BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
................/...............
BỘ NỘI VỤ
......../.......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGƠ BÁ DIỆU LINH
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
................/...............
BỘ NỘI VỤ
......../.......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGƠ BÁ DIỆU LINH
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN BÁ CHIẾN
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong
bất cứ cơng trình nào khác, các thơng tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Thừa thiên Huế, ngày
tháng
Học viên
Ngô Bá Diệu Linh
năm 2018
LỜI CẢM ƠN
Việc viết nên Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở
nhà trường, với sự giảng dạy, hướng dẫn nhiệt tình, trách nhiệm của thầy, cơ
Học viện Hành chính quốc gia, kết hợp với kinh nghiệm trong q trình thực
tiễn cơng tác và sự cố gắng nỗ lực của bản thân.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới
PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, tận tình chỉ dạy
cho tơi về kiến thức cũng như phương pháp nghiên cứu trong thời gian thực
hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo Học viện Hành chính
quốc gia Hà Nội và phân viện Miền Trung; cô giáo chủ nhiệm lớp LH3 - T2,
bạn bè đồng môn và anh chị em cơ quan đã giúp đỡ tơi trong q trình học
tập cũng như trong q trình hồn thành luận văn này.
Mặc dù đã có sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn sẽ khơng
tránh khỏi những thiếu sót. Tơi mong nhận được sự góp ý chân thành của các
Thầy Cơ, đồng nghiệp và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn !
Học viên
Ngô Bá Diệu Linh
MỤC LỤC
TRANG BÌA
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
LUẬT SƯ ............................................................................................................... 7
1.1. Luật sư và khái niệm về luật sư......................................................................... 7
1.2. Thực hiện pháp luật về luật sư ........................................................................ 28
Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................. 41
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ......................................................................... 42
2.1. Một số nét về đặc điểm, tình hình tỉnh Quảng Bình tác động đến thực hiện pháp
luật về luật sư ........................................................................................................ 42
2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về luật sư trên địa bàn tỉnh Quảng Bình .. 45
Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................. 67
Chương 3. GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH ............................................................ 68
3.1. Hồn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính thống nhất giữa pháp luật về luật
sư và pháp luật chuyên ngành khác có liên quan .................................................... 68
3.2. Phát triển tăng cường đội ngũ luật sư về số lượng và chất lượng ..................... 77
3.3. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật
sư .......................................................................................................................... 82
Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................. 89
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 92
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDP
Tổng sản phẩm nội địa
WHO
Tổ chức thương mại Quốc tế
UBND
XHCH
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Thực hiện pháp luật là một hoạt động xã hội mang tính pháp lý quan trọng,
của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã quy định:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN,
các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành
vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
đều bị xử lý theo pháp luật.
Thực hiện pháp luật là một phạm trù pháp lý với nội hàm đầy đủ gồm: Tuân
thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Thực
hiện pháp luật về luật sư là hoạt động thực hiện các quy phạm pháp luật đã được các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành trên lĩnh vực tổ chức và hoạt động luật
sư.
Trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước từ tháng 9 năm 1945 đến nay
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về lĩnh vực luật sư như: sắc lệnh
số 46/SL ngày 10/10/1945; sắc lệnh số 64/SL ngày 18/6/1949; sắc lệnh số 144/SL
ngày 22/12/1949; pháp lệnh luật sư năm 1987, pháp lệnh luật sư năm 2001; Luật
luật sư năm 2006 và luật sửa đổi bổ sung Luật luật sư năm 2012. Ngoài ra, Hiến
pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 cũng quy định :
“Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo, tổ chức luật sư được thành lập để giúp
bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý ” (điều 133 Hiến pháp năm 1980). Các
đạo luật khác như bộ luật HS, bộ luật TTHS, bộ luật TTDS, luật TTHC cũng quy
định sự tham gia của luật sư, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của luật sư trong các
giai đoạn tiến hành tố tụng giải quyết các loại vụ án. Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban
hành nhiều nghị định, thông tư để hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về
1
luật sư. Đặc biệt nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “ về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” ; Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “ về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 ” đã đề ra các chủ trương, định hướng quan trọng đối với sự phát triển luật sư
và hoạt động luật sư, xây dựng cơ sở pháp lý phù hợp để luật sư thực hiện tốt
quyền, nghĩa vụ trong hoạt động hành nghề, phát huy tốt vai trò tự quản của tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Ngày 30/3/2009 Ban bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị số 33-
CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật
sư. Đây là chỉ thị đầu tiên của Đảng về tổ chức và hoạt động luật sư, thể hiện sự
quan tâm đặc biệt của Đảng đối với sự phát triển của tổ chức, hoạt động luật sư và
là định hướng cho hoạt động thực hiện pháp luật về luật sư trong giai đoạn phát
triển mới của đất nước.
Có thể nói chưa bao giờ ở nước ta có hẳn một hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực luật sư và
hoạt động luật sư như hiện nay. Thể chế về luật sư và hoạt động luật sư đã được
hoàn thiện một bước, quá trình thực hiện pháp luật về luật sư thời gian qua nhất là
từ khi Luật luật sư được ban hành (cuối năm 2006) trở lại đây đã đạt được nhiều kết
quả tiến bộ. Đội ngũ luật sư đã phát triển nhanh về số lượng, chất lượng được nâng
cao. Tổ chức hành nghề luật sư đã được thành lập nhiều, quản trị điều hành bước
đầu có tiến bộ. Hoạt động luật sư đã thực sự khởi sắc, số lượng vụ việc và chất
lượng cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư khi tham gia vụ việc ngày càng tăng
nhanh đóng góp tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, công cuộc cải cách tư
pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế, bảo đảm công
bằng xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần vào việc
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, thực thi pháp quyền của cá nhân, cơ quan, tổ
chức nói chung và hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động tố tụng nói riêng. Vị thế
của luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư trong sự nghiệp bảo vệ công lý được
nâng cao.
2
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện pháp luật về luật sư vẫn
còn nhiều tồn tại yếu kém. Số lượng luật sư hiện có so với dân số còn rất thấp, chất
lượng tham gia tố tụng của luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng tại phiên
tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, số lượng luật sư chuyên sâu về các lĩnh vực, đầu
tư, kinh doanh, thương mại cịn rất ít, hoạt động của luật sư, tổ chức hành nghề luật
sư chưa mang tính chun nghiệp. Cơng tác tun truyền phổ biến pháp luật về luật
sư còn bị coi nhẹ, sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về luật sư và hoạt
động luật sư với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn hạn chế do chưa phân
định rõ và hợp lý giữa hoạt động quản lý nhà nước với trách nhiệm tự quản của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Pháp luật về tổ chức hoạt động luật sư mặc
dù đã từng bước hồn thiện song vẫn cịn tồn tại, bất cập; pháp luật về tố tụng đã
mở rộng đáng kể quyền của luật sư khi tham gia tố tụng nhưng chưa có sự đồng bộ,
thống nhất với các quy định của Luật luật sư dẫn đến nhiều vướng mắc, cản trở hoạt
động luật sư và hoạt động của các tổ chức cá nhân có liên quan...
Từ thực tiễn trên, để việc thực hiện pháp luật về luật sư có hiệu quả vấn đề
cấp thiết là cần nghiên cứu, đề ra các giải pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém và
bất cập của pháp luật, tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi cho luật sư và
hoạt động luật sư phát triển.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “ Thực hiện pháp luật về luật sư - từ
thực tiễn tỉnh Quảng Bình ” (mã số 60 38 01 02 chuyên ngành luật Hiến pháp và
luật hành chính) làm luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn đưa ra một số đề
xuất, kiến nghị góp một phần nhỏ vào sự phát triển luật sư và hoạt động luật sư
trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn:
Do vai trò quan trọng của luật sư và hoạt động luật sư đối với sự phát triển
của xã hội, xu thế phát triển nhanh của nghề luật sư trong những năm gần đây nên
đã có nhiều tổ chức, cá nhân nghiên cứu về vấn đề này với nhiều khía cạnh, cấp độ
khác nhau. Có thể dẫn ra một số đề tài đã được nghiên cứu như :
- Đê tài “ Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề luật sư ” do luật sư Phan Trung
3
Hồi ĐLS TP. Hồ Chí Minh Thực Hiện (2008).
- Đê tài “ Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức
luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam ” do Viện khoa học
pháp lý Bộ Tư pháp thực hiện (2005).
- Đê tài “ Vai trò của luật sư trong q trình giải quyết khiếu nại hành chính
hiện nay ” chủ nhiệm đè tài Thạc sĩ Nguyễn Sỹ Giao, Viện khoa học thanh tra
(2011).
- Chuyên đề “ Pháp luật về luật sư nước ngoài và tổ chức luật sư nước ngoài
tại Việt Nam, thực trạng và kiến nghị ” do Viện nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban
thường vụ Quốc hội thực hiện (2014).
- Đê tài “ Giải pháp đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế ” do học
viện tư pháp thực hiện (2011).
Ngồi ra cịn có nhiều bài viết đăng trên các báo và tạp chí như:
- Bài viết: “ Vai trị của luật sư trong tố tụng hành chính ” của luật sư nguyễn
Thành Vĩnh, thongtinphapluatdansu.edu.vn (2009)
- Bài viết: “ Chiến lược phát triển nghề luật sư cịn thiếu sót ” của luật sư
Ngô Ngọc Trai, moj.gov.vn (2011)
- Bài viết: “ Xóa bỏ rào cản với nghề luật sư ” của Vạn Bảo, plo.vn (2012)
Mặc dù các đề tài, chuyên đề và bài viết nêu trên mới chỉ đề cập đến khía
cạnh về hành nghề luật sư ở Việt Nam chưa có đề tài nào nghiên cứu đề cập đến
vấn đề “ Thực hiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam ”, tuy vậy đây là những tài liệu
nghiên cứu cần thiết được tôi lựa chọn tham khảo khi thực hiện đề tài luận văn của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Để trả lời câu hỏi: Việc thực hiện cơng trình nghiên cứu để làm cái gì ?; tôi
xác định mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ các hình thức thực hiện pháp
luật về luật sư, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về luật sư. Trên cơ sở kết
quả nghiên cứu của luận văn sẽ chỉ ra những yếu kém, bất cập đồng thời đề xuất
4
một số giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
luật sư trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Nhiệm vụ:
Để thực đạt được mục đích luận văn phải hồn thành các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Khái quát một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về luật sư, hoạt động
luật sư và thực hiện pháp luật về luật sư.
- Đánh giá thực trạng hoạt động luật sư và thực hiện pháp luật về luật sư từ
thực tiễn tỉnh Quảng Bình, chỉ ra những tồn tại, yếu kém và những bất cập thiếu
thống nhất của hệ thống pháp luật về luật sư .
- Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về luật sư.
- Đề xuất, kiến nghị khắc phục tồn tại, yếu kém trong việc thực hiện pháp
luật về luật sư và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về luật sư.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu khoa học của Luận văn là tình hình thực hiện pháp
luật về luật sư trong giải quyết các hoạt động tố tụng theo pháp luật Việt Nam hiện
hành.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian : Trong phạm vi thực tiễn của tỉnh Quảng Bình.
- Về thời gian : Chủ yếu từ sau khi Luật luật sư được ban hành (năm 2006)
cho đến nay ( năm 2017)
Về số liệu khảo sát việc thực hiện pháp luật về lu ật sư, luận văn phân tích
các số liệu giai đoạn từ năm 2013 - 2017 tại Đồn Luật sư tỉnh Quảng Bình.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để giải quyết các yêu cầu đề tài đặt ra trong qua trình nghiên cứu tơi sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp luận:
- Phương pháp luận khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mac - Lênin.
5
Phương pháp nghiên cứu:
- So sánh, phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp và dựa trên quan điểm của
Đảng, Nhà nước về phát triển luật sư và hoạt động luật sư trong quá trình cải cách
tư pháp, hội nhập quốc tế làm cơ sở lý luận, để nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật về luật sư tại tỉnh Quảng Bình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn này là cơng trình nghiên cứu khoa học của cá nhân, góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong q trình thực hiện pháp luật về luật
sư, hồn thiện thể chế về luật sư ở nước ta, nâng cao vị thế của luật sư và hoạt động
luật sư trong sự nghiệp bảo vệ công lý, xây dựng xã hội dân chủ, cơng bằng, văn
minh.
- Luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những
nghiên cứu tiếp theo và những người làm thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về luật sư
Bình
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về luật sư trên địa bàn tỉnh Quảng
Chương 3: Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về luật sư từ thực tiễn tỉnh
Quảng Bình
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ
1.1. Luật sư và pháp luật về luật sư
1.1.1. Khái niệm luật sư
Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của cá
nhân luật sư. Phẩm chất và năng lực cá nhân của luật sư là nhân tố quyết định trong
hoạt động hành nghề luật sư. Người muốn hành nghề luật sư phải được cơng nhận
là luật sư, đó là quy định chung mà pháp luật về luật sư của các nước trên thế giới
đều quy định. Tuy vậy qua nghiên cứu pháp luật về luật sư của nhiều nước trên thế
giới như: Hoa Kỳ, Nhật bản, Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc.....không thấy đưa ra
khái niệm luật sư mà chỉ quy định tiêu chuẩn để trở thành luật sư. Tiêu chuẩn phổ
biến để trở thành luật sư là: công dân ở nước sở tại, có bằng cử nhân luật, có phẩm
chất đạo đức tốt. Ngoài các tiêu chuẩn trên người muốn trở thành luật sư phải qua
đào tạo nghề, tập sự hành nghề luật sư hoặc chỉ cần thi đỗ kỳ thi quốc gia để được
công nhận luật sư (tùy vào quy định pháp luật của từng nước) thẩm quyền công
nhận luật sư có thể do Tịa án tối cao hay Bộ Tư pháp hoặc chỉ cần đăng ký gia
nhập một Đoàn luật sư thì trở thành luật sư, xin dẫn ra quy định tại một số nước
như:
Ở Hoa Kỳ muốn trở thành luật sư chỉ cần qua một kỳ thi Quốc gia mà không
phải qua đào tạo nghề và tập sự hành nghề luật sư. Tịa án Bang là cơ quan có thẩm
quyền công nhận luật sư và cho phép hành nghề luật sư. [58]
Ở Nhật bản người muốn trở thành luật sư phải qua đào tạo nghề (không phải
qua tập sự hành nghề) và phải đăng ký vào danh sách luật sư của Liên Đoàn luật sư
Nhật Bản tại một Đoàn luật sư địa phương. [58]
Ở Anh người muốn công nhận luật sư phải qua hai giai đoạn đào tạo nghề
(đào tạo hành nghề và đào tạo kỹ năng hành nghề) Hiệp hội luật sư cấp giấy công
nhận luật sư. [58]
7
Ở Pháp người muốn hành nghề luật sư phải qua một khóa đào tạo nghề và
phải tập sự hành nghề luật sư sau đó đăng ký gia nhập một Đồn luật sư là trở thành
luật sư. Trước khi trở thành luật sư phải tuyên thệ trước một Tòa án. [58]
Ở Trung Quốc người muốn được công nhận đủ tiêu chuẩn luật sư phải thi đỗ
kỳ thi Quốc gia, Bộ Tư pháp là cơ quan nhà nước thực hiện công nhận đủ tiêu
chuẩn luật sư cho người thi đỗ. Chứng chỉ hành nghề luật sư được cấp cho người đã
được công nhận đủ tiêu chuẩn luật sư; đã qua tập sự hành nghề một năm, có phẩm
chất đạo đức tốt, chứng chỉ hành nghề luật sư do Sở Tư pháp cấp tỉnh trực thuộc
trung ương cấp. [58]
Từ các quy định pháp luật về luật sư của một số nước trên thế giới khái niệm
luật sư được hiểu là người có đủ tiêu chuẩn luật sư và được cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền cơng nhận là luật sư.
Ở Việt Nam chế định luật sư và hành nghề luật sư đã hình thành từ thời Pháp
thuộc. Tư sau năm 1945 chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành một số
văn bản pháp luật về luật sư, tạo hành lang pháp lý cho các luật sư hoạt động hành
nghề. Tuy nhiên khơng có văn bản pháp luật nào quy định làm rõ khái niệm luật sư
và hành nghề luật sư.
Năm 1987 (18/12/1987) nhà nước ta ban hành pháp lệnh tổ chức luật sư đầu
tiên, đưa chế định luật sư ở nước ta đến gần với thông lệ quốc tế, đánh dấu bước
ngoặt quan trọng của đội ngũ luật sư chuyên nghiệp trong nước. Pháp lệnh tổ chức
luật sư năm 1987 không đưa ra định nghĩa, khái niệm về luật sư mà chỉ quy định
muốn làm luật sư thì phải đủ điều kiện và gia nhập Đoàn luật sư. Việc gia nhập
Đoàn luật sư phải được hội nghị toàn thể Đoàn luật sư thông qua theo đề nghị của
ban chủ nhiệm. Người mới gia nhập Đoàn luật sư phải qua thời gian tập sự sáu
tháng đến hai năm và một kỳ kiểm tra do Đoàn luật sư tổ chức mới được công nhận
là luật sư (điều 12 pháp lệnh luật sư năm 1987). Người được công nhận luật sư
được cấp thẻ luật sư, thẻ luật sư do ban chủ nhiệm cấp cho các luật sư (điểm 4 mục
II thông tư 313- TT/LS ngày 15 tháng 4 năm 1989 của Bộ Tư pháp, hướng dẫn thi
hành quy chế đoàn luật sư).
8
Như vậy theo quy định của pháp lệnh tổ chức luật sư thì một người muốn
được cơng nhận là luật sư phải gia nhập Đồn luật sư. Thẩm quyền cơng nhận luật
sư hay chấp nhận gia nhập Đoàn luật sư thuộc hội nghị toàn thể đoàn luật sư, thẻ
luật sư là giấy tờ chứng minh một người là luật sư, được sử dụng khi hành nghề và
sinh hoạt của Đoàn luật sư.
Năm 2001 nhà nước ban hành pháp lệnh luật sư thay thế pháp lệnh tổ chức
luật sư năm 1987, lần đầu tiên khái niệm luật sư được đặt ra. Điều 1 pháp lệnh luật
sư năm 2001 quy định: “Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề luật sư”. Điều
7 Pháp lệnh Luật sư quy định: “Người muốn được hành nghề luật sư phải gia nhập
một Đoàn luật sư và có Chứng chỉ hành nghề luật sư” mà không quy định về tiêu
chuẩn luật sư thủ tục và thẩm quyền công nhận luật sư. Người được gia nhập Đoàn
luật sư để trở thành luật sư phải qua tập sự và kỳ kiểm tra hết tập sự và nếu đạt u
cầu thì được Ban chủ nhiệm Đồn luật sư đề nghị Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành
nghề luật sư (điều 13 pháp lệnh luật sư). Khoản 4 điều 13 pháp lệnh luật sư năm
2001 quy định: “Người được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư được hành nghề với
đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của luật sư” trong đó có quyền hành nghề luật sư.
Theo quy định tại điều 29 Nghị định 94/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 của
chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Luật sư thì thành viên của các Đoàn
luật sư là các luật sư và được Ban chủ nhiệm cấp thẻ. Thẻ luật sư là giấy chứng
nhận tư cách thành viên Đoàn luật sư của người được cấp thẻ. Như vậy chứng chỉ
hành nghề luật sư do Bộ tư pháp cấp là giấy tờ xác nhận tư cách luật sư, là giấy
chứng nhận của Nhà nước về quyền hành nghề luật sư của người được cấp chứng
chỉ.
Như vậy, theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001 thì luật sư là người
có đủ tiêu chuẩn luật sư và được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành ngề luật sư.
Chứng chỉ hành nghề luật sư là giấy tờ chứng minh một người là luật sư và luật sư
sử dụng khi hành nghề; Thành viên Đoàn luật sư là các luật sư được Ban chủ nhiệm
cấp thẻ luật sư, thẻ luật sư được sứ dụng trong sinh hoạt ĐLS.
9
Năm 2006 Luật luật sư được Nhà nước ban hành (thay thế các pháp lệnh và
sắc lệnh về luật sư đã ban hành trước đây) khái niệm luật sư được quy định tại điều
2 như sau: “luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định
của luật này, thực hiện dịch vụ Pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức
(sau đây gọi chung là khách hàng)”. Để làm rõ tiêu chuẩn quy định tại điều 2, điều
10 Luật luật sư quy định tiêu chuẩn luật sư như sau: “Công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và Pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có
bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề
luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư”.
Về khái niệm luật sư quy định tại Luật luật sư năm 2006 hiện tại đang có
nhiều cách hiểu khác nhau, tập trung vào 3 nhóm quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng theo quy định tại điều 2 Luật luật sư thì có thể
hiểu luật sư là người có chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư nhưng phải thực
hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng; lý giải của quan điểm này thì
một người cho dù đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư thì vẫn
không được gọi là luật sư, chỉ được gọi luật sư khi một người có chứng chỉ hành
nghề luật sư, thẻ luật sư và cung cấp dịch vụ Pháp lý cho khách hàng. Thực tế hiện
nay có nhiều người có chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư nhưng họ khơng
hành nghề trong văn phịng luật sư hay công ty luật, hoặc không hành nghề với tư
cách cá nhân thì khơng thể nói rằng họ khơng phải là luật sư; với nội dung quy định
tại điều 2 Luật luật sư thì đây là quy định “ hành nghề luật sư ” hay “ hoạt động luật
sư ” chứ chưa hoàn toàn quy định về luật sư.
Quan điểm thứ 2 cho rằng khái niệm luật sư và điều kiện hành nghề luật sư
có nội dung trùng nhau và đề nghị quy định khái niệm luật sư theo hướng luật sư là
người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Pháp luật và được cơ quan Nhà nước cấp
chứng chỉ hành nghề; khi luật sư đủ tiêu chuẩn theo luật quy định, được cơ quan
Nhà nước cấp chứng chỉ hành nghề luật sư thì có quyền hành nghề và đăng ký hoạt
động mà không nhất thiết phải gia nhập một Đồn luật sư. Theo quan điểm này thì
10
luật sư là người đủ tiêu chuẩn theo quy định tại điều 10 Luật luật sư và được Bộ Tư
pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư.
Quan điểm thứ 3 cho rằng luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành
nghề luật sư, có nghĩa là được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và thẻ luật sư thì
mới được gọi là luật sư và như vậy giấy tờ xác nhận một người là luật sư là thẻ luật
sư. Bởi vì phải có chứng chỉ hành nghề luật sư thì mới được gia nhập Đồn luật sư
và mới được cấp thẻ luật sư.
Hiện nay ở nước ta có tình trạng số người được cấp chứng chỉ hành nghề luật
sư nhiều hơn số người được cấp thẻ luật sư bởi vì đã có nhiều người đã được Bộ Tư
pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư nhưng không gia nhập Đồn luật sư vì nhiều
lý do khác nhau. Những người này tuy có đủ tiêu chuẩn luật sư, đủ khả năng hành
nghề luật sư nhưng lại chưa được mang danh luật sư và chưa được công nhận là luật
sư vì chưa gia nhập Đồn luật sư.
Theo tơi người được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư đương nhiên họ được
phép hành nghề luật sư. Tuy nhiên theo nhiều quy định của Luật luật sư thì chứng
chỉ hành nghề luật sư mới chỉ là một trong số những điều kiện để được phép hành
nghề luật sư. Khi đã có chứng chỉ hành nghề luật sư cịn phải gia nhập Đồn luật sư
và được Liên đoàn luật sư Việt Nam cấp thẻ luật sư thì mới được phép hành nghề
luật sư.
Tham khảo pháp luật về luật sư của nhiều nước trên thế giới, hầu như khơng
có nước nào quy định muốn hành nghề luật sư phải qua hai giai đoạn là được công
nhận là luật sư và được cấp phép hành nghề luật sư.
Qua phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau:
Luật sư là công dân Việt Nam trung thành với Tổ Quốc, tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã qua đào tạo nghề
luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề,
được cơ quan nhà nước cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, phải gia nhập Đoàn luật
sư, được Liên đoàn luật sư cấp thẻ luật sư và thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu
của khách hàng theo quy định của pháp luật.
11
1.1.2. Địa vị pháp lý của luật sư
Điều 3 Luật luật sư năm 2006 được sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định chức
năng xã hội của luật sư như sau: “ Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo
vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của cơng dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh ”. Điều này chứng
tỏ luật sư có vị trí, vai trị quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Để thực hiện tốt vai trị của mình địi hỏi luật sư phải thực hiện có hiệu quả
các quyền, nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
1.1.2.1. Quyền của luật sư
Theo khoản 1 điều 21 Luật luật sư thì luật sư có các quyền sau đây:
- Được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề luật sư, theo quy định của Luật
luật sư và quy định của pháp luật có liên quan. Theo điểm a khoản 1 điều 21 và
khoản 2 điều 9 Luật luật sư thì luật sư được nhà nước bảo đảm quyền hành nghề
trong phạm vi:
Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giam, bị
can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; tham gia tố
tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về dân
sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu
cầu dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và các vụ, việc
khác theo quy định của pháp luật; thực hiện tư vấn pháp luật; đại diện ngồi tố tụng
cho khách hàng để thực hiện các cơng việc liên quan đến pháp luật, thực hiện các
dịch vụ pháp lý khác.
Luật luật sư, pháp luật về tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính
có quy định bảo đảm quyền hành nghề của luật sư, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá
nhân có hành vi cản trở hoạt động của luật sư.
- Quyền đại diện cho khách hàng theo quy định của pháp luật
12
Đại diện theo ủy quyền là một chế định của pháp luật dân sự. Theo đó, đại
diện là một người nhân danh và vì lợi ích của người khác, xác lập, thực hiện một
giao dịch, làm thay một công việc trong phạm vi đại diện. Cá nhân, người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân đều có thể ủy quyền cho luật sư hoặc người khác xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc làm việc khác thay cho mình.
Quyền đại diện cho khách hàng của luật sư rất rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực
hình sự, dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính.
Quyền này chỉ bị hạn chế trong một số trường hợp cụ thể theo quy định của pháp
luật như: người vợ, người chồng trong vụ án yêu cầu ly hôn phải trực tiếp đến Tịa
án để giải quyết khơng được ủy quyền cho luật sư hoặc người khác đại diện, luật sư
nhận ủy quyền cho người vợ hoặc người chồng trong trường hợp này là không đúng
pháp luật.
- Quyền hành nghề luật sư, lựa chọn hình thức hành nghề luật sư và hình
thức tổ chức hành nghề luật sư.
Theo quy định tại điều 2, điều 10 và điều 11 của Luật luật sư năm 2006 được
sửa đổi, bổ sung năm 2012 thì luật sư có quyền hành nghề luật sư sau khi được Bộ
Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề, gia nhập đoàn luật sư và được Liên đoàn luật sư
Việt Nam cấp thẻ luật sư. Tuy vậy, để được hành nghề, luật sư phải làm thủ tục
đăng ký hoạt động, quyết định hình thức hành nghề và hình thức tổ chức hành nghề
luật sư theo quy định tại điều 35 và điều 50 Luật luật sư.
Về hình thức hành nghề luật sư theo quy định tại điều 23 Luật luật sư thì luật
sư có quyền lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề sau đây: Hành nghề trong
tổ chức hành nghề luật sư (điều 32) hoặc hành nghề với tư cách cá nhân (điều 49).
Về hình thức tổ chức hành nghề luật sư, theo quy định tại mục 2 chương III
Luật luật sư thì luật sư có quyền lựa chọn thành lập văn phịng luật sư hoặc cơng ty
luật, làm tổ chức hành nghề của mình. Văn phịng luật sư được tổ chức hoạt động
theo hình thức doanh nghiệp tư nhân (điều 33); Công ty luật được tổ chức hoạt động
theo hình thức cơng ty hợp doanh hoặc cơng ty trách nhiệm hữu hạn (điều 34).
Trong quá trình hoạt động luật sư có quyền thay đổi hình thức hành nghề và hình
13
thức tổ chức hành nghề bằng thủ tục đăng ký lại tại cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền.
- Quyền được hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam và hành nghề
luật sư ở nước ngoài
Với tư cách pháp nhân là “ Doanh nghiệp ” “ công ty ” các văn phịng luật
sư, cơng ty luật có thể hoạt động ở bất cứ nơi đâu trên lãnh thổ Việt Nam theo quy
định của luật doanh nghiệp. Mặt khác, theo quy định tại điều 41 Luật luật sư thì
ngồi trụ sở chính, văn phịng luật sư, cơng ty luật được quyền mở chi nhánh ở bất
kỳ địa phương nào trên lãnh thổ Việt nam. Điều này thể hiện địa bàn hoạt động
hành nghề luật sư không bị hạn chế, tùy theo khả năng, điều kiện của văn phòng
luật sư, công ty luật.
Theo quy định tại điều 43, 44 Luật luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư ở
trong nước có quyền đặt cơ sở hành nghề luật sư ở nước ngoài, được cử luật sư thực
hiện dịch vụ pháp lý ở nước ngoài theo yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên khi luật
sư thực hiện dịch vụ pháp lý ở nước ngoài phải tuân theo quy định của Luật luật sư
và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Ngồi các quyền cơ bản nêu trên, pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và
tố tụng hành chính cịn quy định luật sư khi tham gia tố tụng trong các vụ án hình
sự, dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và các vụ án hành
chính có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, có mặt khi lấy lời khai, hỏi
cung, xem xét các biên bản về hoạt động tố tụng và các quyết định tố tụng có liên
quan đến người mà mình bào chữa; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, gặp bị can, bị
cáo đang bị tạm giam, tham gia hỏi và tranh luận tại phiên tòa, khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng ....(điều 58 bộ luật tố tụng hình
sự). Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong q trình tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính; thu thập, cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án,
sao chụp tài liệu có tại hồ sơ vụ án. Tham gia hòa giải, phiên tòa, yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng trong các vụ, việc dân sự và các vụ án hành chính; giúp
đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
14
họ, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung
cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình...(khoản 6 điều 70, điều 76 bộ luật tố tụng dân
sự; khoản 6 điều 55, điểu 61 luật tố tụng hành chính).
1.1.2.2. Nghĩa vụ của luật sư
Theo quy điịnh của khoản 2 điều 21 và khoản 1 điiều 9 Luật luật sư thì luật
sư có các nghĩa vụ sau đây:
- Tuân theo các nguyên tắc hành nghề luật sư.
Điều 5 Luật luật sư quy định năm nguyên tắc hành nghề đối với luật sư:
+ Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật: Trong nhà nước pháp quyền, mọi công
dân đều phải thượng tôn pháp luật, đề cao pháp luật và tuân thủ pháp luật. Đó là
nghĩa vụ chung của mọi cơng dân, trong đó có giới luật sư. Luật sư có nghĩa vụ sử
dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
khách hàng, nhưng khơng được gợi ý hay khuyên khách hàng vi phạm hay không
tôn trọng pháp luật. Là người am hiểu pháp luật hơn ai hết luật sư phải là tấm
gương sáng về ý thức tôn trọng pháp luật và chấp hành pháp luật.
+ Tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư: Ngày 20
tháng 7 năm 2011 hội đồng luật sư toàn quốc đã ban hành bộ quy tắc gồm 27 quy
tắc về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, trong đó các quy tắc về đạo đức
rất được đề cao. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân và tự chịu trách nhiệm cá
nhân bởi uy tín, nghề nghiệp của mình với mục tiêu phụng sự cơng lý và tơn trọng
pháp luật thì trước hết phải xuất phát từ một nền tảng đạo đức. Nếu khơng xuất phát
từ nền tảng này thì luật sư khó có thể có ý thức tơn trọng và tn thủ pháp luật khi
hành nghề.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư có giá trị như là các
chuẩn mực về đạo đức và ứng xử của giới luật sư, là tiêu chí để luật sư tự giác rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức, lựa chọn cách ứng xử trong sinh hoạt và hoạt động hành
nghề luật sư, là thước đo phẩm chất, uy tính và kỹ năng hành nghề của luật sư.
+ Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan: Trong môi trường phải
hoạt động độc lập, quan hệ tiếp xúc với khách hàng và nhiều đối tác, đòi hỏi luật sư
15
phải trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không vì lợi ích vật chất hoặc bất kỳ
áp lực nào khác để làm trái pháp luật, đạo đức nghề nghiệp. Độc lập, trung thực địi
hỏi ở luật sư khơng chỉ đối với các đối tác trong quan hệ giao dịch, thực hiện tham
gia tố tụng mà còn phải độc lập, trung thực với cả khách hàng của mình.
+ Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp
của khách hàng: Đó là một trong những tiêu chí quan trọng để luật sư hướng tới khi
thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Luật sư phải tận tâm với công
việc, phát huy mọi năng lực, kinh nghiệm, sử dụng kiến thức chuyên môn, kỹ năng
hành nghề để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của khách hàng theo quy định của pháp
luật.
+ Luật sư phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động hành nghề luật
sư của mình: Như mọi cơng dân khác trong xã hội, khi luật sư có hành vi làm trái
các quy định của pháp luật, gây thiệt hại, ảnh hưởng xấu đến tổ chức, cơ quan, cá
nhân và xã hội thì cũng phải chịu trách nhiệm về những việc làm sai trái đó của
mình và cũng phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.
- Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy phiên tịa, khơng được cung cấp thông
tin, tài liệu, chứng cứ mà luật sư biết rõ là sai sự thật. Không phát ngôn những điều
biết rõ là sai sự thật trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc những nơi công
cộng, nhằm gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng.
- Tham gia tố tụng trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu: Khi
có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu tham gia bào chữa cho bị can, bị
cáo trong vụ án hình sự và được sự phân cơng của đồn luật sư, tổ chức hành nghề
luật sư thì luật sư có nghĩa vụ tham gia kịp thời để đảm bảo cho việc xử lý vụ án
hình sự được nhanh chóng, thuận lợi, đảm bảo quyền bào chữa theo quy định pháp
luật của bị can, bị cáo.
- Thực hiện trợ giúp pháp lý: Trợ giúp pháp lý là một trong những chính sách
nhân đạo của Đảng và nhà nước nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều được hưởng
quyền bình đẳng trước pháp luật, giúp người nghèo, người có cơng với cách mạng,
16
đồng bào dân tộc thiểu số, trẻ em, người khuyết tật....bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, nâng cao hiểu biết pháp luật cho các đối tượng được trợ giúp, góp phần bảo
vệ cơng lý, đảm bảo cơng bằng xã hội.
Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí của luật sư đối với các đối tượng được
trợ giúp đã được Luật luật sư quy định tại điều 31. Khi thực hiện trợ giúp pháp lý
miễn phí, luật sư phải tận tâm với người được trợ giúp như đối với khách hàng
trong những vụ, việc có thù lao.
Luật sư tham gia trợ giúp pháp lý thơng qua ba hình thức: Thực hiện trợ giúp
pháp lý theo nghĩa vụ được quy định tại pháp luật luật sư; thực hiện trợ giúp pháp lý
với tư cách làm cộng tác viên của trung tâm trợ giúp pháp lý; thực hiện trợ giúp
pháp lý với tư cách là luật sư thành viên của tổ chức hành nghề luật sư tham gia trợ
giúp pháp lý trong phạm vi đăng ký. Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm
2020 do Chính phủ ban hành cũng yêu cầu, đề cao trách nhiệm và nghĩa vụ của luật
sư trong cơng tác trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách
và các đối tượng yếu thế khác.
- Tham gia bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ: Nghĩa vụ bồi
dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ của luật sư là bắt buộc, được quy định trong Luật
luật sư và thông tư số 10 năm 2014 của Bộ Tư pháp. Xã hội đang không ngừng thay
đổi và phát triển, các mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp, pháp luật
của nhà nước có sự thay đổi để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh, các văn
bản quy phạm pháp luật ngày càng được ban hành nhiều hơn, do vậy cập nhật kiến
thức pháp luật mới, nghiên cứu, học tập để nâng cao kiến thức, kỹ năng hành nghề
là yêu cầu tất yếu đối với luật sư. Nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng về chuyên môn,
nghề nghiệp của luật sư nhằm mục đích cập nhật đầy đủ, kịp thời kiến thức pháp
luật, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức luật sư....đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế đối với đội ngũ luật
sư.
- Luật sư không được thực hiện các hành vi quy định tại khoản 1 điều 9 Luật
luật sư: Đó là các hành vi, cung cấp dịch vụ pháp lý cho các khách hàng có lợi ích
17
đối lập nhau trong cùng vụ việc; cố ý cung cấp hoặc xúi dục khách hàng cung cấp
tài liệu, chứng cứ giả, sai sự thật, khiếu nại tố cáo, khiếu kiện trái pháp luật; tiết lộ
thông tin về vụ việc, về khách hàng khi chưa được sự đồng ý của khách hàng; sách
nhiễu, lừa dối khách hàng; lợi dụng việc hành nghề, danh nghĩa luật sư để thực hiện
các mục đích xấu, xúc phạm cá nhân, tổ chức....đây là các hành vi trái pháp luật, trái
nguyên tắc hành nghề luật sư và trái với quy tắc đạo đức và ứng xử hành nghề luật
sư, do vậy đòi hỏi luật sư cần phải tuyệt đối tuân thủ nghĩa vụ này.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của luật sư
Quyền và nghĩa vụ của luật sư như đã trình bày phân tích ở phần trên được
quy định đầy đủ trong pháp luật luật sư và các pháp luật có liên quan: Bộ luật tố
tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính. Quyền và nghĩa vụ
của luật sư là hai khái niệm khác nhau nhưng là một thể thống nhất có ý nghĩa quan
trọng, xác nhận địa vị pháp lý của luật sư. Quyền và nghĩa vụ của luật sư có tác
động qua lại bổ trợ cho nhau khi thực hiện. Trong quyền của luật sư có hàm chứa
các nghĩa vụ của luật sư, ngược lại trong nghĩa vụ của luật sư có quyền của luật sư,
ví dụ: Luật sư có quyền sử dụng các biện pháp quy định của pháp luật để bảo vệ tốt
nhất quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng, đây cũng chính là nghĩa vụ của luật
sư đối với khách hàng. Thực hiện tốt quyền của luật sư cũng có nghĩa đã thực hiện
được một phần nghĩa vụ của luật sư và là điều kiện để thực hiện các nghĩa vụ của
luật sư. Thực hiện tốt các nghĩa vụ của luật sư là nhân tố đảm bảo cho luật sư thực
hiện tốt các quyền của mình mà pháp luật đã quy định.
Chỉ khi nào luật sư thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình thì hiệu quả
cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư cho khách hàng được tốt nhất, vai trị, năng
lực, uy tính của luật sư được khẳng định và nâng cao trong xã hội, mục tiêu trách
nhiệm xã hội của luật sư “ góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do dân chủ của
cơng dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế
xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh ” mới có điều kiện đạt được.
18
1.1.3. Đặc điểm (tính chất) hoạt động của luật sư
Hoạt động của luật sư là hoạt động pháp luật trong đó các luật sư bằng kiến
thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi hành nghề
theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư, nhằm mục
đích phụng sự cơng lý, góp phần bảo vệ pháp chế và xây dựng nhà nước pháp
quyền. Hoạt động của luật sư không giống hoạt động bình thường khác vì ngồi
những u cầu về kiến thức và trình độ chun mơn thì hoạt động của luật sư còn
phải tuân theo quy chế, đạo đức nghề nghiệp. Điều này tạo nên nét đặc thù riêng
của hoạt động luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề,
đặc biệt là các kỹ năng tranh tụng của các luật sư.
Xét về tính chất, đặc điểm hoạt động của luật sư có thể rút ra ba đặc điểm
(tính chất) cơ bản.
1.1.3.1. Đặc điểm (tính chất) trợ giúp
Dân chủ và nhân đạo là bản chất của chế độ Xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta
coi trọng quyền con người: cơng dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
tài sản, danh dự và nhân phẩm. Xuất phát từ chức năng hoạt động nghề nghiệp của
luật sư, sự gắn bó của nghề nghiệp luật sư với số phận của con người bất luận trong
trường hợp nào cũng được coi là sự kết nối tự nhiên, mang tính bản chất. Đối tượng
của hoạt động luật sư vì thế khơng đơn thuần mang tính dịch vụ mà trước hết chính
là nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng của con người cần được trợ giúp về mặt pháp
lý.
Nói đến trợ giúp pháp lý là nói đến sự giúp đỡ, bênh vực khơng vụ lợi của
luật sư cho những người thuộc đối tượng trợ giúp và có nhu cầu trợ giúp. Những
người được trợ giúp thường là những người bị ức hiếp, bị đối xử bất công, trái pháp
luật trong xã hội hay những người nghèo, người già cô đơn, người chưa thành niên
mà không có sự cưu mang giúp đỡ của gia đình...Do đó đặc điểm (tính chất) này thể
hiện hoạt động của luật sư không chỉ là bổn phận, trách nhiệm xã hội mà còn là
thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.
19