. Hoạt động chung của xã hội kém linh hoạt: sản xuất
nông nghiệp còn mang tính tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hoá chưa phát triển.
Tuy vậy xã hội truyền thống không hoàn toàn là tĩnh tại, mức sản lượng
có thể là vẫn tăng liên tục, do diện tích canh tác được mở rộng, hoặc do áp
dụng những cải tiến trong sản xuất như: xây dựng các hệ thống thuỷ lợi, áp
dụng giống cây trồng mới. Song nhìn chung nền kinh tế không có những biến
đổi mạnh. Đặc trưng cơ cấu ngành kinh tế là: nông - công nghiệp và công
nghiệp còn rất nhỏ bé, chậm phát triển.
* Giai đoạn II. Chuẩn bị cất cánh: Đây được coi là thời kỳ quá độ giữa
xã hội truyền thống và sự cất cánh. Trong giai đoạn này những điều kiện cần
thiết để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện. Đó là những biểu hiện về khoa học - kỹ
thuật đã bắt đầu được áp dụng vào sản xuất cả trong nông nghiệp và công
nghiệp với những thay đổi quan trọng là trong xã hội đã xuất hiện nháng khu

vực "đầu tầu" có tác động lôi kéo nền kinh tế. Bắt đầu phát triển các ngành
công nghiệp đòi hỏi phải sử dụng nhiều lao động như các ngành dệt, may, đồ
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
da, chế biến nông sản và các hàng tiêu dùng khác... vốn đầu tư ít. Giáo dục
được mở rộng và có những cải tiến phù hợp để phù hợp với những yêu cầu
mới của sự phát triển. Nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của
ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vốn. Tiếp đó giao lưu hàng
hoá trong và ngoài nước phát triển đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao
thông vận tải, thông tin liên lạc.
Tuy vậy, tính cả các hoạt động này chưa vượt qua được phạm vi giới hạn
của một nền kinh tế với những đặc trưng của phương thức sản xuất truyền
thống, năng suất thấp. Xã hội truyền thống vẫn tồn tại song song với các hoạt
động kinh tế hiện đại đang phát triển.
* Giai đoạn III. Cất cánh: Đây là giai đoạn mà lực cản của xã hội truyền
thống và các thế lực chống đối với sự phát triển đã bị đẩy lùi. Các lực lượng
tạo ra sự tiến bộ về kinh tế đang lớn mạnh và trở thành lực lượng chiếm tỷ
trọng lớn trong xã hội. Trong giai đoạn này khoa học - kỹ thuật tác động
mạnh vào công nghiệp và nông nghiệp; công nghiệp giá vai trò “đầu tầu”, có
tốc độ tăng trưởng cao, đem lại lợi nhuận lớn. Ngoài ra, ở giai đoạn này hầu
hết các nước đã phát huy các ngành công nghiệp mũi nhọn để chiếm lĩnh đỉnh
cao về khoa học - công nghệ của lĩnh vực này và tiến hành chuyển giao cho
các nước đi sau. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong giai đoạn này đã phát
triển đến một trình độ cao hơn. Ví dụ, nước Anh tiến hành công nghiệp hoá từ
cuối thế kỳ XVII với sự khởi sắc của ngành công nghiệp dệt và đến nay vẫn là
ngành có ưu thế. Đức, Hoa Kỳ, Bỉ, Pháp, Thuỵ Điển là những nước tiến hành
công nghiệp hoá ở vào thời kỳ những năm 40-50 của thế kỷ XIX và chiếm giữ
thế mạnh là ngành cơ khí chế tạo. ở trên ta mới xét đến đặc điểm về cơ cấu
ngành, ngoài ra ở giai đoạn này còn một số đặc điểm về mặt kinh tế - xã hội
như: tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng từ 5 đến 10% và cao hơn trong thu nhập

quốc dân thuần tuý (NNP), ngoài vốn đầu tư huy động trong nước, vốn đầu tư
huy động từ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng.
* Giai đoạn IV. Trưởng thành: Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là:
Tỷ lệ đầu tư đã tăng từ 10 đến 20% thu nhập quốc dân thuần tuý; khoa học -
kỹ thuật được ứng dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động kinh tế. Nhiều ngành
công nghiệp mới, hiện đại phát triển; nông nghiệp được cơ giới hoá, đạt được
năng suất lao động cao; nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh
tế trong nước hoà dòng vào thị trường quốc tế.
* Giai đoạn V. Tiêu dùng cao: Trong giai đoạn này có 2 xu hướng cơ
bản về kinh tế. Thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh tới mức phần lớn
dân cư có nhu cầu tiêu dùng vượt quá đòi hỏi cơ bản về ăn, mặc, ở. Thứ hai là
cơ cấu lao động thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ lệ dân cư đô thị và tăng tỷ
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lệ lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao. Về mặt xã hội các chính
sách kinh tế hướng vào phúc lợi xã hội nhằm tạo ra nhu cầu cao về hàng tiêu
dùng lâu bền và các dịch vụ xã hội của nhóm dân cư. Xét về cơ cấu ngành thì
tỷ trọng của ngành dịch vụ đang có xu hướng tăng lên, vượt qua tỷ trọng của
ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Theo lý thuyết phân kỳ
phát triển của W.Rostow thì hầu hết các nước đang phát triển đang tiến hành
công nghiệp hoá hiện nay nằm ở khoảng giai đoạn 2 và 3, tuỳ theo mức độ
phát triển của từng nước. Ngoài những dấu hiệu kinh tế - xã hội khác, về mặt
cơ cấu phải bắt đầu hình thành một số ngành công nghiệp chế biến có khả
năng lôi kéo toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng. Đồng thời cùng với sự chuyển
tiếp từ giai 2 sang 3 là sự thay đổi của những lĩnh vực đóng vai trò “đầu tầu”.
Nghĩa là trong chính sách cơ cấu cần xét đến trật tự ưu tiên phát triển những
lĩnh vực có thể đảm trách vai trò đó qua mỗi giai đoạn cụ thể.
1.2.2. Lý thuyết nhị nguyên:
A.Lewis là nhà kinh tế gốc Jamaica, năm 1955 trong tác phẩm "Lý
thuyết về phát triển kinh tế" ông đưa ra cách giải thích hiện đại về mối quan

hệ giáa hai khu vực: Công nghiệp và nông nghiệp. Lewis đã được giải thưởng
Nôbel về kinh tế năm 1979. Ông xuất phát từ tư tưởng của Ricardo, lưu ý đến
mối quan hệ giưã công nghiệp và nông nghiệp trong việc giải quyết lao động
dư thừa ở nông thôn. Ông đưa ra khả năng mở rộng khu vực công nghiệp
bằng cách sử dụng nguồn lao động nông thôn không hạn chế. Mô hình này đã
được hai nhà kinh tế học là John Fei và Gustar Rairis áp dụng vào phân tích
quá trình tăng trưởng ở các nước đang phát triển.
Cơ sở nghiên cứu của mô hình: Lewis xuất phát từ cách đặt vấn đề của
nhà kinh tế học cổ điển David Ricardo, người đầu tiên nghiên cứu vấn đề hai
khu vực kinh tế trong tác phẩm “Những nguyên lý của kinh tế chính trị học và
thuế khoá” xuất bản năm 1817. Trong nghiên cứu mô hình của mình, Ricardo
đã đưa ra hai vấn đề: Một là, khu vực nông nghiệp có lợi nhuận biên giảm dần
theo quy mô và tiến tới bằng không. Nguyên nhân của hiện tượng này là do
quy mô sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng lên đòi hỏi phải sử dụng đất đai
ngày càng xấu hơn, dẫn đến chi phí sản xuất tăng dần khi sản xuất một tấn
lương thực, với mức tăng cho trước ở đầu vào dẫn đến các mức tăng liên tục
nhỏ hơn ở đầu ra. Số và chất lượng ruộng đất là yếu tố có điểm dừng, nếu con
người khai thác đến điểm đó, việc tăng thêm các yếu tố đầu vào sẽ không làm
tăng mức sản lượng đầu ra. Hai là, trong khi ruộng đất có xu hướng cạn kiệt
dần thì lao động trong khu vực nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng và dẫn đến hiện
tượng dư thừa ngày càng phổ biến. Ông cho rằng lao động dư thừa ở nông
thôn về hình thức khác với lao động dư thừa ở khu vực thành thị. ở thành thị
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lao động được coi là dư thừa khi họ có khả năng lao động, có nhu cầu lao
động nhưng không thể tìm được việc làm. Còn ở nông thôn thì không phải
như vậy, hiện tượng phổ biến ở đây là mọi người đều có việc làm nhưng với
năng suất lao động ngày càng thấp, các thành viên trong gia đình phải chia
việc ra để làm. Sản phẩm biên của lao động giảm dần và tiến tới bằng không.
Hiện này các nhà kinh tế gọi là thất nghiệp trá hình (vô hình hoặc bán thất

nghiệp). Từ những cơ sở nêu trên, Ricardo kết luận rằng khu vực nông nghiệp
mang tính trì trệ tuyệt đối, cần phải giảm dần cả về quy mô và tỷ trọng trong
đầu tư.
Nội dung của mô hình: Lý thuyết nhị nghuyên cho rằng ở các nền kinh tế
có 2 khu vực kinh tế song song tồn tại: Khu vực kinh tế truyền thống chủ yếu
là sản xuất nông nghiệp và khu vực kinh tế hiện đại (công nghiệp) du nhập từ
bên ngoài. Theo ông, với các mức tăng cho trước ở đầu vào dẫn đến các mức
tăng liên tục nhỏ hơn ở đầu ra. Vì thế, có thể chuyển một phần lao động từ
khu vực này sang công nghiệp hiện đại mà không làm ảnh hưởng gì tới sản
lượng nông nghiệp. Do có năng suất cao nên khu vực công nghiệp hiện đại có
thể tự tích luỹ để mở rộng sản xuất một các độc lập mà không phụ thuộc vào
những điều kiện chung của toàn bộ nền kinh tế.
Kết luận đương nhiên rút ra từ những nhận định này là để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của những nước chậm phát triển cần phải bằng mọi cách mở
rộng khu vực sản xuất công nghệ hiện đại càng nhanh càng tốt mà không cần
quan tâm tới khu vực nông nghiệp truyền thống. Sự gia tăng của khu vực
công nghiệp hiện đại tự nó sẽ rút dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang
và biến nền sản xuất xã hội từ trạng thái nhị nguyên thành một nền kinh tế
công nghiệp phát triển. Như vậy, theo lý thuyết nhị nguyên, trong quá trình
phát triển các nước chỉ nên chú trọng vào phát triển ngành công nghiệp và
công nghiệp sẽ chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế.
Phải nói rằng, những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây ra được ấn
tượng mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển từ sau chiến tranh thế
giới lần thứ II đến thời gian gần đây đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của lý thuyết
này.Một hướng phát triển khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích khả
năng di chuyển lao động từ nông thôn ra khu vực công nghiệp thành thị. Quá
trình chuyển dịch lao động chỉ trôi chảy khi "tổng cung" về lao động từ nông
nghiệp phù hợp với "tổng cầu" ở khu vực công nghệp. Sự di chuyển này
không chỉ phụ thuộc vào mức chênh lệch về thu nhập mà còn phụ thuộc vào
"xác suất" tìm được việc làm đối với những người lao động nông nghiệp. Khi

đưa thêm yếu tố "xác suất tìm được việc làm" vào phân tích, người ta thấy
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuất hiện những tình huống làm yếu đi khả năng di chuyển lao động giáa 2
khu vực như sau:
- Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp: Về mặt này, so với
nền công nghiệp ở các nước phát triển thì khu vực được gọi là "công nghiệp
hiện đại" ở các nước chậm phát triển yếu kém hơn rất nhiều. Vì vậy, để vừa
có thể tăng cường khả năng cạnh tranh với các nền công nghiệp nước ngoài,
vừa làm "đầu tầu" lôi kéo sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế thì khu vực
công nghiệp hướng tới những ngành kỹ thuật cao. Nhưng những ngành này
cần tăng hàm lượng vốn đầu tư hơn là cần tăng hàm lượng lao động vì thế,
khu vực "công nghiệp hiện đại" ở các nước chậm phát triển cũng có nguy cơ
gặp phải vấn đề dư thừa lao động chứ không riêng gì ở khu vực nông nghiệp.
- Khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của người lao động nông nghiệp
khi chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là người lao
động nông thôn có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động thành thị
và thậm chí chưa quên với môi trường lao động công nghiệp. Việc đào tạo lao
động công nghiệp kỹ năng cao chẳng những đòi hỏi nhiều thời gian mà còn
phải có đầu tư lớn, đến mức người ta xem như một trong những lĩnh vực đầu
tư quan trọng nhất đối với 1 nền kinh tế. Với những phân tích trên, người ta
thấy rằng xác suất tìm được việc làm mới ở khu vực công nghiệp đối với
người nông dân dời bỏ ruộng đồng là có giới hạn.
Tóm lại, khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của 2 lĩnh vực sản
xuất vật chất quan trọng nhất của nền kinh tế chậm phát triển trong thời kỳ
công nghiệp hoá, các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ chỗ cho rằng chỉ cần tập
trung vào phát triển công nghiệp mà không chú ý tới nông nghiệp đến chỗ chỉ
ra những giới hạn của chúng và vì thế cần quan tâm thích đáng tới nông
nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình phát triển.
1.2.3. Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành.

Những người ủng hộ quan điểm này như R.Murkse, P.Rosentein
-Rodan... cho rằng để nhanh chóng công nghiệp hoá cần thúc đẩy sự phát
triển đồng đều ở tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu dựa trên
những luận cứ sau:
- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết
với nhau trong chu trình "đầu ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia.
Vì thế, sự phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung,
cầu trong sản xuất.
- Sự phát triển cân đối giáa các ngành như vậy còn giúp tránh được ảnh
hưởng tiêu cực của nháng biến động của thị trường thế giới và hạn chế mức
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
độ phụ thuộc vào các nền kinh tế khác, tiết kiệm ngoại tệ vốn rất khan hiếm
và thiếu hụt.
- Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hoàn chỉnh như vậy chính là
nền tảng váng chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước thuộc thế giới
thứ ba chống lại chủ nghĩa thực dân.
Tuy nhiên, trong sự phát triển luôn có cạnh tranh giữa các nước về các
sản phẩm, hàng hoá. Do đó, để phát triển được các ngành kinh tế nội địa, Nhà
nước cần có nháng chính sách bảo hộ, cụ thể là:
+ Chính sách bảo hộ mậu dịch: Nhà nước thực hiện hàng rào thuế quan
cao và chế độ hạn ngạch nhâp khẩu nhằm hạn chế các loại hàng nhập khẩu và
nâng sức cạnh tranh về giá của các mặt hàng nội địa.
+ Chính sách tỷ giá hối đoái: Để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng
hàng hoá nội địa, các Chính phủ thường duy trì chế độ tỷ giá hối đoái theo
hướng nâng cao trị giá đồng tiền bản điạ nhằm làm yếu khả năng cạnh tranh
của hàng ngoại trên thị trường nội địa.
Như vậy, theo lý thuyết này, để phát triển cần xây dựng một nền kinh tế
đa ngành và hạn chế giao lưu, trao đổi với bên ngoài, hay nói cách khác đó là
nền kinh tế "tự cung, tự cấp". Với những chính sách trên, hầu hết các quốc gia

đang phát triển theo mô hình này đã đạt được mức tăng trưởng tương đối cao
trong giai đoạn đầu. Mặc dù về thực chất, sự tăng trưởng này chủ yếu bắt
nguồn từ điểm xuất phát thấp, khiến cho một mức gia tăng nhỏ về số lượng
tuyệt đối cũng đẩy chỉ số tương đối lên rất cao, song nó cũng tạo ra sự thay
đổi về cơ cấu kinh tế nhất định, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của các
quốc gia vốn trước đây là xứ thuộc địa. Đáng tiếc rằng, tốc độ tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mô hình này đã không thể tiếp tục duy trì lâu
hơn. Các nước khác nhau tuỳ vào những điều kiện cụ thể của mình mà lần
lượt rời bỏ mô hình trước những giới hạn không sao vượt qua được. Các nhà
kinh tế học đã tổng kết các lý do cơ bản của tình hình này là:
+ Mô hình này tự nó giả định phát triển đồng thời tất cả (hay ít nhất cũng
là hầu hết) các ngành kinh tế quốc dân. Yêu cầu này không thể đáp ứng được
bởi các nền kinh tế kém phát triển do bị quá tải về vốn đầu tư, khả năng công
nghệ kỹ thuật và quản lý.
+ Việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đưa nền kinh
tế đến chỗ khép kín và tách biệt với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng những
ngược với xu hướng chung của tất thảy mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện
đại là khu vực hoá và toàn cầu hoá. Kinh nghiệm thế giới và lý thuyết hệ
thống đã chỉ ra rằng: Sự phát triển của một quốc gia do động lực bên trong
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quốc gia đó là chính, tuy nhiên có sự tận dụng các lợi thế từ môi trường bên
ngoài.
Cả hai yếu tố trên đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành
theo hướng công nghiệp hoá gặp khó khăn bởi lẽ cách tiếp cận trên đã làm
phân tán các nguồn lực phát triển rất có hạn của quốc gia khiến cho ngay cả
việc sửa cháa hậu quả cơ cấu kinh tế què quặt của thời kỳ thuộc địa cũ cũng bị
trở ngại. Chính vì thế, chỉ sau 1 thời kỳ tăng trưởng, các nền kinh tế theo đuổi
mô hình cơ cấu cân đối này đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thiếu năng
(maldevelopment).

1.2.4. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay
"các cực tăng trưởng".
Ngược lại với quan điểm phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu cân đối,
khép kín nêu trên, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối
(A.hirschman, F.Perrons, G.Destanne deBernis) cho rằng không thể và không
nhất thiết phải bảo đảm tăng trưởng bền váng bằng cách duy trì cơ cấu cân đối
liên ngành đối với mọi quốc gia, bởi nháng luận cứ chủ yếu sau:
- Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây lên áp lực, tạo ra sự kích thích
đầu tư. Trong mối tương quan giáa các ngành nếu cung bằng cầu thì sẽ triệt
tiêu động lực khuyến khích đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. Do đó, nếu có
những dự án đầu tư lớn hơn vào một số lĩnh vực thì áp lực đầu tư sẽ xuất hiện
bởi cầu lớn hơn cung lúc đầu và sau đó thì cung lớn hơn cầu ở một số lĩnh
vực. Chính những dự án đó có tác dụng lôi kéo đầu tư theo kiểu lý thuyết số
nhân.
- Trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá, vai trò
"cực tăng trưởng" của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì
thế cần tập trung nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong 1 thời điểm
nhất định.
- Do trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá các nước đang phát
triển rất thiếu vốn, lao động, kỹ thuật, công nghệ và thị trường nên không đủ
điều kiện để cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế,
việc phát triển cơ cấu không cân đối là một sự lựa chọn bắt buộc. Lý thuyết
này là cơ sở để hình thành lên mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Về mặt lý thuyết, mô hình này dựa trên nháng xu hướng quốc tế hoá đời sống
kinh tế dưới tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật và lựa chọn một cơ
cấu kinh tế không cân đối để hình thành các cực tăng trưởng dựa trên những
lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương. Các tiếp cận cơ cấu kinh tế trong
mô hình công nghiệp hoá này có một số đặc trưng là:
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

+ Quá trình công nghiệp hoá được bắt đầu từ việc tập trung khai thác các
thế mạnh của nền kinh tế, tạo ra những lĩnh vực phát triển có lợi thế so sánh
trên thị trường thế giới. Thông thường, đối với các nước chậm phát triển,
nháng thế mạnh khả dĩ là nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, tài nguyên khoáng
sản và nông sản. Ví dụ, như NICs thì hướng sự phát triển vào những ngành
công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động như: dệt, may, chế biến thực
phẩm, điện tử dân dụng. Trong khi đó một số nước khác như Malaysia và
Thái Lan lại khởi đầu với những sản phẩm nông nghiệp và khai thác khoáng
sản.
+ Toàn bộ hệ thống chính sách chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu,
tức là đảm bảo cho các nhà sản xuất có lợi hơn nếu bán sản phẩm của mình ra
nước ngoài. Cụ thể là:
Nhà nước trực tiếp tác động bằng cách đưa ra danh mục các mặt hàng ưu
tiên, được giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu, hoặc trực tiếp trợ cấp cho các loại
hàng hoá phục vụ sản xuất hàng xuát khẩu.
Nhà nước gián tiếp can thiệp qua các công cụ tài chính, tiền tệ, tạo lập
môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất hướng ra thị trường thế giới. Ví
dụ như: đánh tụt giá đồng tiền nội địa cung cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi
cho sản xuất xuất khẩu khuyến khích đầu tư ngước ngoài....
Lúc đầu, lý thuyết này tỏ ra không hấp dẫn lắm vì nó xây dựng một nền
kinh tế hướng ngoại và phụ thuộc vào bên ngoài (các nền kinh tế khác) mà
thường thì các nước có nền kinh tế chậm phát triển gặp phải nhiều bất lợi hơn.
Nhưng về sau do kết quả tăng trưởng kinh tế "thần kỳ" của một nhóm nước
thực hiện chính sách này như: NICs, Malay sia, Thái Lan... nên xu hướng này
đã được nhiềù nước áp dụng. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học cũng đưa ra hai
loại vấn đề cần lưu ý khi áp dụng lý thuyết này;
Thứ nhất, một số yếu điểm của chính sách thúc đẩy công nghiệp hoá
hướng ngoại như sự phụ thuộc quá mức vào biến động của thị trường thế giới,
tiêu biểu là cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 vừa qua đã làm cho nhiều
nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng về tăng trưởng kinh tế cũng như về mặt xã

hội.
Thứ hai, không chắc môi trường kinh tế quốc tế còn thuận lợi cho việc
thực thi chính sách hướng về xuất khẩu vì lợi thế so sánh không tồn tại mãi
mãi.
16

×