Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Giám sát, phản biện xã hội của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.47 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH ĐỨC TÀI

GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH ĐỨC TÀI

GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA ĐỒN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN LONG HẢI


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết luận
nghiên cứu, các số liệu được trình bày trong luận văn “Giám sát, phản biện xã
hội của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh từ thực tiễn quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng” là trung thực, chính xác và được trích dẫn theo đúng quy
định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.
Đà Nẵng, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả luận văn

Huỳnh Đức Tài


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA

ĐỒN

THANH

NIÊN

CỘNG


SẢN

HỒ

CHÍ

MINH

...............................................................................................................................

7
1.1. Các khái niệm cơ bản về giám sát và phản biện xã hội của Đồn Thanh niên

Cộng

sản

Hồ

Chí

Minh

7
1.2. Đặc điểm chính trị - pháp lý về hoạt động giám sát và phản biện xã hội của

Đồn TNCS Hồ Chí Minh................................................................................... 14
1.3. Nội dung giám sát và phản biện xã hội của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh............................................................................................................. 19

1.4. Kinh nghiệm thực hiện giám sát, phản biện của Đồn Thanh niên Cộng sản

Hồ Chí Minh ở một số địa phương và bài học rút ra cho quận Cẩm Lệ, thành phố
Đà Nẵng.............................................................................................................. 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA
ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH QUẬN CẨM LỆ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG................................................................................. 29
2.1. Đặc điểm của quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng ảnh hưởng đến hoạt động

giám sát và phản biện xã hội của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh......29
2.2. Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng 34
2.3. Tình hình giám sát, phản biện của ĐồnThanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng...................................................................... 36
2.4. Đánh giá chung về hoạt động giám sát, phản biện của Đồn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng................................ 47


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁM SÁT
VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA ĐOÀN NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

53

3.1. Phương hướng thực hiện giám sát và phản biện của Đồn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.......................................... 53
3.2. Các giải pháp tăng cường giám sát và phản biện của Đoàn Thanh niên Cộng


sản Hồ Chí Minh quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.......................................... 56
3.3. Tăng cường hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Đoàn Thanh niên

trên lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.. . .70
KẾT LUẬN........................................................................................................ 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

CT-XH

Chính trị - xã hội

2

KT-XH

Kinh tế - xã hội

3


MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

4

HCNN

Hành chính nhà nước

5

GSXH

Giám sát xã hội

6

GS & PBXH

Giám sát và phản biện xã hội

7

TNCS

Thanh niên Cộng sản

DANH MỤC CÁC HÌNH


Số hiệu
hình
2.1

Tên hình

Bản đồ hành chính quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

Trang

30


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong điều kiện một Đảng cầm quyền như ở nước ta, bên cạnh những
thuận lợi cơ bản và tính ưu việt nổi trội, tuy nhiên nếu không thực hiện tốt bản
chất của một Đảng cách mạng khoa học với mục đích vì dân cũng dễ xảy ra
tình trạng duy ý chí, chủ quan thậm chí sa vào quan liêu. Do vậy, việc cần có
một cơ chế cụ thể, rõ ràng, minh bạch để Nhân dân, các tổ chức xã hội bày tỏ
thẳng thắn ý kiến, thực hiện giám sát và phản biện xã hội là thực sự cần thiết
đối với các dự thảo, dự án, dự kiến những quyết định lớn của Đảng, Nhà nước,
hệ thống chính trị. Sự GS&PBXH sẽ giúp Đảng, chính quyền, hệ thống chính
trị nhận xét, đánh giá về ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân; rút bài học
kinh nghiệm về các chủ trương, chính sách có thực sự hợp quy luật và hợp lịng
dân hay khơng. Đồng thời, giám sát và phản biện xã hội góp phần thực hiện
đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
các chương trình, dự án kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phịng; kịp
thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém để kiến nghị sửa đổi, bổ

sung cho phù hợp; phát hiện những nhân tố mới,những mặt tích cực để kịp thời
phổ biến nhân rộng, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, làm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Phản biện xã hội
nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp
trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đồn thể… Từ
đó kiến nghị bổ sung, sửa đổi những nội dung thiết thực, góp phần đảm bảo
tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội và đảm bảo tính hiệu
quả; đồng thời góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, phát
huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội làm cho đất nước ngày càng phát
triển, cuộc sống của nhân dân ngày càng hạnh phúc, văn minh.
Theo Quyết định số 217 –QĐ/TW của Ban Chấp hành trung ương Đảng
về Quy chế GS & PBXH của MTTQ Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội,
7


vai trò GS & PBXH đây là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của các
đoàn thể CT- XH các cấp, trong đó có Đồn TNCS Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, trên thực tiễn hoạt động GS&PBXH của các đoàn thể CT-XH
nói chung và của Đồn TNCS Hồ Chí Minh quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
nói riêng hiện đang cịn nhiều bất cập, hạn chế, chưa phát huy hết vai trị và trách
nhiệm GS&PBXH của mình. Nhiều đơn vị đồn ở cơ sở chưa phát huy tốt vai
trò GS&PBXH của mình, cịn lúng túng trong lựa chọn nội dung, thiếu chủ
động; đội ngũ cán bộ làm công tác giám sát, phản biện. Có thể nói, thực tiễn
cơng tác GS& PBXH của Đồn TNCS Hồ Chí Minh quận Cẩm Lệ, thành phố
Đà Nẵng đã đạt được một số thành tựu, song nhiều câu hỏi liên quan đến hạn
chế, bất cập trong công tác GS& PBXH đang đặt ra cần nghiên cứu trả lời. Xuất
phát từ lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Giám sát, phản biện xã hội của
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành
phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


Trong thời gian qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về GS& PBXH
của Đồn TNCS Hồ Chí Minh và các đồn thể CT-XH. Ở nhiều góc độ khác
nhau về lý luận và thực tiễn có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu, tác
phẩm.
Trước hết là một số nghiên cứu về GS& PBXH:
“PBXH và phát huy dân chủ pháp quyền” của Hồ Bá Thâm và Nguyễn Tôn
Thị Tường Vân đồng chủ biên do NXB Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2010,
cho rằng: cần có sự phản biện đối với những chủ trương, chính sách trước khi
đưa vào thực hiện vì mức độ ảnh hưởng nhiều đến dân sinh là khá lớn. Cuốn
sách cũng đi sâu phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của phản biện xã hội và vai
trò của phản biện xã hội trong việc tăng cường, phát huy dân chủ pháp quyền ở
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nhưng chưa đi sâu phân tích hoạt động và vai trị
của báo chí trong giám sát và phản biện xã hội, chưa chỉ ra được những ưu điểm,
hạn chế của những kênh GS& PBXH phổ biến như Đồn TNCS Hồ Chí Minh


và MTTQ mà


mới chỉ lập luận về vấn đề GS& PBXH trong nền dân chủ pháp quyền ở nước ta,
mối quan hệ giữa xã hội và nhà nước với giám sát và phản biện xã hội.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Vũ Thị Như Hoa: “Nâng cao chất lượng phản
biện xã hội của MTTQ Việt Nam ở nước ta hiện nay”, ngành Chính trị học bảo
vệ thành cơng năm 2013 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.Luận án
đã phân tích và hệ thống hóa một số vấn đề về lý luận trong phản biện xã hội và
vai trò của MTTQVN đối với phản biện xã hội. Bước đầu xác định tiêu chí đánh
giá chất lượng PBXH của MTTQ Việt Nam. Đánh giá khái quát chất lượng
PBXH của MTTQ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và đề xuất giải pháp nâng cao
chất lượng PBXH của MTTQ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Luận án Tiến sĩ ngành Báo chí học của tác giả Nguyễn Quang Vinh: “Vai
trị của báo chí in trong việc thực hiện chức năng GS& PBXH ở Việt Nam hiện
nay” được bảo vệ thành công năm 2018 tại Học viện Báo chí và tuyên truyền.
Đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên hệ thống một cách tổng quát, chuyên sâu,
cập nhật về yêu cầu phải nâng cao vai trò của báo in trong thực hiện chức năng
GS& PBXH ở Việt Nam hiện nay.
Việc phân tích để làm sáng tỏ thực trạng, chỉ ra những đặc điểm, ưu điểm,
hạn chế của báo in trong thực hiện chức năng GS&PBXH; những đề xuất,
khuyến nghị, giải pháp mà luận án nêu ra sẽ là những đóng góp mới có tính lý
luận và thực tiễn, góp phần nâng cao vai trò của báo in trong thực hiện chức
năng GS& PBXH ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn Thạc sĩ về “GS& PBXH của MTTQ Thành phố Đà Nẵng” của
Hoàng Thị Ánh (2015), Học viện khoa học xã hội. Trong nghiên cứu này, tác giả
đã căn cứ trên quy định về chức năng, nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội của
MTTQ Việt Nam để phân tích, đánh giá và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của hoạt động này tại MTTQ Thành phố Đà Nẵng.
Luận văn thạc sĩ "GS& PBXH của MTTQ của Huyện Châu Thành, tỉnh
Tiền Giang" thực hiện năm 2018 tại Học viện Khoa học xã hội- Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam. Nội dung nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các văn bản


liên quan đến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước
về GS&PBXH của Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện Châu Thành, tỉnh Tiền
Giang; tìm hiểu thực trạng hoạt động GS& PBXH của Ủy ban MTTQ Việt Nam
huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang; Yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động
GS& PBXH của Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
Ngoài ra, cịn có các bài viết đăng trên các Tạp chí chuyên ngành như:
Hoàng Minh Hội (2014), “Thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân
đối với cơ quan HCNN ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị”, Tạp chí Khoa
học Đại học Quốc gia Hà Nội số 2/2014;

Nguyễn Văn Pha (2016), “Để MTTQ Việt Nam thực hiện tốt vai trò giám
sát và phản biện xã hội”, Tạp chí Xây dựng Đảng số 1+2/2016.
Ngơ Thị Khánh (2019) "Tăng cường hoạt động giám sát, phản biện xã
hội của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, số 11-2019.
Trong những năm qua, chủ đề GS & PBXH đã thu hút sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu, hệ thơng các bài viết, cơng trình nghiên cứu hoạt động
GS&PBXH của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể CT - XH đa dạng và phong
phú hơn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có luận văn nghiên cứu nào đề cập chuyên
sâu, về hoạt động GS&PBXH của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nói chung và của
Đồn Thanh niên quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng nói riêng. Chính vì vậy, kế
thừa những kết quả nghiên cứu trên, luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động
GS&PBXH của các tổ chức CT - XH khác để làm sáng tỏ thực trạng hoạt động
GS&PBXH, các kết quả đạt được và hạn chế, bất cập, cũng như chỉ ra các yếu tố
ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động GS&PBXH của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Đồng thời, có thể khẳng định đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu của đề
tài này không có sự trùng lắp với những nghiên cứu trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

+ Mục đích nghiên cứu:


Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động GS&PBXH của Đồn TNCS
Hồ Chí Minh, đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hoạt động GS&PBXH của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động GS&PBXH của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng về hoạt động GS& PBXH của
Đồn TNCS Hồ Chí Minh, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, từ đó rút ra

những kết quả và hạn chế cũng như những nguyên nhân.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp tăn gcường GS& PBXH của Đồn
TNCS Hồ Chí Minh quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

+ Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động GS& PBXH của Đồn
TNCS Hồ Chí Minh.
+ Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động GS& PBXH của Đồn TNCS Hồ Chí Minh, tập trung vào thực
tiễn ở quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, từ năm 2014 đến năm 2019
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được vận dụng để nhìn nhận, đánh
giá và đúc kết những vấn đề có tính ngun tắc, tính đặc thù trong cơng tác GS&
PBXH của Đồn TNCS Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, các lý thuyết về chính sách cơng, về khoa học quản lý, tổ
chức nhà nước, quan điểm, đường lối của Đảng và hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật của Nhà nước về GS& PBXH của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, được
vận dụng để nhìn nhận vấn đề nghiên cứu trong thực tiễn một cách rõ ràng hơn.


Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã
hội như tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, tổng kết kinh nghiệm để thực
hiện đề tài nghiên cứu của mình.
6. Ý nghĩa của luận văn

Góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về GS&PBXH; đề xuất
các giải pháp nhằm tăng cường GS& PBXH của Đồn TNCS Hồ Chí Minh.

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu
quả công tác GS& PBXH của các tổ chức CT-XH cũng như tại các chương trình,
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng liên quan đến công tác tổ chức và hoạt động của hệ
thống bộ máy HCNN.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3
chương:
Chương 1.Cơ sở lý luận về GS&PBXH của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Chương 2. Thực trạng GS&PBXH của Đồn TNCS Hồ Chí Minh quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Phương hướng và giải pháp tăng cường GS&PBXH của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA ĐỒN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
1.1. Các khái niệm cơ bản về giám sát và phản biện xã hội của Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
1.1.1. Khái niệm về giám sát và giám sát xã hội
1.1.1.1. Khái niệm giám sát

Hiện nay có nhiều quan niệm và cách lý giải về giám sát. Có quan niệm cho
rằng, giám sát (supervison) là việc theo dõi từ bên ngoài đối với một chủ thể
trong việc thực thi một nhiệm vụ nào đó, là sự theo dõi thường xuyên và liên tục
hoạt động của một đối tượng nhất định để ngăn ngừa các vi phạm. Giám sát còn
được hiểu là “sự theo dõi, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ”, là sự theo dõi,
quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác

động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng
chịu giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã
được xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh.
Trong cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của
Đảng”, đã nêu rõ: “Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá
nhân, tổ chức, cộng động người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác
trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện Hiến pháp,
phát luật, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, các quyền
lợi, nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức CT - XH và kiến nghị phát huy, ưu
điểm, thành tựu, xử lý đối với cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái”[8].
Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về việc ban hành Quy chế GS& PBXH của MTTQ Việt Nam và các đồn thể
CT - XH cũng giải thích rõ:


“Giám sát là việc theo dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm
tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công
chức, viên chức nhà nước về việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước"[2]
Như vậy, có thể hiểu giám sát có những nội dung cơ bản: là một dạng
quyền lực nhà nước; là q trình theo dõi, quan sát, phân tích, nhận định về hành
vi của đối tượng bị giám sát xem có vi phạm những chuẩn mực của chủ thể
quyền lực hay khơng, để có những tác động điều chỉnh đối tượng thực hiện đúng
các yêu cầu chuẩn mực mà chủ thể quyền lực đề ra.
Giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động được
thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu quả tốt nhất trong điều kiện có thể, theo
chương trình, kế hoạch đã đề ra. Giám sát được tiến hành một cách khách quan,
độc lập, chuyên nghiệp và được thực hiện bởi một lực lượng khác, độc lập, ngoài
chủ thể tiến hành hoạt động ấy.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu: Giám sát là sự theo dõi, quan sát

hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động
bằng các biện pháp tích cực để bắt buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu
sự giám sát đi đúng quỹ đạo, đúng quy chế nhằm giới hạn quyền lực, bảo đảm
cho pháp luật được tuân thủ nghiêm minh.
1.1.1.2. Giám sát xã hội

GSXH (social supervison) là hoạt động giám sát việc thi hành đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với người được
giao thực thi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật đó, có nghĩa là phải
giám sát từ chủ trương tới quá trình thực hiện và kết quả đạt được.
Q trình tổ chức GSXH phải bảo đảm tính trung thực, tính khoa học, tính
khách quan và thiết thực. Muốn thực hiện giám sát có hiệu quả, thiết thực, cần
phải có cơ chế giám sát.


Hoạt động giám sát được thực hiện bằng hai loại chủ thể: (1) Hoạt động
giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước; (2) Hoạt động giám sát của chủ thể xã
hội (ngoài nhà nước). Các chủ thể giám sát ngồi nhà nước gồm có các đảng
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí, cơng dân. Đảng cầm quyền
khơng được coi là chủ thể GSXH vì đảng cầm quyền là chủ thể xây dựng nên cơ
cấu tổ chức bộ máy và trực tiếp lãnh đạo nhà nước. Hoạt động giám sát của đảng
cầm quyền là công cụ để đảng ngăn ngừa và hạn chế đảng viên vi phạm Điều lệ
đảng, các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng nhằm mục đích duy trì và bảo vệ
quyền lực nhà nước của mình, tức là duy trì và bảo vệ vị trí cầm quyền của đảng.
Như vậy đảng cầm quyền luôn gắn liền với nhà nước do đảng lập nên và trực
tiếp lãnh đạo. Vì thế, khơng thể xem đảng cầm quyền là chủ thể đứng ngoài nhà
nước. Đảng cầm quyền cũng như nhà nước là đối tượng của GSXH và hoạt động
giám sát của đảng không được coi là GSXH.
Sự phân biệt GSXH với giám sát mang tính quyền lực cơng ở chỗ:
GSXH là hình thức giám sát khơng mang tính quyền lực nhà nước. GSXH

khơng thực hiện quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm trực tiếp các đại biểu dân cử
nhưng lại có thể gây áp lực xã hội lên các chủ thể quyền lực để điều chỉnh các
quyết định, chính sách.
Về bản chất, GSXH là hình thức giám sát có sự tham gia rộng rãi của tồn
xã hội mà nịng cốt là một số tổ chức của nhân dân, do nhân dân lập nên và ủy
nhiệm. Vì thế, nội dung, hình thức, phạm vi GSXH được phân biệt với giám sát
của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân các cấp; với công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng với tư cách là những hình thức giám sát chun nghiệp (có sự phân
cơng và theo quy trình, phương pháp nhất định) mang tính quyền lực. Phương
thức của GSXH được thực hiện trước tiên, thông qua các tổ chức CT - XH rộng
lớn của nhân dân (MTTQ Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội
nghề nghiệp...), bằng hình thức giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp của mỗi cơng
dân. Mục đích của GSXH khơng phải là tạo ra sự đối lập giữa dân chúng với nhà


nước và hệ thống chính trị. Trái lại, GSXH là sự bổ sung quan trọng, khách quan
cho những hình thức giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và của hệ thống
chính trị. Nhờ đó, khơng chỉ hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước mà tồn xã hội
có được sự đối trọng, cân bằng cần thiết để nó được tổ chức và vận hành theo
hướng khoa học và hiệu quả hơn.
Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra khái niệm:
Giám sát xã hội là hình thức giám sát của các chủ thể ngoài nhà nước gồm
các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí – truyền thông và công dân đối với tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm bảo đảm có được sự đối trọng,
cân bằng cần thiết để nó được tổ chức và vận hành theo hướng khoa học và hiệu
quả hơn trong thực thi quyền lực của nhân dân.
1.1.2. Khái niệm phản biện và phản biện xã hội
1.1.2.1. Phản biện

Theo Đại từ điển tiếng Việt (2013), “Phản biện là việc xem xét, đánh giá

chất lượng một cơng trình khoa học trước hội đồng chấm thi nghiệm thu đề tài”
hay là “đánh giá chất lượng một cơng trình hoa học khi cơng trình được đưa ra
bảo vệ để lấy học vị trước hội đồng chấm thi"[24].
Theo cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng”, thì “Phản biện là nhận xét, đánh giá, bình luận,
thẩm định cơng trình khoa học, dự án, đề án trong các lĩnh vực khác nhau"[8].
Những diễn đạt khác nhau trên đây, chung quy lại đều đồng nhất
ở điểm: Phản biện là hoạt động của một chủ thể (cá nhân hay tổ chức) nhằm
thẩm định, đánh giá chất lượng hay giá trị khoa học của một sản phẩm khoa học
của cá nhân hay tổ chức khác. Hoạt động phản biện diễn đạt mối quan hệ hai
chiều: một bên là chủ thể phản biện và bên kia là đối tượng phản biện.
Nội dung phản biện là sản phẩm khoa học (gồm cơng trình, phát minh, đề án,
cơng trình nghiên cứu, luận văn, luận án, đề tài khoa học...). Trách nhiệm của chủ


thể phản biện là phải đưa ra những lý lẽ, cơ sở khoa học để luận chứng cho việc
đánh giá, nhận xét, xác định giá trị của sản phẩm khoa học.
Từ đó có thể hiểu: Phản biện là sự phản hồi ý kiến có biện luận của tổ chức,
cá nhân về một vấn đề gì đó nhằm đồng ý nó, hoàn thiện hoặc bổ sung để hoàn
thiện hoặc bác bỏ vấn đề đó.
1.1.2.2. Phản biện xã hội

Khái niệm PBXH (social criticism) được nhiều người xây dựng và mở rộng
trên cơ sở nội hàm của khái niệm phản biện.
Tác giả Hồ Bá Thâm và Nguyễn Tôn Thị Tường Vân, cho rằng: “PBXH là
sự phản biện nói chung của nhân dân và các tổ chức CT - XH về nội dung,
phương hướng, chủ trương, chính sách, pháp luật, giải pháp phát triển kinh tế xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, môi trường, trật tự an
ninh... ảnh hưởng đến toàn xã hội của Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan
ban hành nhằm mục tiêu phát triển” [22, tr.21].
Theo cách giải thích của các tác giả Ngô Văn Du – Hồng Hà – Trần Xuân

Giá, PBXH cũng được xây dựng trên nội hàm của khái niệm: “Phản biện xã
hội là sự phản biện nói chung, nhưng có quy mơ và lực lượng rộng rãi hơn
của xã hội, của nhân dân và các nhà khoa học"[22].
Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về việc ban hành Quy chế giám sát và PBXH của MTTQ Việt Nam
và các đoàn thể CT - XH cũng giải thích rõ: “PBXH là việc nhận xét, đánh giá,
nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước”.
Đồng thời cũng chỉ rõ mục đích, tính chất của giám sát và PBXH là: Giám
sát nhằm góp phần xây dựng và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết
điểm, yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát


hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Phản biện xã hội nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa
đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước;
kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp
với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của Nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể khái niệm: PBXH là q trình xem xét, phân
tích, lập luận để đi đến nhận thức chân lý, tức là nhằm phân định sự đúng - sai
một vấn đề nào đó; PBXH nhằm làm cho các quyết sách của cơ quan công
quyền đáp ứng được lợi ích chung của cộng đồng xã hội; mục đích của PBXH là
hướng đến đề xuất, tư vấn cho cơ quan có thẩm quyền lựa chọn, quyết định chủ
trương, chính sách, đề án có sự hợp pháp và hợp lý tối đa.
1.1.3. Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh


Điều lệ Đồn khẳng định: “Đồn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính
trị-xã hội của thanh niên Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện"[13]. Do vậy, Đồn TNCS Hồ
Chí Minh có những tính chất như sau:
Tính chính trị: Đồn TNCS Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Mục đích lý tưởng của
Đồn là phấn đấu theo mục đích lý tưởng của Đảng. Đoàn là người kế tục trung
thành sự nghiệp cách mạng của Đảng; là đội dự bị tin cậy của Đảng và là tổ chức
chính trị gần Đảng nhất. Đồn là một tổ chức CT - XH của thanh niên, là tổ chức
cộng sản trẻ tuổi, là thành viên của MTTQ Việt Nam.
Tính tiên tiến: Tính chất này thể hiện ranh giới để phân biệt đoàn viên và
thanh niên, giữa tổ chức Đoàn với các tổ chức khác của thanh niên; thể hiện bản
chất, tư tưởng của Đồn, đó là vai trị của một đội qn xung kích cách mạng.


Tính quần chúng: Đồn là một tổ chức CT - XH của thanh niên. Đồn có
nhiệm vụ đồn kết tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên để giáo dục rèn luyện
thanh niên tiến bộ trưởng thành và tổ chức các phong trào hành động cách mạng
trong thanh niên.
Đồng thời, Đồn TNCS Hồ Chí Minh có 3 chức năng cơ bản:
- Đoàn là Đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ

cho Đảng, Nhà nước và các ngành. Đồn ln ln xác định nhiệm vụ của mình là
đội qn xung kích cách mạng tích cực tham gia xây dựng Đảng và là người kế tục
trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
- Đồn là Trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, tạo môi trường đưa

thanh niên vào các hoạt động giúp học tập rèn luyện và phát triển nhân cách, năng

lực của người lao động mới phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay.
- Đoàn là Người đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tuổi

trẻ.Chức năng này khẳng định rõ tổ chức Đồn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức
của thanh niên, vì thanh niên.
Là thành viên trong hệ thống chính trị, hoạt động trong khn khổ Hiến
pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.Trong hệ
thống này Đảng là người lãnh đạo, Đoàn là một trong các tổ chức thành viên.
Đối với Đảng: Đoàn là hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, là
đội dự bị tin cậy của Đảng, nguồn cung cấp cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ chính
trị của Đảng.
Đối với Nhà nước: Đồn là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đoàn phối
hợp với các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể và tổ chức xã hội chăm lo giáo dục,
đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi.
Đối với các tổ chức xã hội của thanh niên và phong trào thanh niên: Đồn
giữ vai trị làm nịng cốt chính trị trong việc xây dựng tổ chức và hoạt động của


Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam, Hội Doanh nghiệp
trẻ Việt Nam và các thành viên khác của Hội.
Đối với Đội TNTP Hồ Chí Minh: Đồn giữ vai trị là người phụ trách Đội
và có trách nhiệm xây dựng tổ chức Đội, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
làm công tác thiếu nhi, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tài chính cho hoạt động
của Đội.
Đồn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ và được tổ chức thành hệ thống Đoàn gồm 4 cấp: Cấp Trung ương; Cấp
tỉnh và tương đương; Cấp huyện và tương đương; Cấp cơ sở (gồm Đoàn cơ sở và
chi đồn cơ sở).
1.2. Đặc điểm chính trị - pháp lý về hoạt động giám sát và phản biện


xã hội của Đồn TNCS Hồ Chí Minh
1.2.1. Đặc điểm chính trị- pháp lý về hoạt động giám sát và phản biện

xã hội
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám -1945, lập nên nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ bản chất của Nhà nước Việt
Nam là: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân. Cơng việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến
Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên"[16]. Cốt lõi tư tưởng nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh là quyền
lực chính trị thuộc về Nhân dân. Nhân dân ủy thác quyền đó cho Nhà nước thông
qua bầu cử, bầu ra những người đại diện cho Nhân dân vào các cơ quan Nhà
nước để quản lý và điều hành xã hội. Hồ Chí Minh kêu gọi: “...Chính phủ rất
mong đồng bào giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trọn nhiệm vụ
mình là người đầy tớ trung thành và tận tụy của nhân dân"[17].
Thuật ngữ “giám sát và phản biện xã hội” đã được chính thức đưa vào Văn
kiện Đại hội lần thứ X của Đảng (2006): "Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt


trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và PBXH…"[10];
Và khái niệm giám sát và PBXH được sử dụng trong Văn kiện Đại hội X: giám
sát và PBXH là phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, ý thức trách
nhiệm của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước; nhân dân khơng chỉ
có quyền mà cịn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thực thi chính sách của
Nhà nước. Giám sát và PBXH là nhu cầu tất yếu và địi hỏi bắt buộc của q
trình lãnh đạo và điều hành đất nước.
Đến Đại hội XI (2011), Đảng ta thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển), cũng khẳng định:

"MTTQ và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức…; thực hiện dân
chủ, giám sát và PBXH…"[11].
Vấn đề giám sát và PBXH đến Hiến pháp năm 2013 đã được ghi rõ tại
Khoản 1, Điều 9: ''...MTTQ Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền Nhân
dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập
hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội; giám sát, PBXH; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước,
hoạt động đối ngoại Nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[15].
Trên cơ sở những văn bản pháp lý quan trọng, ngày 12/12/2013, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng ra Quyết định 217-QĐ/TW ban hành Quy chế giám sát
và PBXH của MTTQ Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội, Quy chế nêu
rõ: “Giám sát và PBXH là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối
với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước"[2].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“MTTQ và các đoàn thể nhân dân tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân, thực hiện dân chủ, giám sát, PBXH; tăng cường đồng thuận xã hội;
tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại Nhân dân góp phần
tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc"[12].


Như vậy, qua sự phân tích trên có thể thấy rõ quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về vấn đề giám sát và PBXH, coi đây là vấn đề hết sức quan trọng, là
nhân tố góp phần phát huy, mở rộng dân chủ, khơi dậy ý thức trách nhiệm của
tồn xã hội dưới hình thức tham gia vào các tổ chức đồn thể chính trị xã hội để
được thể hiện quan điểm, ý kiến, phản biện, đóng góp vào xây dựng chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, giúp nhìn nhận, đánh giá và khắc
phục được hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm của các chính sách hiện nay. Hiện
nay, ở Việt Nam chưa có Luật Giám sát và PBXH nên chưa có những chế tài cụ
thể. Những căn cứ pháp lý cho hoạt động GS&PBXH mới chỉ

ở quan điểm, chủ trương, quy định, quy chế.
1.2.2. Cơ sở chính trị- pháp lý về hoạt động giám sát và phản biện xã

hội của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Ngồi những cơ sở CT-PL chung về hoạt động GS& PBXH như đã
phân tích ở mục trên thì hoạt động GS& PBXH của Đồn TNCS Hồ Chí Minh
cũng được thực hiện dự trên những quy định như:
Điều 16, Luật Thanh niên 2005 quy định[20]: Quyền và nghĩa vụ của thanh
niên trong quản lý nhà nước và xã hội:
1. Nâng cao ý thức công dân, chấp hành pháp luật, góp phần xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
2. Được ứng cử, đề cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp theo

quy định của pháp luật; được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị với cơ quan,
tổ chức về những vấn đề mà mình quan tâm; tham gia góp ý xây dựng các chính
sách, pháp luật liên quan đến thanh niên và các chính sách, pháp luật khác.
3. Tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp

luật của Nhà nước.
Theo quy định của Điều 16, có đề cập tới quyền được bày tỏ ý kiến,
nguyện vọng, kiến nghị với cơ quan, tổ chức về những vấn đề mà mình quan
tâm; tham gia góp ý xây dựng các chính sách, pháp luật liên quan đến thanh niên


và các chính sách, pháp luật khác. Tuy nhiên, quy định ở Luật này về việc giám
sát và PBXH của thanh niên là chưa rõ ràng, cụ thể và cũng chưa quy định cụ thể
thực hiện chức năng giám sát và PBXH thơng qua tổ chức chính thức của thanh
niên là Đồn TNCS Hồ Chí Minh.
Luật Thanh niên 2005, sau 13 năm thực hiện kể từ ngày Luật có hiệu lực

cho thấy việc ban hành Luật Thanh niên đã tạo cơ sở pháp lý cho việc chăm lo,
giáo dục, bồi dưỡng và phát huy thanh niên; tác động tích cực đối với phong trào
thanh niên; đồng thời phát huy vai trò của tổ chức thanh niên, đặc biệt là vai trị
trong hoạt động GS&PBXH.
Cịn hiện nay, Đồn TNCS Hồ Chí Minh đang thực hiện chức năng giám
sát và PBXH căn cứ trên Quyết định 217-QĐ/TW ban hành Quy chế giám sát và
PBXH của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội[2]. Điều 4, Quy
chế nêu rõ: Chủ thể giám sát và phản biện xã hội:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể CT - XH từ Trung ương đến
cơ sở, bao gồm: MTTQ Việt Nam, Cơng đồn Việt Nam, Hội Nơng dân Việt
Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Đồn
TNCS Hồ Chí Minh.Như vậy, Đồn TNCS Hồ Chí Minh, là một chủ thểgiám sát
và phản biện xã hội.Đồng thời, quy định rõ:
“Giám sát” là việc theo dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm
tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công
chức, viên chức nhà nước về việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
“Phản biện xã hội” là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị
đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước.
“Giám sát và phản biện xã hội” là giám sát và phản biện của MTTQ Việt
Nam và các đồn thể chính trị - xã hội.


Bên cạnh đó, với vai trị là một tổ chức thành viên của MTTQ Việt Nam,
Đồn TNCS Hồ Chí Minh cũng tuân thủ quy định về chức năng GS&PBXH của
MTTQ Việt Nam.
Về Phản biện xã hội, là việc Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp trực tiếp
hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhận xét,
đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn bản pháp luật, quy

hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án (sau đây gọi chung là dự thảo văn
bản) của cơ quan nhà nước.
Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội, khách
quan, khoa học, xây dựng, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn
đời sống xã hội và tính hiệu quả của văn bản; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của Nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.
Hoạt động PBXH được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai,
minh bạch, bảo đảm sự tham gia của thành viên, hội viên, đồn viên và Nhân
dân; tơn trọng các ý kiến khác nhau nhưng không trái với quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc.
Theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc quy định của
pháp luật, các tổ chức chính trị - xã hội chủ trì giám sát và phản biện xã hội đối
với đối tượng, nội dung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này có liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đồn viên, hội viên,
quyền và trách nhiệm của tổ chức mình.
Các tổ chức thành viên khác phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam thực
hiện giám sát và phản biện xã hội đối với đối tượng, nội dung quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều này có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đồn viên, hội viên, quyền và trách nhiệm của tổ chức mình.


×