Lời nói đầu.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay, trong hoạt động kinh tế- xã hội ở hầu hết các quốc gia đều coi trọng
việc xây dựng và thực hiện các chơng trình phát triển kinh tế- xã hội thông qua các
dự án cụ thể nhằm đầu t phát triển nền kinh tế.
Việt Nam đang trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Tốc độ tăng
trởng kinh tế liên tục đạt ở mức cao và ổn định. Bình quân hàng năm thời kì
1991-1997 GDP tăng 8,2%. Hai năm 1998, 1999 do ảnh hởng tiêu cực của cuộc
khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực, tốc độ tăng trởng của nớc ta tuy có chậm lại
(1998: 5,8%, 1999: 4,8%) xong vẫn thuộc loại cao so với khu vực. Nhờ đó qui mô
kinh tế Việt Nam không ngừng lớn mạnh. So với năm 1990, năm 1997 qui mô kinh
tế nớc ta gấp 1,76 lần và năm 1998 gấp 1,8 lần. Kinh tế phát triển đã tạo ra những
tiền đề hết sức cơ bản cho việc giải quyết các vấn đề xã hội đặc biệt là từng bớc cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nông dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào về xây dựng phát triển kinh
tế, nâng cao mức sống của nhân dân thì vấn đề môi trờng- yếu tố cực kì quan trọng
có ảnh hởng đến sự phát triển bền vững của đất nớc lại cha đợc sự quan tâm thích
đáng. Hà Nội là trung tâm, là thủ đô của cả nớc nên quá trình đô thị hoá diễn ra rất
mạnh, rất nhanh chóng. Nhận thức đợc những tác động tiêu cực của đô thị hoá ảnh h-
ởng, tác động đến môi trờng sinh thái ở khu vực nông nghiệp nông thôn ven đô
(ngoại thành ), thành phố Hà Nội đã có chủ trơng xây dựng và triển khai các dự án
nhằm bảo về và phát triển bền vững môi trờng sinh thái nông nghiệp, nông thôn trong
các khu vực này. Nh hiện nay, có rất nhiều các dự án phát triển và bảo vệ môi trờng
sinh thái nông nghiệp, nông thôn ở khu vực ngoại thành đang đợc triển khai thực
1
hiện, đặc biệt là trong các dự án đợc triển khai thực hiện thành phố và các cấp chính
quyền rất coi trọng vấn đề phát triển nông nghiệp theo hớng kết hợp giữa nông
nghiệp với du lịch, cụ thể một số dự án đang đợc triể khai theo hớng kết hợp trên nh
ở: Đông Mỹ - Thanh Trì, Phú Diễn - Từ Liêm, Minh Phú - Sóc Sơn, Phù Đổng Gia
Lâm...
Tuy thời gian triển khai, thực hiện các dự án trên mới đợc một vài năm gần đây
(từ năm 2001 ), nhng việc tổng kết đánh giá kịp thời đúng thực trạng những kết quả
đạt đợc của sự kết hợp, đồng thời làm rõ những tồn tại, nguyên nhân của nó trong
quá trình thực hiện nhằm phát huy tối đa các u điểm và thành quả đã có, rút kinh
nghiệm khắc phục các hạn chế, hoàn thiện, bổ sung các giải pháp nâng cao hiệu quả
của sự kết hợp nông nghiệp với du lịch trong dự án là cần thiết và cấp bách. Do vậy
em xin chọn đề tài: Những vấn đề kinh tế chủ yếu để phát triển nông nghiệp Đông Mỹ
Thanh Trì - Hà Nội theo hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch làm đề tài luận văn tốt
nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Đánh giá tổng quát tình hình thực hiện dự án, kết quả thực hiện dự án dới góc độ
kinh tế về phát triển nông nghiệp tại Đông Mỹ- Thanh Trì theo hớng kết hợp nông
nghiệp với du lịch, rút đợc ra những mặt mạnh và mặt yếu, thiếu xót trong quá trình
thực hiện.
- Đề suất các giải pháp kinh tế - kĩ thuật, một số chỉ tiêu kinh tế nhằm nâng cao
hiệu quả của dự án.
3. Phạm vi nghiên cứu.
- Về không gian chuyên đề nghiên cứu các vấn đề chính của dự án đang diễn ra
trên toàn xã Đông Mỹ- Thanh Trì- Hà Nội.
- Về thời gian: nghiên cứu toàn bộ quá trình triển khai dự án giai đoạn 1 và các b-
ớc chuẩn bị cho dự án từ năm 2001 - 2005.
4. Kết cấu chuyên đề.
2
Ngoài lời mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề có kết
cấu chính gồm 3 chơng.
Ch ơng 1 : Cơ sở lí luận về phát triển nông nghiệp theo hớng kết hợp
nông nghiệp với du lịch
Ch ơng 2 : Thực trạng phát triển nông nghiệp ở Đông Mỹ - Thanh Trì
theo hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch.
Ch ơng 3 : Quan điểm, phơng hớng và các giải pháp cơ bản nhằm phát
triển nhằm phát triển nông nghiệp theo hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch
3
Chơng 1: Cơ sở lí luận về phát triển nông nghiệp theo
hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch.
1.1. Sự cần thiết phải kết hợp giữa nông nghiệp với các ngành kinh tế quốc dân.
1.1.1. Các xu hớng phát triển của nông nghiệp hiện đại.
Sang thế kỉ XXI nền nông nghiệp thế giới nói chung, cần tiết kiệm để nâng cao
hiệu quả trong sử dụng năng lợng, cho đến nay năng lợng sử dụng trong nông nghiệp
thế giới còn rất khiêm tốn. Theo tài liệu của FAO năm 1972- 1973 nông nghiệp toàn
thế giới mới sử dụng 3,5% tổng năng lợng hoá thạch, giai đoạn 1985- 1986 tăng nên
4,1% và đến năm 2001 nông nghiệp thế giới sử dụng khoảng 5,3% tổng năng lợng
hoá thạch hàng hoá của thế giới. Sự phân bố sử dụng năng lợng hoá thạch cũng
không đều: một lao đông nông nghiệp ở các nớc phát triển sử dụng năng lợng nhiều
gấp 30 lần 1 lao độmg nông nghiệp ở các nớc đang phát triển; về vật t kĩ thuật nông
nghiệp, các nớc phát triển sử dụng 60% tổng số phân hoá học, trên 50% tổng số
thuốc trừ sâu, trừ cỏ, 75% tổng số máy kéo 70% tổng sổ thức ăn gia xúc của thế giới.
Sang thế kỉ XXI, nông nghiệp thế giới có thể phải sử dụng năng lợng nhiều hơn
thế kỉ XX để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp. Nhng để sử dụng năng
lợng trong nông nghiệp có hiệu quả phải điều chỉnh hợp lí giữa các khu vực: theo h-
ớng giảm năng lợng và vật t kĩ thuật ở các nớc phát triển, tăng ở các nớc đang phát
triển. Năm 1979 tổng giấm đốc FAO đã nêu ý kiến: các nớc nghèo phải đợc sử
dụng thêm phân khoáng và hoá chất trừ sâu bệnh nhng không nên sao chép phơng
pháp đang dùng ở các nớc giàu. nếu hạn chế sử dụng năng lợng trong nông nghiệp
thì ở những nớc đang phát triển sản xuất lơng thực sẽ giảm sút dẫn đến thiếu đói. Vì
vậy mô hình nông nghiệp của các nớc phát triển sẽ điều chỉnh theo hớng giảm chi
phí năng lợng, giảm nội dung, mức độ công nghiệp hoá để tăng hiệu suất sử dụng
năng lợng và hạn chế ô nhiễm môi trờng, mô hình nông nghiệp của các nớc đang
phát triển sẽ điều chỉnh theo hớng tăng chi phí năng lợng hợp lí, không dập theo
4
khuôn mẫu của các nớc công nghiệp phát triển trớc đây nhằm đảm bảo hiệu suất sử
dụng năng lợng khá và chống gây ô nhiễm môi trờng.
Mặt khác nh chúng ta biết con ngời là thành viên quan trọng bậc nhất của tất cả
các hệ sinh thái, hệ sinh thái nông nghiệp, của tất cả các nền sản xuất nông nghiệp,
con ngời luôn giữ vai trò chủ động. Với chí tuệ của mình con ngời có thể lựa chọn
con đờng duy nhất đúng, phù hợp với lợi ích của mình; có thể điều khiển các hệ sinh
thái theo hớng có lợi nhất. Trong sản xuất nông nghiệp, con ngời không chỉ giới hạn
mục tiêu của mình trong việc tạo ra các sản phẩm có ích cho mình trong giai đoạn tr-
ớc mắt mà còn phải nghĩ đến lợi ích của nhiều thế hệ mai sau.
Tối u hoá sản xuất nông nghiệp là một yêu cầu cơ bản của nền nông nghiệp tiên
tiến.
Tối u hoá là chọn một phơng thức sản xuất hợp lí, tốt nhất trong từng điều kiện cụ
thể. Trong sản xuất nông nghiệp cũng vậy cần tối u hoá các nôi dung cơ bản sau:
- Thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con ngời về sản phẩm nông nghiệp, nghĩa
là phải đạt năng xuất cây trồng và vật nuôi cao, sản lợng nông nghiệp cao, phẩm chất
nông sản phải tơng ứng với mức đầu t vật chất đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Thoả mãn nhu cầu hiện tại nhng không làm phơng hại đến nhu cầu của các thế
hệ tơng lai.
- Thảo mãn nhu cầu hiện tại nhng không làm ảnh hởng đến các nhu cầu khác của
con ngời. Con ngời là một bộ phận tích cực của thiên nhiên và mãi mãi hoà nhập với
thiên nhiên, đứng trên các quan điểm này thì việc có một nền nông nghiệp sinh thái
bền vững mới kết hợp hài hoà giữa những cái tích cực, những cái đúng đắn, những
cái hợp lí của nền nông nghiệp công nghiệp hoá và sinh học nông nghiệp.
Ngoài những yêu cầu, đòi hỏi trên thì vấn đề ô nhiễm môi trờng nói chung và ô
nhiễm môi trờng nói riêng hiện nay đang ở mức báo động đỏ. Vấn đề ô nhiễm không
khí, tiếng ồn, đất đai, nguồn nớc, đa dạng sinh học... có liên quan trực tiếp đến môi
trờng sản xuất nông nghiệp. Tóm lại trớc những yêu cầu đòi hỏi của sự phát triển
5
theo qui luật tiến hoá của con ngời, của một nền nông nghiệp hiện đại và của những
yêu cầu của hiện tại, con ngời cần tiến tới phát triển một nền nông nghiệp sao cho có
thể kết hợp tổng hoà giữa tự nhiên và con ngời, nhằm khai thác tối đa những lợi thế
của từg vùng, từng khu vực. Vì vậy, đòi hỏi hay sự cần thiết cần có một mô hình sản
xuất nông nghiệp hợp lí là rất cần thiết.
Trong một vài thập kỷ gần đây sự thay đổi các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
của thế giới diễn ra rất phức tạp, trong nó chứa đựng nhiều yếu tố thuận lợi, đồng
thời cũng có nhiều khó khăn thách thức đối với việc phát triển nông nghiệp nói riêng
và phát triển nền kinh tế nói chung. Đó là do quá trình công nghiệp hoá và thị trờng
hoá, nông nghiệp các nớc đang chuyển dần từ chế độ thâm canh truyền thống lên
thâm canh hiện đại. Mặt khác, với áp lực về dân số tăng quá nhanh 2-3%/năm, với
động lực lợi nhuận trong cơ chế thị trờng, nhất là động lực lợi nhuận tối đa của chủ
nghĩa t bản, nông nghiệp đã phát triển theo kiểu khai thác tớc đoạt thiên nhiên dẫn
tới những hiện tợng phổ biến: nông nghiệp "hầm mỏ" bóc lột đất, tốc độ phá rừng lấy
đất trồng trọt vợt quá tốc độ tái sinh của nó. Việc áp dụng cơ giới hoá, hoá học hoá
và thuỷ lợi hoá cha lấy công nghệ sinh học và cải thiện tầng thổ nhỡng làm trung
tâm. Những hành động khai thác mang tính tớc đoạt thiên nhiên trong nông nghiệp
cùng tới quy mô và tốc độ khai thác tài nguyên quá lớn, quá nhanh, và lợng chất thải
quá nhiều trong công nghiệp hoá đang làm cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trờng
rất nghiêm trọng.
Trớc những thực tế đó, con ngời đã nhận thức ra đợc vấn đề này rất sớm. Năm
1972 hội nghị liên hợp quốc về môi trờng ở Stockhom đã và tuyên bố kêu gọi: bảo
vệ và cải thiện môi trờng của con ngời là một vấn đề lớn có ảnh hởng tới phúc lợi của
con ngời và phát triển kinh tế toàn thế giới. đó là khát khao khẩn cấp của các dân
tộc trên thế giới và là nhiệm vụ của mỗi chính phủ. 20 năm sau hội nghị Rio 1992 ở
Braxin đã ra tuyên bố mang tính đòi hỏi thông qua chơng trình hành động Agenda
21 đối với mỗi quốc gia và chính phủ. Với tuyên bố Rio 1992 và chơng trình hành
6
động 21 đánh giấu việc phát triển kinh tế bền vững nhằm nhu cầu lợi ích không chỉ
cho thế hệ ngày nay mà cho cả thế hệ mai sau phát triển kinh tế đi liền với bảo tồn
môi trờng sinh thái, phát triển hiệu quả đi đôi với việc thực hiện công bằng xẫ hội,
xoá đói giảm nghèo. Riêng trong nền nông nghiệp thì đó là phát triển nền nông
nghiệp theo hớng nông nghiệp sinh thái bền vững trên cơ sở thu hút lôi cuốn nông
dân thực hiện và tham gia tổ chức, quản lí việc thực hiên. Thực tế đây là một mô hình
nông nghiệp không loại trừ phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, mà sử dụng
chúng một cách hợp lí hơn có hiệu qủa hơn, tránh ô nhiễm môi trờng, đồng thời tăng
sử dụng các loại phân bón hữu cơ, phân bón vi sinh, cũng nh các chế phẩm vi sinh
vật và đa các loại giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất cao đã tạo đợc đa vào
sản xuất đại trà, để nhằm bảo vệ chính môi trờng sản xuất nông nghiệp, cũng nh bảo
vệ môi trờng sống nói chung. Hay chính là việc ngời ta chú trọng tới mối quan hệ hài
hoà giữa sinh vật và môi trờng.
Mặt khác ở các quốc gia trên thế giới hiện nay, qúa lạm dụng việc sử dụng phân
bón hoá học, thuốc phòng trừ sâu bệnh hoá học và các chất kích thích hoá học trong
sản xuất nông nghiệp nhằm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi, mà không quan tâm
đến tác hại của việc quá lạm dụng nó. Mặc dù, việc sử dụng phân bón hoá học và
thuốc trừ sâu bệnh là chìa khoá của sự thành công trong cách mạng xanh và đảm bảo
nhu cầu lơng thực. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh trong thời gian qua do con ngời
không quan tâm tới việc sử dụng các sản phẩm hoá học vào sản xuất nông nghiệp
làm cho có rất nhiều vấn đề về môi trờng trong sản xuất nông nghiệp nảy sinh, nh:
- Gây độc hại cho môi trờng nớc, môi trờng đất bởi thuốc trừ sâu và nitrat (NO
3
-
)
và do đó, tác động xấu đến sức khoẻ còn ngời, các động vật hoang dã và làm suy
thoái các hệ sinh thái.
- Gây độc hại cho lơng thực, thực phẩm, thức ăn cho gia súc bởi d lợng thuốc trừ
sâu, hàm lợng nitrat và các chất kích thích sinh trởng vợt qua mức cho phép.
7
- Gây tổn hại cho các nông trại và các nguồn tài nguyên thiên nhiên do thuốc trừ
sâu, ảnh hởng tới sức khoẻ ngời lao động, tới cộng đồng.
- Gây độc hạI cho bầu khí quyển bởi khí amôniac (NH
3
); nitơ ôxit; mêtan và
nhiều chất khác sinh ra từ quá trình đốt, làm suy giảm tầng ôzôn, làm TráI đất nóng
lên và gây ô nhiễm bầu khí quyển.
- Sử dụng quá mức các tài nguyên thiên nhiên gây suy thoáI nớc ngầm, mất dần
các loài động vật và các nguồn năng lợng ntự nhiên, làm mất khả năng hấp thụ phế
thảI của chúng, dẫn đến lụt lội và mặn hoá.
Có thể chỉ ra những vấn đề nảy sinh trong ô nhiễm do hoạt động sản xuất nông
nghiệp nh trong bảng sau:
Chất gây độc
Hoặc chất gây ô nhiễm Hậu quả
Gây độc hại cho nguồn nớc
- Thuốc trừ sâu - Gây độc hại cho nớc ma, nớc bề mặt và nớc ngầm,
gây độc co động vật hoang dạI và vợt ngỡng chuẩn đối
với nớc uống.
- Nitrat
- Nitrat, phôtphat
- Phế thải hữu cơ nguồn gốc
động vật.
- Nớc thảI từ quá trình thức
ăn động vật.
- Chế biến phế thải từ các
đồn điền (cao su, dầu dừa,
)
- Hội chứng trẻ xanh ở trẻ em và có thể gây ung th.
- Sinh trởng tảo và phú dỡng gây ra mùi hôI thối, tắc
bgẽn nớc mặt, cá chết, phá huỷ bãI san hô, phát triển
kém do các độc tố của tảo.
- Sinh trởng của tảo, cộng với việc khử ôxy của nớc và
làm cho cá chết.
- Khử ôxy của nớc và cá chết, mùi khó chịu.
- Khử ôxy của nớc và cá chết, mùi khó chịu.
8
Gây độc hại thức ăn cho ngời và gia súc
- Thuốc trừ sâu
- Nitrat
- Tồn d thuốc trừ sâu trong thức ăn.
- Gia tăng nitrat trong thức ăn, bệnh hội chứng trẻ
xanh ở động vật.
Gây độc hại cho môi trờng tự nhiên và nông trạI
- Thuốc trừ sâu.
- Nitrat
- Amôniac sinh ra từ phân
động vật và ruộng lúa.
- Kim loại từ phế thải động
vật.
- Mầm bệnh từ phế thải
động vật.
- Độc hại cho ngời, mùi khó chịu.
- Độc hại cho ngời và động vật.
- Hạn chế sự phát triển của quần xã thực vật, có thể có
vai trò làm chết cây.
- Làm tăng hàm lợng kim loại nặng trong đất.
- Độc hại cho sức khoẻ của ngời và động vật.
Gây hại cho khí quyển
- Amôniac sinh ra từ phân
động vật và ruộng lúa.
- Nitơ ôxit từ phân bón hoá
học.
- Mêtan từ động vật và
ruộng lúa.
- Sản phẩm đốt sinh khối
(rơm, rạ, ).
- Mùi: đóng vai trò trong việc tạo ra ma axit.
- Đóng vai trò làm suy thoáI tầng ôzôn và sự nóng lên
của khí hậu toàn cầu.
- Đóng vai trò làm khí hậu toàn cầu nóng lên.
- Làm tăng ô nhiễm ôzôn cục bộ của tầng đối lu, tạo
ma axit. Suy thoái tầng ôzôn và làm khí hậu toàn cầu
nóng lên, mùi khó chịu.
Tóm lại, trớc những nảy sinh các tác động của quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá nền nông nghiệp và việc quá lạm dụng các chế phẩm hoá học trong sản xuất
nông nghiệp đã làm cho môi trờn sinh thái bị huỷ hoại nghiêm trọng, nó đe doạ tới
sức khoẻ của con ngời. Trớc thực tế này các nớc đã tự tìm hớng phát triển cho mình,
để phát triển đất nớc, cung nh phát triển nông nghiệp một cách toàn diện tránh các
9
tác động tiêu cực làm ảnh hởng đến sự phát triển bền vững trong tơng lai. Do vậy,
nông nghiệp của các nớc hiện nay đang chuyển theo hớng nông nghiệp sinh thái bền
vững, nông nghiệp sản xuất sản phẩm chất lợng cao (sản phẩm sạch) và nông nghiệp
kết hợp với sự phát triển bền vững của môi trờng.
1.1.2. Sự cần thiết kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch.
Trong xu thế phát triển của nông nghiệp thế giới nh hiện nay, hoạt động sản xuất
nông nghiệp không còn chỉ giới hạn trong việc tạo việc làm và thu nhập cho một bộ
phận dân c sinh sống trong khu vực nông nghiệp, nông thôn nữa mà trở thành phơng
thức tồn tại của toàn xã hội. Chính vì vậy, có một nền nông nghiệp thật sự vững mạnh
đã và đang trở thành vấn đề quan tâm của nhiều quốc gia.
Bên cạnh quá trình phát triển của nền nông nghiệp thế giới thì các ngành kinh tế
khác cũng phát triển không ngừng, đã tác động qua lại với ngành nông nghiệp làm
xuất hiện nhiều mô hình nông nghiệp ngoài vai trò chính là cung cấp các nhu cầu l-
ơng thực, thực phẩm cho dân c, thì cũng xuất hiện một số vai trò mới mà sự cần thiết
của nó với đời sống dân c cũng không phải là không quan trọng, đó là nhu cầu tiêu
dùng các sản phẩm có chất lợng cao, nhu cầu tiêu dùng các dịch vụ du lịch, vui chơi,
giải trí và hởng thụ bầu không khí trong lành ở khu vực nông nghiệp, nông thôn mà
điều này chỉ có đợc do đặc điểm của khu vực nông nghiệp, nông thôn mang lại mà
cũng chỉ có nó mới có thể đáp ứng đợc. Do hiện nay quá trình đô thị hoá ngày càng
mở rộng, khu vực dân c đô thị có thu nhập ngày càng tăng, đời sống ngày càng cao,
mặt khác dới sức ép của tính chất công việc căng thẳng nên thờng xuất hiện nhu cầu
nghỉ ngơi cuối tuần tận hởng không khí trong lành của thiên nhiên. Chính những đòi
hỏi này đã thúc đẩy phải phát triển và xuất hiện một sự kết hợp giữa nông nghiệp với
du lịch.
Sự kết hợp này là một điều hoàn toàn hợp lí và đúng đắn, nó phù hợp với xu hớng
phát triển chung của quy luật phát triển (có cầu cung), đó là trớc những nhu cầu
của xã hội ngày càng tăng về các dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí bởi thu nhập cũng
10
nh mức sống của ngời dân ngày càng đợc cải thiện và càng tăng cao. Có thể nói sự
kết hợp giữa ngành nông nghiệp với ngành du lịch là một sự kết hợp đúng đắn nếu
nh sự kết hợp này tuân thủ các mối quan hệ kinh tế xã hội nhng đồng thời cũng
phải tuân thủ các mối quan hệ với các điều kiện tự nhiên. Khi đó nó sẽ không ngừng
thúc đẩy nhau phát triển
Mặt khác, khi mà tất cả các ngành kinh tế đều không ngừng phát triển và mở rộng
với tốc độ cao thì sự phát triển đó đã thúc đẩy nhau cùng phát triển là một điều tất
yếu. Nông nghiệp sẽ phát triển bền vững hơn bằng việc có thêm các nguồn thu nhập
do các hoạt động dịch vụ du lịch mang lại, cơ hội tái đầu t mở rộng sản xuất nông
nghiệp bằng các nguồn thu này sẽ tăng. Khi đó nông nghiệp có thể tận dụng tối đa
các nguồn lực của mình trong qua trình sản xuất, bởi nông nghiệp khi đó ngoài việc
có những nguồn thu bằng trực tiếp sản xuất thì có thể có thêm những nguồn thu khác
do ngành du lịch đem lại. Nhng cũng có thể thấy ngợc lại nông nghiệp cũng mở ra
cho ngành du lịch một cơ hội rất lớn để phát triển các dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí
đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày càng tăng nh hiện nay. Bởi nông nghiệp bớc sang
thế kỷ XXI phát triển theo xu hớng nông nghiệp sinh thái bền vững, khi đó nông
nghiệp sẽ có rất nhiều tiềm năng về du lịch sinh thái.
Có thể thấy rằng sự kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch là một điều rất cần thiết
cho việc phát triển một nền nông nghiệp sinh thái bền vững phù hợp với xu hớng phát
triển chung của nền nông nghiệp thế giới. Phù hợp với việc có thể tận dụng các tiềm
năng rất lớn, tiềm ẩn của nông nghiệp vào trong ngành du lịch- dịch vụ. Mặt khác,
nông nghiệp là một ngành có vai trò quan trọng đối với đời sống con ngời. Nó là
ngành cung cấp nông sản phục vụ nhu cầu thiếy yếu của đời sống con ngời. đồng
thời góp phần bảo vệ môi trờng sinh thái. Tuy nhiên , vai trò trên chỉ phát huy tác
dụng khi nông nghiệp đợc phát triển theo hớng của nông nghiệp sinh thái bền vững
không chi tạo ra một lợng nông sản phục vụ nhu cầu hiện tại mà nó còn hớng tới sự
11
bảo vệ nguồn lực đáp ứng nhu cầu tăng lên của tơng lai. Nó không chỉ khai thác
nguồn lực mà còn bảo vệ và nâng cao chất lợng các nguồn lực.
1.1.3. Nội dung của sự kết hợp.
Muốn có đợc một sự kết hợp tốt cần tuân thủ nguyên lý kinh tế nông nghiệp đó là:
sự kết hợp phải dựa trên cơ sở chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá các ngành
sản xuất. Mà muốn có đợc điều này thì phải điều tra, đánh giá và xác định đợc tiềm
năng và lợi thế so sánh của từng vùng. Vậy thực chất của việc kết hợp giữa nông
nghiệp với du lịch đã đòi hỏi và cho phép có một sự kết hợp nhất định trong việc bố
trí và sử dụng các yếu tố trong hoạt động sản xuất của từng vùng và từng giai đoạn.
Nhng khi xem xét nội dung của việc phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững ta
không chỉ dừng lại xem xét vấn đề ở góc độ tổ chức mà cần phải xem xét vấn đề ở
các hoạt động quản trị kinh doanh. Những vấn đề trên cần đặt quá trình tổ chức sản
xuất nông nghiệp trên từng vùng và nắm chắc các mối quan hệ ngành và yếu tố sản
xuất trên phơng diện tự nhiên và phơng diện kinh tế kĩ thuật.
Các ngành sản xuất nông nghiệp dù trong nền nông nghiệp cổ truyền hay hiện đại
đều có 2 mối quan hệ mà không ai có thể phủ nhận nó là mối quan hệ với các điều
kiện tự nhiên và mối quan hệ với các điều kiện kinh tế xã hội. Nh đã biết đối tợng
của sản xuất nông nghiệp là một cơ thể sống nếu xem xét trên phơng diện mối quan
hệ về các điều kiện tự nhiên, chúng ta phải phải biết đợc mối quan hệ giữa các đối t-
ợng của sản xuất nông nghiệp sinh thái bền vững đó, tác động nên nhau nh thế nào?
tác động hạn chế, ngợc nhau hay tác động hỗ trợ thúc đẩy phát triển mà có thể nói
quyết định của các mối quan hệ ấy chính là tạo nên mối quan hệ giữa động vật và
thực vật, tạo nên mối quan hệ ngành giữa trồng trọt và chăn nuôi. Nếu xét trên phơng
diện mối quan hệ về các diều kiện tự nhiên kinh tế xã hội thì chúng ta phải biết đợc
mối quan hệ giữa tự nhiên với nhau trong chu trình tái sản xuất, tự nhiên đã chi phói
các mối quan hệ về kinh tế. Bởi vì trong sản xuất nông nghiệp quá trình tái sản xuất
tự nhiên luôn ăn khớp với quá trình tái sản xuất kinh tế. Mối quan hệ này cũng là mối
12
quan hệ có sự chi phối lẫn nhau tức là có thể theo chiều hớng thúc đẩy hỗ trợ nhau
nhng cũng có thể theo chiều hớng đối nghịch nhau, kiềm chế lẫn nhau hay triêt tiêu
nhau. Do đó khi xây dựng bất kể một mô hình nông nghiệp nào ngời ta phải đặt nó ở
2 phơng diện, 2 góc độ tự nhiên và kinh tế xã hộ để xem xét các mối quan hệ.
Cũng do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, thứ nhất là đặc điểm của sản phẩm
nông nghiệp: tơi sống, cồng kềnh... đã đặt ra yêu cầu có sự kết hơp chặt chẽ giữa sản
xuất nông nghiệp và chế biến nông sản giữa khai thác các sản phẩm chính và tận
dụng các phế phẩm để nâng cao hiệu quả sản xuất và bảo vệ môi trờng. Thứ 2 là đặc
điểm địa bàn sản xuất cũng đặt ra đòi hỏi phải có hệ thống vận chuyển và bảo quản
sản phẩm nong sản thật tốt, làm giảm tỉ lệ hao hụt do hỏng gây ảnh hởng tới năng
suất thu nhập và môi trờng sản xuất tại chỗ... ngoài đặc điểm của sản xuất nông
nghiệp thì đảm bảo cho việc kết hợp giữa nông nghiệp với du lịch phát triẻn tốt nhất
và đúng theo mục tiêu đề ra, cần tuân thủ đúng theo qyi hoạch để cho đảm bảo các
mục tiêu sẽ đợc thực hiện đúng, đầy đủ, ngiêm túc.
Khoa học công nghệ phải đợc áp dụng và đa vào nhiều trong sản xuất nông
nghiệp đặc biệt là công nghệ sinh học và các khoa học kỹ thuật mới. Bởi vì, nh hiện
nay nông nghiệp có xu hớng phát triển theo hớng nông nghiệp sinh thái bền vững,
đặc biệt là phát triển nông nghiệp theo hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch. Cho
nên, trớc xu hớng đó đòi hỏi phải áp dụng kỹ thuật và khoa học công nghệ vào sản
xuất nông nghiệp để có thể phù hợp với các yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại
(nông nghiệp bền vững) phát triển theo hớng sản xuất các sản phẩm sạch, hàm lợng
các hoá học trong các sản phẩm nông nghiệp ở mức không làm nguy hại và ảnh hởng
đến sức khoẻ ngời tiêu dùng cũng nh chính những ngời tham gia trực tiếp vào sản
xuất nông nghiệp, nhằm thu hút và hấp dẫn khách du lịch bởi cảnh quan của khu vực
nông nghiệp, nông thôn hiện đại. Mặt khác, bằng việc phát triển các dịch vụ du lịch
trong khu vực sản xuất nông nghiệp, nông thôn sẽ góp phần làm tăng thu nhập cho
ngời sản xuất nông nghiệp giúp ngời sản xuất nông nghiệp có thể bằng các nguồn thu
13
này đa vào tái đầu t sản xuất theo hớng phát triển nông nghiệp hiện đại có sự quan
tâm thoả đáng đến bảo vệ môi trờng.
1.1.4. ý nghĩa của sự kết hợp.
Trong tình hình phát triển của các nền nông nghiệp nh hiện nay việc phát triển
nông nghiệp theo hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch có ý nghĩa quan trọng nh một
nhân tố không thể không công nhận nếu nh muốn phát triển mô hình nông nghiệp
sinh thái bền vững, bởi vì nó là xu hớng tất yếu của xã hội, của một nền nông nghiệp
hiện đại. Mặt khác, nếu nh chúng ta xét ý nghĩa của việc phát triển nông nghiệp theo
hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch dới các góc độ cụ thể về kinh tế và quản lý hay
xã hội nó còn có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Cụ thể:
- Dới góc độ xã hội: nếu nh phát triển nông nghiệp theo hớng kết hợp nông nghiệp
với du lịch sẽ góp phần làm đảm bảo sự phát triển một nền sản xuất nông nghiệp
không những vững mạnh mà còn phát triển một nền nông nghiệp bình đẳng, một nền
nông nghiệp có tính văn hoá nhân văn cao hay một nền văn mà trong đó ngời lao
động trong nông nghiệp có thể tự tăng thêm kiến thức, sự hiểu biết về văn hoá dân
tộc, văn hoá của nhiều nơi khác. Ngoài ra trong nền nông nghiệp phát triển theo hớng
kết hợp nông nghiệp với du lịch sẽ tạo ra một môi trờng sinh thái bền mà ở đó ngời
lao động sẽ có thể tự hởng thụ đợc những thành quả của mình dới góc độ sinh thái du
lịch.
- Dới góc độ kinh tế và quản lí: có thể nói cái đầu tiên mà ngời lao động có thể
nhận thấy đợc đó là khả năng tăng cao mức sống, mức thu nhập của ngời lao động
trong nông nghiệp, ngời lao động và ngời dân. Còn dới tầm vĩ mô thì nếu nh việc
phát triển nông nghiệp theo hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch mà thực hiện tốt
thì cáI đầu tiên phảI nói tới đó là có một nền nông nghiệp với một môi trờng sinh thái
nông nghiệp rất bền vững, mặt khác khi đó việc sử dụng và khai thác các điều kiện
thuận lợi cũng nh khắc phụ những khó khăn sẽ tiến hành thuận lợi, bởi vì khi đó sự
kết hợp giữa sự phát triển một nền nông nghiệp phát triển bền vững lâu dài với việc
14
khai thác các u điểm của nền nông nghiệp bền vững đó phục vụ cho chính ngời tham
ra hoạt động sản xuất nông nghiệp có thể tăng thêm nguồn thu thông qua khai thác
lợi thế của mình. Khi đó khả năng táI đầu t và phát triển sản xuất cũng đợc quan tâm
kịp thời hơn và đúng mức hơn đảm bảo sự phát triển bền vững của nền nông nghiệp
hiện đại đó là nên nông nghiệp sinh thái bền vững.
Tóm lại có thể thấy ý nghĩa của sự chon lựa khi phát triển nông nghiệp theo hớng
kết hợp nông nghiệp với du lịch trong phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững
là một điều hết sức có ý nghĩa dù dới góc độ kinh tế quản lí hay dới góc độ xã hội.
1.2. Kinh nghiệm kết hợp.
1.2.1. Kinh nghiệm của một số vùng trong cả nớc:
Việt nam là một nớc đang phát triển trong khu vực đông Nam á có đặc điểm đất ít
ngời đông. Năm 1995 Việt Nam có dân số 73,962 triệu ngời, trong đố dân số nông
nghiệp là 58,342 triệu ngời chiém 79,5% tổng dân số cả nớc. Mật độ dân số là 223
ngời/km
2
. cũng trong thời gian trên, diện tích đất canh tác ở Việt Nam là 6,985 triệu
ha, bìng quân diện tích đất canh tác trên nhân khẩu là 1400m
2
, lao động nông nghiệp
có 26,110 triệu ngời, chiếm 71% lao động toàn xã hội. Việt Nam có khí hậu nhiệt
đới, gió mùa, nóng ẩm, thuận lợi đối với phát triển nông nghiẹp, nhng lại thờng có
bão lụt gây thiệt hại cho môi trờng.
Nền nông nghiệp nớc ta hiện là nền nông nghiệp hữu cơ với những giống cây
trồng địa phơng và phân bón chủ yếu là phân bón hữu cơ nh phân xanh, phân
chuồng, phân nớc. Làm đất thì vẫn dùng các công cụ thô sơ lạc hậu. Chủ yếu là dựa
vào chất đất, giàu chất dinh dỡng mà có thể tiến hành thâm canh tăng năng suất cây
trồng.
Xu thế về phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững thực chất đã đợc nớc ta chú ý
từ rất lâu ngay từ nghị quyết đại hội VIII đã đợc Đảng đa ra nhng nó chỉ đợc khẳng
định rõ ràng lại một lần nữa trong nghị quyết đại hội IX. Chính vì vậy, nền nông
nghiệp sinh thái bền của nớc ta một số năm gần đây tuy có phát triển nhng phát triển
15
còn chậm cha đáp ứng yêu cầu của cân bằng sinh thái ở khu vực nông nghiệp, nông
thôn đã bị mất cân bằng sinh thái và cha đáp ứng yêu cầu nâng cao thâm canh trong
nông nghiệp. Vì suy cho cùng thì mọi hoạt động mang tính nhân bản của con ngời
đều nhằm bồi dỡng và hoàn thiện đời sống con ngời. Mục đích cuối cùng của sản
xuất nông nghiệp cũng vậy, thật là sai lầm khi cho rằng sản xuất nông nghiệp có
nhiệm vụ sản xuất lơng thực, thực phẩm và các sản phẩm khác nhằm phục vụ cho
nhu cầu thiết yếu của con ngời, bên cạnh đó nó cũng quan tâm bối dỡng và bảo vệ
môi trờng sản xuất. Do hoạt động sản xuất nông nghiệp chính là hoạt động khai thác
các tài nguyên thiên và một điều nữa phải thấy đợc đó là chúng ta hiện nay không chỉ
sử dụng các tài nguyên của chúng ta mà chúng ta còn đang vay mợn tài nguyên của
con cháu chúng ta nữa.
ở nớc ta, do có nền nông nghiệp lâu đời nên sự tồn tại về phơng thức canh tác
thâm canh cũ vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức ngời dân, mặt khác nớc ta cũng vẫn còn
rất nghèo. Làm cho trình độ canh tác ở một số địa phơng còn lạc hậu, kéo dài nh nạn
phá rừng, đốt rẫy, làm nơng, chăn nuôi gia súc thả rông nên năng suất cây trồng, vật
nuôi tăng chậm. Mặt độ che phủ của thảm thực vật ở hầu hết các vùng sản xuất nông
nghiệp trong cả nớc hiện nay đang giảm xuống nghiêm trọng, do đó cái đầu tiên là
không đảm bảo an toàn lơng thực, thực phẩm cho ngời dân sinh sống, sau đó là các
điều kiện môi trờng sống của ngời dân.
Những hệ thống canh tác truyền thống với các phơng pháp canh tác của mình đã
bộc lộ những hạn chế về mặt nông học và không cạnh tranh đợc về năng suất so với
các phơng pháp canh tác hiện đại đợc đầu t nhiều. Nh phơng pháp canh tác truyền
thống thì sử dụng các loại phân xanh, phân hữu cơ nhng phơng pháp canh tác hiện
đại hiẹn nay lại quá lạm dụng trong việc sử dụng hoá chất, làm cho đất bị thái hoá.
Vì vậy hiện nay cần phải có phơng pháp canh tác để làm sao tận dụng đợc u điểm
của phơng pháp canh tác truyền thống và phơng pháp canh tác hiện đại, đó là lấy tính
16
đa dạng sinh học trong phơng pháp truyền thống và tính quy trình trong phơng pháp
canh tác hiện đại.
Nông nghiệp bền vững, nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái thực tế đã phần
nào biết tận dụng đợc các u điểm trên của phơng pháp canh tác truyền thống và hiện
đại. Những khái niệm trên còn đợc phổ biến nhiều trong nớc ta vài năm gần đây và
trên thực tế không phải nớc ta không có những kinh nghiệm và hiểu biết trong lĩnh
vực này. Ngời nông dân nớc ta đã từng thực hiện phơng thức canh tác nhiều loài, luân
canh và xen canh.
Chẳng hạn nh mô hình VAC là một kiểu hệ sinh thái bao gồm vờn cây, ao cá và
chăn nuôi kết hợp chặt chẽ với nhau, vừa tăng cờng hiệu quả kinh tế vừa góp phần
bảo vệ môi trờng, đã đợc nớc ta sử dụng, triển khai từ rất lâu. Chúng đã đem lại
những kết quả và hiệu quả lớn cho ngời sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên đối với nền
nông nghiệp sinh thái bền vững vừa phải biết khai thác tối u đồng thời bảo vệ và phát
triển tài nguyên sinh vật tại chỗ. Theo phơng diện này thì nông nghiệp sinh thái cần
những công nghệ cụ thể sau:
- Xen canh: gieo trồng hai hoặc nhiều cây trồng cùng một lúc trên một mảnh đất.
Lợi ích khi đó tăng lên do các cây trồng sẽ khai thác những nguồn khai thác khác
nhau hoặc tác động tơng hỗ một cách tự nhiên với nhau. Nếu một cây là cây họ đậu
có thể cung cấp dinh dỡng cho các cây khác. Các tác động tơng hỗ có thể sử dụng để
kiểm soát sâu hại và cỏ dại.
- Luân canh: gieo trồng hai hoặc nhiều cây trồng luân phiên nhau trên cùng một
mảnh đất.
- Nông lâm kết hợp: là một dạng xen canh mà trong đó cây cối hàng năm đợc
trồng xen theo không gian với cây trồng lâu năm hoặc cây bụi. Những cây này có bộ
rễ ăn sâu xuống đất trong đất có thể dễ dàng thu hút nớc và các chất dinh dỡng mà
cây bụi không thể hút đợc. Các cây cao cũng có thể cung cấp bóng mát và vật lực che
phủ đất trong lúc cây họ lúa giảm thiểu cỏ dại và chống xói mòn.
17
- Làm cỏ kết hợp: giống nh nông lâm kết hợp, nhng là sự phối hợp giữa cây dài
ngày với đồng cỏ và các loài làm thức ăn gia súc khác mà trên đó động vật đợc chăn
thả.
Sự hỗn giao của chồi non, cỏ và các loại cây họ lúa sẽ hỗ trợ cho chăn nuôi gia
súc tổng hợp.
- Phân xanh gieo trồng các cây họ đậu và các cây trồng khác để cố định nitơ và
sau đó vùi lấp vào trong đất cho cây trồng sau. Thờng dùng là điền thanh, cốt khí,...
- Làm đất bảo vệ: các hệ thống làm đất tối thiểu hoặc làm đất mà trong đó hạt
giống trực tiếp vào đất với việc chuẩn bị canh tác rất ít hoặc không chuẩn bị. Điều
này sẽ làm giảm lợng đất bị xáo trộn và giảm rửa trôi đất và dinh dỡng.
- Kiểm soát sinh học: việc sử dụng các thiên địch tự nhiên ký sinh để kiểm soát
sâu bệnh.
Nếu sâu bọ là kẻ ngoại lai thì những thiên địch có thể nhập khẩu từ những nớc có
nguồn gốc của sâu bệnh, nếu là bản địa, cần sử dụng những kỹ thuật khác nhau để
tăng thêm các thiên địch tự nhiên hiện có.
- Phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) là việc áp dụng quan điểm sinh thái vào
việc phòng chống sâu bệnh hay cụ thể hơn là sử dụng tất cả những kỹ thuật hợp lý để
kiểm soát sâu bệnh trong một phơng thức tổng hợp cho phép vừa phòng ngừa vừa
điều hoà các mối quan hệ.
Công nghệ này hiện nay đang đợc rất chú ý quan tâm áp dụng, do khi đó sẽ coi
đồng ruộng là một hệ sinh thái mà con ngời sẽ sử dụng một hệ thống các biện pháp
để có thể dung hoà với nhau nh sinh học, hoá học, canh tác và giống chống chịu sâu
bệnh để ngăn ngừa sâu bệnh IPM không loại trừ hoàn toàn việc dùng thuốc hoá học,
nhng dùng một cách có chọn lọc để giảm độc đối với các nhân tố sinh học, các biện
pháp này lại ít tốn kém, phù hợp với trình độ kinh tế, xã hội của các hệ sinh thái.
Mục đích của IPM là hạn chế các sinh vật gây hại dới ngỡng kinh tế, nghĩa là chi phí
18
các biện pháp phòng chống sâu bệnh gây hại cho cây trồng tối đa bằng thiệt hại do
sâu bệnh gây nên.
Ngoài ra trong nông nghiệp sinh thái nh chọn cây gì, con gì trong một hệ sinh thái
tơng ứng không thể áp đặt theo ý muốn chủ quan mà phải điều tra, nghiên cứu để
hiểu biết thiên nhiên, nhằm tận dụng các nguồn lợi tự nhiên, kinh tế, xã hội. Không
ai hiểu biết hệ sinh thái nông nghiệp ở một vùng bằng chính những ngời đã sinh ra và
lớn lên ở đó qua nhiều thế hệ. Do vậy, để có thể xây dựng đợc một mô hình nông
nghiệp sinh thái bền vững lâu dài và có hiệu quả, sự cần thiết phải có sự tham gia của
các cơ quan ban ngành có liên quan và kết hợp với sử dụng các phơng pháp thực
nghiệm, so sánh,... hiện nay biện pháp này đã đợc nhiều địa phơng quan tâm thực
hiện. Nhiều mô hình luân canh cây trồng hiện đang đợc lựa chọn và áp dụng. Tuỳ
vào điều kiện tự nhiên và hệ sinh thái nông nghiệp của mỗi địa phơng, mỗi vùng mà
có các mô hình luân canh, xen canh, tăng vụ phù hợp. Cụ thể:
* Một mô hình phát triển nông nghiệp sinh thái đặc trng của vùng cửa sông Bạch
Đằng mà nhiều ngời biết tới đó là xã Liên Vi, thành phố Hải Phòng. Đây là mô hình
nông nghiệp sinh thái trên khu vực đất thấp (đất ven cửa sông ) đợc viện kinh tế sinh
thái xây dựng. Trớc đây, dân xã Liên Vi sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, không có
ngành nghề thủ công truyền thống, ít chú ý tới đánh bắt hải sản. Chỉ có một số năm
gần đây nuôi trồng và đánh bắt hải sản mới đợc quan tâm và phát triển. Hiện nay, hầu
hết lao động của Liên Vi phục vụ trồng lúa và nuôi trồng thuỷ sản. Trong 1600 hộgia
đình ở Liên Vi, có 90% số hộ làm ruộng kết hợp đầm nuôi tôm, chỉ có 10% hộ làm
nghề biển. Với u điểm là vùng đầm ven biển có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nên
Liên Vi đã tận dụng tối đa u điểm của mình để xây dựng mô hình nuôi trồng thuỷ
sản năng xuất ổn định. Tuy nuôi trồng thuỷ sản ở đây cha phát triển nhng cũng đã có
một thời gian dài nhân dân sinh sống ở đây nên đã tích luỹ đợc một số kinh nghiệm
quý báu. Trong mô hình nuôi trồng thuỷ sản ngời ta vẫn chú trọng phát triển hình
thức nuôi quảng canh để duy trì thảm vùng ngập mặn, thiết kế và xây dựng hệ thống
19
cống và đê bao hợp lý nhằm khai thác lâu bền vùng này.Ngoài các nguồn thu chính
từ phát triển nuôi trồng thuỷ sản thì ở Liên Vi cũng đã có thêm các nguồn thu từ các
dịch vụ du lịch, mà hiện nay nó đã mang lạI cho vung một nguồn thu đáng kể đảm
bao rcuộc sống cho ngời dân ngày càng ổn định.
Huyện Phú Mỹ tỉnh Bình Định đã rất phát triển trên vùng cồn cát ven biển miền
trung nớc ta, nhờ xây dựng mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững dới hình thức
mô hình kinh tế sinh thái vùng cát có quy mô nông hộ tức là mô hình kinh tế vờn
nhà, trong đó có sự bảo đảm có tính chất cơ bản nh ổn định, năng suất, chống chịu và
đa dạng. Mô hình kinh tế vờn nhà đợc xây dựng trên diện tích khoảng 2 ha ( 100
x200m ) đến 4ha với các yếu tố cấu thành giữ chức năng nhất định nh:
- Giếng nớc để phục vụ sinh hoạt và tới cây.
- Chuồng trại để chăn nuôi và lấy phân bón.
- Trồng dừa quanh nhà vừa tạo bóng mát, vừa cho năng suất cao.
- Trồng phi lao xung quanh khu đất và dọc đờng bờ phân rõ vừa có tác dụng rừng
phòng hộ, vừa lấy củi đun.
- Cây điều trồng theo khoảnh để kinh doanh dài ngày, ngoài ra còn tập chung vào
điều kiện cụ thể mà có thể lựa chọn tập đoàn cây trồng phù hợp.
Với việc bố trí xây dựng mô hình kinh tế vờn nhà trong mô hình kinh tế sinh
thái nh trên đã biến vùng cồn cát hoang hoá, hầu nh không có cây cối, một kiểu
hoang mạc bên bờ biển thành vùng đất có thảm thực vật xanh tơi, biến đất cồn cát
thành đất canh tác và đất thổ c. Ngoài ra mô hình còn giải quyết việc làm cho khoảng
1400 lao động tạo ra đất canh tác cho cuộc sống ổn định cho 600 hộ gia đình với
khoảng 8000 nhân khẩu.
* Mô hình trồnh lúa đạt hiệu quả cao, bền vững ở nông trờng sông hậu, nông tr-
ờng Cờ Đỏ Viễn Hoá ở đồng bằng sông Cửu Long ở Ô Môn tỉnh Cần Thơ đã có
những biện pháp làm giảm chi phí sản xuất lúa dới góc độ tiếp cận theo hớng phát
triển bền vững hệ thống sinh thái nh sau: sử dụng giống xác nhận ( giống chuẩn) tăng
20
năng suất từ 5- 7% áp dụng biện pháp phòng trừ dịch bệnh tổng hợp (IPM) bón phân
đạm bảo đảm theo bảng so màu lá lúa, tiết kiệm khoảng 100.000đ/ha, với mô hình
này đã giảm đợc chi phí 20- 30%.
Phát triển nông nghiệp theo hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch đang đợc thực
hiện ở rất nhiều vùng trên cả nớc, bớc đầu đã khẳng định đợc tính hiệu quả và sự phù
hợp đối với các điều kiện khác nhau. Đặc biệt là các thành phố lớn nh Hà Nội, Thành
Phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng... hớng phát triển nông nghiệp theo hớng kết hợp nông
nghiệp với du lịch cũng đang từng bớc khẳng định vai trò của mình, bằng thực tế
hiện nay và nó cũng tự mình khẳng định tính đúng đắn của nó phù hợp với nhu cầu
phát triển thế giới.
1.2.2 Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.
* Inđônêxia:
Inđônêxia, đặc biệt là thành phố Java có một truyền thống phát triển nông nghiệp
giống nh phơng pháp cổ điển đợc áp dụng ở Trung Quốc từ mấy thế kỉ trớc, trong đó
nông nghiệp phát triển theo mô hình nông nghiệp trang trại. trong mô hình này cây
trồng vật nuôi đợc phát triển trên nền sinh thái ẩm của đất và nớc với công nghệ sản
xuất kết hợp giữa phơng pháp cổ truyền của ngời Java và phơng pháp thâm canh theo
chiều sâu có từ thời kì thuộc địa của Hà Lan. Cũng nh xu hớng phát triển chung của
nông nghiệp thế giới hiện nay, Inđônêxia ngày nay có vận dụng phơng pháp kết hợp
công nghệ truyền thống và hiện đại để phù hợp với đặc điểm phát triển nông nghiệp
theo hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch.Với sự quan tâm trợ giúp của chính phủ
trung ơng và địa phơng trong việc đào tạo, nâng cấp kiến thức cho ngời dân và cho
ngời dân vay vốn đầu t vào sản xuất nông nghiệp ở Inđônêxia đã phát triển tơng đối
mạnh.
Hiện nay, Inđônêxia đã thu đợc rất nhiều thành tựu trong phát triển nông nghiệp
nhng có một thành tựu rất quan trọng đó là đã tăng đợc hàm lợng các chất dinh dỡng
21
trong sản xuất lơng thực từ 3-6 lần so với 5 năm qua, đồng thời các nguồn lực cho
sản xuất nông nghiệp nh chất đất cũng đợc bảo vệ và ngày càng đợc cải thiện.
*Trung Quốc.
Trung Quốc là một quốc gia cũng đi theo đờng lối xã hội chủ nghĩa nh Việt Nam.
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn với 932.641 km
2
diện tích đất tự nhiên, nhng
diện tích đất canh tác chỉ chiếm 7% diện tích đất canh tác của thế giới, khi đó dân số
chiếm tới 22% dân số thế giới có thể thấy là đất ít ngời đông. Cho nên yêu cầu tiêu
dùng nông sản rất cao, muốn vậy phải nâng cao khả năng quay vóng của đất, chỉ có
thể phối hợp sử dụng và bồi dỡng đất , sử dụng nhiều loại sinh vật cùng sinh trởng
cộng sinh bổ sung hỗ trợ cho nhau sinh trởng phát triển tốt, kết hợp cả trồng trọt,
nuôi cá, trồng nấm..., tăng nhiều loại cây trồng, đồng thời tiến hành luân canh cạn- n-
ớc nâng cao năng lực của đất.
Chính phủ Trung Quốc rất coi trọng phát triển nông nghiệp tập thể- là kiểu sản
xuất nông nghiệp mà trong đó có nhiều loại cây trồng nhiều loại sinh vât cùng sinh
sống, lợi dụng một cách tối đa các diều kiện tự nhiên nh ánh sáng, nhiệt độ, không
khí, nớc, đất, thời gian và không gian nhằm cho một sản lợng chất lợng năng xuất
các loại sinh vật cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác. Đạt hiệu quả kinh tế cao
nhất, những năm gần đây phong trào làm nông nghiệp cụ thể đã rất mở rộng. Đẩy
mạnh tốc độ tăng từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại. Mặt khác,
chính phủ Trung Quốc cũng rất coi trọng đẩy mạnh , nhanh đa khoa học công nghệ
vào sản xuất nông nghiệp ( 3/1986 đã phê duyệt chơng trình công nghệ cao là chơng
trình High-Tech-86-3). Nhờ đó mà nền nông nghiệp Trung Quốc hiện nay rất phát
triển và phát triển bền vững. Các thành tựu mà Trung Quốc có đợc mô hình nông
nghiệp theo hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch theo đúng nghĩa của nó. Ví dụ nh
mô hình nông nghiệp kết hợp với du lịch ở thành phố Chu Hải đã có hơn 1,0 triệu lợt
ngời đến thăm quan. Khu công nghệ hoa cây cảnh Côn Minh đã trở thành một trọng
tâm quốc tế về hoa cây cảnh với hàng triệu lợt ngời từ khắp trên thế giới và trong nớc
22
thăm quan. Mô hình nông nghiệp sinh thái Angi Hangctor có 6 chi, 44 loài mọc tre
hoang dại và 26 chi với 195 loài tre trồng trong vờn, thu nhập 130 triệu và 18,0 triệu
tệ/ năm. tổng thu của công nghiệp tre là 1,6 tỉ tệ. Riêng năm 1999 có hơn 500.000 du
khách tới thăm quan.
Có thể thấy răng ở Trung Quốc vai trò của chính phủ trong sự phát triển nông
nghiệp là rất lớn và rõ ràng. Sự chỉ đạo của Trung Quốc cũng rất tập trung và có qui
hoạch kế hoạch cụ thể.
* Ixrael:
Ixrael nằm ở khu vực Tây á (Trung Cận Đông) tiếp giáp với ĐịaTrung Hải và các
nớc Xiri, Libang, Gioocdani,Palextin. Diện tích tự nhiên của Ixrael là 20.770 km
2
,
Ixrael có diện tích canh tác không nhiều, đất đai khô cằn, hiếm nớc. Nền sản xuất
nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. về dân số có 5,863triệu ngời, mật độ dân số cao
265ngời/km
2
(1997).
Mặc dù điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp nhng
trong những năm qua Ixrael đã xây dựng đợc một nền nông nghiệp rất bền vững.
Chính do sự hạn chế này mà Ixrael đã có những tìm tòi sáng tạo ra một cơ cấu cây
trồng, vật nuôi thích hợp với đặc điểm đất đai, tận dụng điều kiện khí hậu ít ma, nắng
nhiều đa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Do u thế về sản phẩm
nông nghiệp của Ixrael là trái cây, rau, hoa, thịt, sữa nên có thể nói Ixrael là một
quốc gia phát triển mạnh mô hình nông nghiệp sinh thái bền vững dới góc độ các qui
trình sản xuất nh: công nghệ canh tác và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, công
nghệ sản xuất rau quả tơi và giống rau quả, công nghệ sản xuất hoa xuất khẩu,... cho
nên nguồn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của họ rất cao so với tiềm năng của họ,
nh tổng thu nhập sản xuất nông nghiệp là 3000 triêu USD sản xuất động vật 1000
triệuUSD, sản xuất sản phẩm tơi 740 triệu USD (năm 2000). Và hiện nay nền nông
nghiệp của họ vẫn ngày càng phát triển càng khẳng định tính đúng đắn của mô hình
23
nông nghiệp sinh thái bền vững trong sản xuất nông nghiệp dới hớng kết hợp, biết
tận dụng tối đa những điều kiện và sử dụng hợp lí
Tóm lại, có thể thấy nông nghiệp thế giới hiện nay đã ít nhiều vận dụng và phát
triển nông nghiệp theo hớng nông nghiệp sinh thái bền vững và cũng thu đợc không
ít những kết quả nhất định trong việc phát triển theo hớng này. Nớc ta là một nớc đi
nên sau có rất nhiều thuận lợi trong việc học hỏi và tiếp thu những kinh nghiệm quý
báu mà các nớc khác đã từng gặt hái đợc cũng nh đã phải trải qua. Điều này còn có
thể khẳng định và chứng minh tính đúng đắn của xu hớng phát triển này là hoàn toàn
đúng đắn mà chúng ta phải theo. Có thể phát triển nông nghiệp theo hớng kết hợp
nông nghiệp với du lịch ở Việt Nam hiện nay còn quá mới, nhng đầy là một điều tất
yếu mà chúng ta phải làm bởi vì đúng theo t tởng phát triển thì chúng ta cần phải
phát triển theo hớng tiếp thu những cái cần học hỏi của thế giới, của các nớc đi trớc
nhng không đợc dập khuôn mà phải áp dụng phù hợp và phát triển theo hớng cao
hơn, thích hợp hơn với các điều kiện thuận lợi của Việt Nam. Đó là một điều mà Việt
Nam cần phải làm và phải làm cho thất tốt.
Chơng 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp ở xã Đông Mỹ Thanh
Trì theo hớng kết hợp nông nghiệp với du lịch.
24
2.1. Khái quát về các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hởng đến phát
triển nông nghiệp theo hớng kết hợp
2.1.1.Điều kiện tự nhiên.
* Vị trí địa lí:
Đông Mỹ là một xã thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm thành
phố 15 km về phía Nam. Phía Bắc giáp với xã Duyên Hà, phía Đông giáp với xã Vạn
Phúc, phía Tây giáp với xã Ngũ Hiệp và xã Liên Ninh, phía Nam giáp với xã Ninh Sở
và xã Duyên Thái của tỉnh Hà Tây. Đông Mỹ nằm trọn vẹn trong đê, cách sông Hồng
nơi gần nhất khoảng 800 m. Đông Mỹ là một xã rất có bề dày lịch sử, truyền thống
cách mạng, Đông Mỹ đã thu hút đợc rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
lịch sử cũng nh các khách du lịch tham quan. Đông Mỹ đã từng là trung tâm của
huỵện Thanh Trì, cho nên cơ sở hạ tầng ở đây đã đợc quan tâm xây dựng.
* Khí hậu, thời tiết:
Đông Mỹ thuộc vùng khí hậu của thành phố Hà Nội, chịu ảnh hởng của khí hậu
thời tiết nhiệt đới gió mùa, chia thành hai mùa rõ rệt, mùa nóng ẩm (mùa ma) từ
tháng 4 đến tháng 9 và mùa khô lạnh từ tháng 10 đến tháng3 năm sau. Nhiệt độ bình
quân là 23,40C, độ ẩm trung bình là 84%, lợng ma bình quân 1700 1900 mm đợc
tập trung chủ yếu vào mùa ma nóng chiếm trên 80%.
Về chế độ thuỷ văn, Đông Mỹ nằm cạnh sông Hồng, chịu chế độ thuỷ văn của
sông Hồng rất rõ rệt, mực nớc ngầm khá cao vào mùa ma dao động trên dới 800 cm
và thấp vào mùa khô hanh, thờng dao động trong khoảng 300 cm.
Biểu 1: Khí hậu, thời tiết và chế độ thuỷ văn của thành phố Hà Nội.
Chỉ tiêu ĐVT 1995 1997 1999 2000 2001
Nhiệt độ bình quân
0
C 23,6 24,3 24,3 24,2 24,1
Lợng ma cả năm Mm 1245 1871,6 15576 1278 2411
Số giờ nắng cả năm Giờ 1408 1277,6 1429,3 1400,3 2247
Độ ẩm trung bình năm % 79 80 79 80 81
25