Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

truyện kiều của nguyễn du và kim vân kiều truyện của thanh tâm tài nhân là hai tác phẩm na ná như nhau truyện kiều của nguyễn du và kim vân kiều truyện của thanh tâm tài nhân là hai tác phẩm na ná như

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.63 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là hai tác phẩm na
ná như nhau. Hiện tượng ấy không phải là khơng gây phiền tối, nhất là với Nguyễn Du. Nếu
không vượt được tác phẩm xuất hiện từ trước, nó chỉ cịn là sự mơ phỏng. Khá hơn chút nữa, giá
trị cũng chỉ còn là sự trau chuốt, gia cơng, cho dù ở đây có sự chuyển đổi ngơn ngữ và thể loại.
Cảm giác "nhuận sắc" này dễ có ở nơi người đọc đã đành mà tác giả Truyện Kiều phải đối mặt
với khơng ít khó khăn. Có lẽ, do ý thức được khó khăn này - cái khó là tránh cho người đọc hiểu
rằng đây chỉ là một sự chuyển dịch ngôn ngữ đơn thuần - mà tác phẩm của Nguyễn Du như một
sự chỉ dẫn để không mang một cái tên đơn. Truyện Kiều là tên thường gọi căn cứ vào hình tượng
của nhân vật trung tâm ; còn ý đồ sáng tạo của Nguyễn Du có lẽ gửi vào cái tên chính, tên gốc
là Đoạn trường tân thanh. "Đoạn trường" (đứt ruột) là nguyên nghĩa của Kim Vân Kiều truyện.
Còn "tân thanh" (tiếng kêu mới) là sự nâng cấp thăng hoa. Dấu vết của "cổ thư" vì vậy khơng
phải là khơng có, nhưng nó chỉ cịn là dáng dấp, một thứ hồi ức xa xăm, nó thuộc về quá khứ.
Thay thế cho những ấn tượng mờ nhoè dễ lẫn ấy là một hệ thống cốt truyện mà Nguyễn Du có
thêm bớt với nền của bức tranh bằng độ đậm nhạt, sáng tối khác đi để từ đó một thế giới nhân
vật hiện lên vừa đa dạng, vừa rõ nét, mới mẻ đến ngạc nhiên. Thành công đột xuất này phải nhờ
vào tài năng khắc họa, vào nghệ thuật dẫn truyện, vào sự tinh tế của ngôn ngữ văn chương của
nghệ sĩ thiên tài - nghĩa là một bản lĩnh. Bản lĩnh ấy truyền cho tác phẩm một linh hồn, một
thông điệp nghệ thuật và tư tưởng với những hàm nghĩa nhiều tầng, chủ yếu là trên các khía
cạnh sau đây.


1.Một tiếng kêu thương
2.Một tiếng thét phẫn nộ
3."Truyện Kiều" - một giấc mơ


4.Phân tích Nghệ thuật của Truyện Kiều
1. "Truyện Kiều" - một tiếng kêu thương


Truyện Kiều trước hết và chủ yếu là một tiếng kêu thương, tiếng kêu đứt ruột cho một mà cũng
là cho mọi số kiếp bị đọa đày. Chủ đề "hồng nhan bạc mệnh" ta đã từng gặp và đã quen gặp
không chỉ trong văn học trung đại nước ta mà cả ở văn học phương Đông, đặc biệt là văn học
Trung Quốc. Vậy thì có gì mới ở nội dung của tiếng kêu thương ? Thật ra, ngay từ Văn tế thập


loại chúng sinh, khi khóc thương cho bao nhiêu cuộc đời bất hạnh, tuy không thể dừng lâu trước
một hệ thống nạn nhân, nhà thơ đã lưu ý người đọc về một hạng người - hạng người "buôn
nguyệt bán hoa". Cũng như với các hạng người khác, Nguyễn Du có tiếng khóc riêng ; nhưng
tiếng khóc về hạng người "nhỡ nhàng một kiếp" trong sự xót tủi có cái cay đắng đến ngỡ ngàng.


Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai ?


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Có thể nói, Nguyễn Du đã khơng giải thích được điều oan nghiệt này( "Cổ kim hận sự thiên nan
vấn" - Độc Tiểu Thanh kí), nhưng về trực giác, ơng đã nhận ra quy luật phũ phàng đã và còn
đang tác động lên từng con người cụ thể. Con người ấy là nàng Kiều. Kiều đại diện cho cái đẹp
toàn vẹn, cái đẹp tối đa, trước hết là nhan sắc. Để khắc hoạ chân dung này, dù là với bút pháp
ước lệ chứ chưa phải là tả thực, nhà thơ đã để lại nhiều ấn tượng sâu đằm trong tâm trí chúng
ta. Một phương diện khắc hoạ này là nhà thơ đã đưa Thuý Vân ra làm đối sánh. Nhan sắc của
Vân nếu đẹp thì cũng chỉ ở mức "khả ái" đáng yêu, còn ở Thuý Kiều dứt khoát là hơn Vân một
bậc. Liễu phải hờn giận, hoa phải ghen ghét, cái đẹp "tót vời" tạo ra bao nhiêu đố kị. Có nhan
sắc đã quý, thêm tài năng, nhan sắc càng lộng lẫy, kiêu sa. Sắc và tài ấy chung quy cũng là cái
tình. Sự "sắc sảo mặn mà" của Kiều là cái tình đời luôn dào dạt, thiết tha, luôn quan tâm đến mọi
buồn vui của con người và cuộc sống. Trước một nấm mồ vô chủ, mọi người đi qua nhưng Kiều
dừng lại. Khơng chỉ hỏi han, nàng cịn nhỏ lệ. Khóc người mà thương mình, thương người như
thương mình, sự chân thành ấy đã động thấu đến người nằm dưới mộ. Đạm Tiên dù sao cũng là
một người xa lạ, mà tình cảm của Kiều cịn thế nói gì đến cha và em. Nếu chỉ vì hiếu, nghĩa, Kiều
chưa hẳn đã bán mình. Sức mạnh khiến nàng kiên quyết và chủ động "Dẽ cho để thiếp bán mình
chuộc cha" phải là một tình thương. Tình thương ấy lên tới đỉnh cao : thương người hơn thương
mình mới dám hành động như thế. Rồi sau đó, trong mười lăm năm lưu lạc, bao nhiêu lần Kiều
nhớ nhà là bấy nhiêu lần nỗi nhớ đi liền với niềm thương cứ trào lên khiến người đọc chúng ta
không dễ cầm nước mắt. Nhưng rốt cuộc,tài và tình ấy, bơng hoa vơ giá của cuộc đời ấy lại chính
là nguyên nhân tiền định dẫn đến nỗi "kì oan" là có tên trong sổ đoạn trường. Sở dĩ Thuý Kiều bị
đày đoạ, theo nhà sư Tam Hợp thì :



Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình


Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.


Hố ra tài sắc là vơ dun, tình là tội lỗi. Xã hội cũ đã khơng chấp nhận sự thái q, sự hồn
chỉnh trong cá tính con người, nhất là con người có ý thức và tự nhận thức được bản thân. Kiều
phải nhận lấy biết bao oan ức xót xa cũng vì lẽ đó : tình yêu tưởng như đã cầm nắm được trong
tay bỗng nhiên bị cướp mất; muốn được sống trong trinh bạch nhưng phải tiếp khách làng chơi ;
vế với Thúc Sinh thì bị Hoạn Thư hành hạ ; gắn bó với Từ Hải thì bị Hồ Tơn Hiến đánh lừa. Có
đến hai lần Kiều muốn quyên sinh nhưng lại không sao chết được, đau đớn như phận con kiến
bị trong chảo nóng, muốn thốt ra mà khơng có cách nào thốt được. Kiều bị hành hạ bởi nỗi
đau gặm nhấm suốt đoạn đời lưu lạc. Kiều đã khơng cịn là mình. Nói cho thật đúng thì cũng có
lúc Kiều được đối diện với chính mình nhưng thật hiếm hoi và cũng thật thấm thía. Ví dụ ở chốn
lầu xanh lần thứ nhất :


Khi tỉnh rượu lúc tàn canh


Giật mình mình lại thương mình xót xa.


Sau mười lăm năm, khi đã sum họp với gia đình, đồn tụ với chàng Kim, mỗi khi phải nhắc đến ,
nàng khơng khỏi "giật mình" mà "xót xa" cho thân phận khơng chỉ một lần. Đó cũng là một cách
tổng kết cuộc đời thông qua chiêm nghiệm bản thân. Đó là một cách tổng kết sâu sắc nhất,
thuyết phục nhất.


2.Truyện Kiều - một tiếng thét phẫn nộ


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nhưng trái tim nhà thơ có một cách "giải mã" riêng nhờ vào trực giác và vốn sống. Khả năng này
ở nhà thơ khá mạnh. Do vậy, những thế lực chà đạp con người, nhất là những con người tài hoa,


nhà thơ có thể chỉ trán gọi tên. Và trên phương diện miêu tả nhân vật, đặc biệt là nhân vật phản
diện, ngòi bút Nguyễn Du như có thần, khơng một tác phẩm văn chương đương thời nào sánh
nổi. Bọn chúng dù khơng có quan hệ cụ thể với nhau nhưng lại tồn tại như một hệ thống, những
mắt xích của một sợi dây chuyền để tạo ra một thứ thiên la địa võng. Trong số ấy có qn bn
thịt bán người, bọn đầu trâu mặt ngựa, lũ sai nha bắng nhắng, kẻ mũ cao áo dài đại diện cho
công lý kĩ cương. Cách miêu tả của nhà thơ không phải là "vơ đũa cả nắm". Bởi thực ra trong đó
vẫn cịn những con người khơng hẳn đã xấu xa. Đó là những lương tâm ít nhiều cịn trong sạch,
như ả Mã Kiều trong nhà chứa, mụ quản gia của Hoạn Thư, viên quan xử án vụ Thúc Sinh vượt
quyền cha lấy vợ lẽ, một vãi Giác Duyên tuy tu hành thoát tục nhưng vẫn biết cưu mang, cứu vớt
những số phận oan khổ , trầm luân. Còn lại số đông rất đáng hỏi tội, như nàng Kiều đã có lần
nhờ vào thanh gươm của Từ mà hỏi tội. Bản chất con buôn, biến người thành một thứ hàng thì
khơng một ai đóng vai đạt như tên giám sinh họ Mã. Hắn bẻm mép và trai lơ nhưng lại tự lột mặt
nạ bằng hành vi giao tiếp "trước thầy sau tớ" hỗn độn kiểu "cá đối bằng đầu", nhất là ti tiện "Cò
kè bớt một thêm hai" để mua rẻ một thứ hàng vô giá chắc mẩm là có lãi mười mươi. Nhân vật
bẩn thỉu này lẽ ra khơng đáng có mặt trong đời Kiều. Nhưng vì có tiền , hắn lại có thể múa may
nhảy nhót "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng" để phán quyết. Tú Bà bày mưu bắt Kiều tiếp khách đã nhờ
đến sự lì lợm, tráo trở của Sở Khanh. Bọn này mất hết cả nhân tính lẫn nhân hình. Sở Khanh phải
đeo mặt nạ giả, cịn nếu khơng, như bộ mặt thật của Tú Bà, khơng ai nhìn được. Th Kiều lần
đầu nhìn thấy đã khơng khỏi ngạc nhiên vì sự phì nộn, nhất là vì cái màu da như da người chết
của mụ. Cái đắc chí của mụ là cái đắc chí hèn mọn của kẻ tiểu nhân. Khi bắt được Kiều bỏ trốn ,
y thật lòng hả dạ :


Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra
Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.


Chứng kiến một bông hoa non nớt và trinh bạch là nàng Kiều lần đầu tiên phải chịu cảnh "Uốn
lưng thịt đổ dập đầu máu sa", mụ đâu có một chút mủi lịng. Nếu khơng có sự cầu xin của Kiều,
nhất là câu "Phận tôi đã vậy vốn người để đâu" thì Tú Bà đâu có sực tỉnh để dễ bề buông tha.
Nhưng buông tha roi vọt để làm cái việc còn đớn đau hơn roi vọt là tiếp khách làng chơi, mụ đã
đạt được cái đích cuối cùng. Nhưng người đàn bà trong buổi báo oán sau này xếp hàng thứ nhất


không phải là Tú Bà, mà là vợ cả của Thúc Sinh, họ Hoạn. Điều này không phải ngẫu nhiên. Đối
với Tú Bà, Kiều biết người đó là ai (và đã một lần đánh được vào tâm lý). Cịn Hoạn Thư có mưu
chước khác vì con người y cũng khác. Trước con người này, Kiều bất lực trong sự đối phó. Chẳng
hạn như khi bắt Kiều hầu rượu :


Chước đâu có chước lạ đời


Người đâu mà lại có người tinh ma.


Kiều khơng kịp đề phịng, kể cả sau đó việc hàn hun tâm sự với Thúc Sinh, Hoạn Thư tạo tình
huống để lừa bắt quả tang. Lần thứ hai, Thuý Kiều thua cuộc. Nàng không khỏi thở dài mà kinh
hãi "Người đâu sâu sắc nước đời". Kiều đã nghĩ đúng, nghĩ đúng mà hoảng hồn về cái nơi "miệng
hùm nọc rắn". Thoát khỏi hai cạm bẫy là lầu xanh và nhà Hoạn Thư, đến được với Từ Hải, Kiều
như một người leo núi cần đến sự nghỉ ngơi. Trai anh hùng gái thuyền qun đã là một mơ hình
lý tưởng. Không dễ mấy ai hiểu và yêu Kiều - một cơ gái lầu xanh - như Từ Hải. Cịn với nàng
Kiều, có bao giờ hạnh phúc hiếm hoi lại đưọc che chở bằng một thanh gươm?


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hồ Tôn Hiến chẳng qua cũng chỉ là sự lọc lừa được nâng cấp, nó đánh vào lịng tin của một
người cả tin. Người cả tin ấy là nàng Kiều sau khi đã trải qua bao "gió dập sóng va", một kẻ lưu
lạc xa nhà với một quê hương đêm ngày tưởng nhớ. Nó lại nhân danh một quyền lực tối cao để
mà hứa hẹn. Mũi tên của Hồ Tơn Hiến đã nhằm vào trúng đích. Đó là Kiều, một con người tưởng
như đã từng trải, dạn dày, nhưng vẫn cịn một góc khuất ảo tưởng, ngây thơ. Bị trúng kế mà
khuyên Từ Hải ra hàng, nàng biết đâu đã đốt cháy không chỉ sự nghiệp của Từ mà đốt ln
những gì cịn sót lại - chút hi vọng của mình được nhen nhóm lên sau hàng chục năm trời lưu
lạc. Vì vậy, có lẽ chưa có cái đau đớn nào như lần này. Cũng vẫn là tiếng đàn, lần này gẩy lên
không chỉ "như khóc như than" mà đã là "bốn dây rỏ máu", bởi nó khơng cịn là xót xa mà đã
căm giận, ốn hờn. Vì ảo tưởng và ngây thơ mà Kiều đã giết Từ Hải và vơ hình chung cũng là tự
giết mình. Vì ảo tưởng ngây thơ mà nàng đã đặt tất cả niềm tin vào kẻ chức trọng quyền cao
nhưng lịng lang dạ sói, nham hiểm khôn lường. Sa sẩy lần này, Kiều không cịn có cách nào để
có thể đứng lên được nữa. Vì vậy mà cái đợi chờ nàng phía trước là "nấm mồ hồng nhan", là con


sông Tiền Đường mà Đạm Tiên đã hẹn hò từ mười lăm năm trước.


3. "Truyện Kiều" - một giấc mơ


Cảm hứng nhân văn bao trùm lên tư tưởng Truyện Kiều không chỉ thể hiện trên hai bình diện
trong đời thực là tiếng kêu thương hay tiếng thét phẫn nộ ; nó cịn ấp ủ những giấc mơ. Đây
chính là mặt sáng, nguồn ấm của cuộc đời, nhất là cuộc đời tăm tối. Trước hết là giấc mơ tình
yêu.


Thực ra trong khu vực truyện Nôm của một thế kỉ truyện Nôm, vấn đề này đã được đặt ra khá
táo bạo. Cùng với những Phan Trần, Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều của Nguyễn Du là
một sự nhập cuộc vào dòng chảy chung của một thời đại văn chương. Nhưng đồng thời, tác
phẩm của Nguyễn Du còn là sự nâng cấp, vươn tới một đỉnh cao, ít có tác phẩm đương thời nào
so sánh được. Không chỉ dừng lại ở một tình cảm nhất thời bồng bột, sự vượt lên của Truyện
Kiều là ở sức đi xa. Nó khơng chỉ diễn ra với độ dài suốt mười lăm năm lưu lạc mà còn là sự khơi
trong gạn đục tri âm. Tình yêu vững bền bởi nó vị tha hơn là vị kỉ. Chẳng hạn, Kiều khi gặp lại
Kim Trọng sau này, nàng đã nói " Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu
xa" ;nhưng với chàng Kim, nàng vẫn là trong sạch, bởi một người biết quyền biến " lấy hiếu làm
trinh" thì sự trong sạch ấy giống như bông sen "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Ý nghĩa
của câu "Hoa tàn mà lại thêm tươi" là sự nhìn nhận trên khía cạnh tinh thần ấy. Đây là cái nhìn
nhân văn, một cái nhìn vừa đúng, vừa sâu trong một xã hội khắt khe nhiều định kiến. Trước đó,
trong mười lăm năm lưu lạc, bao nhiêu lần nhớ tới cố hương là bấy nhiêu lần Kiều không quên
được cố nhân. "Dẫu lìa ngó ý cịn vương tơ lịng", câu thơ hiện thực hố, hình tượng hố một nỗi
niềm mảnh mai mà bền chắc. Còn với Kim Trọng, dù đã đỗ đạt và yên bề gia thất nhưng khoảng
thiếu hụt của đời chàng và lịng chàng vẫn là hình bóng người xưa. Vì vậy mà Kim Trọng khơng
lúc nào ngi n, chỉ muốn "Rắp mong treo ấn từ quan. Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua"
để đi tìm một thứ "bóng chim tăm cá". Mối tình ấy sở dĩ ln mãi xanh tươi vì nó bước qua cái
vịng cấm khắt khe lễ giáo, vì nó là mối tình đầu. Ngay từ buổi đầu gặp gỡ trong hội Đạp Thanh,
một tình u đã chớm nở. Để nói hộ cái tâm trạng xốn xang hồi hộp của "tình trong như đã" dù
hai người vẫn còn ý tứ, rụt rè, Nguyễn Du đã dùng một phác thảo thiên nhiên nói hộ. Vẫn là nhịp


cầu nho nhỏ như lúc gặp Đạm Tiên nhưng nó như đã có hồn. Chỉ thêm một chút bóng chiều với
dịu dàng tơ liễu, người và người đã man mác vấn vương. Sau này có lần Kiều chủ động đến với
Kim Trọng. Cuộc gặp lần ấy, với Kim Trọng, nó giống như một giấc chiêm bao và đẹp như trong
mộng. Rất giống với cuộc gặp ở Phan Trần : "Lan mừng huệ, huệ mùng lan. Ngọc quan khấp
khởi, từ nhan ngập ngừng", nhưng cô gái trong Phan Trần chưa thể làm cái việc như Kiều đã làm
"Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình". Phải nói tình u Kiều - Kim như một thứ rượu say
người, có sức quyến rũ tất cả những ai một lần đọc nó. Chẳng phải người xưa vì đứng trên lập
trường của bức tường lễ giáo, từng răn đe :


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều


Cùng với hạnh phúc lứa đôi là khát vọng công lý, khát vọng tự do. Trong bối cảnh cuộc đời cũ,
bao nhiêu bất công, oan khuất đè nặng lên bao kiếp người, nhất là những người lương thiện,
những kẻ tài hoa. Nếu chấp nhận nó bằng cách khoanh tay bất lực hay tự an ủi bằng mọi thứ
bùa mê thì cuộc sống đầy nghịch lý ấy đâu phải cuộc sống đích thực của con người. Chính vì vậy
mà thanh gươm của Từ Hải phải vung lên để bênh vực những thân phận "con sâu cái kiến". Cuộc
sống ấy cần đến thanh gươm ấy. Thanh gươm của Từ như một thứ tuyên ngôn về lẽ phải "Anh
hùng tiếng đã gọi rằng. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha". Vì vậy cịn gì vui hơn cuộc gặp
gỡ trùng phùng giữa Kiều và Từ Hải sau bao ngày xa cách. Ấy thế mà chỉ nghe qua nỗi oan
khuất của Kiều " Khi Vơ Tích khi Lâm Tri", cơn giận của Từ đã khơng sao kìm giữ nổi. Là hiện
thân của cơng lý, Từ không dừng lại ở sự cảm thông. Cần đến hành động để can thiệp,Từ đã
"nghiêm quân tuyển tướng" ra tay lập tức. Vượt lên quan hệ cá nhân, việc làm ấy có tính xã hội.
Buổi xử án diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, đặc biệt là trước khi báo oán, Kiều đã dõng dạc :


Nàng rằng: ***g lộng trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

cái ác cái xấu vẫn cứ mơ hồ, khơng rõ là ai. Đó là chưa nói đến những hạn chế khác trong nhận
thức của Nguyễn Du như vai trò của thần quyền, của Nho giáo, Phật giáo. Ngưỡng mộ, đồng tình
với nhan sắc, với tài hoa nhưng rồi chính Nguyễn Du lại phủ nhận nó. Nhan sắc là "vơ dun",


cịn tài hoa thì "Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần". Tuy vậy, xét đến cùng,
hạn chế tư tưởng trong Truyện Kiều cũng đồng thời là hạn chế của nhiều truyện Nơm nói riêng,
của văn chương trung đại nói chung. Đó là cái ngưỡng khơng ai có thể vượt qua, vì lịch sử chưa
có những tiên đề cho giải pháp.


4. Phân tích Nghệ thuật của Truyện Kiều


Trở lại điểm bắt đầu của Truyện Kiều là Kim Vân Kiều truyện. Kim Vân Kiều truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân thuộc thể loại tiểu thuyết viết bằng văn xuôi bạch thoại của Trung Quốc. Đề tài
của loại tiểu thuyết này là tài tử - giai nhân, thư sinh - kĩ nữ vốn đã thành truyền thống từ đời
Đường, phát triển mạnh trong thời Minh, Thanh. Khơng chỉ khn sáo, cơng thức về mơ típ
truyện, riêng về mặt tư tưởng, đó là sự dung hồ giữa nhu cầu bng thả tình cảm kiểu thị dân
với việc ngợi ca, khẳng định lễ giáo phong kiến. Ảnh hưởng đến Việt Nam trong đó có Truyện
Kiều, những mệnh đề mang tính xung đột như "tài mệnh tương đố", "hồng nhan bạc mệnh" là lẽ
đương nhiên. Song cái mới, cái sáng tạo của Nguyễn Du là trên các mặt sau đây.


Trước hết, từ một cuốn tiểu thuyết chương hồi (20 hồi) bằng văn xuôi của Trung Quốc, Nguyễn
Du đã tái tạo thành một truyện thơ của Việt Nam. Nếu tác phẩm chương hồi lấy những đoạn ,
những hồi làm cấu trúc tương đối chỉnh thể, độc lập với nhau thì Truyện Kiều là một truyện thơ
liền mạch. Nói đến sự "liền mạch" như thế khơng thể khơng nghĩ đến hai điều. Đó là sự nhào
nặn, thêm bớt tình tiết trên cơ sở lấy nhân vật làm trung tâm, và đó cịn là vai trò của người dẫn
truyện. Vai trò này tác động bằng giọng điệu, dù là ở một vị thế khách quan nhưng không phải
không ảnh hưởng tới người nghe, người đọc. Chính vì đứng về phía người nghe, người đọc mà
nhà văn tạo được cho tác phẩm một góc độ thẩm mỹ riêng, một quan hệ mới, những yếu tố thi
pháp văn xuôi hiện đại sau này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

đến đâu, nhà thơ vẫn truyền đưọc cái thần của nó. Ngay khi lược thuật diễn biến thời gian như
từ cuối hạ đến xuân - một năm vần xoay chuyển động, khó ai viết được hai câu :


Sen tàn, cúc lại nở hoa



Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.


Mỗi mùa một khác. Cả cái khác nhau trong sự giống nhau. Đó là trường hợp Nguyễn Du dùng từ
đồng âm khác nghĩa : "Phận rầu dầu vậy cũng dầu" hay "Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một
mình". Việc học tập và sử dụng ca dao trong Truyện Kiều cũng là một gợi ý cho các nhà thơ. Ở
đây, sự kế thừa và sáng tạo để nâng cao và tạo được một bản sắc riêng rất rõ. Từ câu ca dao "Ai
đi muôn dặm non sông. Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy", Nguyễn Du cắt đi và nén lại. Áp suất
ngôn từ vì thế mà tăng lên :


Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.


Nói cho thật đúng, sự sáng tạo này còn nhờ dựa vào kiến thức của thơ ca bác học. Hai nguồn
học vấn này tạo nên sự đặc sắc của văn chương. Ấy là chưa nói ngơn ngữ ấy vừa là của bút
pháp tự sự lại vừa là của bút pháp trữ tình, chưa nói đến thể thơ. Bởi vậy Truyện Kiều là một
kiến trúc vừa đồ sộ, vừa tinh vi. Nó là khối tồn bích đa chiều.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

“Truyện Kiều” từ trước tới nay vẫn được coi là một tác phẩm văn học


cổ điển ưu tú trong lịch sử văn học nước ta, được phổ biến rất rộng


rãi trong nhân dân. Dưới rất nhiều hình thức, như: lẩy Kiều, tập Kiều,


bói Kiều, đố Kiều… Gần 200 năm từ “Truyện Kiều” ra đời tới nay,


nhân loại đã tốn không biết bao nhiêu là giấy mực để bàn tới nó. Nói


chuyện “văn nghệ giữa đời thường”, chúng tôi xin phiếm đàm đôi nét


về THI – TỬU trong “Truyện Kiều”- Vốn là một đề tài từ trước tới nay


hình như rất ít người đề cập.



Cầm, kỳ, thi, tửu xưa nay, vốn là một thú tiêu khiển hào hoa của các


bậc tao nhân mặc khách. Nguyễn Du mượn hình tượng Vương Thúy


Kiều để giải bày tâm sự của mình.




Cứ như Nguyễn Du miêu tả, thì Thúy Kiều tài sắc vẹn tồn, có thể


làm xiêu thành đổ quách; nhưng dường như trong số kiếp đã ẩn sẵn


“một thiên bạc mệnh”. Chính vì vậy, khi tình yêu giữa nàng và chàng


Kim mới vừa chớm nở, họ đã lập tức thành tâm giao tâm đắc, tri kỷ


tri âm, cùng vịnh thơ với nhau, nâng bầu mời rượu với nhau. Ưu ái


cho tình yêu của đôi trai tài gái sắc, chỉ trong một ngày, Nguyễn Du


đã phóng tay, để cho họ được tới hai lần uống rượu với nhau.



Lần thứ nhất vào ban ngày. Nhân cha mẹ và hai em về dự sinh nhật


bên ngoại, Thúy Kiều đã tìm đến tận thư phịng của Kim Trọng để


tình tự. Kiều vẽ tranh Đạm Thanh. Chàng Kim thảo vài câu thơ vào


tranh ấy. Rồi hai người chuốc rượu mời nhau. Xét theo quan điểm


“nam nữ thụ thụ bất thân”, việc chỉ có hai người với nhau trong thư


phòng vắng vẻ, đã là một điều cấm kỵ; đằng này, cụ Nguyễn còn giải


phóng cho họ nâng ly mời nhau, thì… cụ Nguyễn qủa là người đi tiên


phong đầu tiên trong lĩnh vực giải phóng phụ nữ.



Phải chăng đây là lần đầu Kiều uống rượu:


Đủ điều trung khúc ân cần,



Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

vậy lại còn thêm chén rượu nồng đưa đẩy, đến mức “lòng xuân phơi


phới chén xuân tàng tàng”. “Chén xuân” là chén rượu tỏ tình u.


Càng uống càng thấy “lịng xn” tràn đầy tình yêu “phơi phới”, đến


mức đã “tàng tàng” với nhau, tức cả hai đều đã ngà ngà vì nhau và


vì rượu. Khơng biết cuộc hàn hun bắt đầu từ bao giờ. Nhưng chắc


chắn là nó đã kéo dài tới mức cả hai đều quên cả thời khắc, nên mới


giật mình nhận thấy: “Trơng ra ác đã ngậm sương non đoài”.




Uống như vậy gọi là uống rượu tình trong buổi đầu bày tỏ. Chỉ có hai


người thơi. Cụ Nguyễn thật là khéo. Vậy mà nào đã thơi đâu. Liền


đó, cụ Nguyễn đã mạnh bạo đi thêm nước cờ thứ hai, mà tôi dám


đoan chắc rằng, toàn bộ giai cấp thống trị phong kiến, và những nhà


hũ nho phong kiến, nhất định sẽ phải dãy nãy lên mà la làng. Vì cụ


Nguyễn đã cách tân qúa thể, khi cụ dám để Thúy Kiều ngay trong


đêm hơm đó, khi vừa mới chia tay trở về, đã lập tức quay ngay trở


lại, bằng cách “xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình”. Qủa là


táo bạo tới khơng tưởng nổi. Thân gái đêm hơm, dám một mình xăm


xăm đi tắt tới nhà trai. Vào thời ấy, hẳn chỉ có Nguyễn Du mới dám


viết như vậy.



Và cuộc rượu ái tình lần này mới thật là đáng nhớ. Thơ Nguyễn Du


dành cho họ, cứ như chảy tràn ra từ đáy cốc; lóng lánh ngời lên tình


u đơi lứa.



Tóc tơ căn vặn tấc lòng,



Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.


Chén hà sánh giọng quỳnh tương,



Dải là hương lộn bình gương bóng ***g.



Qủa là phong lưu, phong vận, tao nhã và đài các. Không gian hẹp,


không gian rộng đều tuyệt cả. Trong phịng thì lửa nến, hương trầm;


ngồi trời thì vầng trăng vằng vặc. Không gian ấy, thời gian ấy, cảnh


ấy… sinh tình xiết bao. Họ khơng chỉ nói với nhau lời vàng đá, mà


còn thảo ra lời vàng đá, rồi cùng nhau thề thốt đinh ninh “hai mặt


một lời” với bầu xanh cao vòi vọi.




</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

đem lòng tương tư. Lần thứ hai gặp nhau nâng chén, hai bên đã lập


tức bày tỏ nỗi niềm thầm kín trắc ẩn. Cịn lần này thì họ đã vượt lên


trên tất cả lệ luật của đạo giáo và của thời đại. Họ tự xe duyên bằng


“tóc tơ căn vặn tấc lịng, trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”.


Họ đâu cần ông tơ bà nguyệt. Chất “anh hùng ca” của tình yêu tự


“giải phóng” là ở chỗ đó. Thúy Kiều đâu phải là cô gái “ngoan thảo”


chịu chấp nhận “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Thúy Kiều là hiện


thân của tư tưởng tự giải phóng khỏi ràng buộc lễ nghi phong kiến.


Đó chính là tư tưởng của Nguyễn Du, tình yêu của Nguyễn Du, đối


với một tầng lớp nhân dân bị đè nén và ràng buộc bởi tư tưởng


phong kiến, đạo giáo phong kiến, và lề luật phong kiến, tới mức


thống khổ.



Nếu như “tiên tửu” là một cách uống đẹp, thì cuộc rượu “tiên thề”


của chàng Kim và nàng Thúy cũng là một cách uống đẹp(tơi gọi là


“tình tửu” hay “Đơi lứa tửu”- T.G.).



“Chén hà” là chén ngọc nhuốm ráng chiều, rực lên. “Quỳnh tương” là


rượu qúy. Chén qúy khơng thể rót rượu xồng. Rượu qúy khơng thể


uống chén xồng. Chén và rượu phải “sánh giọng” với nhau. “Dải là


hương lộn” là những dải lụa ở trong thư phòng đều có tẩm mùi trầm


hương bay lộn lên mà thấm vào. “Bình gương bóng ***g”. “Bình” là


bức bình phong trong thư phịng. “Gương” là tấm gương soi gắn trên


bình phong. “Bình gương bóng ***g” là bóng hai người ***g vào


nhau trong tấm gương soi trên bức bình phong. Thiết nghĩ, chỉ với


hai câu lục bát, thì khơng thể nào cịn có thể tả hay hơn và đẹp hơn


về cảnh đôi lứa nâng ly thề nguyền được nữa!



Đối với thân phận nàng Kiều, ngay từ đầu tập truyện thơ của mình,



Nguyễn Du đã khéo vẽ ra cảnh Thúy Kiều gặp hồn ma Đạm Tiên, lúc


cùng hai em đi tảo mộ. Trong đoạn này, Nguyễn Du đã qua khóe


miệng của nàng Kiều, thốt nên hai câu thơ nhức nhối nỗi buồn


truyền Kiếp: Đau đớn thay phận đàn bà, lời rằng bạc mệnh cũng là


lời chung!



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

sắc tư phong, trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.



Tài thơ của cụ Nguyễn đã khéo vẽ ra cảnh nàng Thúy nằm mộng gặp


Đạm Tiên, nhờ đó biết được mình có tên trong sổ đoạn trường. Bởi


vậy, ngay sau tiệc rượu thề nguyền lời vàng đá với chàng Kim, Thúy


Kiều đã lâm ngay vào cảnh phải bán mình chuộc cha, phải “thanh lâu


hai lượt, thanh y hai lần”. Trong lần khoác áo thanh lâu thứ nhất,


Nguyễn Du đã mượn rượu để nói về thân phận “kiếp người đã đến


thế này thì thôi” của nàng Thúy.



Lầu xanh mới rủ trướng đào,



Càng treo giá ngọc càng cao phẩm người.


Biết bao bướm lả ong lơi,



Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.



Bút pháp tài hoa của Nguyễn Du sắc như dao cứa vào lòng người.


Một đời tài hoa là thế, hồng nhan là thế, mà nay đã lâm vào cảnh


“thương thay thân phận lạc loài, dẫu sao cũng ở tay người biết sao”.


Thân phận “bầm dập tửu” của Thúy Kiều kéo dài triền miên suốt


ngày suốt đêm. Toàn là khách làng chơi đến vùi hoa dập liễu, có ai


hiểu cho nàng. Chỉ Thúy Kiều là tự thương lấy phận mình mà thơi.


“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, giật mình mình lại thương mình xót xa”.



Hết ngày dài tới đêm thâu, Thúy Kiều bị dìm trong từng từng trận


rượu. Ấy là “ô nhục tửu”. Chỉ một câu lục bát mà cụ Nguyễn nhắc tới


ba lần chữ “mình”. Chua cay lắm! Bầm dập lắm! May cho nàng, nhờ


được treo “giá ngọc” mà gặp các khách làng chơi toàn là những hạng


văn nhân, tài tử như Tống Ngọc nước Sở đời chiến quốc, Trường


Khanh(Tư Mã Tương Như) đời Hán, không bị vùi dập bởi những hạng


khách tầm thường. Nhưng… nhưng chỉ mình mới biết thương mình


mà thôi. Năm xưa nâng chén cùng chàng Kim, Thúy Kiều đã vẽ


tranh, đã đánh đàn, đã dậy sóng ái ân mà cất lời thề nguyện trăm


năm. Dâng hiến là “cỗi phúc” linh thiêng của ái tình. Nhưng lúc đó,


Thúy Kiều vẫn tỉnh táo mà nhớ tới luân lý, rằng mình là gái chưa


thành thân.



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

“Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!



Ngày ấy, ngày chia tay ấy, Thúy Kiều còn nhớ đinh ninh như mới vừa


xẫy ra hôm qua. Lời chàng Kim vẫn như cịn văng vẳng: “Gìn vàng


giữ ngọc cho hay, cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.”Lúc ấy, nàng


đã “ruột rối bời bời” mà giãi lời với chàng như sau:“Đã nguyền hai


chữ đồng tâm, trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai”.



Vậy mà hôm nay… Chìm trong “ô nhục tửu”, Thúy Kiều đã phải khóc


nấc lên tiếng than thân xé dạ:



Khi sao phong gấm rủ là,



Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.


Mặt sao dày gió dạn sương,



Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?




Chữ “tửu” ẩn đi ấy trong đoạn thơ, đắng như nước mắt ê chề, cháy


như lửa thiêu một cuộc đời ê ẩm.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>Đề ra: Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong </b>


<i>SGK ngữ văn 9, tập I, em hãy phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật</i>


<i>giá trị nhân đạo của Truyện Kiều.</i>



Kiệt tác truyền Kiều của đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là giá trị


hiện thực và giá trị nhân đạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một


xã hội bất công, tàn bạo (nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX - cuối Lê


đầu Nguyễn), là tiếng nói của thương cảm trước số phận (thời đại) bi kịch


của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói


khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính


của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, cơng lý,


khát vọng tình u hạnh phúc...



Tiếng nói nhân đạo ấy tốt lên từ hình tượng nhân vật Thuý Kiều


trong truyện Thuý Kiều. Thuý Kiều là hiện thân của nổi đau và bất hạnh.


Nàng là một người con gái tài sắc, giàu tình cảm nhưng bị xã hội phong


kiến vùi dập, đoạ đày.



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Số phận Kiều hội đủ những bi kịch của người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi


kịch lớn nhất ở Kiều là bi kịch tình yêu tan vỡ và bi kịch bị chà đạp nhân


phẩm.



Tình yêu Kim Trọng- Kiều là một tình u lí tưởng với “Người


<i>quốc sắc kẻ thiên tài”, nhưng cuối cùng “giữa đường đứt gánh tương tư”, </i>


<i>“nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tình u tan vỡ và khơng bao giờ hàn gắn </i>


được-tuy “màn đồn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió



<i>thảm mưa sầu”.Hạnh phúc nàng toan được nắm trong tay thì cuộc đời </i>


cướp mất.



Kiều là người ln có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị


chà đạp về nhân phẩm. Nàng trở thành “món hàng” để kẻ bn người họ


Mã “cò kè bớt một thêm hai”. Rồi nàng phải thất thân với những kẻ như


Mã Giám Sinh, phải “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”- Nổi đau nhất


của cuộc đời Kiều chính là: “Thân lươn bao quản lần đầu- chút lòng trinh


<i>bạch từ sau xin chừa”. Có nổi đau nào lớn hơn khi con người trọng nhân </i>


phẩm, ln có ý thức về nhân phẩm mà cuối cùng phải tuyên bố từ bỏ


nhân phẩm?



Đời Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài


những bi kịch nối tiếp nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là


một lần bị dúi xuống, bị đạp xuống sâu thêm một tầng nữa.



Thuý Kiều là hiện thân của một vẽ đẹp nhan sắc, tài hoa. Sắc và


tài của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Thể hiện vẽ đẹp, tài năng của Kiều


Ng.Du đã sử dụng bút pháp ước lệ của văn học cổ có phần lí tưởng hố


để trân trọng một vẽ đẹp. “ Một hai nghiêng nước nghiêng thành-sắc đành


<i>đồi một tài đành hoạ hai”.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát vọng


hạnh phúc và khát vọng về quyền sống.



Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua


mối quan hệ Thuý Kiều- Kim Trọng. Mới gặp chàng Kim lần đầu, hai


bên chưa tiện nói với nhau một lời, mà mối tình khơng lời ấy đã như một


chén rượu nồng, khiến người ta chống váng đê mê:




<i>“Tình trong như đã mặt ngồi cịn e</i>


<i>Chập chờn cơn tỉnh cơn mê...”</i>



Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót


chân nàng thoăn thoắt đi sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm


<i>xăm băng nẻo vườn khuya một mình” Thật là nhiệt thành cho một mối tình</i>


đầu trong trắng. Ng.Du đã dành tất cả tài năng và tâm huyết để viết lên


một bản tình ca say đắm có một khong hai trong lịch sử văn học Việt


Nam.



Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngồi lễ giáo phong kiến bằng tình yêu


tự do , chủ động của hai người. Khác với nhiều người phụ nữ xưa phải


chịu sự sắp đặt của cha mẹ, Kiều chủ động đến với tình yêu theo tiếng


gọi của trái tim. Kiều táo bạo, chủ động nhưng đồng thời cũng là người


thuỷ chung nhất trong tình yêu.



Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở thành đại


diện cho con người bị áp bức vùng lên làm chủ số phận của mình trong tư


thế chiến tháng, tư thế chính nghĩa:



<i>“Nàng rằng: Lồng lộn trời cao</i>


<i>Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”.</i>



Ở đây, Thuý Kiều đẫ gặp gở bao nhiêu người phụ nữ bị áp bức


khác vùng lên đòi quyền sống, địi lẽ cơng bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế


<i>giằng co giữa sự sống và sự chết ở trong Tấm Cám, Thạch Sanh, trong </i>


<i>nhiều truyện nôm khuyết danh khác cũng như trong truyện Kiều, về căn </i>


<i>bản nào có khác gì nhau, chỉ khác... Một bên nhiều khi con người mượn </i>


<i>yếu tố thần linh phụ trợ, một bên đã vươn tới tư tưởng trị nhân dân và con </i>


<i>người quyết định theo cơng lí của mình”- (Cao Huy Đỉnh)</i>




</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16></div>

<!--links-->

×