Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nhận thức của anh (chị) về di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh?Liên hệ thực tế với một di tích mà anh chị có sự quan tâm.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.48 KB, 11 trang )

BÀI ĐIỀU KIỆN
MÔN BẢO QUẢN, TU BỔ, TÔN TẠO DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN
HĨA DANH LAM THẮNG CẢNH

Đề bài:
Nhận thức của anh (chị) về di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh?
Liên hệ thực tế với một di tích mà anh chị có sự quan tâm.

1


BÀI LÀM
Tu bổ và tơn tạo các di tích lịch sử - văn hóa là hoạt động có tính đặc thù
chun ngành. Tu bổ di tích khơng chỉ đơn giản là khơi phục lại như mới một
cơng trình kiến trúc cổ truyền, mà là sự tổng hợp của nhiều mặt hoạt động phức
tạp có quan hệ qua lại rất chặt chẽ...
I. Bảo quản, tu bổ, tơn tạo Di tích lịch sử văn hóa- danh lam thắng
cảnh
1.1. Một số khái niệm về di tích lịch sủ văn hóa- danh lam thắng cảnh
Khoản 3, 4 thuộc Điều 4 trong Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa
đổi và bổ sung năm 2009 quy định:
- Di tích lịch sử - văn hố là cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hố,
khoa học.
- Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết
hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm
mỹ, khoa học.
Căn cứ Điều 4 Luật Di sản văn hóa, Điều 14 Nghị định số 92/2002/NĐCP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Di sản văn hóa, các di tích được phân loại như sau:
1. Di tích lích sử - văn hóa là cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa,


khoa học:
2. Di tích kiến trúc nghệ thuật là cơng trình kiến trúc nghệ thuật, tổng thể
kiến trúc đô thị và đô thị có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển nghệ
thuật kiến trúc của dân tộc;
3. Di tích khảo cổ là những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu
các giai đoạn phát triển của các văn hóa khảo cổ;

2


4. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết
hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm
mỹ , khoa học.
Trong đó, Di tích Khảo cổ bao gồm:
-

Di chỉ cư chú (di chỉ cư chú hang động , di chỉ cư trú ngoài trời, di

chỉ phù sa, di chỉ cư chú đống vỏ sò, di chỉ cư trú có thành lũy).
-

Di chỉ mộ táng ( di chỉ mộ táng có nấm, di chỉ mộ táng khơng có

-

Di chỉ hỗn hợp.

nấm).
Di tích lịch sử bao gồm:
-


Di tích lưu niệm sự kiện (chính trị, địa điểm chiến tranh, tội ác

chiến tranh).
-

Di tích lưu niệm danh nhân.
Di tích kiến trúc- nghệ thuật gồm: thành lũy, lăng mộ, đình làng , quán

đạo, chùa, đền, miếu, phủ, điện, tháp Chăm, nhà thờ Thiên chúa giáo, kiến trúc
dân gian, di sản kiến trúc Pháp..
Danh lam thắng cảnh bao gồm: cảnh thiên nhiên và cảnh thiên nhiên có sự
chi phối của con người.
Điều 32 quy định:
1. Các khu vực bảo vệ di tích bao gồm:
a) Khu vực bảo vệ I là vùng có các yếu tố gốc cấu thành di tích;
b) Khu vực bảo vệ II là vùng bao quanh hoặc tiếp giáp khu vực bảo vệ I.
Trong trường hợp không xác định được khu vực bảo vệ II thì việc xác
định chỉ có khu vực bảo vệ I đối với di tích cấp tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định, đối với di tích quốc gia do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch quyết định, đối với di tích quốc gia đặc biệt do Thủ tướng Chính
phủ quyết định.

3


2. Các khu vực bảo vệ quy định tại khoản 1 Điều này phải được các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xác định trên bản đồ địa chính, trong biên bản
khoanh vùng bảo vệ của hồ sơ di tích và phải được cắm mốc giới trên thực địa.
3. Khu vực bảo vệ I phải được bảo vệ nguyên trạng về mặt bằng và khơng

gian. Trường hợp đặc biệt có u cầu xây dựng cơng trình trực tiếp phục vụ việc
bảo vệ và phát huy giá trị di tích, việc xây dựng phải được sự đồng ý bằng văn
bản của người có thẩm quyền xếp hạng di tích đó.
Việc xây dựng cơng trình bảo vệ và phát huy giá trị di tích khu vực bảo vệ
II đối với di tích cấp tỉnh phải được sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, đối với di tích quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt phải
được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Việc xây dựng cơng trình quy định tại khoản này khơng được làm ảnh
hưởng đến yếu tố gốc cấu thành di tích, cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái của di tích.”
I.2.

Hoạt động bảo quản, tu bổ, tơn tạo di tích lịch sử văn hóa- danh

lam thắng cảnh
Cơng tác tu bổ di tích lịch sử văn hố khơng chỉ đơn giản là khơi phục lại
như mới một cơng trình kiến trúc cổ truyền, mà là sự tổng hợp của nhiều mặt
hoạt động phức tạp có quan hệ qua lại rất chặt chẽ như: Nghiên cứu, sáng tạo
nghệ thuật và quá trình thi cơng, sản xuất v.v... Cơng tác tu bổ di tích phải đáp
ứng được các nhu cầu: Giải phóng, tước bỏ khỏi di tích tất cả các lớp bổ sung xa
lạ, gây ảnh hưởng xấu tới các mặt giá trị của di tích; giữ lại tối đa những yếu tố
nguyên gốc của di tích; trên cơ sở khoa học đáng tin cậy khơi phục lại một cách
chính xác những yếu tố đã bị thiếu hụt, mất mát trong quá trình tồn tại của di
tích; trả lại cho di tích hình dáng vốn có của nó; làm cho di tích có độ bền vững
về mặt kết cấu để tồn tại lâu dài trước tác động của điều kiện khí hậu và thời tiết
khắc nghiệt, cũng như thử thách của thời gian.
-

Cần thiết phải làm rõ sự khác biệt giữa xây dựng mới và sửa chữa

cơng trình với cơng tác tu bổ và bảo quản di tích

4


- Cơng tác tu bổ di tích chỉ đạt được hiệu quả cao khi các kiến trúc sư thiết
kế và thi cơng tu bổ di tích tn thủ các ngun tắc khoa học.
Theo Luật di sản văn hóa, bảo quản di tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia là hoạt động nhằm phòng ngừa và
hạn chế những nguy cơ làm hư hỏng mà không làm thay đổi những yếu tố
nguyên gốc vốn có của di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia.
Hoạt động bảo quản di tích gồm 2 nội dung chính:
-

Phịng ngừa và hạn chế những nguy cơ làm hủy hoại di tích, áp

dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm ngăn chặn và tiêu diệt các nguyên nhân gây
hại cho di tích có thể bảo quản từng phần hay tồn bộ di tích.
-

Việc áp dụng chế độ bảo quản sẽ có ưu thế là khơng làm thay đổi

những yếu tố nguyên gốc của di tích.
Từ ưu điểm của hoạt động bảo quản, áp dụng cho 2 loại di tích ở trong
tình trạng khác nhau:
-

Di tích ở tình trạng cịn nguyên vẹn, cần có sự chăm nom, bảo vệ

thường xuyên, áp dụng các biện pháp hóa lý nhằm bảo tồn u tố ngun gốc
của di tích.

-

Di tích ở tình trạng là phế tích, khơng đủ các điều kiện khoa học để

phục hồi như cũ, việc áp dụng giải pháp bảo quản là hết sưc cần thiết, để giữ lại
nguyên trạng của di tích.
Tu bổ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh là hoạt động nhằm tu
sửa, gia cố, tơn tạo di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh. Đây là hoạt
động sủa chữa về ký thuật, điều chỉnh sự biến dạng, khắc phục những hư hỏng
của di tích như chắp vá, gia cố, định hình.
Phục hồi di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh là hoạt động nhằm
phục hưng lại di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh đã bị hủy hoại trên cơ
sở các cứ liệu khoa học về di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đó.

5


Hoạt động phục hồi di tích lịch sử văn hóa gồm 2 nội dung cơ bản: hoạt
động ở dạng trùng tu, tái tạo và hoạt động nhằm phục hồi chức năng chính của
cơng trình. Thực tế, có thể phân chia ra hai cấp độ khác nhau:
-

Phương pháp phục hồi từng phần chỉ có kết quả duy nhât là bõ dỡ

hoặc giải phóng di tích khỏi những lớp sai lệch mà xét thấy bộ phận đó khơng có
giá trị, việc làm đó cho phép phục hồi lại bố cục hình khối của cơng trình hoặc
làm rõ những phần khơng gian kiến trưc bị bịt kín. Tuyệt đối khơng được bóc gỡ
làm lộ lớp nguyên gốc ban đầu khi việc làm đó đe dọa sự ổn định hoạc làm tổn
hại đến di tích.
-


Phương pháp phục hồi tồn bộ được áp dụng rộng rãi cho các di

tích bị phá hủy trong chiến tranh, do tai nạn đột ngột nhưng vẫn được người
đương thời công nhận như những thực thể tồn tại và chúng ta có đầy đủ chi tiết
các tài liệu để phục hồi lại di tích đó.
Các hình thức tu bổ di tích:
- Tu bổ quy mơ lớn với mục tiêu phục hồi và tái tạo lại toàn bộ hay từng
phần di tích đã bị mất đi, bị làm sai lệch hay biến đổi hình dáng. Trong đó phục
hồi di tích đặt ra nhiệm vụ tước bỏ những lớp bổ sung sau này làm sai lệch hình
dáng ban đầu, làm giảm các mặt giá trị của di tích (trừ trường hợp những lớp bổ
sung sau này nếu có giá trị thẩm mỹ trở thành bộ phận hữu cơ của di tích thì cần
được trân trọng). Cịn tái tạo di tích có nghĩa là phục dựng lại những yếu tố, các
bộ phận di tích đã bị mất, hoặc chỉ cịn lại những chi tiết đơn lẻ. Ngồi ra có thể
tái định vị các bộ phận di tích đã bị sụp đổ hoặc vùi lấp trong các phế tích kiến
trúc.
- Tu bổ mang tính chất sửa chữa nhỏ, có nhiệm vụ bảo vệ và gia cường về
mặt kỹ thuật để cho di tích ln được giữ trong trạng thái bảo quản ổn định mà
không làm thay đổi hình dáng lịch sử vốn có của nó, như: Bảo dưỡng thường
xuyên và định kỳ cho di tích, nhằm kiểm tra về mặt kỹ thuật, phát hiện, ngăn
chặn hoặc loại trừ nguyên nhân gây hại cho di tích; sửa chữa nhỏ (mái dột, hệ
thống máng nước, thốt nước, sơn cửa, quét vôi).
6


- Bảo quản cấp thiết: Khi phát hiện di tích đang ở trong tình trạng bảo
quản khơng tốt, có khả năng đe doạ sự toàn vẹn và hoàn chỉnh của nó, hoặc có
nguy cơ bị biến dạng, sụp đổ thì phải áp dụng ngay các biện pháp bảo quản cấp
thiết. Đối với những di tích sau khi được cơng nhận nếu chưa có khả năng tu sửa
lớn, chưa làm xong các khâu chuẩn bị khoa học cho công tác tu bổ, người ta

cũng áp dụng biện pháp bảo quản cấp thiết hoặc di tích bị hư hỏng đột xuất do
thiên tai gây ra. Nhưng phổ biến nhất là áp dụng biện pháp gia cố, tạo hệ thống
khung chống đỡ các cấu kiện chịu tải trong di tích.
- Bảo quản phịng ngừa bằng biện pháp kỹ thuật nhằm ngăn chặn hoặc
triệt tiêu các ngun nhân gây hại cho di tích, có thể áp dụng biện pháp kỹ thuật
để bảo quản từng phần di tích, bảo quản tồn bộ di tích, tạo lớp cách ly chống
thấm nước, chống ẩm, phun thuốc phòng và diệt mối, mọt, ngâm tẩm xử lý hoá
chất cho các cấu kiện cũ và mới trước khi lắp dựng lại.
Trong cơng tác bảo tồn di tích, bảo quản mang tính chất phịng ngừa là
biện pháp thích hợp cần được ưu tiên nhưng cũng đòi hỏi phải giải quyết những
vấn đề kỹ thuật rất phức tạp.
- Cải tạo di tích để sử dụng vào các chức năng mới, là biện pháp chỉ được
áp dụng với điều kiện không được làm tổn hại, giảm giá trị lịch sử và thẩm mỹ
của di tích.
Bảo quản là những hoạt động nhằm giữ nguyên trạng, loại trừ các sai lệch,
ngăn ngừa các tác nhân gây hại, giữ gìn lâu dài mà khơng thay đổi di tích.
Theo Quy chế Bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịc sử văn hóa- danh
lam thắng cảnh (ban hành theo Quyết định số 05/2003/QĐ – BVHTT) quy định
như sau:
Điều 1. Mục đích của hoạt động bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch
sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh
1. Bảo vệ các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi
là di tích) trước những tác động xấu của môi trường thiên nhiên và môi trường
xã hội.
2. Bảo đảm giữ gìn tối đa các yếu tố nguyên gốc và và các giá trị chân xác
của di tích về các mặt: vị trí, cấu trúc, chất liệu, kỹ thuật truyền thống, chức
7


năng, nội thất, ngoại thất, cảnh quan liên quan và các yếu tố khác của di tích

nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị của di tích.
3. Bảo đảm sự hài hịa giữa di tích với mơi trường cảnh quan xung quanh.
Nguyên tắc bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích
1. Chỉ tiến hành bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích trong trường hợp cần
thiết và phải lập thành dự án (trường hợp tu sửa cấp thiết di tích thực hiện theo
quy định tại Điều 10 và Điều 11 của Quy chế này). Dự án và thiết kế bảo quản,
tu bổ và phục hồi di tích hoặc báo cáo tu sửa cấp thiết di tích phải được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
2. Bảo đảm tính ngun gốc, tnhs chân xác, tính tồn vẹn và sự bền vững
của di tích.
3. Ưu tiên cho các hoạt động bảo quản, gia cố di tích trước khi áp dụng
những biện pháp kỹ thuật tu bổ và phục hồi khác.
4. Việc thay thế kỹ thuật hay chất liệu cũ bằng kỹ thuật hay chất liệu mới
phải được thí nghiệm trước để bảo đảm két quả chính xác khi áp dụng vào di
tích.
5. Chỉ thay thế một bộ phận cũ bằng một bộ phận mới của di tích khi có
đủ những chứng cứ khoa học chuẩn xác và phải có sự phân biệt rõ ràng giữa bộ
phận mới thay thế với những bộ phận khác.
6. Bảo đảm an tòan cho bản thân cơng trình và khách tham quan.
Việc bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
a) Giữ gìn tối đa các yếu tố gốc cấu thành di tích;
b) Lập quy hoạch, dự án trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt,
trừ trường hợp sửa chữa nhỏ không ảnh hưởng đến yếu tố gốc cấu thành di tích.
Đối với di tích cấp tỉnh, phải được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan có thẩm
quyền về văn hóa, thể thao và du lịch cấp tỉnh; đối với di tích quốc gia và di tích
quốc gia đặc biệt, phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch;
c) Cơng bố cơng khai quy hoạch, dự án đã được phê duyệt tại địa phương
nơi có di tích.


8


II. Hoạt động bảo quản, tu bổ tôn tạo di tích lịch sử Ddền thờ Hai Bà
Trưng (Mê Linh- Vĩnh Phúc- Hà Nội)
Đền thờ Hai Bà Trung nằm ở rìa phía Đơng Nam làng Hạ Lơi. Đền được
xây trên một khu đất rộng, giuac cánh đồng cao nhìn ra đê sông Hồng. Ban đầu,
đền chỉ được xây dựng rất đơn sơ bằng tranh tre nứa lá. Sau đó, đến triều nhà
Đinh đền được xây lại bằng ghạch và lượp ngói. Đến triều nhà Nguyễn, đền
được trùng tu, tôn tạo một lần nữa cho xây dựng Tam tịa chính điện và đổi
hướng như ngày nay. Ddền thờ Hai Bà Trưng không chỉ mang những giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học mà còn chứa đựng nhiều giá trị khiến trúc nghệ thuật tiêu
biểu.
Tồn bộ diện tích của Khu di tích lịch sử đền thờ Hai Bà Trưng gồm có 13
hecta. Trong đó chia làm hai khu riêng biệt. Đường kéo quân chia khu di tích
làm 2 phần. Khu bên trong gồm 4hecta là khu tâm linh, gồm 5 hạng mục thờ
cúng và các cơng trình phụ trợ. Từ đường kéo qn trải ra phía chân đê là khu
sân hội, nơi diễn ra các trò chơi dân gian trong những dịp lễ hội đền thờ Hai Bà
Trưng – Mê Linh được tổ chức.
Đền tọa thế “bạch tượng ẩm hồ”. Tức là “voi trắng uống nước trong hồ”.
Đền chính là Tam tịa chính điện ngự trên trán của một con voi. Lạch nước song
song với Tam mơn nội gọi là lạch vịi voi. Bên hữu Khu di tích là ao tắm voi.
Tam mơn ngoại được dựng lên bởi những cột đá với tứ trụ vuông vức và
hai mái cổng phụ. Trên bốn mặt của bốn cột đá là hình trạm trổ tứ linh: long – ly
– quy-phụng.
Khu sân ngoại của khu di tích được thiết kế theo hình ngũ phúc bởi ngọn
đá thề đứng giữa và 4 bồn hoa hình cánh dơi ở bốn góc sân. Hai bên sân ngoại là
hai hàng voi đá.
Phía trong sân ngoại là Tam mơn nội. Tam mơn nội là cơng trình kiến trúc
được xây dựng từ thời Nguyễn và được trùng tu, tôn tạo một lần nữa vào Đại lễ

kỉ niệm 1000 năm Thăng Long. Tam môn nội được xây dựng bởi kiến trúc gỗ
lim với các đầu đao uốn cong hình con kìm hóa rồng rất uyển chuyển. Sân nội
9


được lát đá theo kiến trúc chiếu hoa. Trong đó, chiếu hoa lớn ở giữa và sáu chiếu
hoa nhỏ ở hai bên để phục vụ bài chí voi ngựa, cờ xí trong dịp lễ hội.
Tam tịa chính điện gồm: Tiền tế, Trung tế và Hậu cung. Đền được xây
theo kiến trúc “tiền nhất hậu đinh”. Trước tòa Tiền tế là hồ bán nguyệt, hai bên
là hai cây muỗng cổ thụ có tuổi đời trên 100 năm.
Bên tả của Tam tịa chính điện là Đền thờ thân phụ thân mẫu ơng Thi Sách
và ông Thi Sách. Trải qua thời gian đền đã bị xuống cấp cho nên vùa được trùng
tu năm 2007. Toàn bộ kiến trúc cũng được xây dựng bằng gỗ lim. Nhưng để
phân biệt với đền vua thì tại 2 đền mẫu và 2 đền tướng, kiến trúc gỗ lim được để
trơn chứ không sơn son thiếp vàng.
Qua hồ mắt voi là Đền thờ Thân phụ, thân mẫu, Sư phụ, Sư mẫu của Hai
Bà và Đền thờ các nữ tướng của triều đại Trưng Vương ở bên hữu Tam tịa chính
điện. Đền thờ các vị nữ tướng của triều đại Trưng Vương là nơi thờ tự linh phù
của các vị nữ tướng đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 4043SCN). Đền được khởi dựng và hồn thiện năm 2006- 2007.
Hàng năm, khu di tích đền Hai Bà Trưng - Mê Linh mở hội chính từ ngày
mồng 6 đến ngày mồng 10 tháng Giêng âm lịch là ngày Hai Bà tế cờ khởi nghĩa.
Ngoài ra, ở đền cịn có những ngày lễ khác cũng được tổ chức hàng năm:
- Ngày mồng 8 tháng 3 âm lịch là ngày hóa của Hai Bà Trưng tức ngày
mồng 8 tháng 3 năm Quý Mão, năm 43 SCN.
- Mồng 1 tháng 8 âm lịch, là ngày sinh của Hai Bà Trưng tức ngày mồng 1
tháng 8 năm Giáp Tuất, năm 14 SCN.
-Ngày mồng 10 tháng 11 âm lịch là ngày giỗ ông Thi Sách (chồng Bà
Trưng Trắc).
Đặc biệt, là những năm chẵn, từ mùng 4 đến mùng 10 tháng Giêng nhân
dân địa phương tổ chức lễ rước kiệu Hai Bà, rước ngai và bài vị Hai Bà từ đền

về đến đình làng cách đền khoảng một cây số với ý nghĩa Hai Bà từ kinh đô về
thăm quê hương. Sau đó, đến ngày mùng 6 tháng Giêng là ngày chính hội, kỷ
niệm Hai Bà tế cờ khởi nghĩa.
10


Lễ hội đền Hai Bà Trưng Mê Linh vốn có sức sống mãnh liệt, đã gợi lên
âm huởng của quá khứ, làm nên phong cách con người nơi đây, như một sự giáo
dục truyền thống, biểu thị lịng sùng kính của quê hương đối với Hai Bà. Du
khách về với Mê Linh là về với quê Hương Hai Bà Trưng- một vùng quê huyền
thoại của kinh đô xưa, mang đậm nét truyền thống lịch sử văn hoá với những
nguời dân cần cù sáng tạo hăng say trên những cánh đồng hoa khởi sắc mn
màu. Ở đây cịn lưu giữ được những di tích đặc sắc về cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng. Có biết bao chứng tích đầy sức thuyết phục như: những đoạn tường
thành kinh đô xưa, bãi Huyện, đường Kéo Quân, hồ Tắm Voi, đền thờ, lễ hội…
mà ở đó, mỗi bậc thềm, then cửa, tiếng cựa mình của cây lá đều là những thông
điệp nhắn gửi tới muôn đời sau.

11



×