Tải bản đầy đủ (.docx) (186 trang)

Kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.35 KB, 186 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
******  ******

``
ng trình đã cơng bố liên quan đến đề tài

1. Nguyễn Thị Mai Chanh, Nguyễn Thị Hoài Thu (2018), “Giải huyền thoại
trong tiểu thuyết của Dư Hoa”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3, tr. 88-97.
2. Nguyễn Thị Mai Chanh, Nguyễn Thị Hoài Thu (2018), “Dư Hoa tác phẩm

NGUYỄN THỊ HỒI THU

tại Việt Nam đích tiếp nhận sử”, Tạp chí Diễn đàn học thuật Nam Đơ – Trung Quốc,
số 5, tr. 52-56.
3. Nguyễn Thị Hoài Thu (2015), “Vết thương trong Huynh đệ của Dư Hoa”,
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Vinh, tập 44, số 4B, tr. 52-61.
4. Nguyễn Thị Hoài Thu (2016), “Gào thét trong mưa bụi của Dư Hoa và nỗi
hoài nghi đại tự sự” (2016), Tuyển tập cơng trình Ngữ văn học (tập 2), Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Sau đại học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr. 346-351.

KIỂU NHÂN VẬT
thương trong tiểu thuyết của Dư Hoa, Đề tài Khoa học và công nghệ cấp trường,
TRONG TIỂU THUYẾT DƯ HOA
5. Nguyễn Thị Hoài Thu (2016, Chủ nhiệm đề tài), Kiểu nhân vật chấn

Đại học Vinh, Mã số T2016-45.

6. Nguyễn Thị Hoài Thu (2016), “Quốc dân tính Trung Hoa qua cái nhìn của
Dư Hoa trong tiểu thuyết Huynh đệ”, Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn, số 23, tr.
148-154.


7. Nguyễn Thị Hoài Thu (2018), “Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của
Dư Hoa", Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, số 63, tr. 34-41.
8. Nguyễn ThịLUẬN
Hoài ThuÁN
(2018),
“KýSĨ
hiệu
cái chết
trong tiểu thuyết của Dư
TIẾN
NGỮ
VĂN
Hoa”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn Nghệ An, số tháng 9, tr. 48-53.
9. Nguyễn Thị Hoài Thu (2018), “The type of new-realistic character in Yu
Hua's novels”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế LSCAC 2018, Đại học Huế, tr. 717-725.

Hà Nội - 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
******  ******

NGUYỄN THỊ HOÀI THU

KIỂU NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT DƯ HOA
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 9220242


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1: PGS. TS. Nguyễn Thị Mai
Chanh
2: TS. Trần Thị Thu Hương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa là
cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các trích dẫn và kết quả nêu trong luận án là
trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 10 tháng 01 năm 2021
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Hoài Thu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………..

1. Lí do
chọn
đề tài
……
……
……
……
……
……

……
……
……
……
……

cứu

2.
Mục
đích,
nhiệm
vụ
nghiên
......................................................................
3.
Đối
tượng,
phạm
vi


liệu
nghiên
cứu........................................................
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................
5. Đóng góp mới của luận án................................................................................
6. Cấu trúc của luận án.........................................................................................
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN

ĐỀ TÀI CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN..................................................................
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ...............................................................
1.1.1. Nghiên cứu Dư Hoa ở Trung Quốc……………………………………...
1.1.2. Nghiên cứu Dư Hoa ở Việt Nam ...............................................................
1.1.3.
Nghiên
cứu

Hoa

một
số
nước
khác...................................................
1.2. Quan điểm của tác giả luận án về việc xác định kiểu nhân vật trong
tiểu thuyết Dư Hoa.............................................................................................

1

1
3
3
5
6
6
7
7
7
19
25

29

1.2.1. Về khái niệm “kiểu nhân vật” ..................................................................

29

1.2.2. Về tiêu chí phân loại.................................................................................

31

1.2.3. Về nguyên tắc phân loại...........................................................................
Tiểu kết chương 1 …………………………………………………………….
CHƯƠNG 2

34
36


HÀNH TRÌNH KIẾM TÌM NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT CỦA DƯ HOA.
2.1. Bối cảnh của hành trình kiếm tìm nhân vật.............................................
2.1.1. Những biến động của bối cảnh lịch sử - xã hội.........................................
2.1.2. Những bước phát triển của lý luận và thực tiễn văn học……………….
2.1.3. Những chuyển mình trong tâm thế sáng tạo của Dư Hoa……………….
2.2. Nhân vật và sự vận động trong quan niệm nghệ thuật của Dư Hoa….
2.2.1. Nhân vật - nơi thể hiện tập trung sự vận động trong quan niệm về
hiện
thực...............................................................................................................
2.2.2. Nhân vật - nơi thể hiện tập trung sự vận động trong quan niệm về
con người………………………………………………………..........................
2.3. “Tân tả thực” - chiến lược then chốt của Dư Hoa trong định hướng sáng

tạo nhân vật tiểu thuyết ............................................................................
2.3.1. Tả thực truyền thống và “tân tả thực”........................................................
2.3.2. Sáng tạo nhân vật dưới định hướng “tân tả thực” – sự đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn văn học và mục đích sáng tạo của Dư Hoa.......................
2.3.3. Đặc trưng nhân vật dưới định hướng “tân tả thực”....................................
Tiểu kết chương 2……………………………………………………………
Chương 3
KIỂU NHÂN VẬT BI KỊCH TRONG TIỂU THUYẾT DƯ HOA ………
3.1. Vị trí trung tâm của kiểu nhân vật bi kịch trong tiểu thuyết Dư Hoa...
3.1.1. Cái bi và kiểu nhân vật bi kịch…………………………………………
3.1.2. Xác định vị trí trung tâm của kiểu nhân vật bi kịch….…………………
3.2. Các dạng thức nhân vật bi kịch………………………………………….
3.2.1. Nhân vật nhỏ bé với những ước muốn và tình cảm thế tục ……………...
3.2.2. Nhân vật đau khổ và hành trình chiến đấu với cuộc sinh tồn ……………
3.2.3. Nhân vật cô đơn và sự thể hiện cái tôi bản thể
..........................................
3.3. Nghệ thuật thể hiện kiểu nhân vật bi kịch………………………………
3.3.1. Miêu tả nhân vật qua các chi tiết mang dấu ấn chủ nghĩa tự
nhiên............
3.3.2. Tái hiện nhân vật trong sự nhạt hóa bối cảnh xã hội……………………
3.3.3. Khắc họa nhân vật bằng thủ pháp trùng lặp ……………………………
Tiểu kết chương 3...............................................................................................

CHƯƠNG 4
KIỂU NHÂN VẬT HOẠT KÊ TRONG TIỂU THUYẾT DƯ HOA ...........

37
37
37
44

49
51
51
62
69
69
74
77
79
81
81
81
83
84
84
89
97
102
102
105
109
113

115


4.1. Sự gia tăng số lượng nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa...........
4.1.1. Hoạt kê và kiểu nhân vật hoạt kê...............................................................
4.1.2. Phân tích hiện tượng gia tăng số lượng nhân vật hoạt kê………..............
4.2. Các dạng thức nhân vật hoạt kê…………………………………………

4.2.1. Nhân vật châm biếm và sự lột trần căn tính xấu của con người …….......
4.2.2. Nhân vật hài hước và sự giải thiêng các biểu tượng văn hóa …………...
4.2.3. Nhân vật u-mua đen và sự trình hiện cách phản ứng của con người
trước cái phi lý của cuộc đời...............................................................................
4.3. Nghệ thuật thể hiện kiểu nhân vật hoạt kê……………………………..
4.3.1. Thể hiện nhân vật qua lối so sánh vật hóa………………………………
4.3.2. Miêu tả nhân vật bằng thủ pháp nghịch dị……………………………….
4.3.3. Khai thác ngôn ngữ suồng sã của nhân vật………………………………
Tiểu kết chương 4……………………………………………………………..
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………
CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ………..
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………
PHỤ LỤC ……………………………………………………………………

115
115
121
123
123
131
136
142
143
146
150
153
154
157
158
171



7

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Dư Hoa sinh năm 1960 tại Hàng Châu, Chiết Giang, là nhà văn đương
đại được đánh giá có bút lực mạnh mẽ nhất ở Trung Quốc hiện nay. Nổi lên từ
những năm 80 của thế kỉ XX, Dư Hoa được biết đến như một trong "ngũ hổ tướng"
của phong trào “truyện ngắn tiên phong”. Từ những năm 90 của thế kỉ trước, những
bộ tiểu thuyết của ông lần lượt được xuất bản cho thấy sự chuyển hướng sáng tạo,
thể hiện sự tìm tịi lối đi riêng của nhà văn.
Trải qua ba thập niên sáng tác, Dư Hoa để lại một dấu ấn đậm nét trên bức
tranh đa màu sắc của văn học đương đại, phản chiếu sinh động những biến chuyển
trong đời sống tư tưởng của thời đại cũng như diện mạo của văn học Trung Quốc từ
khi đất nước này tiến hành Cải cách mở cửa. Đó là lí do khiến Dư Hoa cùng tác
phẩm của ơng được giới phê bình Trung Quốc rất mực quan tâm và dư luận thế giới
chú ý.
Trong khi đó, ở Việt Nam, mặc dù tên tuổi Dư Hoa được giới thiệu tính đến
nay đã hơn mười lăm năm (lấy mốc là năm 2002, thời điểm Sống - tiểu thuyết đầu
tiên của Dư Hoa được Vũ Công Hoan dịch, Nhà xuất bản Văn học phát hành), các
sáng tác của ông đã thu hút được một số lượng độc giả và nhà nghiên cứu nhất định
nhưng nếu xét về mức độ chú ý, Dư Hoa vẫn chưa vượt qua được các tên tuổi như
Mạc Ngơn, Giả Bình Ao, Cao Hành Kiện, Trương Hiền Lượng cùng một số nhà văn
nữ được đặt trong trào lưu "nữ quyền" hoặc "linglei"... Trong khi nền văn học của
đất nước láng giềng từ thập niên 80 thế kỉ XX có những biến đổi hết sức lớn lao
không chỉ trên phương diện thực tiễn sáng tác mà cả trên lí luận phê bình, tạo nên
một cục diện văn nghệ đa nguyên, nhiều hướng, ranh giới chân – giả có lúc khơng
rõ ràng, việc chỉ giới hạn đọc và nghiên cứu một vài tên tuổi khiến cho cái nhìn về
một nền văn học lớn bị thu hẹp lại. Bởi thế, cơng trình này được thực hiện với mong

muốn không chỉ đưa nhà văn Dư Hoa đến gần hơn với độc giả Việt Nam mà cịn
thơng qua nghiên cứu một tác giả cụ thể, góp phần nhận diện sâu sắc và toàn diện
hơn gương mặt văn học Trung Quốc đương đại.


8

1.2. Là một hiện tượng văn học đang trong diễn trình phát triển, Dư Hoa và
tác phẩm của ơng được công chúng quan tâm biểu hiện ở hai khuynh hướng trái
chiều: những lời khen đặt ơng lên vị trí đỉnh cao, nhưng những ý kiến chê bai cũng
hạ ông đến tận đáy. Chúng tơi, thơng qua cơng trình này, trên tinh thần vừa tiếp thu,
vừa đối thoại, tranh biện với những nhận định đã có, muốn đóng góp một góc nhìn
đối với nhà văn này.
1.3. Đề tài lấy nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa làm một góc nhìn cụ thể để
khám phá thế giới nghệ thuật của nhà văn. Sở dĩ chúng tơi lựa chọn đề tài này vì
trước hết, nhân vật luôn là một phương diện quan trọng trong các sáng tác của mỗi
nghệ sĩ, là nơi tập trung thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ của nhà
văn. Nghiên cứu về nhân vật trong sáng tác của Dư Hoa chính là con đường ngắn
nhất để ta thấy rõ cái nhìn nghệ thuật của ơng về con người và cuộc đời. Hơn nữa,
tiểu thuyết của Dư Hoa được sáng tác trong giai đoạn những năm 90 của thế kỉ XX
trở đi, khi văn học Trung Quốc có những chuyển biến mạnh mẽ, đồng thời, cũng là
lúc Dư Hoa thể hiện những tìm tịi mới về hướng đi riêng trong nghệ thuật – vừa
thống nhất vừa khác biệt với một Dư Hoa của thập niên 80 và vừa thống nhất vừa
khác biệt với các nhà văn đồng đại. Những điều này để lại dấu ấn đặc biệt sâu sắc ở
kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của ông.
Bởi thế, đề tài Kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa đi vào trung tâm thế
giới nghệ thuật của nhà văn, bên cạnh việc mang ý nghĩa về mặt thực tiễn, giúp tiếp
cận thế giới nghệ thuật độc đáo của tác giả; cịn có ý nghĩa về mặt lí luận, giúp
chúng tôi nhận thức được những đổi mới trong quan niệm về nhân vật của nhà văn
so với quan niệm trong văn học truyền thống.

1.4. Đề tài được thực hiện một mặt xuất phát từ niềm hứng thú của cá nhân
người nghiên cứu đối với tiểu thuyết Dư Hoa, mặt khác cịn nhằm mục đích góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy và bổ khuyết phần nào một nội dung quan
trọng trong học phần Văn học Trung Quốc được giảng dạy ở các trường đại học Việt
Nam.


9

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát các kiểu nhân vật nổi bật trong tiểu thuyết Dư Hoa, luận án hướng
tới làm rõ cơ chế vận hành của thế giới nhân vật, cụ thể là sự chi phối của quan
niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người đến phương pháp sáng tác, biểu hiện cụ
thể trên các đặc trưng của sáng tạo nhân vật. Từ đó, luận án chỉ ra đóng góp trong
thực tiễn của nhà văn ở phương diện sáng tạo nhân vật văn học, tìm ra điểm độc đáo
của tác giả trong cái nhìn về thế giới – những yếu tố đóng vai trị góp phần định vị
Dư Hoa trong tiến trình văn học sử Trung Quốc. Cuối cùng, luận án đi đến nhận
diện những nét chính của văn học Trung Quốc Thời kì mới (từ 1976 đến nay).
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, luận án tổng hợp, phân tích, đánh giá những hướng nghiên cứu về
Dư Hoa, đặc biệt là những cơng trình nghiên cứu về nhân vật trong tiểu thuyết của
nhà văn, xác định những vấn đề còn bỏ ngỏ cần được tiếp tục giải quyết.
Thứ hai, luận án mô tả hành trình đi tìm nhân vật tiểu thuyết của Dư Hoa
dưới sự chi phối của yếu tố khách quan và chủ quan; chứng minh nhân vật luôn là
nơi thể hiện tập trung sự vận động quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người
của tác giả; xác định phương pháp xây dựng nhân vật chủ yếu mà nhà văn lựa chọn
cho tiểu thuyết của mình.
Thứ ba, luận án xác định các kiểu nhân vật đặc trưng trong tiểu thuyết Dư
Hoa, đi sâu tìm hiểu, luận giải đặc điểm cụ thể của hai kiểu nhân vật nổi bật: nhân

vật bi kịch và nhân vật hoạt kê.
3. Đối tượng, phạm vi và tư liệu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với việc nghiên cứu kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa, luận án tập
trung khảo sát những nhóm nhân vật có những thành tố chung được biểu hiện lặp đi
lặp lại tạo nên nét đặc trưng, nhất quán của thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Dư
Hoa. Trên tinh thần đó, luận án cũng xác định mơ hình nhân vật tiểu thuyết của nhà
văn – cái làm nên mã riêng của Dư Hoa, phân biệt với các nhà văn khác. Trong khi


10

đi tìm các kiểu nhân vật ổn định, luận án đồng thời làm rõ nét dị biệt giữa các nhân
vật cùng một "kiểu", bởi các nét dị biệt đó cho thấy khả năng sáng tạo, nỗ lực làm
mới bản thân của chính Dư Hoa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu ở hai kiểu nhân vật đặc trưng của tiểu
thuyết Dư Hoa: nhân vật bi kịch và nhân vật hoạt kê được hình thành dưới phương
pháp sáng tác “tân tả thực”. Đây là hai “kiểu” nhân vật đủ tư cách đại diện cho
phong cách sáng tác của Dư Hoa, tập trung thể hiện sự lựa chọn riêng của nhà văn
trong giai đoạn sáng tác tiểu thuyết, đáp ứng nhiệm vụ loại hình hóa nhân vật của
luận án. Khi xét đến hai “kiểu” nhân vật này cũng có nghĩa chúng tơi đã tiến hành
phân tích phần lớn số nhân vật trong mỗi tiểu thuyết. Cụ thể, chúng tôi đã khảo sát
79% số nhân vật trong Gào thét trong mưa bụi, 66% số nhân vật trong Sống, 82%
trong Chuyện Hứa Tam Quan bán máu, 97% trong Huynh đệ (Phụ lục 1, 2). Sở dĩ
số nhân vật còn lại khơng được xét đến là do chúng chỉ đóng vai trị thứ yếu, xuất
hiện mờ nhạt, khơng tiêu biểu cho bút pháp của nhà văn và không thống nhất tạo
thành “kiểu” nhân vật.
3.3. Tư liệu nghiên cứu
Luận án tập trung khảo sát, lấy dẫn liệu từ bốn cuốn tiểu thuyết của Dư Hoa

đã được dịch ở Việt Nam, gồm:
- Gào thét trong mưa bụi, Vũ Công Hoan dịch, Nxb Công an nhân dân, 2008.
- Chuyện Hứa Tam Quan bán máu, Vũ Công Hoan dịch, Nxb Công an nhân
dân, 2006.
- Sống, Vũ Công Hoan dịch, Nxb văn học, 2011.
- Huynh đệ, Vũ Công Hoan dịch, Nxb Công an nhân dân, 2011.
Riêng tiểu thuyết Sống, ở Việt Nam cịn có một bản dịch khác của Nguyễn
Nguyên Bình với tiêu đề Phải sống, Nhà xuất bản Văn hóa thơng tin ấn hành vào
năm 2004. Vì Vũ Cơng Hoan là người dịch hầu hết các tác phẩm của Dư Hoa, cũng
là người am hiểu về nhà văn này nên chúng tôi lấy bản dịch của ơng làm dẫn liệu
khảo sát chính, trên cơ sở tham khảo bản dịch còn lại.


11

Đồng thời, để có cái nhìn trọn vẹn hơn về thế giới nghệ thuật của Dư Hoa,
việc khảo sát của chúng tơi cịn mở rộng ra một số truyện ngắn, tạp văn của tác giả
đã được dịch, như tập truyện ngắn Tình u cổ điển (Vũ Cơng Hoan dịch, Nxb Văn
học, 2005), tạp văn Trung Quốc trong mười từ vựng (Vũ Công Hoan dịch,
www.trieuxuan.info) cùng một số tác phẩm chưa được dịch sang tiếng Việt như tiểu
thuyết Ngày thứ bảy và các truyện ngắn, tạp văn khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ trên các vấn đề lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu
ứng dụng lý thuyết thi pháp học hiện đại để tập trung khái quát đặc điểm các kiểu
nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa.
Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu, cụ thể:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống theo tinh thần cấu trúc luận: việc nghiên
cứu kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa cần nhìn nhận trên quan điểm hệ thống
để đảm bảo tính logic trong q trình minh định vị trí của nó ở các mối quan hệ với

các yếu tố khác trong một tác phẩm, trong sự nghiệp sáng tác của Dư Hoa cũng như
với bối cảnh xã hội, văn hóa, văn học. Từ đó, luận án có cơ sở vững chắc để đánh
giá những đóng góp của q trình lao động nghệ thuật của nhà văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để chia tách, nhận diện
kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa trên các phương diện cụ thể về nội dung và
nghệ thuật; từ đó khái quát những đặc trưng của các kiểu nhân vật.
- Phương pháp so sánh loại hình: được chúng tơi sử dụng trong q trình mơ
hình hóa các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa.
- Phương pháp liên ngành: được sử dụng để lí giải nguồn gốc các đặc điểm
của kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa.


12

5. Đóng góp mới của luận án
Luận án nghiên cứu tiểu thuyết của Dư Hoa trên cấp độ tổng thể. Đây là điều
chưa được thực hiện trong bất cứ nghiên cứu nào từng được công bố trước nay ở
Việt Nam. Bởi thế, thành cơng của luận án có thể là gợi ý bước đầu cho những
người nghiên cứu tiếp theo thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của Dư Hoa.
Tiếp cận hệ thống nhân vật dựa trên phương pháp sáng tác, phân loại hệ
thống nhân vật dựa trên phẩm chất thẩm mĩ, luận án phần nào chỉ ra được định
hướng sáng tạo của nhà văn và cấu trúc chỉnh thể của nhân vật, đồng nghĩa với việc
thấy được cơ chế vận hành của thế giới nhân vật, làm sáng tỏ đặc trưng về mặt nghệ
thuật sáng tạo nhân vật của Dư Hoa dưới sự chi phối của những nguyên tắc thẩm mĩ
độc đáo - là điều vốn chưa được chú ý đúng mức trong các cơng trình nghiên cứu
trước đây về Dư Hoa.
Từ góc độ nhân vật, luận án đóng góp thêm một ý kiến cá nhân về các vấn đề
cịn để ngỏ như: cịn tồn tại hay khơng tính chất “tiên phong” trong tiểu thuyết Dư
Hoa, cái ác ở các sáng tác nghệ thuật có ý nghĩa như thế nào trong việc truyền đi
các thông điệp tư tưởng của nhà văn...

6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và quan điểm tiếp cận đề tài của
tác giả luận án
Chương 2. Hành trình kiếm tìm nhân vật tiểu thuyết của Dư Hoa
Chương 3. Kiểu nhân vật bi kịch trong tiểu thuyết Dư Hoa
Chương 4. Kiểu nhân vật hoạt kê trong tiểu thuyết Dư Hoa


13

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN
ĐỀ TÀI CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trong hơn ba mươi năm sáng tác, Dư Hoa đã xuất bản ba mươi hai tập
truyện ngắn, mười hai tập truyện vừa, năm cuốn tiểu thuyết và tám tập tùy bút tản
văn. Với phong cách độc đáo, ông được đánh giá là một trong những nhà văn tiêu
biểu của văn học Trung Quốc từ thập niên 80 của thế kỉ XX đến nay, đồng thời cũng
là một trong số ít nhà văn Trung Quốc đương đại có tầm ảnh hưởng quốc tế.
Với những thành tựu đáng kể, Dư Hoa và các tác phẩm của ông được nghiên
cứu khá rộng rãi, không giới hạn trong phạm vi Trung Quốc. Tuy nhiên, do những
hạn chế trong việc tiếp cận nhóm tư liệu ngoại văn, đặc biệt là những bài viết bàn
trực tiếp về vấn đề nhân vật tiểu thuyết của Dư Hoa, trong luận án, chúng tơi chủ
yếu tập trung vào nhóm tài liệu tiếng Trung và tiếng Việt.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu Dư Hoa ở Trung Quốc
Năm 2006, trong cuộc bình chọn Bảng xếp hạng các nhà văn có thực lực
nhất Trung Quốc được thực hiện bởi mười nhà phê bình văn học hàng đầu Trung
Quốc như Chu Đại Khả, Tạ Hữu Thuận, Bạch Hoa..., Dư Hoa được xếp thứ hai chỉ
sau Mạc Ngôn. Là nhà văn gây được tiếng vang trên văn đàn, ơng được giới phê

bình Trung Quốc hết sức quan tâm. Theo thống kê của Hồng Trị Cương trong Tài
liệu nghiên cứu về Dư Hoa [97], từ năm 1988 đến năm 2006, ở Trung Quốc đã có
hơn 400 cơng trình lớn nhỏ lấy Dư Hoa và các tác phẩm của ông làm đối tượng
nghiên cứu. Trang web của Trung tâm nghiên cứu Dư Hoa
thuộc Trường Đại học Sư phạm Chiết Giang - Trung Quốc thống kê: tính đến năm
2017, đã có 901 cơng trình, bài viết về Dư Hoa, riêng nghiên cứu về tiểu thuyết có
tới hơn 300 cơng trình. Rõ ràng, trong ba mươi năm nghiên cứu về Dư Hoa, nhiều
vấn đề đã được đặt ra và giải quyết. Những tài liệu được tập hợp dưới đây chỉ là
một phần nhỏ trong số lượng lớn các cơng trình nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng tơi đã


14

cố gắng phân loại, lựa chọn những vùng tài liệu cần thiết, có liên quan mật thiết đến
trọng tâm của đề tài.
Sau đây là các nhóm tài liệu mà theo chúng tơi, khơng chỉ cung cấp một cái
nhìn tổng quan về tình hình nghiên cứu Dư Hoa ở Trung Quốc mà qua đó cịn cho
thấy những vấn đề để ngỏ mà chúng tôi sẽ tiếp tục giải quyết ở luận án này.
1.1.1.1. Nghiên cứu sáng tác của Dư Hoa
Thứ nhất, về quan niệm sáng tác của nhà văn
Ngay từ những năm 80 thế kỉ XX, những truyện ngắn của Dư Hoa đã thu hút
giới phê bình. Chẳng hạn, Vương Bân Bân và Triệu Tiểu Thanh trong bài viết “Thế
giới bí ẩn của Dư Hoa” đã sớm nhận ra Dư Hoa không chỉ "coi thường những cấm
kị của xã hội văn minh" mà cịn "đích thân xé toạc tấm màn che giả tạo này" [87,
109]. Tằng Trấn Nam trong “Hiện thực - Đọc tác phẩm Dư Hoa” lại khẳng định
rằng truyện ngắn Dư Hoa "tỏa ra làn khói mơ hồ của hiện thực", thể hiện "sự hồi
nghi đối với lí trí của nhân loại" và "phơi bày thú tính bên trong con người" [theo
159, 53]. Các nghiên cứu thời kì này đã phát hiện được một vài đặc thù cơ bản
trong quan niệm sáng tác của Dư Hoa giai đoạn đầu. Nhưng nhìn chung, chúng cịn
mang tính ấn tượng, cảm nhận riêng từng tác phẩm cụ thể.

Bàn về chủ đề này, phải kể đến từ năm 1989, khi Dư Hoa công bố bài viết
“Văn học giả tạo”, các cơng trình mới đi vào hệ thống hóa quan niệm sáng tác của
nhà văn và bắt đầu xuất hiện những tiếng nói trái chiều. “Văn học giả tạo” trở thành
điểm nóng trong giới lí luận phê bình khi Dư Hoa thẳng thắn thể hiện sự hoài nghi
đối với trật tự mà xã hội văn minh mang lại, hồi nghi lí tính và tính chân thực của
hiện thực, chủ trương sử dụng một "hình thức giả tạo" với một "trật tự và logic
riêng" nhằm đạt tới "sự thật tinh thần" [97, 47-48]. Cùng năm, trong bài phát biểu
“Hiện thực của tơi”, Dư Hoa nói rõ thêm: “hiện thực là một cái gì đó mang tính chất
cá nhân”, cho nên ơng “thà tin vào chính mình” chứ khơng tin vào những gì mà
cuộc sống cung cấp [102, 107]. Ở xu hướng khẳng định, Cao Ngọc trong “Dư Hoa:
một triết gia” đánh giá: “quan niệm văn học độc đáo đó vốn dĩ bắt nguồn từ quan
niệm triết học độc đáo của ông”, “tư duy triết học của ông là tảng băng trôi, phần


15

chìm dưới nước khơng dễ nhìn thấy được” [158, 88]. Trương Sùng Viên và Ngô
Thục Phương ủng hộ quan niệm của Dư Hoa và cho rằng nhờ thế mà nhà văn “có
thể đột phá vịng vây vàng thau lẫn lộn trong cuộc sống... Là quan điểm lấy thái độ
đoạn tuyệt để tiến hành chống lại và lật đổ hiện thực không đáng tin cậy... nhằm tiếp
cận với sự chân thực và xây dựng lại trật tự văn minh” [159, 54]. Cùng chung quan
điểm, nhà văn Mạc Ngôn đã gọi người đồng nghiệp của mình là “người tỉnh nói
chuyện mộng du đầu tiên trên văn đàn Trung Quốc đương đại”, là “một tiểu thuyết
gia triệt để” và coi quan niệm trên là một sự “đột phá về mặt triết học” [58, 335336], “Dư Hoa đã có thể dùng tư duy cực kì tỉnh táo để tự biện và thiết kế cho mình
một hướng đi mới, điều này thật đáng khâm phục” [58, 340]. Ở xu hướng khác,
Hiệp Lập Văn trong “Bàn về lăng kính hiện thực của các nhà văn Tiên phong” mặc
dù đề cao Dư Hoa là nhà văn “tiên phong” tiêu biểu bởi sự “trở về với thế giới nội
tâm của nhân vật”, “phản bác quan niệm văn học của chủ nghĩa hiện thực đã xơ
cứng” nhưng đồng thời ông cũng thể hiện sự hoài nghi về loại quan niệm hiện thực
này, phê phán sự kiện trong tác phẩm của Dư Hoa đa số là "sự kiện tinh thần,... tính

chủ quan của chúng hiển lộ quá rõ ràng" [145, 139]. Lư Vĩnh Dụ trong “Thế giới
biểu đạt của tác phẩm Dư Hoa” cũng tỏ thái độ khơng đồng tình, coi loại hiện thực
này là "nỗ lực thao túng nhân tạo không hơn không kém" [157, 30].
"Hiện thực" luôn là mục đích theo đuổi của Dư Hoa trong suốt quá trình sáng
tạo nghệ thuật. Những tranh cãi về tính chân thực và cái nhìn của Dư Hoa về cuộc
sống được thể hiện trong tác phẩm cho đến nay vẫn chưa đến hồi kết. Ngay cả khi
ông đã rời xa những tưởng tượng và giấc mơ "cổ quái và tàn khốc" (Mạc Ngôn
nhận xét về Dư Hoa) để tiến gần đến những hiện tượng phổ biến trong đời sống thì
các bình luận vẫn không thể thống nhất. Chẳng hạn khi đánh giá về Huynh đệ, một
xu hướng coi đó là bức tranh sống động, chân thực nhất về xã hội Trung Hoa và coi
Dư Hoa là “một trong nhà văn tài năng bậc nhất của nền văn học Trung Hoa đương
đại”. Ngược lại, có người lại gọi đó là thứ “rác rưởi, mang đầy hơi hướng kiểu cách
Hollywood” [162], thậm chí tác phẩm còn nhận sự "phản ứng cuồng nộ của những
kẻ theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan", giương cao khẩu hiệu đòi "nhổ sạch răng của


16

Dư Hoa" [164]. Có tác giả đã tuyên bố tiểu thuyết Huynh đệ với "nỗ lực phát triển
tính chân thực đã lặng lẽ tuyên cáo kết cục cuối cùng của chính nó" [115, 71].
Tương tự, với tiểu thuyết mới nhất của Dư Hoa – Ngày thứ bảy, có ý kiến đánh giá
tác phẩm ngang với Trăm năm cô đơn, nhưng ý kiến số đông lại cho rằng sau khi
đọc xong, Ngày thứ bảy "chẳng để lại được gì trong trí óc họ", "những câu chuyện,
hiện tượng được kể trong truyện, dù quái dị đến mấy cũng quá quen thuộc, họ
không có cảm giác nào khi đọc lại" [174].
Các bình luận trên ở các mức độ khác nhau đã khẳng định nỗ lực của Dư Hoa
trong việc tạo lập một mô hình thế giới nghệ thuật riêng biệt nhằm nhận thức cuộc
sống và con người theo một logic riêng, chống lại những quan niệm truyền thống
vốn đã được quy phạm hóa, nhưng một số ý kiến đã coi đây chính là điểm yếu của
Dư Hoa khi phóng đại một cách quá mức cần thiết, khiến cuộc sống khi đi vào nghệ

thuật mất đi trạng thái nguyên sơ ban đầu. Quan niệm sáng tác tất yếu sẽ quy định
kiểu nhân vật của tác phẩm và từ kiểu nhân vật sẽ trở về với cái nhìn về cuộc đời,
con người của chính nhà văn. Bởi thế các ý kiến trên đây đều được chúng tơi lưu
tâm trong q trình thực hiện luận án.
Thứ hai, về tính “tiên phong”trong sáng tác
“Tiên phong” (先先) là trào lưu văn học xuất hiện vào nửa sau thập niên 80 thế
kỉ XX ở Trung Quốc. Các nhà văn thuộc trào lưu này đi đầu trong việc tìm tịi, thí
nghiệm và vận dụng các hình thức biểu đạt mới. Mặc dù được giới phê bình tơn là
một trong "ngũ hổ tướng" của phong trào này nhưng không phải lúc nào Dư Hoa
cũng cơng nhận điều đó. Năm 1999, trong một cuộc phỏng vấn ơng từng nói: "Tơi
trước nay chưa bao giờ cảm thấy mình là một nhà văn “tiên phong”, tác phẩm của
tôi càng không phải là văn học “tiên phong”” [155, 98]. Tuy nhiên trong một phát
biểu năm 2002, nhà văn lại nói: “Khi tơi đang viết tác phẩm ở những năm 80, tôi là
một tác giả thuộc phái “tiên phong”” [110, 11]. Cho dù Dư Hoa có thừa nhận bản
thân là nhà văn “tiên phong” hay không, hay chỉ thừa nhận là nhà văn “tiên phong”
trong một giai đoạn nhất định, thì với các nhà nghiên cứu, tính chất “tiên phong”
trong các truyện ngắn của tác giả những năm 80 thế kỉ XX là không thể phủ nhận.


17

Điều gây tranh cãi chỉ còn là: liệu các tiểu thuyết sáng tác trong hơn một thập niên
sau đó có mang tính “tiên phong” hay khơng.
Xu hướng thứ nhất cho rằng tính chất “tiên phong” trong sáng tác của Dư
Hoa khơng cịn kể từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỉ XX. Đại diện cho xu
hướng này có thể kể đến hai nhà nghiên cứu Ngô Nghĩa Cần và Trần Tư Hịa. Trong
“Cáo biệt hình thức giả dối – Ý nghĩa của Chuyện Hứa Tam Quan bán máu với Dư
Hoa”, Ngô Nghĩa Cần nhấn mạnh Gào thét trong mưa bụi (1991) là "tổng kết cuối
cùng của sáng tác “tiên phong” của bản thân Dư Hoa" và Chuyện Hứa Tam Quan
bán máu (1995) “đánh dấu bước chuyển nghệ thuật đầu tiên” [97, 494]. Nhóm các

tác giả Trần Tư Hịa, Trương Tân Dĩnh ở cơng trình “Dư Hoa: sau khi chuyển
hướng sáng tác từ “tiên phong” đến dân gian” khẳng định: thập niên 90 của thế kỉ
XX, Dư Hoa “từ sáng tác “tiên phong” cực đoan của thập niên 80, chuyển hướng
đến không gian tự sự mới – lập trường dân gian” [99, 68]. Cùng chung quan điểm
này, Tô Chiêm Binh nói rõ hơn: “Dư Hoa ở Sống trên thực tế đã lộ rõ dấu hiệu mệt
mỏi của tinh thần “tiên phong” mà ngày càng tiến sát tả thực... Tác giả Huynh đệ
càng ngày càng xa tính “tiên phong” mà ngày càng gần hơn với tính đại chúng” [88,
42]. Như vậy ở luồng ý kiến này, các tác giả đều thống nhất trong giai đoạn sáng tác
thứ hai của Dư Hoa, các sáng tác về cơ bản đã xóa bỏ tính “tiên phong” vốn rất đậm
nét trong sáng tác giai đoạn trước đó.
Trong khi các tác giả ở xu hướng thứ nhất khẳng định Dư Hoa đã hoàn toàn
rút lui khỏi phái “tiên phong” thì ở xu hướng thứ hai, các nhà nghiên cứu lại cho
rằng tác phẩm Dư Hoa vẫn dùng tư tưởng “tiên phong” để nhìn nhận và khám phá
hiện thực, cái thay đổi chỉ là hình thức của nó mà thơi. Vương Đạt Mẫn tun bố:
“từ năm 1986 đến nay, Dư Hoa vẫn luôn luôn là nhà văn “tiên phong”” [128, 183].
Đồng tình với quan điểm này, Phùng Cần tiếp tục khẳng định: “Huynh đệ mặc dù
thay đổi rất lớn nhưng sự thay đổi này không thể che lấp được tính chất đặc thù
thuộc về tác phẩm “tiên phong””, “nó (Huynh đệ) vẫn duy trì tính chất “tiên phong”
cố hữu và tinh thần khám phá “tiên phong” của Dư Hoa” [136, 73].


18

Thứ ba, về chủ đề sáng tác trong tác phẩm
Chủ đề sáng tác của Dư Hoa vẫn luôn là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm
của giới nghiên cứu Trung Quốc. Giải thích các chủ đề trong tiểu thuyết Dư Hoa đã
trở thành một trong những tiêu chuẩn để các nhà phê bình đánh giá tiềm năng của
tiểu thuyết Dư Hoa, đồng thời nó cũng phản ánh nội dung phong phú, tư duy mới
mẻ, phức tạp của nhà văn. Men theo chủ đề của tiểu thuyết, các cơng trình đã tập
trung làm rõ được một số vấn đề trọng tâm, cơ bản của sáng tác Dư Hoa. Cơng trình

“Tổng thuật nghiên cứu chủ đề trong tiểu thuyết của Dư Hoa” của Dương Minh
Huy là sự tổng hợp công phu những nghiên cứu về vấn đề này, trong đó tác giả đã
khái quát bốn chủ đề chính: bạo lực, sống chết, khổ nạn và thiện ác [118, 38].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất trong việc xác định các chủ
đề chính trong sáng tác của Dư Hoa. Nhưng việc đánh giá chúng thì khơng phải lúc
nào cũng đồng thuận. Bạo lực, cái chết, bản tính ác của con người là những chủ đề
gây nhiều tranh cãi, đặc biệt ở thời kì sáng tác đầu tiên. Các nhà phê bình thời kì
này đã cảm thấy bị sốc trước thế giới chết chóc và những câu chuyện bạo lực đến
rợn người. Trước chủ đề này, những tiếng nói chất vấn của các nhà phê bình cất lên
khơng ngớt: "thế giới của ơng (Dư Hoa) giống như một lị giết mổ", "sát hại và cái
chết là câu chuyện phổ biến trong thế giới này" [86, 44]; "thứ chảy trong huyết quản
của ông nhất định là băng tuyết" [theo 159, 55], "trong thế giới bị khóa chặt bởi vũ
điệu cái chết này, nhân vật bị đặt vào số mệnh vô vọng", trong thế giới vô vọng ấy,
phụ nữ thường "rên xiết dưới lưỡi dao bạo lực của Dư Hoa" [97, 360]; "Dư Hoa
hồn tồn khơng suy xét tính hợp lí của tình tiết, bỏ qua tính phức tạp của nhân vật,
chỉ nhìn vào việc làm tổn thương lẫn nhau của con người một cách lạnh lùng mà
giản đơn", cách mô tả này "chẳng qua là tác giả miêu tả những tưởng tượng phóng
túng về sự hỗn loạn của chính mình mà thơi", từ đó đi tới kết luận "tố chất văn học
của Dư Hoa không cao, tư tưởng cũng chưa trưởng thành" [92, 11].
Ngược lại, một số nhà nghiên cứu lại khẳng định bạo lực, cái chết, cái ác
trong tác phẩm Dư Hoa "là nội dung không thể thiếu để khai sáng" [97,277], có tác
dụng "nhắc nhở chúng ta cảnh giác trước những dục vọng và kích động", là "tấm


19

gương khiến cho con người soi vào mà nhìn nhận bản tính của chính mình, nhìn
thẳng vào linh hồn mình" [128, 85], vì vậy, chúng có "tác dụng cảnh tỉnh và ngăn
chặn quên lãng" [152, 227].
Đối với chủ đề khổ nạn trong tiểu thuyết Dư Hoa, nhiều cơng trình đã được

thực hiện. Đặc biệt, từ năm 1990, việc nghiên cứu tập trung nhiều hơn vào các bộ
tiểu thuyết. Trước những ý kiến hoài nghi cho rằng Dư Hoa thiếu sự xét đoán rõ
ràng các giá trị của nhân sinh và khơng nhìn nhận nỗi đau khổ trên lập trường của
nhân gian, Hồng Trị Cương trong “Sức mạnh của tình thương – Luận về hướng đi
tinh thần ở ba bộ trường thiên tiểu thuyết của Dư Hoa” lại nhận định rằng đây là
loại "độc thoại gạt độc giả sang một bên", nhưng là để bảo tồn một chút chân thực
"khắc nghiệt" cho thời đại ngày càng giả dối này. Dư Hoa trong câu chuyện về khổ
nạn đã ẩn giấu đi sự can dự của "chủ thể đạo đức và chủ thể tri thức". Qua mỗi bộ
tiểu thuyết nhà văn lại thể hiện sự phát triển trong nhận thức về chủ đề này: từ "thể
nghiệm khổ nạn", "chịu đựng khổ nạn" đến "hóa giải khổ nạn" [97, 507].
Thứ tư, về nghệ thuật tự sự trong sáng tác
Nhiều thành tựu đáng kể cũng đã đạt được trên lĩnh vực nghiên cứu nghệ
thuật tự sự của tác phẩm Dư Hoa. Ở thời kì đầu, với đối tượng là các truyện ngắn
của nhà văn, giới nghiên cứu đã có những ý kiến khác nhau. Vương Bân Bân trong
“Lời lẽ ngông cuồng của Dư Hoa” xem chúng "giống như một mớ giấc mộng giữa
ban ngày, hoặc giống như một lời nói điên cuồng nhảm nhí của một bệnh nhân tâm
thần" [86, 39]. Trương Vệ Trung trong “Đọc sáng tác của Dư Hoa” lại khẳng định
Dư Hoa đã "phát triển một loại ngôn ngữ tự sự và hình thức tự sự mới", trong đó
chủ yếu thể hiện trên ba phương diện: "sự trùng lặp những góc nhìn bị hạn chế,
miêu tả biến hóa khơn lường, mơ tả cảm giác trừu tượng" [160, 32]. Các nhà nghiên
cứu từ sớm đã chỉ ra tính chất "lật đổ thể loại" hay kiểu tự sự "trò chơi" [97, 219]
trong truyện ngắn Dư Hoa.
Bước sang những năm 90 của thế kỉ XX, các nghiên cứu tập trung vào các bộ
tiểu thuyết của Dư Hoa. Trong một nghiên cứu về Gào thét trong mưa bụi, Tạ Hữu
Thuận cho rằng sự thay đổi đáng kể trong tiểu thuyết này là tác giả đã "bắt đầu sử


20

dụng rộng rãi ngôn ngữ của tâm hồn", khác với giai đoạn trước, giờ đây "Dư Hoa có

cách viết lặn sâu vào nội tâm nhân vật" [143, 55]. Ngô Nghĩa Cần lại phân tích hai
loại ngơn ngữ điển hình của tiểu thuyết này là "tự sự kiểu tiên tri và tự sự kiểu phân
tích" [137, 63].
Từ khi tiểu thuyết Chuyện Hứa Tam Quan bán máu xuất bản, vấn đề được
nhắc đến nhiều trong các cơng trình nghiên cứu là sự chuyển đổi lối tự sự “tiên
phong” sang lập trường dân gian của Dư Hoa trong các tiểu thuyết. Các nghiên cứu
cũng đi vào các phương diện cụ thể của nghệ thuật tự sự. Thẩm Hạnh Bồi, Khương
Du trong “Lăng kính trẻ thơ – Bàn về chiến lược trần thuật qua điểm nhìn trẻ thơ
trong tiểu thuyết của Dư Hoa” đã có những kiến giải thú vị về chiến lược trần thuật
của Dư Hoa trong tiểu thuyết thông qua sự soi chiếu của điểm nhìn trẻ thơ. Các tác
giả đã chỉ ra cơ chế hình thành diễn ngơn trần thuật của tiểu thuyết Dư Hoa dưới sự
chi phối của cảm xúc, tâm lý, kinh nghiệm sống của trẻ thơ. Qua lăng kính của đơi
mắt trẻ em, một thế giới "bạo lực, đạo đức giả, xảo quyệt, điên loạn, hỗn tạp, tiến
thoái lưỡng nan" được tái hiện trong tác phẩm [132, 70]. Từ cấp độ vĩ mô, Trương
Thanh Hoa trong bài viết “Phép trừ của văn học – luận Dư Hoa” đã khái quát Sống
là "câu chuyện của một con bạc", những câu chuyện giản dị trong Chuyện Hứa Tam
Quan bán máu thể hiện sự "biến hóa biện chứng giữa nhiều và ít, nặng và nhẹ, đơn
giản và phức tạp" [97, 131].
Như vậy, mặc dù Dư Hoa là một tác giả đương đại nhưng lịch sử nghiên cứu
các tác phẩm của ông đã khá dày dặn. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề
vẫn cịn để ngỏ. Ví dụ như quan niệm về hiện thực của Dư Hoa là độc đáo, mang
tính "đột phá về mặt triết học" hay chỉ là "sự thao túng nhân tạo"? Tiểu thuyết của
Dư Hoa từ những năm 90 của thế kỉ XX đã cắt đứt hoàn toàn với tinh thần “tiên
phong” của giai đoạn trước hay vẫn tiếp nối tinh thần ấy nhưng dưới một hình hài
khác? Viết về cái ác, sự bi thảm của con người, liệu có phải Dư Hoa quá khắc
nghiệt?... Trong quá trình khảo sát và bàn luận về ý nghĩa các hình tượng nhân vật
trong tiểu thuyết Dư Hoa, luận án chắc chắn sẽ ít nhiều đụng chạm đến các vấn đề


21


này. Chúng tơi sẽ có những kiến giải riêng trong q trình phân tích đặc điểm nghệ
thuật các sáng tác của nhà văn.
1.1.1.2. Nghiên cứu nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa
Trước hết, chúng tôi điểm qua những bài viết nghiên cứu nhân vật trong từng
tiểu thuyết riêng lẻ của Dư Hoa. Trịnh Tinh Hịa trong “Chân thực như chính cuộc
sống – Phân tích phương thức biểu đạt tâm lý nhân vật trong Chuyện Hứa Tam
Quan bán máu” đã phân tích ba cách bộc lộ tình cảm của các thành viên gia đình họ
Hứa: "khẩu xà tâm phật" trong tình u; "giấu đầu hở đi" trong tình thân; “thơ
mộc, vụng về mà ấm áp” trong tình bạn [98, 77]. Vương Mộng Địch với “Phân tích
nhân vật trong Sống” đã xác định bộ tiểu thuyết kể về cuộc đời của người nơng dân
Trung Quốc bình thường nhưng "gần như đã viết ra lịch sử đau khổ và sức sống của
một dân tộc". Từ cái chết của các nhân vật, Dư Hoa đã "biểu thị tính chất đau khổ
của cuộc sống, sự dẻo dai của sinh mệnh, tính tự tại và trách nhiệm sống của con
người". Từ đó "tác giả cho phép chúng ta nhìn thấy lịng tin vào giá trị con người và
đạo đức truyền thống" [94, 286]. Trong bài viết “Bàn về những đột phá trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết của Dư Hoa qua Huynh đệ”, Tôn Nghi Học nhìn
nhân vật của Huynh đệ trong quá trình phát triển để thấy được "Dư Hoa đã phá vỡ
sự ưu ái thiên vị dành cho bạo lực trong nhân tính ở giai đoạn trước mà quan tâm
nhiều hơn đến sự dịu dàng, ấm áp của nhân tính" [149, 65]. Tác giả nhận định đây
là "bộ tiểu thuyết ngụ ngôn" phản ánh thời đại hoang đường, trong đó Tống Phàm
Bình biểu tượng cho bi kịch thất bại của lí tưởng, Lý Trọc biểu tượng cho con người
bản năng trở thành "anh hùng của thế giới hoang đường", Tống Cương thể hiện sự
"nghi hoặc" của chính tác giả về sự "dập tắt ánh sáng của nhân tính". Các nhân vật
có "tính cách "trịn" hoặc "dẹt", khi được "dậm tơ màu sắc, khi được điêu khắc tỉ mỉ
hoặc chuồn chuồn điểm nước, nhưng tất cả đã thể hiện một cuộc sống sinh động" và
được tác giả "giao cho những ẩn ý đầy đặn" về quá khứ, hiện tại, tương lai [149,
69]. Cũng phân tích cách thức xây dựng nhân vật trong Huynh đệ nhưng hai tác giả
Nhiếp Hịa Bình và Trần Diễm lại nhìn từ phạm trù chân mĩ "hoang đường" và từ lí
thuyết phân tâm học của Freud. Nhìn nhận "hoang đường" như một phạm trù chân



22

mĩ "thể hiện trong một hình thức quái đản", "là cảm thụ tâm lí đặc thù ngưng kết
mang tính tượng trưng trên cấp độ chỉnh thể", các tác giả thấy "nhân vật trong
Huynh đệ có một điểm chung là tất cả đều hoang đường: hành động hoang đường,
ngôn ngữ hoang đường, suy nghĩ hoang đường..." [133, 51] cùng với sự tồn tại vô
nghĩa trong một xã hội cũng đầy rẫy sự hoang đường. Vận dụng lí thuyết của Freud,
bài viết đã có những kiến giải riêng: Lý Trọc được "dẫn dắt bởi bản ngã: bản năng,
tùy tiện" và "cái chết của Tống Cương đã đánh thức cái siêu ngã trong Lý Trọc";
cịn Tống Cương từ một người ln "ức chế bản ngã" để sống theo những nguyên
tắc đạo đức, cuối cùng khi anh ta tự vẫn, "cái siêu ngã đã trở về với bản ngã" [133,
54].
Bàn về nhân vật trong tồn bộ tiểu thuyết Dư Hoa, một số cơng trình đã dựa
vào đặc điểm lứa tuổi, giới tính để đi vào phân tích những kiểu nhân vật nổi bật.
Trong bài viết “Đường về nhà của cậu bé bất hạnh - Bàn về hình tượng thiếu nhi
trong tiểu thuyết Dư Hoa thập niên 90”, Từ Hồng Quân đã tập trung vào các nhân
vật là những đứa trẻ, phân tích sự chuyển biến từ những đứa trẻ lang thang, phiêu
dạt khơng có chỗ dựa nương cả vật chất lẫn tinh thần trong Gào thét trong mưa bụi
đến những thiếu niên được chăm sóc, yêu thương nhưng yểu mệnh trong Sống, cuối
cùng là cậu bé Hứa Nhất Lạc được hưởng hạnh phúc yên bình của tuổi thơ trong
Chuyện Hứa Tam Quan bán máu. Tác giả bài viết khẳng định quá trình thay đổi ấy
"thể hiện sự thay đổi trong nhận thức của Dư Hoa về đau khổ: từ kinh nghiệm đau
khổ, sức mạnh chịu đựng đau khổ đến hóa giải đau khổ" [124, 42]. Bài viết cũng chỉ
ra nguyên nhân tạo nên sự biến chuyển đó từ hai phương diện: cuộc sống cá nhân và
quan niệm sáng tác của Dư Hoa.
Hình tượng nhân vật nữ dù không chiếm ưu thế trong sáng tác của Dư Hoa
nhưng cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm. Hán Hồng Vũ đã đọc nhân vật nữ
trong truyện ngắn và tiểu thuyết Dư Hoa dưới sự soi chiếu của bản năng nguyên

thủy con người. Các nhân vật nữ hiện lên như những biểu tượng của "cơn ác mộng
tình dục", "sự hoành hành bạo lực" và "sự tàn sát của soi mói" [160]. Lưu Hổ trong
bài viết “Chiếc bóng hư ảo trong thế giới đàn ơng – từ hình tượng nhân vật nữ trong


23

tiểu thuyết Dư Hoa bàn về ý thức nam quyền” một mặt khơng phủ nhận những đóng
góp của Dư Hoa cho nền văn học nước nhà, mặt khác từ ý thức nữ quyền, đã phê
phán "tư tưởng gia trưởng của văn hóa Trung Hoa truyền thống tràn ngập" trong tác
phẩm của nhà văn. Các nữ nhân vật của Dư Hoa về thực chất đều được kiến tạo từ
sự chế ước của ý thức nam quyền, xuất phát từ chính mong muốn của tác giả. Vậy
nên, theo Lưu Hổ, trong thế giới nghệ thuật Dư Hoa, hình ảnh nữ giới "bị bóp méo".
Xuất phát từ nhu cầu của nam nhân, các nữ nhân vật trở thành hiện thân của "tưởng
tượng và mong đợi về người phụ nữ hoàn mĩ", của sự "chán ghét dục vọng, độc ác,
thô bỉ", và của sự "đồng tình và ngợi ca đối với kiểu phụ nữ chịu đựng", tuân phục
tuyệt đối trật tự xã hội nam quyền [117, 112].
Một vài cơng trình đã tiến hành phân loại kiểu nhân vật trong tác phẩm Dư
Hoa. Chẳng hạn, Thái Dũng Khánh trong bài viết “Sức sống của biểu tượng - Bàn
về hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết Dư Hoa” đã chỉ ra ba kiểu nhân vật cơ bản
trong các sáng tác của Dư Hoa tương ứng với ba ý nghĩa mang tính biểu tượng:
1) Người điên trong thế giới dục vọng – cái chết của nhân tính;
2) Kẻ ngốc trong thế giới hỗn độn – sự lưu vong của thiên tính;
3) Người cha đau khổ - sự cứu chuộc thi tính.
Đặc biệt, hình tượng người cha chất phác, lương thiện trong các tiểu thuyết
được người viết nhìn nhận như một biểu tượng của sự cứu chuộc nhân tính thiện.
Sự xuất hiện của họ đã "tuyên bố Dư Hoa từ một tác giả tra vấn về nhân tính đến
một tác giả tìm kiếm sự cứu rỗi sinh tồn bằng tình yêu thương con người" [140,
828].
Trâu Diễm Cầm trong bài viết “Bàn về mấy loại hình tượng nhân vật trong

tiểu thuyết Dư Hoa” [139] lại khái quát nhân vật trong sáng tác của Dư Hoa thành
các loại sau:
1) Nhân vật được kí hiệu hóa: kiểu nhân vật này phổ biến trong các truyện
ngắn những năm 80, được xem như là một cơng cụ để nhà văn cụ thể hóa những
nhận thức trừu tượng của tác giả về cuộc sống;


24

2) Nhân vật trẻ em: là kiểu nhân vật được tác giả ưu ái dành nhiều trang viết,
đặc biệt chúng luôn gắn liền với bạo lực, cái chết, và phần lớn trong đó đều cơ độc,
bị tổn thương;
3) Nhân vật khơng bình thường: đa số là hiện thân của bạo lực, của bản tính
ác;
4) Nhân vật người cha: được cấu trúc lại so với truyền thống;
5) Nhân vật nữ: gắn liền với bạo lực hoặc rất chịu thương chịu khó.
Cách phân loại trên cho thấy chủ đề chính cũng như các bình diện xã hội của
nhân vật trong sáng tác của Dư Hoa, nhưng tiêu chí phân loại, theo chúng tơi, có
phần chưa thống nhất.
Trương Hân Kiệt trong bài viết “Hồi tưởng “hành trình ấm áp mà lẫn lộn xúc
cảm” - Từ góc độ xây dựng nhân vật bàn về ba giai đoạn sáng tác của Dư Hoa”
[119] đã tái hiện ba giai đoạn trong lịch sử phát triển hình tượng nhân vật của nhà
văn:
1) Giai đoạn thứ nhất: nhân vật bị siêu thực hóa, thể hiện các ý nghĩa triết
học trừu tượng;
2) Giai đoạn thứ hai: nhân vật được phục hồi nhân tính trong bối cảnh xã hội
rộng lớn;
3) Giai đoạn thứ ba: nhân vật mang tính cách sinh động, độc lập trong cuộc
sống nhân sinh ấm áp và khổ nạn.
Nhóm cơng trình trên đã nhận diện được một số đặc trưng cơ bản cũng như

kiểu nhân vật đặc thù trong sáng tác của Dư Hoa. Cách nhìn nhận và phân loại nhân
vật kể trên chủ yếu gắn chặt với chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nó có ưu điểm là
cho phép người viết thơng qua phân tích nhân vật tiểu thuyết mà đi sâu, làm rõ
những đóng góp của nhà văn trong việc lí giải và đề xuất cái nhìn mới về các vấn đề
văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, chúng tơi nhận thấy cái nhìn này chưa nhấn mạnh được
những thành tựu của tác giả trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, chưa cho thấy ông
đã kế thừa và vượt lên truyền thống ra sao.


25

1.1.2. Nghiên cứu Dư Hoa ở Việt Nam
1.1.2.1. Dịch và giới thiệu Dư Hoa
Ở Việt Nam, tên tuổi của Dư Hoa bắt đầu được biết đến từ năm 2002, khi
Sống được Vũ Công Hoan dịch, phát hành bởi Nhà xuất bản Văn học. Tên tuổi của
ông thực sự trở nên “nóng” hơn khi Huynh đệ được phát hành. Hai tập tiểu thuyết
này lần đầu được ấn hành tại Việt Nam lần lượt vào tháng 3 và tháng 9 năm 2006,
cùng năm Dư Hoa cho ra mắt tập 2 ở Trung Quốc. Sau hiệu ứng từ Huynh đệ, tác
phẩm trước đó của Dư Hoa là Chuyện Hứa Tam Quan bán máu được dịch và xuất
bản vào quý II năm 2006, tiểu thuyết đầu tay của ông là Gào thét trong mưa bụi
cũng được xuất bản năm 2008. Riêng tiểu thuyết, chỉ cịn tập Ngày thứ bảy (第第第 –
hồn thành năm 2013) tính đến thời điểm này vẫn chưa được dịch. Tập Tình yêu cổ
điển tập hợp mười một truyện ngắn của Dư Hoa cũng được Vũ Công Hoan dịch từ
Tủ sách Tuyển tập nhà văn đương đại Trung Quốc (Nhà xuất bản Văn học Nhân
dân, năm 2001), ấn hành bởi Nhà xuất bản Văn học năm 2005. Cùng năm, một tập
truyện cùng tên khác cũng được Đinh Thạch Anh dịch (Nhà xuất bản Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh). Tuy nhiên đây là tập truyện ngắn tập hợp nhiều tên tuổi
các nhà văn Trung Quốc, Dư Hoa chỉ đóng góp ở đây hai tác phẩm là Tình yêu cổ
điển và Hoa mai máu thắm. Về tạp văn, cuốn Trung Quốc trong mười từ vựng (hoàn
thành năm 2011) của nhà văn đã được dịch giả Vũ Công Hoan dịch, Triệu Xuân

biên tập, đăng lần lượt các phần trên trang web trieuxuan.info từ tháng 11 năm 2012
đến tháng 10 năm 2016. Như vậy, về cơ bản, những tác phẩm nổi bật của Dư Hoa
đã được dịch, giới thiệu ở Việt Nam và được độc giả nhiệt tình đón nhận.
Những bài giới thiệu, tổng thuật về tác giả, tác phẩm Dư Hoa mang tính chất
cảm nhận khái lược có vai trị khơng nhỏ trong việc giới thiệu rộng rãi tên tuổi của
nhà văn Trung Quốc đương đại này đến bạn đọc Việt Nam. Về cuốn tiểu thuyết
Sống, có thể kể đến các bài viết đã được thực hiện như: “Lệ rơi trên Sống”của Phan
Thanh Lệ Hằng [26], “Sống – vì bản thân sự sống mà sống” của Ngơ Ngọc Ngũ
Long [50], “Cuộc đời có thể khóc” của Nguyễn Ngọc Thuấn [88], “Lịng cứ đau
đớn mãi” của Tâm Thơ [75]… Đây đều là những cảm nhận hết sức ngắn gọn và chủ


×