Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Luận văn Thạc sĩ Bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện - Qua thực tiễn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.37 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN LƯƠNG VIỆT

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA ĐỐI TƯỢNG BỊ
TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CÔNG AN
CẤP HUYỆN – QUA THỰC TIỄN HUYỆN BỐ TRẠCH,
TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN LƯƠNG VIỆT

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA ĐỐI TƯỢNG BỊ
TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CÔNG AN
CẤP HUYỆN – QUA THỰC TIỄN HUYỆN BỐ TRẠCH,


TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. VŨ ĐỨC ĐÁN

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2020


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực, chính xác. Kết quả nghiên cứu nêu trong
luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, đầu tiên cho phép em được gửi lời cảm
ơn chân thành nhất đến q thầy cơ trong Học viện hành Chính Quốc Gia đã
tận tình giảng dạy, truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong suốt thời
gian học tập tại trường. Những kiến thức được chỉ dạy cũng như những kỹ
năng được tơ luyện trong q trình học tập nghiên cứu là nền tảng vững chắc
giúp em có thể hồn thành bài luận văn này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy PGS.TS. Vũ Đức
Đán, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tận tình và có những định hướng,
góp ý quý giá, tạo điều kiện thuận lợi để em có thể hồn thành luận văn.

Em cũng xin được gửi lời cảm ơn các anh chị, bạn bè đã ln động
viên, cho em những góp ý chân thành trong quá trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện luận văn.
Mặc dù bản thân em đã cố gắng trong suốt quá trình thực hiện bài
luận văn song với kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế nên
khơng tránh khỏi những thiếu sót. Bài luận văn như là bước đệm đầu tiên
giúp em có cơ hội tiến gần hơn với tri thức khoa học và cả con đường nghiên
cứu sau này. Kính mong q thầy cơ đóng góp ý kiến để bài luận văn của em
có thể hồn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin kính chúc q thầy cô nhiều sức khoẻ, hạnh phúc,
thuận lợi trong công việc và tiếp tục tâm huyết với sứ mệnh trồng người cao
cả, truyền đạt những kiến thức bổ ích cho thế hệ mai sau!
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!


iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QCN:

Quyền con người

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự


BLHS:

Bộ luật hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

CQCSĐT: Cơ quan cảnh sát điều tra


iv

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn......................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn..........................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn..................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn................................................6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn............................6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn..........................................................6
7. Kết cấu của luận văn.........................................................................................7
NỘI DUNG.............................................................................................................. 8
Chương 1:................................................................................................................8
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA ĐỐI TƯỢNG BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ
CỦA CÔNG AN CẤP HUYỆN...............................................................................8
1.1. Lý luận về quyền con người và quyền con người của đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an cấp huyện.................................................8
1.2. Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm

giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện.......................................17
1.3. Những yếu tố tác động đến bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an cấp huyện........................................32
Chương 2:..............................................................................................................38
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA ĐỐI TƯỢNG BỊ TẠM
GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CỦA CÔNG AN HUYỆN BỐ TRẠCH,
TỈNH QUẢNG BÌNH............................................................................................38
2.1. Đặc điểm tình hình Nhà tạm giữ của Cơng an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình và các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam........................................................38
2.2. Tình hình bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại
Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình..............................46
2.3. Đánh giá chung về thực trạng bảo đảm quyền con người của đối tượng bị
tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình..................................................................................................................... 61
Chương 3:..............................................................................................................75
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA ĐỐI
TƯỢNG BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ TẠM GIỮ CỦA CÔNG AN CẤP
HUYỆN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH............75
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại
Nhà tạm giữ Công an cấp huyện.........................................................................75
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại
Nhà tạm giữ Công an cấp huyện.........................................................................78
KẾT LUẬN............................................................................................................ 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................96


v

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Bảng công tác kiểm sát tạm giữ từ năm 2015 đến năm 2020 của

Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình........................ 44
Bảng 2.2: Bảng công tác kiểm sát tạm giam từ năm 2015 đến năm 2020 của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình........................ 45


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là
giá trị chung của các dân tộc. Ngày nay, quyền con người được xem như là
thước đo sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, khơng phân biệt chế
độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Con người tồn tại trong xã
hội với những quyền căn bản của mình có sẵn trong tự nhiên hoặc được xã hội
khẳng định, nhưng dù thế nào thì tiến trình của thời gian vẫn chứng minh rằng
các quyền con người này ngày càng được bảo đảm và nâng cao hơn. Về lý
luận cũng như trên thực tế, quyền cơ bản của con người là những quyền khơng
thể thiếu để cá nhân có thể tồn tại và phát triển bình thường với tư cách là một
thành viên của cộng đồng xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Những
quyền của con người như quyền được sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền
được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, được bất khả xâm phạm về thân thể, được
tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng là những điều kiện cần thiết để con người tổ
chức đời sống trong xã hội văn minh và cần phải được Nhà nước thừa nhận và
bảo vệ một cách vô điều kiện. Ở Việt Nam, vấn đề quyền con người là vấn đề
quan trọng luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ bằng
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ Luật Hình sự, Bộ luật
Tố tụng hình sự, v.v...Trong lĩnh vực tư pháp hình sự đối tượng bị bắt tạm giữ,
tạm giam sẽ bị hạn chế một phần quyền con người, quyền công dân theo quy
định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng,

nhưng bên cạnh đó những người này họ cịn có những quyền con người khác
mà không bị pháp luật hạn chế cần phải được tôn trọng và bảo đảm cho họ.
Những đối tượng bị tạm giữ, tạm giam này họ đã thực hiện những hành vi
nguy hiểm cho xã hội thì sẽ bị pháp luật xử lý thích đáng theo quy định, nhưng


2

trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam ở các cơ sở giam giữ, quyền con người cơ
bản của họ khơng vì thế mà bị tước bỏ hết, họ cần được quan tâm, giáo dục để
cải tạo sửa chữa những lỗi lầm của bản thân để trở thành người có ích cho xã
hội về sau.
Trước sự nghiệp phát triển đổi mới của đất nước ta và xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam
đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập; đó là sự nhận thức về tính chất, vai trị, và
tầm quan trọng của q trình giam, giữ người cũng như nhận thức pháp luật về
các trình tự, thủ tục giải quyết vụ án chưa đầy đủ nên đã xâm hại đến quyền
con người của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại các nhà tạm giữ của
Công an. Đồng thời, một số Cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán
trong các cơ quan tiến hành tố tụng có trình độ, năng lực hạn chế, ý thức pháp
luật và ý thức thi hành công vụ chưa được nâng cao dẫn đến vi phạm trong
hoạt động tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam.
Mặt khác, sự kỳ thị của một bộ phận không nhỏ những người làm pháp
luật đối với các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam vì họ đã có các hành vi phạm
tội mà pháp luật không cho phép, nên với sự kỳ thị này đã ảnh hưởng phần nào
đến việc bảo đảm quyền con người cho các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại
các Nhà tạm giữ của Công an ở cấp huyện.
Việc bảo đảm quyền con người của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam
tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện nói chung và tại huyện Bố Trạch, tỉnh

Quảng Bình nói riêng những năm qua cịn nhiều tồn đọng, khó khăn, vướng
mắc, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là khâu tổ chức thực hiện
pháp luật trong những điều kiện, hồn cảnh khác nhau, cơng tác quản lý giam
giữ chưa được chặt chẽ, đúng quy định; một số quy định của pháp luật còn
chưa sát với thực tiễn; sự nhận thức về tính chất, vai trị, và tầm quan trọng của
quá trình giam, giữ chưa được coi trọng nên đã xâm hại tới quyền con người


3

của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam. Vì vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài
“Bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà
tạm giữ Công an cấp huyện - Qua thực tiễn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình” là yêu cầu khách quan và cấp thiết để đưa ra những quan điểm và giải
pháp thích hợp nhằm giải quyết những tồn tại bất cập hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Với cách nhìn nhận về quyền con người trong thế giới hiện đại ngày
càng sâu sắc vì tầm quan trọng của vấn đề này, trên quốc tế và ở Việt Nam
hiện nay có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:
Ở góc độ luận văn thạc sĩ có nhiều cơng trình đã cơng bố liên quan như:
“Pháp luật về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử hình sự ở Việt
Nam hiện nay”, của Nguyễn Thị Bình, Luận văn thạc sỹ luật học, năm 2012 đã
nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề về quyền con người và thực trạng các
quy định của pháp luật hiện nay ở nước ta về bảo đảm quyền con người trong
xét xử các vụ án hình sự, đồng thời đề xuất phương hướng, nội dung hoàn
thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong các vụ
án hình sự; “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm
giam theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đăk Lăk)”, của Bùi Văn Tâm, Luận văn thạc sỹ luật học, năm 2015 đã
nghiên cứu đưa ra những kiến nghị để hồn thiện các quy định của pháp luật tố

tụng hình sự góp phần nâng cao hiệu quả việc bảo đảm quyền con người trong
hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam; “Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người ở khu vực Asean”, của Phạm Xuân Hải, Luận văn thạc sỹ luật học, năm
2016 đã nêu và phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về cơ chế bảo vệ và thúc
đẩy quyền con người từ đó xem xét đánh giá thực trạng ghi nhận hoạt động
của cơ chế này và đưa ra các đề xuất góp phần cải thiện hoạt động trên trong
khu vực Asean…


4

Về sách gồm: “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người”,
Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2011;
“Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong khu vực Asean”, Khoa luật - Đại
học quốc gia Hà Nội, Nxb Lao động - Xã hội, 2012; “Quyền con người, quyền
công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, của Trần
Ngọc Đường, Nxb Chính trị quốc gia, 2004; “Bảo vệ quyền con người trong
luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam”, sách chuyên khảo của TS. Trần
Quang Tiệp, Nxb Chính trị quốc gia, 2004…
Về tạp chí khoa học chuyên ngành luật gồm: Bài viết “Bảo đảm quyền
con người của người bị tạm giữ, tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015” của ThS. Nguyễn Hà Giang ( Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh), đã
phân tích quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ, tạm giam, từ đó đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp
luật bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung và
quyền của người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng; Bài viết nghiên cứu trao đổi
“Một số vấn đề tạm giam bị can, bị cáo trong trường hợp bị bệnh nặng” của
Hồ Quân - Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 4, đã phân tích đánh giá và
đưa ra hướng hồn thiện pháp luật đối với vấn đề trên theo hướng đảm bảo
quyền lợi cho bị can, bị cáo bị tạm giam mà mắc phải bệnh nặng…

Qua các nghiên cứu trên cho thấy rằng, các nghiên cứu về góc độ thạc
sỹ, sách, tạp chí khoa học chun ngành trên đã góp phần gải quyết một số vấn
đề để làm sáng tỏ về quyền con người nói chung và quyền con người trong
việc bắt tạm giữ, tạm giam theo tố tụng hình sự. Tuy nhiên, cho đến nay chưa
có cơng trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt về bảo đảm
quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam ở huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình, luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu một cách
tồn diện và chuyên biệt về “Bảo đảm quyền con người của đối tượng bị


5

tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an cấp huyện - Qua thực tiễn
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình”, dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính. Với kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ
tháo gỡ hết được các bất cập và vướng mắc như đã nêu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Đề tài luận văn có mục đích nghiên cứu là làm
sáng tỏ cơ sở lý luận về quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam
và thực trạng bảo đảm quyền con người của các đối tượng đó ở Nhà tạm giữ
Cơng an cấp huyện nói chung và Nhà tạm giữ Cơng an huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình nói riêng, nhằm đưa ra các quan điểm và giải pháp cơ bản bảo
đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại địa phương.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được nội dung trên, luận văn đặt
ra những cách thức, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu hệ thống hoá cơ sở lý luận về quyền con người
của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam thông qua việc làm rõ khái niệm, đặc điểm,
nội dung và sự cần thiết phải bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm
giam; xác định các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong tạm
giữ, tạm giam.

Thứ hai, phân tích thực trạng bảo đảm quyền con người trong tạm giữ,
tạm giam ở huyện Bố Trạch trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2020, qua
đó đánh giá về những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém và nguyên
nhân của những hạn chế, yếu kém này.
Thứ ba, đề xuất các quan điểm và giải pháp tồn diện, có hệ thống và
tính khả thi nhằm bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở huyện
Bố Trạch.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


6

Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy
định của pháp luật hiện hành và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền
con người trong tạm giữ, tạm giam ở nhà tạm giữ Cơng an huyện Bố Trạch
Phạm vi nghiên cứu: Dưới góc độ nghiên cứu của Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính, bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở huyện
Bố Trạch là vấn đề có nội dung rộng lớn và phức tạp. Vì vậy, về khơng gian
luận văn nghiên cứu bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam ở Nhà
tạm giữ Công an huyện Bố Trạch trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2020.
Về nội dung, luận văn nghiên cứu về bảo đảm các quyền con người trong tạm
giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật hiện hành.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan điểm,
chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam và tư
tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và bảo đảm quyền con người trong
tạm giữ, tạm giam.
Phương pháp nghiên cứu: Xuất phát từ mục đích và nội dung nghiên
cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp,

thống kê, so sánh pháp luật, dự báo để chọn lọc những tri thức khoa học cũng
như kinh nghiệm thực tiễn về bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm
giam ở các địa phương có điều kiện tự nhiên, văn hóa pháp lý tương đồng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung
quan trọng vào lý luận và thực tiễn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp
phần hồn thiện hệ thống lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con
người trong tạm giữ, tạm giam - một nhóm chủ thể dễ bị tổn thương bị tước bỏ
quyền tự do đi lại và một số quyền khác.


7

Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể làm tư
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu về quyền con người; về hoạt động tố
tụng hình sự. Những giải pháp được luận giải thuyết phục từ cơ sở đến nội
dung và các điều kiện bảo đảm thực hiện từng giải pháp trong luận văn sẽ giúp
các nhà quản lý trong tham mưu, đề xuất hồn thiện chính sách, pháp luật về
bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam.
7. Kết cấu của luận văn
Bố cục của Luận văn được sắp xếp trình bày gồm: Lời cam đoan, Lời
cảm ơn, Danh mục các từ viết tắt, Mục lục, Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần
kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo.
Nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm quyền con
người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp
huyện;
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền con người của đối

tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện từ thực
tiễn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

NỘI DUNG


8

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI CỦA ĐỐI TƯỢNG BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TẠI NHÀ
TẠM GIỮ CỦA CÔNG AN CẤP HUYỆN
1.1. Lý luận về quyền con người và quyền con người của đối tượng bị
tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an cấp huyện
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền con người và bảo đảm quyền con
người
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là kết tinh những gì tinh hoa nhất của các dân tộc trên
toàn thế giới, nó có giá trị vĩnh cửu và trường tồn theo thời gian, là thước đo
cho sự phát triển của toàn nhân loại, đây là tiếng nói chung để thúc đẩy hạnh
phúc và nhân phẩm của mọi con người trên toàn thế giới, QCN đã được pháp
điển hóa có tính bắt buộc chung đối với mỗi quốc gia, đây còn là thước đo về
trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên QCN
có phạm trù rất rộng lớn do đó có rất nhiều khái niệm khác nhau được nhìn
nhận từ nhiều gốc độ nghiên cứu khác nhau. Vì vậy tính phù hợp của khái
niệm phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, sau đây chúng ta
sẽ làm rõ một số khái niệm QCN như sau: Ở cấp độ quốc tế theo định nghĩa
của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc “quyền con người là những bảo đảm pháp
lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà

làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ
bản (fundamental freedoms) của con người” [7, tr. 37].
Bên cạnh đó theo học thuyết về các quyền tự nhiên định nghĩa “quyền con
người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng


9

đồng nhân loại, khơng phân biệt giới tính, chủng tộc, tơn giáo, địa vị xã hội...;
đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người” [7, tr. 37]. Ở Việt
Nam, QCN cũng được các chuyên gia nghiên cứu ở nhiều khía cạnh và cũng đưa
ra nhiều định nghĩa khác nhau nhưng tựu chung lại “quyền con người được hiểu là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”. [7, tr. 37-38].
Như vậy, dù ở các góc độ nghiên cứu nào thì QCN là những chuẩn mực
được xã hội, cộng đồng trên thế giới công nhận và thực hiện theo, mặt khác qua đó
phản ánh lên được trình độ văn minh của mỗi quốc gia trên thế giới, qua tiến trình
lịch sử của nhân loại QCN theo từng giai đoạn sẽ có sự kế thừa và phát triển có
chọn lọc để đưa con người lên tầm cao mới có cuộc sống tốt đẹp, cơng bằng hơn.
1.1.1.2. Đặc điểm quyền con người
Nhận thức của đại đa số các quốc gia trên thế giới cho rằng QCN có
những tính chất cơ bản sau:
Tính phổ biến: Con người sinh ra là đã có quyền con người khơng phân
biệt là dân tộc gì, giới tính như thế nào, màu da ra sao mà đây là quyền tự
nhiên, vốn có của mỗi con người được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành
viên của nhân loại. Cá nhân được sống trong mơi trường xã hội nào, đất nước
nào thì đều được công nhận là con người và được hưởng các quyền con người
mà xã hội đã thừa nhận và áp dụng.
Tính khơng thể chuyển nhượng: QCN khơng thể bị giới hạn hay bị tước
bỏ tự nhiên bởi những chủ thể khác một cách tùy tiện, vô căn cứ mà việc hạn

chế hay tước bỏ các QCN này phải do pháp luật quy định nhằm để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân, tổ chức…mà người này đã
xâm phạm và chỉ có những chủ thể đặc biệt được pháp luật giao quyền mới có
thể thực hiện hoạt động trên. Khác với các quyền khác là không thể chuyển


10

giao từ ngươi này sang người kia, mỗi cá nhân khi sinh ra mặc nhiên có QCN
và quyền này được pháp luật bảo vệ cho đến khi người đó chết.
Tính không thể phân chia: QCN bao gồm nhiều quyền khác nhau như
quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo vệ
bình đẳng trước pháp luật…nhưng các quyền này có tầm quan trọng ngang
bằng nhau, khơng phân biệt quyền nào là quan trọng nhất hay có giá trị nhất.
Mỗi quyền có một khía cạnh bảo vệ riêng của mình nên khơng thể phân chia
và khi các quyền đó bị hạn chế hay tước bỏ đều ảnh hưởng có tính tiêu cực đến
giá trị, nhân phẩm của con người.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: Các QCN có mối liên hệ phụ thuộc
và tác động lẫn nhau, việc vi phạm đến quyền này sẽ ảnh hưởng đến các quyền
khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thơng qua hoạt động vi phạm đó và
ngược lại nếu tác động tích cực cũng sẽ đưa lại các mặt tích cực cho các quyền
cịn lại. Ví dụ: Nếu quyền dân chủ của mỗi cá nhân được bảo đảm thì họ sẽ
tích cực và chú ý đến việc tham gia bỏ phiếu, tham gia hội họp và có ý kiến
khi được trưng cầu và ngược lại.
1.1.1.3. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền con người
Thứ nhất, khái niệm bảo đảm quyền con người
Ta có thể hiểu “Bảo đảm” có nghĩa là “Làm cho chắc chắn thực
hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” định nghĩa theo từ
điển Wiktionary tiếng việt. Như vậy “Bảo đảm quyền con người” có nghĩa là
chăm sóc, giữ gìn các quyền của con người hay trình độ văn minh như đã nói ở

trên, theo đó các QCN đã được xã hội và pháp luật quốc tế thừa nhận sẽ được
chuyển hóa thành các quy định của pháp luật để bắt buộc mọi người thực hiện
và tuân theo, nếu vi phạm đến các quyền đó thì sẽ bị pháp luật xử lý, xử phạt.
Hay có thể hiểu “Bảo đảm quyền con người” là tạo ra các điều kiện, tiền đề về


11

mặt pháp lý, chế độ chính trị, kinh tế và xã hội để con người thực hiện được
các QCN mà pháp luật đã ghi nhận.
Thứ hai, đặc điểm bảo đảm quyền con người
Bảo đảm QCN được cụ thể hóa thành pháp luật bắt buộc mọi người phải
tuân theo. Việc cụ thể hóa các quy định này được thể hiện ở Hiến pháp, Luật
và các văn bản quy phạm pháp luật khác nhằm điều chỉnh các mối quan hệ
trong xã hội nhưng đều hướng tới mục tiêu đó là đảm bảo cho QCN được tôn
trọng, thực hiện tốt và đầy đủ.
Bảo đảm QCN được ghi nhận trong luật quốc tế và luật quốc gia do đó
QCN cũng được bảo đảm và áp dụng tồn cầu, khơng thay đổi theo thời gian
và đồng nhất trong mọi hoàn cảnh. QCN trong luật quốc tế được chính thức
pháp điển hóa từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, việc bảo đảm QCN đã được
hệ thống hóa thành các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế có tính bắt buộc chung đối
với tất cả các nước trên thế giới, bảo đảm các QCN đã trở thành thước đo về
trình độ văn minh của các dân tộc và các nước trên toàn cầu.
Bảo đảm QCN qua các thời kỳ lịch sử có tính kế thừa và chọn lọc những
tinh hoa của các quyền đó, đồng thời được phát triển để phù hợp với đặc điểm
của xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa của nhân loại nhằm hướng tới bảo đảm
QCN được tốt hơn và hoàn thiện hơn. Kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập
vào năm 1945 QCN được bảo đảm và ghi nhận trong hàng trăm văn kiện của
pháp luật quốc tế và trở thành tiêu chuẩn pháp lý được tất cả các quốc gia trên
tồn thế giới trong đó có Việt Nam cam kết thực thiện và tôn trọng. Quyền con

người ngày càng được pháp luật bảo vệ chặt chẽ hơn, tiến bộ hơn.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, tính chất quyền con người của đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam trong nhà tạm giữ của Công an cấp huyện
1.1.2.1. Khái niệm về quyền con người của đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam trong nhà tạm giữ của Công an cấp huyện


12

Trước tiên để làm rõ khái niệm về QCN của đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam trong nhà tạm giữ của Cơng an cấp huyện thì ta phải hiểu rõ thế nào là
khái niệm về đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là những người như thế nào. Đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam là những người bị hạn chế về quyền tự do và một
số quyền khác trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp
luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia, mặc dù bị cưỡng chế về mặt hình sự
nhưng những người này vẫn được hưởng các quyền con người khác mà pháp
luật không hạn chế như quyền được bầu cử, quyền tự bào chữa, nhờ người bào
chữa, quyền được bảo vệ an tồn tính mạng, thân thể, tơn trọng danh dự, nhân
phẩm…Tại Điều 9, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền - 1948 đã ghi nhận:
“Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện [tr. 229]. Và cụ thể
hóa ngun tắc trên Điều 9, Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
đã nêu rõ: “Mọi người có quyền tự do và an tồn cá nhân. Không ai bị bắt
hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc
tước quyền đó là có lý do và theo đúng thủ tục luật pháp đã quy định” [tr. 232]
Ở Việt Nam, theo Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 định nghĩa
về người bị tạm giữ, tạm giam như sau: Người bị tạm giữ “là người đang bị
quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự”. Và theo khoản 1 Điều 59 BLTTHS năm
2015 quy định người bị tạm giữ “là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc

người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”.
Người bị tạm giam theo định nghĩa của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam
năm 2015 “là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm
giam, gia hạn tạm giam theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị
can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa
có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực


13

hiện việc dẫn độ”. Như vậy qua các định nghĩa của pháp luật quốc tế và luật
Việt Nam ta đã có thể hiểu như thế nào là người bị tạm giữ, tạm giam.
Kết hợp định nghĩa về QCN, định nghĩa người bị tạm giữ, tạm giam của
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam đối với nhóm người bị hạn chế quyền
tự do và một số quyền khác ta có thể định nghĩa khái quát về QCN của đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an như sau: “Quyền con
người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là những lợi ích, nhu cầu mang
thuộc tính tự nhiên của nhóm những người bị hạn chế tự do có thời hạn được
pháp luật quốc gia quy định và trong các thỏa thuận mang tính quốc tế”. QCN
ở đây là những giá trị cơ bản chỉ dành riêng cho nhóm người khi họ bị các cơ
quan tiến hành tố tụng tạm giữ, tạm giam và quyền này được Nhà nước ghi
nhận trong các văn bản luật và được bảo đảm thực hiện trong thực tế, chẳng
hạn ta có thể thấy được một số quyền được bảo đảm như: Quyền được bảo
đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế; Quyền được
gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự; Quyền được bồi thường
thiệt hại nếu bị giam, giữ trái pháp luật…
1.1.2.2. Đặc điểm, tính chất về quyền con người của đối tượng bị
tạm giữ, tạm giam trong nhà tạm giữ của Công an cấp huyện
QCN của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam cũng có những đặc điểm, tính
chất cơ bản của QCN nói chung như đã nêu ở trên như mang tính phổ biến,

tính khơng thể chuyển nhượng, tính khơng thể phân chia, tính liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau,... Nhưng do đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là những người bị
pháp luật hạn chế một số QCN như hạn chế tự do đi lại, hạn chế gặp gỡ nên
đối tượng bị tạm giữ, tạm giam cịn có những đặc điểm, tính chất về QCN
riêng biệt cụ thể:
Thứ nhất, QCN của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam có đặc điểm,
tính chất đó là mọi sinh hoạt của các đối tượng này bị giám sát 24/24 giờ và họ


14

phải chấp hành các quyết định, yêu cầu, hướng dẫn của cơ quan, người có
thẩm quyền quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam và phải chấp hành nội quy Nhà
tạm giữ của Công an, chấp hành các quy định của pháp luật có liên quan. Việc
thực hiện một số QCN của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam này phải dựa
trên cơ sở pháp luật chứ không thể tùy tiện vô căn cứ. Chẳng hạn pháp luật
quy định Nhà tạm giữ là nơi giam giữ những người bị buộc tội có hành vi vi
phạm pháp luật hình sự và những cán bộ trong Nhà tạm giữ này họ có quyền
quản lý, thực hiện các biện pháp quản lý giam giữ những đối tượng bị tạm giữ,
tạm giam; phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam.
Thứ hai, QCN của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam cịn có đặc điểm,
tính chất là các quyền tự do cá nhân bị hạn chế và chỉ được thực hiện trong
phạm vi khuôn viên của nhà tạm giữ và các buồng giam giữ, việc thực hiện
QCN ở đây phải thông qua cơ quan, người quản lý giam giữ và cơ quan tiến
hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Đồng thời các đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam này họ còn sẽ được hưởng các quyền công dân nếu không bị
hạn chế bởi các quy định của pháp luật liên quan, trừ những trường hợp các
quyền đó khơng thể thực hiện được do họ đang bị tạm giam, tạm giữ.
Thứ ba, QCN trong tạm giữ, tạm giam là những quyền cơ bản gắn với

hoạt động TTHS. Những người bị tạm giữ, tạm giam là những người bị cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn, vì vậy họ tạm thời mất
một số quyền tự do về chính trị, kinh tế, xã hội và nhân thân như không thể tự
do đi lại, không thể tham gia hội họp... Như vậy các đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam một số quyền con người của họ tạm thời bị mất đi nhưng các quyền cơ
bản của con người, của công dân của họ vẫn được bảo đảm như quyền được
thực hiện bầu cử, được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, chăm sóc y tế, được gặp
thân nhân...và được pháp luật quy định một cách chặt chẽ tránh việc xâm


15

phạm tới quyền lợi cơ bản đối với nhóm người này của các cơ quan tiến hành
tố tụng và những người tiến hành tố tụng.
1.1.3. Khái niệm bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam và trách nhiệm của Công an cấp huyện trong bảo đảm
quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam
Khái niệm bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm giữ, tạm
giam:
Bảo đảm QCN của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là những cách thức,
biện pháp tạo ra tiền đề về mặt pháp lý phù hợp giúp cho các đối tượng này
được bảo vệ trước việc họ bị nghi ngờ đã thực hiện hành vi phạm tội, họ đang
bị các cơ quan tiến hành tố tụng buộc tội và giúp cho họ được thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng đã được pháp luật quy định.
Những đối tượng đang bị tạm giữ, tạm giam là những người đang bị
nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội, việc xây dựng cơ sở pháp lý và các điều
kiện trên thực tế nhằm bảo đảm các QCN cho họ để họ có khả năng chứng
minh và bác bỏ sự nghi ngờ đã thực hiện hành vi phạm tội đối với mình của
những người tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đồng
thời những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác minh, buộc tội đối với

họ một cách khách quan và áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan
một cách thận trọng và chính xác để giải quyết vụ án.
Trách nhiệm của Công an cấp huyện trong bảo đảm quyền con
người của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam:
Các chủ thể trong Công an nhân dân cấp huyện bảo đảm QCN cho đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam ở Nhà tạm giữ của Cơng an huyện chính là Cơ
quan, cá nhân tiến hành TTHS; Cơ quan, cá nhân quản lý thi hành tạm giữ,
tạm giam trong Công an cấp huyện; Các chủ thể trong Công an cấp huyện


16

tham gia bảo đảm QCN của các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam là những
người có địa vị pháp lý khác nhau và họ có trách nhiệm khác nhau, bao gồm:
Những người tiến hành tố tụng trong Công an cấp huyện: Là những
người được pháp luật TTHS giao cho nhiệm vụ tiến hành giải quyết vụ án hình
sự bao gồm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán
bộ điều tra.
Trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong bảo đảm QCN đối
với người bị tạm giữ, tạm giam được thể hiện ở việc những cá nhân này tùy
theo vị trí cơng tác mà tham mưu hoặc đưa ra các lệnh, quyết định về thi hành
tạm giữ, tạm giam hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam theo đúng quy
định pháp luật.
Những người quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam trong Công an cấp
huyện: Là những người được pháp luật giao nhiệm vụ quản lý cơ sở giam giữ
bao gồm Trưởng nhà tạm giữ, phó trưởng nhà tạm giữ, sĩ quan, hạ sĩ quan,
chiến sĩ, công nhân, viên chức làm nhiệm vụ quản giáo, bảo vệ, trinh sát, tham
mưu tổng hợp, hỗ trợ tư pháp, kỹ thuật, hậu cần, y tế, giáo dục, hồ sơ.
Đây chính là những người trực tiếp thực hiện việc quản lý giam giữ, vì
vậy họ là chủ thể có vai trị trực tiếp và quan trọng nhất trong việc thực hiện

các quy định về tạm giữ, tạm giam. Chính những người quản lý thi hành tạm
giữ, tạm giam là người thực thi các quy định về giam giữ, nên việc bảo đảm
QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam phụ thuộc chủ yếu vào những chủ thể
này.
Ngồi các chủ thê trên thì cịn có chủ thể kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam: Thực hiện kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ
Cơng an cấp huyện chính là nhiệm vụ, quyền hạn mà Đảng mà nhà nước ta
giao cho VKSND nói chung và VKSND cấp huyện nói riêng. VKSND thơng
qua hoạt động kiểm sát phát hiện các vi phạm của cơ quan quản lý thi hành


17

tạm giữ, tạm giam làm ảnh hưởng đến QCN của người bị tạm giữ, tạm giam;
căn cứ theo quy định pháp luật đưa ra các biện pháp như trực tiếp nhắc nhở
chấn chỉnh, kiến nghị yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ khắc phục vi phạm, kháng
nghị yêu cầu chấm dứt vi phạm, hủy bỏ các biện pháp vi phạm xâm phạm
nghiêm trọng đến QCN của người bị tạm giữ, tạm giam. Ngồi ra cịn có đại
diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện phối hợp với VKSND tham gia kiểm
sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam của Nhà tạm giữ Công an cấp huyện. Hoạt
động giám sát qua xem xét báo cáo và chất vấn của Hội đồng nhân dân cấp
huyện. Hoạt động bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, tạm giam của Luật
sư, người bào chữa theo quy định pháp luật.
1.2. Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người của đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an cấp huyện
1.2.1. Nội dung, phương thức bảo đảm quyền con người của đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam
1.2.1.1. Nội dung bảo đảm quyền con người của đối tượng bị tạm
giữ, tạm giam
Nội dung bảo đảm QCN của đối tượng bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm

giữ của Công an huyện được bảo đảm bằng việc ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ
luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam…cơ chế
bảo đảm QCN cho các đối tượng này được biểu hiện cụ thể thông qua các
quyền và nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng, người quản lý thi hành
tạm giữ, tam giam và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình xử lý
vụ án hình sự. Trong từng giai đoạn giải quyết vụ án hình sự thì những người
này có những quyền và nghĩa vụ khác nhau sẽ tác động đến QCN của các đối
tượng bị tạm giữ, tạm giam khác nhau, một số nội dung cụ thể như sau:
Bảo đảm quyền không bị bắt giam tuỳ tiện vô căn cứ


18

Quyền không bị bắt giam tùy tiện vô căn cứ là một trong những quyền
cơ bản của con người nói chung và của cơng dân nói riêng trên tồn thế giới,
nó được tất cả các quốc gia trên thế giới ghi nhận. Ở nước ta, quyền này được
bảo đảm chắc chắn bằng việc pháp luật ghi nhận rõ không bị bắt hoặc bị giam
giữ vô cớ, không bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước tự do đó là có
lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định và yêu cầu bảo
đảm rằng bất kỳ người bị bắt giữ đều được thông báo vào lúc bị bắt và phải
được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ. Quyền không bị bắt
giam tùy tiện vô căn cứ được ghi nhận trong nhiều đạo luật khác nhau.
Thứ nhất, quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta. Cụ thể tại
Khoản 2, Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ khơng ai bị bắt nếu khơng
có quyết định của Tịa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do
luật định.
Thứ hai, quyền không ai bị bắt, tạm giữ, tạm giam tùy tiện, vô căn cứ
được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015. BLTTHS năm 2015 của nước ta ghi
nhận bảo đảm quyền không ai bị bắt, tạm giữ, tạm giam tùy tiện, vô căn cứ

bằng việc quy định rõ điều kiện bắt tạm giữ, tạm giam; thẩm quyền tạm giữ,
tạm giam; thời hạn tạm giữ, tạm giam.
Thứ ba, nội dung bảo đảm quyền không bị bắt giam tùy tiện vơ căn cứ
cịn được thể hiện ở việc quy định thẩm quyền hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm
giam khơng có căn cứ của Viện kiểm sát, của thủ trưởng cơ quan Điều tra.
Thứ tư, bảo đảm quyền không ai bị bắt giam tùy tiện vơ căn cứ cịn
được bảo đảm bằng việc pháp luật quy định các chế tài xử lý đối với cá nhân,
người có thẩm quyền khi vi phạm. Việc bảo đảm quyền tự do, bất khả xâm
phạm về thân thể là căn cứ cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về việc tạm giữ, tạm giam. Đây là


×