Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Truyện xuân quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện chủ đề và nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.07 KB, 50 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

======

NGUYỄN THỊ NINH AN

TRUYỆN XUÂN QUỲNH VIẾT CHO

THIẾU NHI NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN
CHỦ ĐỀ VÀ NGHỆ THUẬT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

======

NGUYỄN THỊ NINH AN

TRUYỆN XUÂN QUỲNH VIẾT CHO
THIẾU NHI NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN
CHỦ ĐỀ VÀ NGHỆ THUẬT
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học



TS. TRẦN THỊ MINH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới các
thầy cơ giáo trong khoa Giáo dục Mầm non trường Đại học sư phạm Hà Nội
2, các thầy cô trong tổ Xã hội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất trong suốt
thời gian em học tập tại khoa và trong thời gian em làm khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn tới TS. Trần Thị Minh - người đã
giúp đỡ, tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình nghiên cứu và trực tiếp
hướng dẫn em hồn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này.
Mặc dù đã rất cố gắng, song những ngày đầu làm quen, tiếp cận và học
hỏi nghiên cứu khoa học sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về mặt
kiến thức cũng như kinh nghiệm, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
chân thành từ quý thầy cô và bạn bè để khóa luận được hồn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

NGUYỄN THỊ NINH AN


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp với đề tài Truyện Xuân Quỳnh
viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện chủ đề và nghệ thuật, là công trình
nghiên cứu của cá nhân tơi, chưa từng có cơng bố nào khác.

Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên

NGUYỄN THỊ NINH AN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4
6. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 4
NỘI DUNG....................................................................................................... 5
Chƣơng 1. TRUYỆN XUÂN QUỲNH VIẾT CHO THIẾU NHI NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN CHỦ ĐỀ ............................................................................. 5
1.1. Xuân Quỳnh và truyện viết cho thiếu nhi .................................................. 5
1.1.1. Tiểu sử và sự nghiệp ............................................................................... 5
1.1.2. Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi................................................... 7
1.2. Các chủ đề chính ........................................................................................ 9
1.2.1. Một thế giới tự nhiên phong phú........................................................... 10
1.2.2. Một khúc ca về mái ấm gia đình ........................................................... 15
1.2.3. Bức tranh xã hội chân thực ................................................................... 22
Chƣơng 2. TRUYỆN XUÂN QUỲNH VIẾT CHO THIẾU NHI NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ................................................................ 28
2.1. Cốt truyện dung dị, đời thường ................................................................ 28
2.2. Lựa chọn chi tiết chân thực, giàu sức gợi ................................................ 31

2.3. Giọng điệu biến hóa, đa dạng, đậm chất thơ ............................................ 35
KẾT LUẬN .................................................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 43
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong lịch sử phát triển nền văn học của mỗi quốc gia, văn học
thiếu nhi là một bộ phận không thể thiếu. Ở Việt Nam, từ đầu thế kỉ XX đã
xuất hiện các tác phẩm văn học viết cho các em nhưng phải đến sau Cách
mạng tháng Tám 1945, nền văn học thiếu nhi mới chính thức được hình thành
và thực sự trở thành một bộ phận có tổ chức ở tầm vĩ mô, dần dần đạt được sự
ổn định về định hướng, ngày càng phong phú về nội dung, đa dạng về thể
loại. Để làm nên thành cơng đó, khơng thể khơng nhắc đến những đóng góp
q báu của các tác giả đã dành trọn tâm huyết của mình cho thế hệ măng non,
từ lớp người “khai sơn phá thạch” ban đầu như Tản Đà, Nguyễn Văn Ngọc,
Tơ Hồi, Võ Quảng, Phạm Hổ… đến thế hệ nhà văn, nhà thơ sau này như
Định Hải, Xuân Quỳnh, Cao Xuân Sơn, Nguyễn Hoàng Sơn, Dương Thuấn…
Trong đó, Xuân Quỳnh là cây bút nữ có sức sáng tạo dồi dào, có thể coi là
một hiện tượng văn học độc đáo.
Xuân Quỳnh (1942 - 1988) lâu nay được bạn đọc biết đến qua
những vần thơ “giàu vẻ đẹp nữ tính”, “thường trực khát vọng thiết tha về hạnh
phúc đời thường” (Nguyễn Thị Bình). Tuy nhiên, bên cạnh thơ, Xn Quỳnh
cịn sáng tác văn xi. Đáng kể nhất là mảng truyện viết cho thiếu nhi. Với
khoảng gần 50 truyện ngắn, bà đã cho bạn đọc thấy được khả năng “trị
chuyện” với trẻ em bằng văn xi - những áng văn đậm đà chất thơ, sử dụng
chất liệu đời thường để tạo nên những câu chuyện ngộ nghĩnh, trong trẻo mà
không kém phần ý vị.
Trẻ em ngày nay sống trong thời đại của cơng nghệ thơng tin. Vì vậy,

tư duy của trẻ cũng có nhiều chuyển biến. Để tạo cho trẻ niềm vui hứng khởi
khi tiếp xúc với sách báo, bản thân người lớn chúng ta cũng phải có trách
nhiệm tìm hiểu, hướng các em đến những tác phẩm văn học thực sự có giá trị,
chứa đựng tính nhân văn và giàu có về nghệ thuật ngơn ngữ. Xét trên tiêu chí
đó, truyện Xn Quỳnh viết cho thiếu nhi có thể coi là món quà trân quý của
“bạn đọc ngày xưa gửi tặng bạn đọc bây giờ” như có lần bà tự bạch.

1


1.2. Xuất phát từ niềm say mê văn học thiếu nhi và niềm cảm phục
trước một cây bút tài hoa, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài Truyện Xuân
Quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện chủ đề và nghệ thuật để làm
khóa luận tốt nghiệp đại học. Việc thực hiện đề tài này giúp người viết có
thêm cơ hội bồi đắp năng lực cảm thụ văn chương, giúp ích cho cơng tác
chun mơn, nghiệp vụ trong q trình giảng dạy ở trường mầm non sau này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học
Việt Nam hiện đại. Sáng tác của bà vì thế được nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình văn học chú ý quan tâm. Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi cố gắng tiếp
cận những cơng trình, bài viết về mảng truyện ngắn viết cho thiếu nhi của bà
một cách hệ thống.
Bàn về tập truyện Mùa xuân trên cánh đồng (1981), tác giả Hiền
Phương đi sâu tìm hiểu sức hấp dẫn của ngịi bút Xn Quỳnh qua những câu
chuyện đời thường gần gũi với trẻ thơ. Tác giả đã nhận ra rằng: “Chỉ những
vật bình thường gần gũi thôi, bằng một khả năng quan sát và tưởng tượng
phong phú, với lối kể hóm hỉnh, thơng minh, tác giả đã dựng lên những câu
chuyện ngắn gọn mà có sức lơi cuốn mạnh, giúp các em khám phá thêm
những điều diệu kì trong thế giới tự nhiên và đặc biệt là trong chính bản thân
mình” [Dẫn theo 10, 540]. Đọc truyện ngắn Xuân Quỳnh, trẻ em sẽ giải thích

được rất nhiều những câu hỏi “Vì sao?”, “Tại sao?” mà trong đầu chúng thường
hay thắc mắc: Vì sao hạt đỗ lại mọc thành cây? Vì sao quả bầu lại dài? Cánh
diều bay cao được là nhờ đâu?… Theo Hiền Phương, tuyển tập Mùa xuân trên
cánh đồng không chỉ “đẹp” về nội dung mà cịn “đẹp” về hình thức: “Một điều
cần nói thêm: trang bìa và những tranh minh họa của họa sĩ Trương Quang đã
làm cho cuốn truyện đẹp và sinh động hơn rất nhiều” [Dẫn theo 10, 540].
Trong bài viết Bến tàu trong thành phố (1984), nhà văn Trần Ninh Hồ
nhấn mạnh “giọng kể” như điểm nhấn tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho mỗi
trang văn Xuân Quỳnh viết dành tặng bạn đọc nhỏ tuổi: “Có lẽ vì thế, vì cái
giọng kể rất riêng ấy là cái mạnh của Xuân Quỳnh, khiến cho những chuyện
ngỡ như khơng có gì bỗng trở thành đằm thắm, đậm đà…” [Dẫn theo 10, 659].

2


Trong bài viết Bến tàu trong thành phố của Xuân Quỳnh, nhà văn Lê
Phương Liên đã nhận định như sau: “Khơng chỉ có dun với thiếu nhi, Xn
Quỳnh cịn có duyên kể chuyện. Bà đã sáng tạo ra một tuổi thơ nghệ thuật từ
tuổi thơ của mình và tuổi thơ của các con” [Xem 12]. Lê Phương Liên cho
rằng đề tài “gia đình” gắn liền với sự nghiệp viết cho trẻ em của Xuân Quỳnh
và bà là một trong những cây bút thành công đầu tiên về đề tài gia đình cho
trẻ em.
Xoay quanh đề tài này, nhà văn Nguyễn Ngọc Tú cũng đưa ra đánh giá:
“Ngoài làm thơ, Xuân Quỳnh cịn viết truyện thiếu nhi. Có nhiều truyện đọc
mà rưng rưng nước mắt như truyện Khi vắng bà, Bến tàu trong thành phố, Ơng
nội và ơng ngoại… là những truyện in đậm trong trí nhớ mọi người” [5, 259].
Lý giải nét đặc sắc trong sáng tác cho thiếu nhi của Xuân Quỳnh, Đông
Mai - chị gái Xuân Quỳnh cho rằng: “Cuộc đời mồ cơi khiến Xn Quỳnh hiểu
tình mẫu tử thiêng liêng, cần thiết và quý giá như nào đối với trẻ thơ, nên khi
làm mẹ, Xuân Quỳnh dồn tất cả tâm hồn và sức lực cho con. Trong thơ Xuân

Quỳnh, tình mẹ con thiết tha, sâu đậm. Những đứa con là nguồn tri thức không
bao giờ vơi cạn của Quỳnh. Những bài thơ nói về con, viết cho con chiếm số
lượng lớn trong thơ Xuân Quỳnh và vì vậy, ta hiểu tại sao văn Quỳnh viết cho
thiếu nhi lại dí dỏm, nồng ấm tình người đến như vậy” [Xem 6].
Trong Giáo trình Văn học trẻ em, phần khái quát, tác giả Lã Thị Bắc
Lý có nhắc đến tập truyện Bến tàu trong thành phố của Xuân Quỳnh trong
mảng đề tài viết về cuộc sống mới: “Viết về cuộc sống mới khi đất nước đã
hoàn toàn thống nhất, các nhà văn chú ý đến nhiều vấn đề đạo đức của con
người. Những tác phẩm như: Tình thương (Phạm Hổ), Bến tàu trong thành
phố (Xuân Quỳnh), Chú bé có tài mở khóa (Nguyễn Quang Thn), Hành
trình ngày thơ ấu (Dương Thu Hương)… có thể coi là những tác phẩm xung
kích đã mạnh dạn phanh phui những tiêu cực của xã hội với những cái xấu,
cái lạc hậu và sự nhỏ nhen, đố kị trong những suy nghĩ của con người” [3,16].
Qua việc tổng hợp, khảo sát tài liệu, chúng tôi nhận thấy mảng truyện
Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi đã được một số tác giả quan tâm bàn đến. Tuy
nhiên, những bài viết đó mới chỉ dừng lại ở một số nhận định khái quát, chưa
đi sâu nghiên cứu các tầng ý nghĩa cũng như sức hấp dẫn của mảng truyện
3


này. Đó là một gợi ý để chúng tơi triển khai khóa luận tốt nghiệp với đề tài
Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương diện chủ đề và nghệ
thuật. Những cơng trình, bài viết của các nhà nghiên cứu đi trước là những
gợi ý quí báu cho chúng tơi trong q trình triển khai đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những nét đặc sắc trong truyện viết cho thiếu nhi của Xuân
Quỳnh trên hai phương diện chủ đề và nghệ thuật. Qua đó, thấy được giá trị
của mảng truyện này cũng như những đóng góp của bà trong lĩnh vực văn
xuôi thiếu nhi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu giá trị truyện Xuân Quỳnh viết cho
thiếu nhi trên hai phương diện chủ đề và nghệ thuật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát 48 truyện ngắn được in
trong cuốn Xuân Quỳnh - Tuyển tập truyện thiếu nhi do Nhà xuất bản Phụ nữ
ấn hành năm 1995.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp so sánh văn học
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại
6. Cấu trúc khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
của khóa luận gồm hai chương:
- Chương 1: Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương
diện chủ đề
- Chương 2: Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi nhìn từ phương
diện nghệ thuật

4


NỘI DUNG
Chƣơng 1
TRUYỆN XUÂN QUỲNH VIẾT CHO THIẾU NHI
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN CHỦ ĐỀ
1.1. Xuân Quỳnh và truyện viết cho thiếu nhi
1.1.1. Tiểu sử và sự nghiệp
“Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6

/10/1942 tại làng La Khê, xã Văn Khê, thị xã Hà Đông (nay là quận Hà Đông,
Hà Nội). Xuân Quỳnh sinh ra trong một gia đình cơng chức. Bà được thừa
hưởng nhan sắc, phẩm hạnh của mẹ và tình yêu văn chương của cha, nhưng
cuộc đời lại sớm chịu nhiều thiệt thòi vất vả. Mẹ mất sớm, cha thường xuyên
đi công tác xa nhà, Xuân Quỳnh ở với bà nội và lớn lên cùng chị gái là Đông
Mai. Tuổi thơ của Quỳnh trôi qua thật nghèo nàn, cơ cực và thiếu thốn cả về
vật chất lẫn tinh thần. Chính bởi cuộc sống vất vả từ nhỏ như vậy nên đã
khiến Xuân Quỳnh có phần già dặn trước tuổi”.
“Tháng 2 năm 1955, khi mới 13 tuổi, Xn Quỳnh được tuyển chọn
vào Đồn văn cơng nhân dân Trung ương và được đào tạo để trở thành diễn
viên múa chuyên nghiệp theo lối học truyền nghề ngay tại đồn. Vốn có năng
khiếu, lại thơng minh xinh đẹp, cơ em út của đồn sớm chiếm được tình cảm
của mọi người và trở thành diễn viên múa đầy triển vọng. Xuân Quỳnh đã
nhiều lần đi biểu diễn ở các nước và dự đại hội Thanh niên sinh viên thế giới
năm 1959 tại Viên (Áo). Xuân Quỳnh học ở trường Bồi dưỡng những nhà viết
văn trẻ (khóa I) của Hội Nhà văn. Ngày 5 tháng 8 năm 1963, sau khi từ đảo
Cô Tô về, Xuân Quỳnh quyết tâm theo đuổi con đường văn học. Từ năm 1964
trở đi, Xuân Quỳnh trở thành biên tập viên báo Văn nghệ, báo Phụ Nữ Việt
Nam, Nhà xuất bản tác phẩm mới. Tại Đại hội các nhà văn lần thứ 3, Xuân
Quỳnh được bầu vào Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Một số tác phầm
của Xuân Quỳnh đã được dịch và in tại Liên Xô, CHND Đức, Pháp…”
“Xuân Quỳnh qua đời ngày 28 tháng 8 năm 1988 trong một tai nạn giao
thông tại cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương, cùng chồng là

5


Lưu Quang Vũ và con trai út Lưu Quỳnh Thơ (13 tuổi). Sự việc xảy ra đã gây
bao điều đau đớn và xót thương trong lịng những người u mến gia đình
nghệ sĩ tài hoa. Những bơng cúc vàng mà bà từng yêu, từng nhắc đến trong

những trang thơ phủ kín đầy khu mộ. Thế nhưng chính sự ra đi bất ngờ ấy đã
làm cho Xuân Quỳnh và cả tác phấm của bà trở nên đẹp, bất tử và thiêng
liêng. Năm 2011, Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn
học nghệ thuật” [ Xem 12]
Xuân Quỳnh có thơ đăng báo Văn nghệ từ năm 1962. Năm 1963, trong
một tập thơ in chung với Cẩm Lai (Tơ tằm - Chồi biếc), phần Chồi biếc là
sáng tác của Xuân Quỳnh, “mang cái nhìn trong trẻo, trẻ trung, có khi bồng
bột nhưng rất đằm thắm chân thành trước cuộc đời, nhất là cảm xúc về tình
yêu” [4, 313].
Hiện thực đất nước những năm chống Mĩ là nguồn cảm hứng lớn trong
các tập Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào cát trắng (1974), Lời ru mặt đất
(1978). Những tập thơ này bộc lộ rõ “ý thức của một nhà thơ công dân, nhà
thơ chiến sĩ” [4, 312].
Bên cạnh cảm hứng công dân, thơ về tình yêu và con trẻ của Xuân
Quỳnh ở những chặng đường này có thể xem là những đóng góp đặc sắc. “Đó
là tiếng lịng của một cái tơi cá nhân đích thực, mang bản chất tự nhiên thuần
hậu, khao khát hướng tới hạnh phúc làm vợ, làm mẹ” [4, 312]. Bản năng làm
mẹ, phẩm tính mẹ và cái nhìn hóm hỉnh về thế giới đã đem lại cho Xuân
Quỳnh những vần thơ thật trìu mến, trong trẻo về trẻ thơ như Cắt nghĩa,
Chùm thơ xuân cho ba con nhỏ, Chuyện cổ tích về lồi người… Năm 1983,
tập thơ Bầu trời trog quả trứng của Xuân Quỳnh đã được tặng giải A, một
giải thưởng văn học hằng năm của Hội nhà văn Việt Nam. Đó là dấu mốc ghi
nhận thành quả lao động nghệ thuật vì con trẻ của bà.
Bên cạnh thơ, Xuân Quỳnh còn sáng tác văn xi trong đó truyện viết
cho thiếu nhi là một điểm sáng nổi bật. Xuân Quỳnh am hiểu tâm lí trẻ thơ
cùng với khiếu quan sát tinh tế nên mỗi trang văn đều mang đến cho bạn đọc
những khám phá bất ngờ, thú vị. Mảng sáng tác này khơng chỉ góp phần bồi
đắp thêm cho tâm hồn con trẻ, nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp cho các em
mà cịn “đánh thức” trong mỗi người lớn chúng ta niềm nhớ tiếc khi nghĩ về


6


năm tháng tuổi thơ dịu ngọt của mình.
“Các tác phẩm chính
- Tơ tằm - Chồi biếc (thơ, in chung, Nxb Văn học, 1995)
- Hoa dọc chiến hào (thơ, in chung, 1968)
- Gió Lào cát trắng (thơ, 1974)
- Lời ru trên mặt đất (thơ, 1978)
- Sân ga chiều em đi (thơ, 1984)
- Tự hát (thơ, 1984)
- Tiếng gà trưa (thơ)
- Hoa cỏ may (thơ, 1984)
- Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994)
- Cây trong phố - Chờ trăng (thơ)
Các tác phẩm viết cho thiếu nhi
- Bầu trời trong quả trứng (thơ thiếu nhi, 1982)
- Truyện Lưu Nguyễn (truyện thiếu nhi, 1984)
- Mùa xuân trên cánh đồng (truyện thiếu nhi, 1981)
- Bến tàu trong thành phố (truyện thiếu nhi, 1984)
- Vẫn có ơng trăng khác (truyện thiếu nhi, 1986)
- Xn Quỳnh - Tuyển tập truyện thiếu nhi (1995)
- Chú gấu trong vòng đu quay (tập truyện)”
1.1.2. Truyện Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi
Xuân Quỳnh đến với thiếu nhi trong hành trình dài một đời thơ, một
đời văn, khơng phải phút dừng chân như một du khách lãng du, bà đến với
các em bằng một tình u đích thực với tâm nguyện trở thành “người bạn”
của các em.
Xuân Quỳnh viết truyện cho thiếu nhi khi trên văn đàn Việt Nam đã
xuất hiện nhiều tên tuổi nổi tiếng như Đoàn Giỏi, Phạm Hổ, Võ Quảng,

Phong Thu, Trần Hoài Dương… nhưng bà vẫn khẳng định mình bằng một
phong cách rất riêng. Nét độc đáo trong văn xuôi Xuân Quỳnh nằm ở sự kết
hợp hài hịa giữa vẻ đẹp “thiên tính nữ” với giá trị của sự thật, của cái thật. Bà
không ngại ngần, né tránh khai thác đề tài xã hội với muôn mặt phức tạp của
nó trong cuộc sống đời thường. Những mảnh đời xuất hiện trong truyện ngắn

7


Xuân Quỳnh thường là những người lao động nghèo khổ xung quanh các em:
đó là Thầy giáo dạy vẽ cả đời chưa vẽ được bức tranh nào đáng kể, đó là
Người làm đồ chơi tốt bụng, nặng lòng với truyền thống nhưng cuối cùng vẫn
phải giải nghệ về quê, đó là Bà bán bỏng ở cổng trường tơi chỉ vì tin đồn ác ý
mà phải đi xin ăn… Từ những chi tiết vụn vặt, đời thường, Xuân Quỳnh đã
“gia công” nhào nặn khiến những trang truyện tuy có ánh vẻ đượm buồn
nhưng vẫn khiến bạn đọc lạc quan, tin tưởng ở tình người, ở sự thơng cảm, sẻ
chia vẫn cịn tồn tại trong xã hội. Về vấn đề này, tác giả Lê Nhật Ký nhận xét:
“Có người bảo Xuân Quỳnh thường viết hơi nhiều về những truyện trong
cảnh nghèo và thường mang đơi chút ngậm ngùi. Có thể là như vậy, nhưng
cái điều cần thiết là lòng thương mến, độ lượng, biết q trọng, gắn bó với
những người thân thiết xung quanh thì bao giờ ta cũng thấy đậm đà trên trang
viết của chị. Xuân Quỳnh rất biết quý trọng những chi tiết đời thường của
riêng mình và những điều thân thuộc mỗi khi chị cầm bút. Và nói được cùng
con trẻ những điều này, giữa những ngày này, thật cần biết bao” [Dẫn theo
12]. Từ những câu chuyện nhỏ ấy, trẻ thơ có thể rút ra được cho mình những
bài học giáo dục nhẹ nhàng mà sâu lắng, như Nguyễn Thụy Anh từng nhận
định: “Những đứa trẻ từng say mê đọc truyện Xn Quỳnh, tơi trộm nghĩ, khó
mà có thể trở thành… người ác được” [Dẫn theo 12].
Bên cạnh những tác phẩm khai thác đề tài xã hội, Xuân Quỳnh còn
sáng tác nhiều truyện mang âm hưởng đồng thoại hoặc cổ tích. Nếu so sánh

với Võ Quảng, ta có thể nhận thấy nhãn quan hai nhà văn đều có điểm tương
đồng là lấy thế giới của con người làm trung tâm trong các sáng tác, sử dụng
tất cả hình ảnh thiên nhiên với mục đích soi chiếu vào xã hội lồi người. Võ
Quảng là một trong rất ít những nhà văn cả đời chuyên tâm với sáng tác văn
học cho trẻ em, với những tác phẩm đồng thoại nổi bật như Anh Cút lủi,
Những chiếc áo ấm, Trong một hồ nước, Bài học tốt ... hay tiểu thuyết Tảng
sáng và Quê nội… “Đối với những sáng tác truyện đồng thoại, cả hai nhà văn
đều không ham viết dài. Chỉ bằng một vài nét phác họa, tác giả đã dựng lên
một cảnh trí, một tình huống mà ở đó có đầy đủ mà sắc, âm thanh. Có thể nói,
những câu câu chuyện đồng thoại của Xuân Quỳnh và Võ Quảng là những
cơng trình sư phạm góp phần giáo dục cho các em cả về trí tuệ, thẩm mĩ và về
phép đối nhân xử thế trong cuộc đời. Tuy nhiên, nếu những sáng tác của Xuân

8


Quỳnh mang đậm chất thơ với những cốt truyện đơn giản, nhẹ nhàng thấm
vào tâm hồn người đọc thì truyện ngắn của Võ Quảng lại mang dáng dấp
truyện ngụ ngôn”. Ở phương diện đề tài, nếu mảng đề tài lớn trong truyện
Xuân Quỳnh viết cho thiếu nhi là gia đình và xã hội thì bao trùm trong những
sáng tác của Võ Quảng là quê hương và cách mạng.
Khi nói đến phong cách Xuân Quỳnh, đôi lúc bạn đọc thấy được điểm
gặp gỡ giữa Xuân Quỳnh và nhà văn Phong Thu. “Điểm gặp gỡ giữa hai tác giả
đó là ở chất thơ nhẹ nhàng trong mỗi sáng tác viết cho thiếu nhi. Cốt truyện
trong các sáng tác của Xuân Quỳnh và Phong Thu thường rất giản dị, gần gũi,
dể hiểu về tình cảm gia đình, tình thầy trị, chuyện lồi vật… Tiêu biểu là các
tác phẩm Bồ nơng có hiếu, Xe lu và xe ca, Cây bàng không rụng lá… Không
quá thiên về những chi tiết và cấu tứ, những sáng tác của nhà văn Phong Thu
như một lát cắt thanh mảnh, trong trẻo của cuộc sống, gần gũi với trẻ em. Cùng
thấm đẫm chất thơ nhưng những tác phẩm truyện ngắn viết cho thiếu nhi của

Xuân Quỳnh lại thiên về mảng đề tài thế sự, xã hội, những vấn đề đạo đức. Nhà
văn Phong Thu thường chọn những đề tài về thế giới loài vật, thiên về sử dụng
các biện pháp nhân hóa, đem hơi thở của cuộc sống vào thế giới tự nhiên”.
Truyện thiếu nhi Việt Nam là một kho tàng phong phú, đa dạng và
được ví như một vườn hoa tràn đầy sắc hương. Mỗi nhà văn là một màu sắc,
một hương thơm riêng khơng thể nhịe lẫn. Truyện viết cho thiếu nhi của
Xuân Quỳnh trong kho tàng văn học Việt Nam mang vẻ đẹp của một giọng
văn giàu “chất thơ”, rất tự nhiên và nhẹ nhàng, giàu tính nữ. Bà đã đóng góp
lớn vào nền văn học thiếu nhi nước nhà bằng những tác phẩm có giá trị, mang
tính giáo dục cao như Bà tơi, Bến tàu trong thành phố, Mùa xuân trên cánh
đồng, Người làm đồ chơi… Những câu chuyện nhỏ của bà cứ nhẹ nhàng thấm
vào tâm hồn các em, thủ thỉ với các em về những điều hay lẽ phải, hướng các
em đến những điều tốt đẹp. Truyện Xuân Quỳnh viết không chỉ con trẻ u
thích mà cịn cả những độc giả lớn tuổi bởi khi đọc người lớn cũng thấy tâm
hồn mình trẻ lại và thấy được “ngày bé đáng yêu” của mình.
1.2. Các chủ đề chính
“Dù thuộc thế hệ những người cầm bút trưởng thành từ cuộc kháng
chiến chống Mĩ, nhưng Xuân Quỳnh đến với những sáng tác văn xuôi cho
thiếu nhi khá muộn. Tuy số lượng không quá đồ sộ nhưng cũng đủ để khắc

9


họa những mảng đề tài phong phú xoay quanh cuộc sống trẻ thơ”.
1.2.1. Một thế giới tự nhiên phong phú
Khảo sát cuốn Xuân Quỳnh - Tuyển tập truyện thiếu nhi do Nhà xuất
bản Phụ nữ ấn hành năm 1995, chúng tôi thống kê được 18/ 30 truyện (60%)
khai thác đề tài về thế giới tự nhiên. Đặc biệt, thế giới tự nhiên ấy lại được
khúc xạ qua cái nhìn hồn nhiên, trong trẻo đậm chất trẻ thơ.
Thiên nhiên và thế giới lồi vật ngộ nghĩnh, sinh động ln là nguồn

cảm hứng sáng tác của các nhà văn, nhà thơ. Phạm Hổ từng quan niệm thiên
nhiên là một nhân vật không thể thiếu trong sáng tác cho các em. Trong
những sáng tác của Xuân Quỳnh, thiên nhiên cũng là một trong những đề tài
được nhắc đến rất nhiều. Qua đó, Xuân Quỳnh không chỉ giúp các em mở
rộng nhận thức về thế giới tự nhiên, mơi trường xung quanh mà cịn hướng
các em đến với cái đẹp và cái thiện trong cuộc sống.
Quả Bầu nhớ Đất là câu chuyện đầy xúc động về tình cảm khăng khít
giữa Bầu và Đất: “Ngày xửa ngày xưa, Bầu và Đất ở rất gần nhau. Bầu mọc ra
từ Đất. Bầu đi chỗ nào cũng gặp Đất. Đất ở chỗ nào cũng gặp Bầu” [11, 152].
Những quả bầu con của Bầu tròn như trái bưởi được gửi lại cho bác Đất trông
nom. Khi Bầu đi vắng, Đất bồng bế, chăm sóc. Đất ru những quả bầu bằng
những lời thì thầm từ trong lịng Đất. Lịng tốt của Đất và sự biết ơn của Bầu
khiến sự gắn kết của chúng càng lớn hơn. Tưởng chừng như Đất và Bầu sẽ
không bao giờ rời xa nhau nhưng chẳng may trời mưa lũ. Bầu đành nghe lời
Đất gạt đi nước mắt, những ngọn Bầu đem theo những quả bầu còn nhỏ leo
lên cây. Năm ấy ngập lụt, nước làm thối rễ Bầu. Biết mình chẳng sống được
bao lâu, Bầu đã trăn trối lại với các con về lòng tốt và mối quan hệ giữa họ
nhà Bầu với Đất… Nhớ lời mẹ dặn, Bầu tách hạt về với Đất, Đất lại vun xới
cho hạt nảy mầm, mọc lên những giàn bầu. Tuy đã quen sống trên cây, nhưng
Bầu thương cho sự vất vả của Đất nên đã đem lá của mình để che nắng che
mưa cho Đất, những quả Bầu ln hướng về Đất nên có hình dáng dài chứ
khơng cịn trịn như quả bưởi. Mỗi lần có cơn gió thoảng qua, quả bầu lại
đung đưa theo tiếng ru thì thầm của Đất năm xưa. Qua câu chuyện nhỏ về tình
cảm giữa gắn bó giữa Đất và Bầu, Xn Quỳnh muốn nhắn nhủ tới các bạn

10


nhỏ về lòng biết ơn khi được giúp đỡ, sự hi sinh và sự gắn kết để tạo nên cuộc
sống mn lồi. Mặt khác, cách giải thích vơ cùng đáng yêu của bà đã giúp

các em trả lời câu hỏi: vì sao mà quả bầu lại dài chứ khơng có hình trịn.
Đồng thời, giúp các em hiểu một quy luật: cây muốn sống thì phải được đất
mẹ ni dưỡng.
Để giải thích một cách kéo léo về q trình và điều kiện để hạt nảy mầm
cần có đất, nước, khơng khí, Xn Quỳnh cịn có truyện Hạt Đỗ Sót. Sáng tác
kể về Đỗ Sót - hạt đỗ cịn sót lại trong chiếc hũ kín, khơng được gieo trồng nơi
luống đất như các bạn của mình: “Khi sót lại, Đỗ Sót cũng đã kêu cứu, nhưng
người nghe không hiểu tiếng của đỗ nên khơng biết trong hũ cịn một hạt đỗ sót
lại. Đỗ Sót rất buồn. Sống trong hũ vừa tối vừa vắng vẻ” [11, 121]. “Không
chỉ mắc kẹt ở trong chiếc hũ, Đỗ Sót cịn phải đối diện với bao nguy hiểm,
thử thách trong hành trình tìm ra luống đất ấm ấp nơi có bạn bè mình ở đó.
Trong chiếc hũ tăm tối, đơn độc cơ Đỗ Sót phải đối mặt với Mụ Mọt xấu xa,
nhờ sự giúp đỡ của các bạn kiến mà cơ mới thốt được nạn. Nhưng khó khăn
còn chưa hết, trên đường được các bạn kiến đem ra luống đất sau vườn, cơ Đỗ
Sót vơ tình được tưới nước nên đã nảy mầm và đành nằm lại nơi khe gạch
buồn tẻ... Chỉ trong ba trang giấy mà câu chuyện cơ Đỗ Sót trở nên vơ cùng li
kì, hấp dẫn dưới ngịi bút của nhà văn. Cơ Đỗ Sót tuy nhỏ bé, mỏng manh
nhưng rất dũng cảm, can trường. Dù trong hồn cảnh khó khăn, ngặt nghèo,
cơ đều lạc quan và nghĩ đến những điều tốt đẹp. Trải qua những khó khăn, thử
thách cuối cùng số phận đã mỉm cười với Đỗ Sót, khi một ngày kia có một em
bé nhận ra Đỗ Sót và đem cơ ra trồng ở luống đất sau vườn”. Vậy là qua bao
nhiêu thử thách, cuối cùng cô cũng được sống giữa bạn bè, cây đỗ ngày nào
đã vươn cao: “Bây giờ Đỗ Sót đã sống ở giữa bạn bè, nhưng vẫn cịn một chút
buồn lây các bạn cơ đã ra hoa, cịn cô mới lưa thưa vài cái lá. Nhưng rồi, tuy
lớn muộn hơn, cuối cùng cô cũng ra hoa và kết quả. Cô vui sướng, các bạn
nhà đỗ thấy vậy cũng lại vui như chính mình được ra hoa kết quả một lần
nữa” [11, 126]. Viết về hoàn cảnh, sự éo le của Đỗ Sót tác giả như muốn gửi
gắm một ý nghĩa tới các em: trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy luôn mạnh
mẽ, dũng cảm, hãy tin rằng cuộc sống mỗi ngày sẽ tốt đẹp hơn. Câu chuyện
nhỏ nhưng mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc, giúp các em thắp lên ngọn lửa của

11


niềm hi vọng, tin yêu vào cuộc sống.
Trong truyện Hoa râm bụt, ngịi bút nhà văn khắc họa hình ảnh một jhu
vườn với đủ loại hoa khoe sắc: hoa huệ trắng muốt tỏa hương ngào ngạt, hoa
hồng nhung kiêu sa, thược dược, cẩm chướng lúc nào cũng khoác trên người
đủ màu sắc sặc sỡ, lúc nào cũng nói cười toe toét. Các loài hoa chê bai râm bụt
sao mà xấu q, “chẳng thơm, chẳng ai thèm cắm lên bình, khơng ai thèm
chăm bón, chả ai thèm hái tặng nhau”, rồi hoa gì “mà chẳng ai thèm chơi, phải
chơi cùng ếch nhái” [11, 131]. Các loài hoa mách chủ vườn nên chặt râm bụt đi
khỏi phí đất. Một hơm trời bão, các mụ gió thi nhau hồnh hành, hàng ngàn mụ
gió tấn cơng vườn hoa khiến rất nhiều lồi hoa bị thương: cô hồng nhung rách
tả tơi cả áo đẹp, hoa huệ sái cả cổ, cẩm chướng dập hết mồm miệng… Bấy giờ
mọi loài hoa trong vườn mới nhớ đến giàn râm bụt: “Phải chi rặng râm bụt cịn
thì các cơ đâu đến nỗi xơ xác thế này. Các cơ khóc lóc. Cơ nọ đổ cơ kia là đã
xui chị chủ vườn chặt mất rặng râm bụt” [11, 134]. Râm bụt nghe thấy đã trồi
lên trổ búp xanh tươi. Từ đó các loài hoa trong vườn cùng sống vui vẻ bên
nhau. Thông qua câu chuyện, Xuân Quỳnh không chỉ cung cấp và giúp cho các
em hiểu biết về các loài hoa cùng màu sắc, hình dáng của chúng mà cịn nhắc
nhở các em hãy biết sống khiêm tốn, yêu thương đồng loại.
Bên cạnh bức tranh cỏ cây, hoa lá căng tràn nhựa sống, truyện viết cho
thiếu nhi của Xuân Quỳnh còn tái hiện hình ảnh thế giới lồi vật ngộ nghĩnh,
đáng yêu.
Mùa xuân trên cánh đồng là tác phẩm vẽ ra không gian mùa xuân tươi
mới, rộn ràng để lồng ghép câu chuyện về tình bạn của các lồi vật. Dịng
suối vào mùa xuân tuôn chảy, sau khi băng tan đã vơ tình che lấp đi khóm hoa
cúc mà Sẻ Đồng dự định làm món quà tặng Ong Đất. Sự việc khiến Ong Đất
hiểu lầm, có những lời nói làm Sẻ Đồng buồn bã: “Anh bày trị gạt tơi, anh là
kẻ xấu bụng, đồ dối trá” [11, 161]. Nhưng thật may, nhờ có Dế mèn, Xiến

Tóc, Ếch Xanh… mà hiểu lầm giữa Sẻ Đồng và Ong Đất cuối cùng được hóa
giải: “Nghe tin, bọ muỗm, bọ ngựa, chuồn ớt, chuồn kim kéo đến. Có cả một
anh sếu giang hồ cũng xin phép nhập bọn an ủi sẻ đồng, sếu ở phương xa tới,
nói tiếng nước ngồi, khơng hiểu tiếng các lồi vật trên đồng, phải nhờ chim
bách thanh làm phiên dịch. Cả bọn tìm tới bụi lạc tiên, Sẻ Đồng vẫn ngồi đấy,
12


nước mắt ướt đẫm hai bông mẫu đơn” [11, 159]. Và đây là niềm vui khi Ếch
Xanh lặn xuống tìm được khóm cúc với mấy bơng hoa ướt sũng nhưng hãy
còn tươi nguyên và trắng muốt để trao lại cho Ong Đất: “Mọi người tíu tít reo
lên: Bách thanh phiên dịch lại cho sếu. Cả bọn quay về chỗ ong đất. Ếch đi ở
giữa giơ cao khóm cúc trắng muốt dưới ánh nắng mai” [11, 163]. Câu chuyện
giản dị nhưng ẩn chứa thơng điệp về tình bạn, sự chia sẻ, bao dung: “Đấy là
câu chuyện trên cánh đồng sớm mùa xn. Bây giờ, khơng cịn ai buồn và lẻ
loi một mình nữa. Chim líu lo hót trên cỏ mới. Gió ngào ngạt mùi mật và hoa.
Dưới nước, trên bờ, ai nấy mới yên tâm đi dự hội. Bởi vì, tất cả vui mà có một
người buồn, thì cũng khơng thể gọi là niềm vui thực sự được.” [11, 163].
Trong cuộc sống đời thực cũng vậy, đơi khi vì những hiểu lầm mà ta vơ tình
khiến những người bạn mà ta yêu quý bị tổn thương nhưng hãy tin rằng nếu
tình bạn đó chân chính thì chúng ta ln tìm được cách riêng để hàn gắn
chúng ta lại nhau. Xuân Quỳnh khéo léo mở ra một cái kết “có hậu” với lời
giải thích ngộ nghĩnh, giúp các em khám phá thêm những điều kì diệu trong
thế giới tự nhiên và đặc biệt trong chính bản thân mình.
Trẻ em lớn lên, được tiếp xúc với thế giới tự nhiên kì diệu, các em thấy
những sự vật, hiện tượng xung quanh mình thật mới lạ, hấp dẫn. Điều này tác
động đến bản tính tò mò, ưa khám phá của các em. Với trẻ thơ, những câu hỏi
tại sao? tưởng chừng không bao giờ dứt. Chẳng hạn, tại sao có tên Gió nhưng
chưa một lần nhìn thấy Gió? Hiểu được tâm lí ấy, Xn Quỳnh đã khéo léo
giúp các em giải đáp qua truyện Cơ gió mất tên. Câu chuyện kể về cuộc hành

trình đi tìm lại chính mình của một cơ gió - một ý tưởng đầy mới lạ và độc
đáo. Cơ gió tuy khơng có dáng hình, nhưng điều đó chẳng sao vì: “hình dáng
của cơ là ở người khác, ở sự có ích cho người khác, ở niềm vui của người
khác” [11, 111]. Cơ gió rất tốt bụng, cơ ln âm thầm giúp đỡ mọi người. Ở
nơi nào cần, cô nhanh chóng đến giúp: “Từ ở nơi xa cơ gió đã nghe tiếng và
biết hết tất cả mọi việc. Cô vội vàng chạy đến giúp bà một tay. Đến cửa sổ
nhà Đào, cô dừng lại một giây rồi từ từ thổi hơi mát vào giường bà. Vì đối với
người ốm mà làm mạnh q thì nguy hiểm” [11, 103]. Gió tồn tại xung quanh
chúng ta, đem lại hơi mát, giúp cánh buồm phiêu du, giúp cho cây cỏ và hoa
kết trái: “Gió thổi các ngọn khói bay trên tầng ống khói nhà máy. Gió tỏa hơi
13


mát của dịng suối ra khắp bờ cây. Gió đưa mùi thơm của hoa vườn tràn ra
đồng cỏ (…). Gió rộng lớn thổi khắp bầu trời mặt đất, nhưng vẫn khơng qn
quay tít cái chong chóng nhỏ sặc sỡ trên tay em bé” [11,110]. Từ những việc
dù là nhỏ bé, đơn giản đến những điều to lớn, vĩ đại chúng ta đều cần đến sự
giúp đỡ của cơ Gió, tuy “mất tên” nhưng vô cùng tốt bụng, luôn âm thầm làm
việc tốt. Có lẽ, ít ai viết về ngọn gió mà lại hay và xúc động như Xuân Quỳnh.
Một bài học về lòng biết ơn, sự tốt bụng, biết giúp đỡ những người xung
quanh được bà gửi tới bạn nhỏ tuổi qua câu chuyện thật giản dị và dễ hiểu.
Thế giới tự nhiên trong trí tưởng tượng của trẻ cũng được Xuân Quỳnh lí
giải hợp lí theo cách nghĩ, cách nói của trẻ thơ. Trong câu chuyện Vẫn có ơng
trăng khác, cơ bé Mai băn khoăn về lời giải thích mặt trăng là khối đá lạnh lẽo,
to và xấu xí. Mai đã rất buồn khi chú Dũng giải thích trên mặt trăng chỉ có đất
đá lổm ngổm chứ khơng có cây cối hay sinh vật gì sống được, mặt trăng không
tự chiếu sáng mà phải nhờ vào ánh sáng của mặt trời. Trong lịng Mai có rất
nhiều thắc mắc, cơ bé đã tự đi tìm cho mình câu trả lời và rồi hình ảnh một ơng
trăng khác xuất hiện, ơng trăng có trong lời kể của bà. Với Mai đó là vầng
trăng đẹp nhất: “Mai hiểu ra rồi, thế là có hai mặt trăng, một, người ta đã tìm

ra, đã đến nơi, đã gặp… Cịn mặt trăng kia thì chưa ai tới đươc và khơng biết rõ
nó ra sao, chỉ biết là từ ngày xửa ngày xưa bà vẫn kể rằng trên đó có cây đa to,
có chú Cuội thổi sáo rất hay và có cơ Hằng Nga rất đẹp. Mặt trăng ấy tự nó lúc
nào cũng sáng, nhất là những đêm rằm. Mặt trăng ấy là của các bạn nhỏ, của
bà, và của những ai yêu và hiểu được nó. Mặt trăng ấy, có lẽ là nhiều người lớn
khó mà khám phá ra được” [11, 243 - 244]. Có thể, trong suy nghĩ của người
lớn, cây đa, chú Cuội, chị Hằng khơng có thực nhưng trong suy nghĩ của trẻ thơ
đó khơng phải điều hoang tưởng mà là cả một thế giới kì diệu mà người lớn
khơng hiểu được: “Thế là người lớn đã lầm! Người lớn lạ thật đấy, nhìn chú
Cuội với cây đa mà lại cứ tưởng là đất đá…” [11, 244]. Qua truyện, Xuân
Quỳnh khéo léo giới thiệu cho các em về thế giới tự nhiên, về mặt trăng nhưng
bà không áp đặt suy nghĩ của người lớn ép các em phải hiểu. Bà đã tạo điều
kiện cho các em thỏa sức tưởng tượng: trên bầu trời khơng chỉ có một mặt
trăng như một tinh thể khơng sự sống mà cịn có một mặt trăng khác có cây đa,

14


chú Cuội, chị Hằng.
Gần gũi với Vẫn có ơng trăng khác, truyện Lời ru của trăng như khúc
ca nồng ấm, ngọt ngào. Trong trí tượng của cơ bé Thơ, trăng không hề vô cảm
và lạnh lẽo mà thân thiết như một người bạn, một người chị đến vỗ về giấc ngủ
trẻ thơ: “Ánh trăng vằng vặc. Cơ trăng đang trịn sáng giữa bầu trời. Cơ đang
cười với Thơ kìa. Chắc cô nhớ đến chuyện cô vừa giả vờ ngã xuống bể nước để
đem lại cho thơ một giấc mơ kì lạ. Thơ nghĩ vậy rồi lại thiu thiu ngủ trong lời
ru hiền dịu của trăng” [11, 120].
Qua những câu chuyện viết về thế giới tự nhiên, Xuân Quỳnh đã giúp
các em có thêm hiểu biết về một thế giới thiên nhiên tươi đẹp, về thế giới
động vật, thực vật phong phú. Những câu chuyện mang âm hưởng của cổ tích,
đồng thoại, mang đến cho trẻ thơ bao điều bổ ích, đồng thời khơi gợi trong

các em trí tưởng tượng, lịng khao khát khám phá những điều thú vị xung
quanh. Với cái nhìn từ đơi mắt và mĩ cảm trẻ thơ, có thể nói, Xuân Quỳnh đã
“chạm” được tới trái tim các em và giúp các em thêm yêu quý, trân trọng vẻ
đẹp của thế giới tự nhiên xung quanh mình.
1.2.2. Một khúc ca về mái ấm gia đình
Có lẽ, trên thế giới này, tình cảm gia đình là thứ tình cảm bình dị nhất
và cũng thiêng liêng cao quý nhất. Chỉ khi ở bên gia đình, bên những người
thân yêu của mình, ta mới cảm thấy bình yên và hạnh phúc. Xuân Quỳnh
cũng vậy, với bà, mái ấm gia đình là nơi thân thương, nơi gửi gắm bao cung
bậc cảm xúc. Đối với mảng đề tài gia đình, bằng cái nhìn chan chứa yêu
thương, Xuân Quỳnh đã tiếp cận và khai thác theo cách riêng của mình. Tác
giả đã có những trang miêu tả cảm động vẻ đẹp của tình mẫu tử, tình phụ tử,
tình cảm anh em và tình cảm của người cháu đối với ơng bà của mình.
Vẻ đẹp của tình mẫu tử ln là nguồn cảm hứng sáng tác bất tận trong
văn chương. Xuân Quỳnh từng trải qua tuổi thơ vắng bóng tình cảm u
thương của mẹ từ rất sớm. Vì vậy, khi làm mẹ, Xuân Quỳnh đã dành tất cả
tình yêu thương của mình cho những đứa con như bù đắp lại những thiếu hụt
trong thời thơ ấu của mình. Trong những sáng tác của Xuân Quỳnh, với mẹ
“Con là tất cả - là hạnh phúc - là báu vật mà thượng đế ban tặng”, mẹ sẽ luôn

15


ra sức yêu thương báu vật ấy. Như trong câu chyện xúc động Cá chuối con.
Vì các con, bất chấp sự khắc nghiệt của thời tiết, cá chuối mẹ bơi lên mặt nước
để tìm mồi. Nhiều lúc, cá chuối mẹ mệt mỏi muốn bỏ cuộc nhưng nghĩ đến đàn
con thơ bị đói, cá chuối mẹ lại có thêm động lực để cố gắng. Tìm tới chỗ có tổ
kiến gần đó, chuối mẹ “giả chết” nằm im không động đậy giữa tiết trời nóng
hầm hập và sự đau đớn về thể xác khi đàn kiến bu đến. Nhưng tất cả sự đau
đớn ấy đều tan biến mất khi chuối mẹ được nhìn thấy đàn con được no nê:

“chuối mẹ bơi quanh nhìn đàn con đớp mồi, vui quá quên cả đau” [11, 113].
Thế nhưng một trong những đứa con nhỏ bé ấy chưa được ăn. Cá chuối mẹ lại
một lần nữa lên bờ. Cuộc sống mưu sinh chẳng bao giờ dễ dàng. Chuyến này đi
cá chuối mẹ đã bị mụ mèo bắt, nhưng thật may mắn, chuối mẹ đã thoát chết
trước nanh vuốt của mụ mèo. Khi nhìn thấy những vết thương trên người chuối
mẹ, những chú cá chuối con cảm thấy thương mẹ nhiều hơn, chúng biết bảo
ban nhau sống tự lập. Nhưng cá chuối mẹ vẫn luôn lo lắng cho những đứa con
của mình, trong mắt cá chuối mẹ dù các cá chuối con đã trưởng thành thì vẫn là
đứa con nhỏ bé cần yêu thương và bảo vệ từ mẹ: “Nếu con nào chưa tự kiếm ăn
được hoặc lúc nào khó kiếm ăn, các con hãy cứ về với mẹ nhá!”[11, 116]. Hình
ảnh cá chuối mẹ có thể coi là biểu tượng cho những người mẹ sẵn sàng hi sinh
tất cả vì con. Người mẹ ln nhận phần hi sinh, thiệt thịi về mình. Mẹ khơng
bao giờ nói với các con rằng yêu các con lắm hay mẹ đã làm gì, hi sinh những
gì cho các con mà luôn yêu thương, âm thầm chăm lo cho các con từ những
điều nhỏ nhặt nhất. Giống như người mẹ trong câu chuyện Cơn mưa. Cơn
mưa dông bất chợt kéo đến, lo lắng cho đứa con của mình bị cảm lạnh mẹ
khơng ngại mưa gió mang đến cho con bộ quần áo ấm và nhẹ nhàng hỏi han:
“Con có rét khơng? - Mẹ vừa nói vừa mở bọc ni lơng lấy ra cho Chung một
bộ quần áo cịn khơ ngun. Mẹ mặc thêm áo cho Chung rồi chào cô, mẹ đi
về ngay” [11, 12]. Hay người mẹ của Huệ trong truyện Ngày mai con sẽ
ngoan dù có ốm đau khơng đi làm được nhưng mẹ vẫn cố gượng dậy để chăm
sóc đứa con của mình: “Mấy hơm nay mẹ ốm, mẹ không đi làm được nhưng
mẹ vẫn gượng dậy để nấu cơm cho Huệ ăn” [11, 28]. Vì hồn cảnh gia đình,
bố đi cơng tác xa, chỉ có Huệ và mẹ ở nhà với nhau nên mẹ rất thương Huệ.
Trong mắt mẹ, Huệ lúc nào cũng là đứa con gái bé bỏng, luôn muốn dành tất
cả những điều tốt đẹp nhất đến cho con, sợ con mệt, con vất vả mà không
16


màng đến sức khỏe của mình, vẫn gắng gượng để chăm sóc con. Đáp lại sự

yêu thương của mẹ, những đứa trẻ trong mỗi tác phẩm biết thương mẹ hơn,
ngoan ngỗn hơn. Tình cảm của Huệ dành cho mẹ được diễn tả qua tình
huống cảm động. Từ đứa trẻ khơng biết làm gì, Huệ đã tự tay nấu cháo chăm
sóc mẹ. Tình yêu thương của con trẻ đã lớn dần theo ý nghĩ. Huệ tập nấu
cơm, em sợ khi ốm mẹ phải làm, lỡ mẹ ốm không dậy được nữa thì “khơng có
mẹ nữa”. Hình ảnh nồi cơm chín dẻo do chính tay Huệ nấu mang một ý nghĩa
sâu sắc. Em đã ngoan, đã biết giúp đỡ cho mẹ và biết suy nghĩ đến người mẹ
của mình. Cịn mẹ khi ăn bát cháo từ tay con gái nấu mẹ đã rất vui mừng và
cảm động “vừa ăn bát cháo, vừa cười dàn dụa cả nước mắt”, những giọt nước
mắt của niềm vui và hạnh phúc xen lẫn sự xúc động của mẹ khi thấy Huệ đã
biết lo lắng cho mẹ, biết quan tâm chăm sóc cho người khác. Chỉ một hành
động nhỏ nhưng đó là niềm vui vỡ ịa từ một người mẹ. “Là một người mẹ
của ba đứa con, ngồi tình u thương các con vơ bờ bến thì Xn Quỳnh cịn
có thêm một tấm lịng bao dung và sự thơng minh nhạy bén của riêng mình.
Chính vì thế, tác giả đã nhìn thấu được tấm lịng của người mẹ và phát hiện ra
những điều lí thú trong tâm hồn trẻ thơ. Từ đó, Xuân Quỳnh đã tạo nên nét
riêng ở mỗi câu chuyện bà viết cho các con của mình cũng là viết cho tất cả
những đứa trẻ khác”. Qua đó, bà muốn nhắn gửi, dặn dị các em hãy biết trân
trọng, yêu thương tình cảm gia đình vơ giá đó.
Xuất thân từ gia đình cơng chức, mẹ không may mất sớm, bố thường đi
công tác xa, tuổi thơ của Xuân Quỳnh thêm phần trống trải cô quạnh. Đối với
Xuân Quỳnh, người cha lúc nào cũng quan tâm, bảo vệ cho con và hiểu được
tâm lí của con. Trong câu chuyện Hoa giấy, đứa con nhỏ với sự ngây ngơ về
cây hoa giấy đã có ước nguyện trồng những “hạt giấy”. Hiểu được ý định của
con không muốn làm đứa con nhỏ thất vọng, người cha đã lặng lẽ giúp con
mình. Niềm vui vỡ ịa khi nhìn thấy chúng nảy mầm của con cũng là niềm vui
của cha. Tình u thương của cha là vơ hạn và tình cảm của con dành cho cha
cũng chân thành đến nhường nào: “Cứ mỗi lần nhớ lại những bông hoa giấy
ngày xưa là lịng tơi lại thấy u thương bố đến nơn nao.” [11, 279]. Hay tình
cảm của người con dành cho cha trong truyện Quà sinh nhật bố. Mẹ đi công

tác xa, sinh nhật năm nay Trang lo bố buồn nên muốn làm gì đó vào ngày

17


hôm ấy để bố được vui. Trang đã dùng tiền bữa sáng để mua một bông hoa
loa kèn tặng bố. Lịng hiếu thảo của cơ con gái nhỏ khiến người bố khơng
khỏi xúc động. Đọc những tác phẩm này, có thể thấy những đứa trẻ suy nghĩ
vô cùng ngây thơ nhưng tình cảm của chúng lại rất thật.
Ở một tác phẩm khác, người đọc cũng được chứng kiến tình cảm của
người cha dành cho con gái trong truyện Chiếc cặp tóc. Mẹ mất sớm, đứa con
gái nhỏ mới tám tuổi ở cùng bà và bố. Hiểu được tâm lí con gái, muốn để tóc
dài cho đẹp nên bố đã ủng hộ con để tóc dài và mua một chiếc cặp nhỏ xinh
để tặng con gái rồi: “Mỗi buổi sáng bố tơi lại chải tóc cho tơi. Bố ngồi trên
giường, tơi đứng sát vào người bố im lặng, sung sướng nghe tiếng lược sàn
sạt nhè nhẹ trên đầu, và cảm thấy những ngón tay êm ái của bố vuốt vuốt
những ngọn tóc, rồi cặp cái cặp vồng lên đằng sau gáy” [11, 70]. Theo lẽ
thường những công việc này là mẹ sẽ làm cho con gái nhưng vì mẹ mất sớm
bố thay mẹ chăm sóc con gái nhỏ. Bố thương con rất nhiều nên có những cử
chỉ nhẹ nhàng như vậy. Nhưng một buổi sáng, người bố bị giặc bắt. Tình cảm
cha con càng lớn hơn khi được gặp lại sau bao ngày xa cách. Sự xúc động đến
tột cùng khi cuộc gặp gỡ ấy không phải ở đâu khác mà chính ở trong tù - nơi
người bố bị bắt giam. Nhìn thấy con gái tóc tai xõa sợi, mặc quần áo rách, bố
càng thương con nhiều hơn nhưng đành bất lực. Hịa bình lặp lại, cuối cùng
bố cũng đã về với con trong niềm vui mừng, hạnh phúc. Bố vẫn khơng qn
lời hứa về món q tặng cho con gái: chiếc cặp tóc. Tình cảm cha con đáng
q biết bao nhiêu, dù trong hồn cảnh chiến tranh gian khổ thì tình cảm
thiêng liêng đó vẫn ln cao đẹp và sáng ngời. Qua ngịi bút của Xn Quỳnh,
bạn đọc khơng chỉ cảm nhận được tình phụ tử mà tác giả cịn gợi ra cho chúng
ta những suy ngẫm, thấm thía về sự khó khăn, vất vả và sự xa cách, mất mát

của chiến tranh.
Trong những truyện ngắn của mình, Xuân Quỳnh khơng chỉ khai thác
về tình mẫu tử, tình phụ tử thiêng liêng mà cịn có tình cảm của ơng bà dành
cho cháu. Ơng nội và ơng ngoại là câu chuyện cảm động kể về chuyến đi
thăm ông ngoại của Minh. Từ bé đến giờ Minh thường sống với ông nội,
Minh chưa bao giờ gặp ơng ngoại vì ơng ngoại ở rất xa. Minh chỉ biết rằng:
“Nội là trong, ngoại là ngồi - Ơng nội đẻ ra bố cịn ơng ngoại thì đẻ ra mẹ,

18


bố bao giờ cũng gần hơn mẹ, bởi thế ông nội gần hơn ơng ngoại (...). Ơng
ngoại thì ở tít xa, mà nếu ở gần cũng không yêu Minh bằng ông nội” [11,31].
Bao nhiêu tình cảm cậu bé dành hết cho ơng nội vì lúc nào ơng cũng gần gũi
Minh. Trên đường đi thăm ông ngoại từ Bắc vào Nam, Minh rất nhớ ông nội
và chỉ muốn về ngay với ông nội vì trong suy nghĩ của em, ông ngoại không
yêu em như ông nội. Mặc dù mẹ đã giải thích cho Minh hiểu: “Ơng biết và rất
u con vì con là con của mẹ” nhưng em lại cảm thấy vô lý: “Tại sao Minh
và ông ngoại không hề quen biết nhau lại có thể nhớ và yêu thương nhau
được”. Khi gặp được ông ngoại, trước mắt Minh là một nơng cụ râu tóc bạc
phơ, người gầy đét, lịng khịng ra mở cửa. Niềm vui vỡ òa và những giọt
nước mắt rơi của ông ngoại sau bao năm xa cách khi được ơm đứa con, đứa
cháu của mình trong lịng nhưng Minh thì vẫn cảm thấy xa cách với ơng
ngoại. Em cịn so sánh giữa ơng nội và ơng ngoại ai là người yêu thương em
hơn qua mỗi lần trò chuyện, đi chơi, những món quà nhỏ, trong bữa ăn
cơm,… Minh ln thích ơng nội hơn ơng ngoại, ơng nội mới là người yêu
Minh nhất. Ngay cả khi mẹ đã giải thích với Minh với những việc ơng ngoại
làm dành thịt, cá ngon cho em, nhường giường nệm cho em nằm. Thời gian
vào thăm ông của Minh cũng đến gần, lúc sắp phải chia xa mọi sự hiểu nhầm
của Minh được hóa giải. Minh đã từng nghĩ: “Ơng ngoại hẳn không yêu Minh

bằng ông nội được. Cả nhà không biết ông ngoại là người như thế nào. Ngay
cả mẹ Minh cũng khơng rõ về ơng ngoại lắm. Vì ơng ngoại đi từ lúc mẹ Minh
còn rất bé…” [11, 34]. Rồi những điều Minh chưa thấu hiểu được về ông
ngoại: “Minh khơng cãi nữa, nhưng Minh vẫn thấy như có điều vơ lí bên
trong. Tại sao Minh và ơng ngoại khơng hề quen biết nhau lại có thể nhớ và
thương nhau được. Rốt cuộc, Minh vẫn chỉ yêu và nhớ có ông nội” [11, 36].
Và rồi cuối cùng khi thời gian trôi qua, chứng kiến sự hi sinh, những nỗi cô
đơn và tình u thương của ơng ngoại dành cho mình, dường như Minh đã
hiểu ra ông ngoại cũng yêu quý mình chẳng kém ơng nội và thương ơng ngoại
nhiều hơn. Chiếc bút quý giá nhất của ông ngoại cũng dành tặng cho Minh để
viết thư cho ông, chiếc “xe dép” cũng là biểu tượng biểu tượng cầu nối cho
tình cảm hai ông cháu và cũng là mốc đánh dấu cho sự trưởng thành về nhận
thức của Minh: “Bây giờ thì Minh đã hiểu ra là tại sao cái xe dép ấy nó lại cũ.
Minh cịn hiểu hiểu thêm là ơng rất nghèo. Trước kia ông là người giữ sách ở
19


thư viện Sài Gịn, nhưng sau rồi ơng bị ho lao, ba năm trời nằm trong bệnh
viện làm phúc, chả có ai chăm sóc. Bây giờ ơng già yếu q rồi, chỉ quanh
quẩn bán dần đồ đạc trong nhà để sống tạm. Ơng sống có một mình, bà dì ghẻ
của Minh đã bỏ ông khi đau ốm…” [11, 42 - 43]. Minh thương ông ngoại cuộc
sống vất vả, ông lại sống một mình ở căn phịng chật hẹp với những đồ dùng đã
cũ kĩ. Nghĩ về một tương lai xa xôi với mong ước đầy quyết tâm: “Bao giờ con
lớn con cũng ni ơng ngoại. Minh nói đến đây rồi rúc đầu vào lịng mẹ khóc
thút thít” [11, 43]. Có lẽ khi những hình ảnh này hiện lên, chắc hẳn trong lịng
mỗi người đọc đã bắt gặp ở đâu đó trong cuộc sống đời thường, khiến người
đọc giật mình nhớ lại và nhìn lại bản thân rồi tự hỏi đã bao giờ sà vào lịng ơng
nội hay ơng nội thủ thỉ bên tai và nói rằng cháu u ơng.
Nếu truyện Ơng nội và ơng ngoại nói về tình cảm ơng cháu thì truyện
ngắn Bà tơi đề cập đến tình cảm bà cháu trong gia đình. Bà tơi là tác phẩm nói

về thời kì bao cấp đầy khó khăn vất vả. Cái nghèo khiến con người ta trở nên
toan tính, ích kỉ vội vã lao theo vòng cuốn của đồng tiền để kiếm sống mà vơ
tình qn mất đi tình người. Người mẹ vì vơ tình làm mất một tờ tem phiếu đổi
thức ăn cho gia đình mà người con trai đã nói những lời lạnh lẽo với người mẹ
sinh thành ra mình khiến bà cụ phiền lịng mà bỏ nhà ra đi với lời nói dối đi
thăm người thân. Nhưng thực ra bà đi bán bỏng ngô ở khắp các bến tàu, bến xe
để kiếm tiền. Một người mẹ, một người bà cả một đời hi sinh vì con cháu.
Những thứ ngon bà ln dành phần người cháu của mình, bà yêu thương và
chăm sóc cho các con, cháu hết mực. Bà trở thành một người bạn thân thiết,
hằng ngày cùng nhau trị chuyện: “Hằng ngày chỉ có tơi và bà là hay ở gần
nhau và hay trò chuyện với nhau nhiều nhất” [11,197]. Khi biết được sự thật
người cháu đã vô cùng thương bà: “Khổ thân bà quá! Bà ơi, cháu thương bà
lắm. Bà có nghe tiếng cháu gọi thầm bà khơng? Lúc này bà đang làm gì, ở đâu?
Sao bà không về với cháu đi bà!” [11, 204]. Chính những giọt nước mắt của
đứa cháu nhỏ đã khiến người lớn phải giật mình thức tỉnh và nhìn nhận lại cách
sống, nhìn lại bổn phận của người con sống tròn đạo hiếu. Xuân Quỳnh lớn lên
trong bàn tay chăm sóc của bà, chính vì vậy bà là người mà chị yêu quý và
dành nhiều tình cảm nhất. Truyện Bà tơi là một bài học có ý nghĩa vơ cùng sâu
sắc về lịng hiếu thảo, tình u thương của ơng bà dành cho con cháu của mình.

20


×