Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

Nhân sinh quan trong triết học trang tử đặc điểm và ý nghĩa lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 161 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


ĐINH THẾ HOÀNG

NHÂN SINH QUAN TRONG TRIẾT HỌC
TRANG TỬ. ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA
LỊCH SỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


ĐINH THẾ HOÀNG

NHÂN SINH QUAN TRONG TRIẾT HỌC
TRANG TỬ. ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA
LỊCH SỬ

Chuyên ngành: Triết học

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS: TRƢƠNG VĂN CHUNG



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình do tôi nghiên cứu và thực hiện dƣới
sự hƣớng dẫn khoa học của PGS. TS. Trƣơng Văn Chung. Nội dung và kết
quả nghiên cứu đƣợc trình bày trong luận văn là trung thực. Các tài liệu sử
dụng trong luận văn đều có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng
Tác giả

ĐINH THẾ HOÀNG

năm 2017


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA NHÂN
SINH QUAN TRONG TRIẾT HỌC TRANG TỬ .................................... 9
1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ VĂN
HĨA. CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA NHÂN SINH QUAN TRONG TRIẾT HỌC
TRANG TỬ................................................................................................... 10
1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội của Trung Quốc thời Xuân Thu –
Chiến Quốc .................................................................................................. 10
1.1.2. Thành tựu về văn hóa và tƣ tƣởng của Trung Quốc thời Xuân thu Chiến quốc..................................................................................................... 18
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA NHÂN SINH QUAN TRONG TRIẾT HỌC
TRANG TỬ................................................................................................... 25

1.2.1 Cuộc đấu tranh tƣ tƣởng giữa hai trƣờng phái nhập thế - xuất thế trong
triết học Trung Quốc ..................................................................................... 25
1.2.2 Triết học của Lão Tử và Dƣơng Chu - tiền đề tƣ tƣởng nhân sinh trong
triết học Trang Tử ......................................................................................... 32
1.3. THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP VÀ TÁC PHẨM CỦA TRANG TỬ ......... 39
1.3.1. Thân thế và sự nghiệp của Trang Chu ................................................ 39
1.3.2. Về tác phẩm Nam Hoa Kinh ............................................................... 41
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM NHÂN SINH QUAN TRONG
TRIẾT HỌC TRANG TỬ. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA
LỊCH SỬ ............................................................................................ 52
2.1. VŨ TRỤ QUAN VÀ NHẬN THỨC LUẬN TRONG TRIẾT HỌC
TRANG TỬ................................................................................................... 52
2.1.1. Vũ trụ quan trong triết học Trang Tử .................................................. 54


2.1.2. Nhận thức luận trong triết học Trang Tử ............................................ 76
2.2. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÂN SINH QUAN TRONG TRIẾT
HỌC TRANG TỬ ......................................................................................... 99
2.2.1 Quan niệm của Trang Tử về con ngƣời, về cái chết và sự bất tử ...... 100
2.2.2 Quan niệm của Trang Tử về chính trị - xã hội ................................... 109
2.2.3 Phƣơng pháp nuôi dƣỡng sự sống ...................................................... 121
2.3. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ NHÂN SINH QUAN
TRONG TRIẾT HỌC TRANG TỬ ............................................................ 128
2.3.1. Giá trị và hạn chế .............................................................................. 128
2.3.2. Ý nghĩa của nhân sinh quan Trang Tử trong cuộc sống hiện nay .... 135
KẾT LUẬN ................................................................................................ 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 149


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đƣợc thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6 - 1991) đã xác định nền văn
hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trƣng cơ bản
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhƣ vậy, nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng
yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng cũng đã khẳng định: “Trong quá trình đổi mới phải chủ động,
không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt
Nam”1. Trong bối cảnh thế giới còn nhiều bất ổn và diễn biến khó lƣờng, các
tƣ tƣởng cực đoan, các phong trào khủng bố còn hiện diện và đất nƣớc ta
đang tiến hành công cuộc Đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng nhƣ hiện nay
thì việc nghiên cứu, tìm hiểu những nhân tố hợp lý, những giá trị mang tính
nhân loại, hấp thụ có phê phán những tƣ tƣởng triết học truyền thống cũng là
làm giàu thêm lý luận Mácxít, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu lý luận, phục vụ
thực tiễn của Cách mạng.
Cùng với Nho giáo và Phật giáo, Đạo giáo là một tƣ tƣởng triết học có
ảnh hƣởng rất lớn đến dân tộc Trung Quốc và dân tộc Việt Nam. Trong lịch
sử tƣ tƣởng Việt Nam, các nhà nghiên cứu thƣờng hay đề cập đến sự du
nhập và vai trò của ba đạo Nho – Phật – Lão hay còn gọi là Tam giáo đồng
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2016. tr.69.
1



2

nguyên trong tiến trình phát triển lịch sử tƣ tƣởng của dân tộc. Có một số ý
kiến cho rằng Nho giáo và Phật giáo đóng vai trị chủ đạo cịn Lão giáo chỉ
đóng vai trị thứ yếu, dung hồ giữa Nho giáo và Phật giáo. Tuy nhiên vào
từng thời điểm lịch sử cụ thể cùng với Nho giáo và Phật giáo, Đạo giáo đã
có ảnh hƣởng lớn đến nhân sinh quan của một số nhà tƣ tƣởng lớn của Việt
Nam nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, vv…
Ở Việt Nam hiện nay, đạo Lão có thể đƣợc gọi bằng những tên gọi sau:
Đạo Lão, Lão giáo, Đạo giáo, Hoàng Lão, Lão Trang. Đạo Lão do Lão Tử
sáng lập, sau này đƣợc Liệt Tử (Liệt Ngự Khấu 430 TCN - 349 TCN) và
Trang Tử (Trang Chu 369 TCN - 286 TCN) phát triển thêm. Nhƣng do ảnh
hƣởng lớn của Trang Tử cho nên ngƣời đời sau thƣờng gọi là Đạo Lão Trang.
Trang Tử vừa là một nhà hiền triết vừa là một văn nhân, do vậy tác
phẩm của ông vừa chứa đựng tƣ tƣởng triết học sâu sắc vừa là những áng
văn kỳ thú. Tƣ tƣởng của Trang Tử chủ yếu đƣợc thể hiện qua Nam Hoa
Kinh, Nam Hoa Kinh bao gồm ba mƣơi ba thiên, đƣợc chia thành ba phần:
nội thiên, ngoại thiên và tạp thiên. Từ trƣớc đến nay đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về Trang Tử và Nam Hoa Kinh bằng các góc độ khác nhau nhƣ:
Triết học, Văn hố, Tơn giáo, Văn học, Ngơn ngữ, vv… Tuy nhiên chỉ trên
phƣơng diện Triết học thì những nghiên cứu, nhận định, đánh giá về Trang
Tử nói chung, Nam Hoa Kinh nói riêng đã rất đa dạng, phong phú và vẫn
mở ra nhiều hƣớng, nhiều vấn đề cần đƣợc nghiên cứu, làm rõ.
Cùng với việc phát triển kinh tế - xã hội thì bên cạnh đó việc phát
triển về nhân sinh quan đạo đức, giáo dục vai trị nhân sinh quan của nhân
loại, trong đó có nhân sinh quan của Trang Tử, từ đó rút ra những ý nghĩa,
kinh nghiệm trong lịch sử để xây dựng xã hội hài hòa, con ngƣời hài hòa là
yêu cầu mang tính cấp thiết cần đƣợc chú trọng nghiên cứu. Chính vì những
lý do đã trình bày ở trên, tơi chọn đề tài: “Nhân sinh quan trong Triết học



3

Trang Tử. Đặc điểm và ý nghĩa lịch sử” cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài.
Tƣ tƣởng của Trang Tử đƣợc thể hiện chủ yếu trong Nam Hoa Kinh,
trong đó chứa đựng tƣ tƣởng triết học của Trang Tử vừa uyên thâm sâu sắc
lại vừa đạt đến trình độ điêu luyện trong nghệ thuật diễn đạt. Chính vì vậy
mà Nam Hoa Kinh đã trở thành mục tiêu nghiên cứu của các học giả Việt
Nam, Trung Quốc và nhiều nƣớc khác trên thế giới.
Về dịch thuật văn bản gốc ra tiếng Việt, những nhà nghiên cứu nhƣ
Nhƣợng Tống, Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Hiến Lê, Thu Giang Nguyễn
Duy Cần đã nghiên cứu và là dịch giả của bộ Trang Tử Nam Hoa Kinh.
Về góc độ văn hóa, những cơng trình nghiên cứu về Trang Tử nổi bật
là tập kỷ yếu “Đạo gia và văn hóa” (Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin xuất
bản, Trung tâm Trung Quốc học - Đại học Sƣ phạm Hà Nội) đây là tập hợp
những cơng trình nghiên cứu về Đạo gia và Đạo giáo của các nhà nghiên cứu
trong hai năm 1999 - 2000, “Địa vị lịch sử của Đạo gia trong văn hóa truyền
thống” của Lý Cẩm Tồn (Tạp chí Triết học. Hà Nội, số 2/1992); …
Về cơ sở lý luận và tiền đề kinh tế xã hội hình thành nên tƣ tƣởng của
Trang Tử có thể đề cập đến các cơng trình lớn nhƣ là: Cội nguồn văn hóa
Trung Hoa do GS. Đƣờng Đắc Dƣơng chủ biên (Nhà xuất bản Hội Nhà văn,
năm 2003). Đây là cơng trình lớn mang tính bách khoa về văn hóa Trung
Hoa, giúp ngƣời đọc tiếp cận những hiện tƣợng văn hóa riêng biệt đƣợc trình
bày theo sáu chủ đề tƣơng ứng với các chƣơng: hồn cảnh nhân văn, chế độ
chính trị, khoa học kỹ thuật, tƣ tƣởng lý luận, văn học nghệ thuật, phong tục
tập quán. Đặc biệt trong chƣơng 4 viết về tƣ tƣởng lý luận, nhóm tác giả đã
phân tích những vấn đề lớn của triết học Trung Quốc cổ đại và đƣa ra những
kiến giải khá sâu sắc cũng nhƣ phân tích những ảnh hƣởng của nó đến đời



4

sống văn hóa tinh thần của ngƣời Trung Hoa, trong đó có tƣ tƣởng của
Trang Tử.
Tiếp đến là cơng trình Kinh điển văn hóa 5000 năm Trung Hoa (5 tập)
do GS. Dƣơng Lực chủ biên (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, năm 2002).
Trong tập 2 của bộ sách này, tác giả đã trình bày một cách ngắn gọn những
điểm cốt lõi kinh điển của các trƣờng phái triết học Trung Quốc trong đó có
Đạo gia, và các tác giả đã phân tích những tƣ tƣởng chủ đạo của các đại diện
tiêu biểu của Đạo gia nhƣ Lão Tử, Trang Tử, … Từ đó, tác giả chỉ ra những
cống hiến của họ đối với nền văn hóa Trung Hoa, cũng nhƣ đƣa ra những
đánh giá hết sức khách quan và xác đáng. Nhìn chung đây là một cơng trình
lớn về văn hóa, đƣợc tác giả dày cơng nghiên cứu.
Tiếp theo là cơng trình Lịch sử văn hóa Trung Quốc do tác giả Đàm
Gia Kiện chủ biên (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1999). Đây là một
cơng trình nghiên cứu khá toàn diện những vấn đề cơ bản của lịch sử văn
hóa Trung Quốc, bao gồm ba phần: chế độ điển chƣơng các đời, các thể loại
văn học cổ đại, triết học và tôn giáo cổ đại. Trong phần 3, chƣơng triết học
tiên Tần, tác giả đã khái quát tƣ tƣởng của các triết gia thời kỳ này, trong đó
có tƣ tƣởng của Trang Tử. Cơng trình thật sự là một tài liệu tham khảo bổ
ích, giúp cho ngƣời viết thêm một góc nhìn về tƣ tƣởng thời kỳ Xuân Thu –
Chiến Quốc.
Bên cạnh đó là, bộ Lịch sử triết học Trung Quốc (2 tập) của Phùng
Hữu Lan (Nhà xuất bản khoa học xã hội, 2006) và Tinh thần triết học Trung
Quốc – Tân nguyên đạo của Phùng Hữu Lan (Nhà xuất bản khoa học xã hội,
2013) là hai cơng trình nghiên cứu lớn của học giả Phùng Hữu Lan. Qua
cơng trình lịch sử triết học Trung Quốc, tác giả đã trình bày một cách có hệ
thống tƣ tƣởng triết học Trung Quốc qua hai thời đại là Tử học và Kinh học.

Trong đó ở thời đại Tử học, tác giả đã tập trung đi sâu phân tích những


5

nguyên nhân làm nên sự phát triển về tƣ tƣởng ở thời đại Tử học, những tƣ
tƣởng và tôn giáo trƣớc thời Khổng Tử, sau đó tác giả lần lƣợt đi vào phân
tích nội dung tƣ tƣởng của các trƣờng phái triết học nhƣ Nho gia, Mặc gia,
Đạo gia, Danh gia, Pháp gia, ... Trong đó có tƣ tƣởng của Trang Tử.
Cuối cùng là cơng trình Đại cương Triết học Trung Quốc của Dỗn
Chính chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1997).
Trong tác phẩm này, tác giả đã trình bày một cách có hệ thống lịch sử tƣ
tƣởng thời kỳ phát sinh triết học Trung Quốc từ lúc thai nghén đến các trào
lƣu tƣ tƣởng thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc nhƣ Đạo gia (Lão Tử, Dƣơng
Chu và Trang Tử), Nho gia (Khổng Tử, Mạnh Tử), Mặc gia (Mặc Tử, Hậu
Mặc), Pháp gia (Hàn Phi), … đến thời quân chủ gồm nhà Hán, thời tan rã
đầu tiên của Đế quốc… cho đến thời kỳ cận đại. Qua đó tác giả cho ngƣời
đọc một cách nhìn tổng quát về tƣ tƣởng Trung Quốc qua từng thời kỳ thơng
qua những phân tích và so sánh, cũng nhƣ có những lý giải khá sâu sắc.
Về tƣ tƣởng triết học Trang Tử, một số những cơng trình nghiên cứu
tiêu biểu có thể kể đến nhƣ là: “Tư tưởng Lão Trang” của tập thể các tác giả
Triệu Kỳ Bân, Hầu Ngoại Lƣ, Đỗ Quốc Tƣờng đã đƣợc nhà xuất bản Sự
Thật xuất bản năm 1959; “Triết học nhân sinh của Trang Tử” của Dƣơng
Phàn (Thƣ viện Quốc lập Trung ƣơng thành phố Đài Bắc xuất bản, 1994);
“Cách nhìn về tư tưởng triết học của Trang Tử” của Trình Nghi Sơn (Tạp
chí Nghiên cứu Triết học, Bắc Kinh, số 8/1980); “Một hệ thống duy tâm
khách sâu rộng, tinh tế và sắc bén - biện luận về tư tưởng triết học của học
phái Trang Tử” của Tào Sở Cơ; “Vấn đề nhận thức trong triết lý nhân sinh
của Trang Tử” của Cung Thị Ngọc (Tạp chí Triết học 1/1997). Và đặc biệt
là luận án tiến sĩ “Tư tưởng triết học của Trang Tử trong tác phẩm Nam Hoa

Kinh” của Cung Thị Ngọc năm 2002, đây có thể nói là một cơng trình
nghiên cứu khá đầy đủ về triết học Trang Tử và những ảnh hƣởng của nó ở


6

Việt Nam. Ngồi việc phân tích bối cảnh ra đời tƣ tƣởng triết học của Trang
Tử và giới thiệu cuộc đời, sự nghiệp của Trang Tử cũng nhƣ tác phẩm Nam
Hoa kinh, tác giả cũng phân tích một cách khá sâu sắc những nội dung cơ
bản trong vũ trụ luận, về nhận thức luận và nhân sinh quan của Trang Tử, từ
đó đƣa ra những đánh giá về ƣu điểm và hạn chế của từng quan niệm. Đồng
thời, tác giả cũng phân tích một cách khá sâu sắc những ảnh hƣởng của tƣ
tƣởng Lão – Trang trong hiện tƣợng “tam giáo đồng nguyên” ở Việt Nam và
những ảnh hƣởng tiêu biểu của tƣ tƣởng Trang Tử đến tƣ tƣởng và lối sống,
trên bình diện văn học và đƣa ra một số ý nghĩa đối với cuộc sống hiện nay ở
Việt Nam.
Những nhà nghiên cứu nhƣ Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Hiến Lê, Cao
Xuân Huy, Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Bằng Tƣờng, Lƣơng Gia Tĩnh,
Nguyễn Đăng Thục, Trần Đình Hƣợu, Trịnh Dỗn Chính, Nguyễn Hùng
Hậu, Nguyễn Tài Thƣ, Hà Thúc Minh, Phan Văn Các, Nguyễn Tài Đông,
Nguyễn Đăng Duy, Lê Thị Lan, … đã quan tâm nghiên cứu tƣ tƣởng của
Trang Tử và ảnh hƣởng của nó đến văn hố Việt Nam ở những mức độ khác
nhau.
Tƣ tƣởng triết học của Trang Tử đã đƣợc tiếp cận, nghiên cứu từ
nhiều hƣớng khác nhau nhƣng tập trung chủ yếu vào các nội dung sau:
- Thứ nhất là cơ sở lý luận và tiền đề kinh tế xã hội hình thành nên tư
tưởng của Trang Tử.
- Thứ hai là vai trò của Trang Tử trong việc phát triển và hoàn thiện
hơn tư tưởng của Đạo giáo.
- Thứ ba là tư tưởng của Trang Tử thông qua tác phẩm Nam Hoa Kinh.

Nhƣ vậy, tƣ tƣởng của Trang Tử đã đƣợc nhiều cơng trình nghiên cứu,
bài viết đề cập đến. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về “Nhân sinh quan
trong Triết học Trang Tử. Đặc điểm và ý nghĩa lịch sử”. Do giá trị lý luận


7

cũng nhƣ thực tiễn lớn lao nên tƣ tƣởng của Trang Tử về nhân sinh quan vẫn
còn mở ra nhiều vấn đề tiếp tục cần nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn.
* Mục đích: Làm rõ nhân sinh quan trong Triết học của Trang Tử.
Trên cơ sở này sẽ rút ra ý nghĩa và ảnh hƣởng của chúng trong lịch sử tƣ
tƣởng Việt Nam.
* Nhiệm vụ:
Thứ nhất là trình bày khái quát những điều kiện lịch sử, tiền đề lý luận
hình thành nên nhân sinh quan của Trang Tử.
Thứ hai là phân tích quan điểm, tƣ tƣởng của Trang Tử về nhân sinh
và trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa, giá trị, hạn chế trong nhân sinh quan của
Trang Tử.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
* Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên thế giới quan và
phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về con ngƣời, tự nhiên và xã hội.
* Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn đƣợc thực hiện nghiên cứu chủ
yếu bằng phƣơng pháp thống nhất logic lịch sử, phân tích tổng hợp, so sánh
và hệ thống hố, văn bản học.
5. Đóng góp của luận văn.
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở hình thành, nội dung chủ yếu và thực chất
nhân sinh quan của Trang Tử theo phƣơng pháp luận Mácxít. Bƣớc đầu trình

bày có hệ thống các quan điểm của Trang Tử về nhân sinh. Bên cạnh đó,
luận văn cũng sẽ nêu lên một số luận cứ khoa học về sự ảnh hƣởng của tƣ
tƣởng Đạo giáo trong lịch sử tƣ tƣởng dân tộc, góp phần làm sâu sắc hơn
những giá trị văn hố và tƣ tƣởng truyền thống, đồng thời cũng gợi ra nhiều


8

vấn đề cần quan tâm khi xây dựng hệ thống quan điểm về việc hoàn thiện
đạo đức, nhân cách, lối sống và về việc xây dựng con ngƣời mới hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
- Luận văn sẽ góp phần làm sâu sắc hơn nhận thức về nhân sinh quan
của Trang Tử cho những ngƣời quan tâm nghiên cứu đến học thuyết của
Đạo gia.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu và giảng dạy triết học phƣơng Đông ở các trƣờng cao đẳng và đại học ở
Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn.
Luận văn bao gồm phần mở đầu, 2 chƣơng nội dung, phần kết luận và
danh mục các tài liệu tham khảo.


9

Chƣơng 1
CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA NHÂN SINH QUAN
TRONG TRIẾT HỌC TRANG TỬ
Trang Tử là nhà tƣ tƣởng lớn trong trƣờng phái Đạo gia. Ông là ngƣời
phát triển, góp phần làm hồn thiện hơn học thuyết Đạo của Lão Tử, vì thế
ngƣời đời sau thƣờng gọi chung là tƣ tƣởng Lão – Trang.

Trang Tử tên thật là Trang Chu. Ông sinh vào khoảng năm 369 Tr.CN
và mất khoảng năm 286 Tr.CN, vào giữa thời Chiến Quốc. Ơng là ngƣời gốc
xứ Mơng 蒙, nƣớc Tống 宋. Trang Tử từng làm quan “Tất Viên” (coi vƣờn
sơn) ở xứ Mơng, sau đó ẩn dật đến cuối đời. Trang Tử sống thanh bạch, giản
dị, ghét thói hám lợi cầu danh. Cuộc sống của ơng và gia đình nghèo khổ,
túng quẫn nhƣng rất có nhân cách và bản lĩnh. Trang Tử ln là ngƣời có
phong cách sống ung dung, khống đạt và thản nhiên đến lạnh lùng trƣớc
mọi sự kiện diễn ra ở đời. Thời Chiến Quốc là một giai đoạn lịch sử có nhiều
biến động mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cuộc nội
chiến tàn khốc để tranh quyền đoạt vị tàn khốc giữa các chƣ hầu. Những
chuyển biến lớn lao của xã hội Trung Quốc trong buổi giao thời này, cùng
với thảm cảnh của dân lành trong xã hội loạn lạc, trong bối cảnh lịch sử - xã
hội, văn hoá phức tạp của thời đại ấy tƣ tƣởng của Trang Tử đã đƣợc phơi
thai và hình thành.
Tƣ tƣởng của Trang Tử thể hiện rõ nét trong tác phẩm Nam Hoa Kinh.
Trong tác phẩm này, với bút pháp độc đáo, lời lẽ cô đọng súc tích, “hồn
nhiên nhƣ mây bay trong núi, trong trẻo, nhẹ nhàng”, ông đã phác hoạ bức
tranh mộc mạc về thế giới và con ngƣời trong trạng thái luôn vận động, biến
đổi, biến hoá nhƣ con rồng uốn lƣợn, cuốn mình tan lẫn trong mây. Trang
Tử ln coi học thuyết của mình khơng phải là sự triết lý thăng trầm về


10

Đạomà là sự thực hành bằng chính bản thân cuộc sống theo Đạo. Ơng khơng
chú trọng vào việc phân định rõ rệt về mặt nội dung mà chỉ chủ yếu gợi mở
về mặt phƣơng pháp theo tơn chỉ: “Có lời là vì ý, đƣợc ý hãy quên lời”.
1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VÀ
VĂN HÓA. CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA NHÂN SINH QUAN TRONG TRIẾT
HỌC TRANG TỬ

1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội của Trung Quốc thời Xuân
Thu – Chiến Quốc
Sự phát triển rực rỡ của Triết học Trung Quốc cổ đại cũng là lúc xã
hội Trung Quốc bƣớc vào thời Xuân thu – Chiến quốc, thời kỳ tan rã của chế
độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến sơ kỳ đang lên.
Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã tồn tại và phát triển từ triều
đại nhà Hạ, qua nhà Thƣơng, đến cuối thời Tây Chu thì bắt đầu bƣớc vào
giai đoạn khủng hoảng và ngày càng đi tới suy tàn. Xã hội Trung Quốc trải
qua một thời kỳ giao thời, từ chế độ tông tộc chuyển sang chế độ gia trƣởng,
giá trị tƣ tƣởng, đạo đức mới còn manh nha và đang trên con đƣờng xác lập.
Sự biến đổi tồn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá thời kỳ này đã tạo
tiền đề cho sự giải phóng tƣ tƣởng con ngƣời thốt khỏi sự chi phối của thế
giới quan thần thoại tôn giáo, thần bí truyền thống, ảnh hƣởng sâu sắc đến
q trình phát triển của tƣ tƣởng triết học.
Thời Tây Chu, khi nhà Chu cịn thịnh, chế độ tơng pháp và trật tự lễ
nghĩa nhà Chu cịn đƣợc duy trì. Từ thời Chu Lệ Vƣơng đến Chu U Vƣơng,
mâu thuẫn nội bộ nhà Chu ngày càng trở nên gay gắt. Hơn nữa, do phải
thƣờng xuyên tiến hành các cuộc chiến tranh đàn áp sự nổi dậy của các chƣ
hầu và chống lại sự xâm lăng của các bộ tộc khác, nhất là giặc Hiểm Doãn,
Tây Nhung, cùng với nạn hạn hán liên tiếp xảy ra, nạn đói lan tràn, làm cho


11

nhà Chu ngày càng lao nhanh tới bƣớc suy vong. Vị trí quyền lợi của các
tầng lớp, giai cấp trong xã hội bị đảo lộn.
Năm 781 Tr. CN, nhân vua Chu là U Vƣơng phế hoàng hậu họ Thân
và thái tử Nghi Câu, phong Bao Tự làm hoàng hậu, cha Thân hậu là Thân
hầu liên kết với giặc Tây Nhung, tấn công Hạo Kinh, thiêu huỷ kinh đô nhà
Chu, giết chết U Vƣơng dƣới chân Ly Sơn, lập thái tử Nghi Câu lên làm vua,

lấy hiệu là Chu Bình Vƣơng (năm 771 Tr. CN). Sau đó một năm, vì đất
Thiểm Tây ln bị giặc Hiểm Dỗn, Tây Nhung đe doạ, nên Chu Bình
Vƣơng phải dời đơ về phía Đơng, đến Lạc Ấp (Lạc Dƣơng, tỉnh Hà Nam,
Trung Quốc hiện nay), nhƣờng căn cứ Quan Trung lại cho Tần Tƣơng Công.
Xã hội Trung Quốc bƣớc vào thời kỳ đặc biệt, đó là thời Xuân thu.
Thời Xuân thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng
sang thời đại đồ sắt. Việc dùng bò kéo cày đã trở thành phổ biến. Trong sách
Quốc Ngữ, Chu Ngữ có viết: “Đồng thau để đúc kiêm kích, sắt để đúc quả
cân…”. Phát minh mới về kỹ thuật khai thác và sử dụng đồ sắt đã đem lại
những tiến bộ mới trong việc cải tiến công cụ và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp.
Thời kỳ này hệ thống thuỷ lợi đã trải khắp khu vực Trƣờng Giang. Diện tích
đất đai canh tác nhờ đó đƣợc mở rộng. Kỹ thuật trồng trọt cũng đƣợc cải tiến,
tạo điều kiện tang năng suất trong lao động nơng nghiệp. Từ đó ngƣời ta thấy
khơng cần thiết phải chia lại ruộng đất công theo định kỳ căn cứ vào đất tốt hay
xấu nhƣ trƣớc nữa. Giờ đây công xã giao hẳn đất cơng cho từng gia đình nơng
nơ cày cấy trong thời hạn lâu dài. Vì vậy, nơng dân có thể dùng phƣơng pháp
lƣu canh hay luân canh để tăng năng suất cây trồng. Mặt khác, nhờ công cụ sản
xuất bằng sắt phát triển và thuỷ lợi mở mang, ruộng đất do nông nô vỡ hoang
biến thành ruộng tƣ ngày một nhiều. Quý tộc có quyền thế cũng chiếm dần
ruộng của công xã làm ruộng tƣ. Chế độ “tỉnh điền” dần tan rã. Sau đó, chế độ
tƣ hữu ruộng đất còn đƣợc pháp luật nhà nƣớc thừa nhận và bảo vệ.


12

Trƣớc kia, theo chế độ “tỉnh điền”, ruộng đất của công xã chia đều
cho nông nô, nông nô phải nộp một phần sản lƣợng nông phẩm thu hoạch
đƣợc cho công xã để nộp lên triều đình. Khi chế độ tƣ hữu ruộng đất phát
triển, số lƣợng ruộng đất của nông dân sở hữu khơng bằng nhau, nhà nƣớc
đã bỏ hình thức thu thuế cũ mà thi hành chế độ thu thuế đánh vào từng mẫu

ruộng (gọi là thuế sơ mẫu). Nƣớc đầu tiên thi hành chế độ thuế mới là nƣớc
Lỗ (năm 594 Tr. CN). Cùng với chế độ thuế mới, các nƣớc cũng thi hành
chế độ quân sự mới. Ở nƣớc Lỗ, chế độ quân sự này gọi là “khâu giáp”,
nƣớc Trịnh gọi là “khâu phú”.
Do việc sử dụng công cụ bằng sắt trở thành phổ biến cùng với việc
mở rộng quan quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công trong sản
xuất thủ công nghiệp cũng đã đạt tới mức chuyên nghiệp cao hơn, thúc đẩy
một loạt các ngành nghề thủ công nghịêp phát triển, nhƣ nghề luyện sắt,
nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ gốm... Cuối Xn thu, nƣớc Ngơ
dựng lị luyện sắt lớn đến 300 ngƣời thụt bễ, đổ than. Nƣớc Tấn trƣng thu sắt
để đúc đỉnh hình. Trong sách Chu Lễ đã viết về sự phát triển của các ngành
thợ chuyên môn rằng: “thợ mộc chiếm đến bảy phần, thợ kim khí chiếm sáu
phần, thợ thuộc da chiếm năm phần, thợ nhuộm chiếm năm phần, thợ nề
chiếm hai phần…”. Thợ thuyền tuy nhiều nhƣng vì trình độ cịn thấp nên họ
chƣa có ảnh hƣởng lớn trong xã hội.
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thƣơng nghiệp cũng
chƣa phát triển hơn trƣớc. Tiền tệ đã xuất hiện. Trong xã hội đã hình thành
một tầng lớp thƣơng nhân giàu có và ngày càng có thế lực nhƣ Huyền Cao
(nƣớc Trịnh), Tử Cống (vốn là học trò của Khổng Tử)… Thƣơng nhân đã
có nhiều ngƣời kết giao với chƣ hầu và cơng khanh đại phu, gây nhiều ảnh
hƣởng đối với chính trị đƣơng thời. Tuy nhiên, do tình trạng xã hội đang
rối ren, phƣơng tiện giao thông thô sơ, lãnh thổ chia năm xẻ bảy do nạn


13

chƣ hầu cát cứ, đi lại rất khó khăn, nên việc kinh doanh địi hỏi phải do
những ngƣời có đầu óc tháo vát và lòng quả cảm đảm đƣơng. Hơn thế nghề
buôn bán ở Trung Quốc thời bấy giờ bị coi là nghề rẻ mạt nhất, theo quan
điểm “nông bản, thƣơng mạt”, nên nó cũng chƣa thực sự phát triển. Nhƣng

sự hình thành của thƣơng nghiệp, bn bán đã tạo ra trong cơ cấu giai cấp
xã hội một tầng lớp mới. Từ tầng lớp này dần dần xuất hiện một loạt quý
tộc mới với thế lực ngày càng mạnh, tìm cách leo lên tranh giành quyền lực
với tầng lớp quý tộc cũ.
Về chính trị xã hội, nếu nhƣ thời Tây Chu chế độ tơng pháp, “phong
hầu kiến địa” vừa có ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý nghĩa về chính
trị, ràng buộc về huyết thống, có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ
đƣợc một thời gian dài hƣng thịnh, thì đến thời Xuân Thu, chế độ tơng pháp
nhà Chu khơng cịn đƣợc tơn trọng, đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính
trị, quân sự giữa Thiên tử và các nƣớc chƣ hầu ngày càng lỏng lẻo, huyết
thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa nhà Chu khơng cịn đƣợc tơn trọng nhƣ
trƣớc. Thiên tử nhà Chu hầu nhƣ khơng cịn quyền uy gì với các nƣớc chƣ
hầu. Thiên tử khơng cịn xét xử đƣợc những cuộc tranh chấp giữa các nƣớc
chƣ hầu. các lãnh chúa nhỏ và vừa xƣa nay vẫn dựa vào quyền uy của Thiên
tử giờ đây trở nên thất vọng. Nhiều nƣớc chƣ hầu mƣợn tiếng khôi phục lại
địa vị tông chủ của nhà Chu để ra khẩu hiệu “tôn vƣơng bài di”, đua nhau
động binh để mở rộng thế lực và đất đai, thơn tính các nƣớc nhỏ, tranh giành
địa vị bá chủ thiên hạ. Thời Xuân thu có khoảng 242 năm mà đã xảy ra 483
cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Đầu thời Tây Chu có hàng ngàn nƣớc, đến cuối
thời Xuân thu chỉ còn hơn một trăm nƣớc. Trong đó có những nƣớc hùng
mạnh nhất thời bấy giờ thay nhau làm bá thiên hạ là Tề, Tấn, Sở, Tống, Ngô,
Việt, Tần. Những quốc gia này hùng mạnh và làm minh chủ các nƣớc khác
là do các vua trị vì dùng cách cái trị theo chính sách “bá đạo” dựa trên sức


14

mạnh bạo lực hoàn toàn đối lập với cách cai trị của “vƣơng đạo” lấy nhân
nghĩa, “lấy đức thu phục ngƣời và chủ giáo hoá ngƣời” (Mạnh Tử, Tận tâm
thượng, 14). Mới đầu, cục diện “ngũ bá” gồm có Hồn Công nƣớc Tề, Văn

Công nƣớc Tấn, Mục Công nƣớc Tần, Trang Vƣơng nƣớc Sở. Cuối Xn
thu có thêm Ngơ Vƣơng Phù Sai và Việt Vƣơng Câu Tiễn.
Thời Xuân thu các lãnh chúa càng tăng cƣờng bóc lột nhân dân lao
động. Ngƣời dân ngoài việc phải đi chiến trận thực hiện các cuộc chinh phạt
của các tập đồn q tộc, cịn phải chịu sƣu thuế, phu phen, lao dịch nặng
nề. Thiên tai thƣờng xuyên xảy ra, nạn cƣớp bóc nổi lên khắp nơi làm cho
đời sống nhân dân càng thêm khốn khổ. Dân lƣu vong “đồng trong, ruộng
ngoài bỏ hoang”.
Việc các nƣớc gây chiến tranh thơn tính lẫn nhau cũng nhƣ các lãnh
chúa bóc lột tàn khốc dân chúng khơng chỉ dẫn tới sự diệt vong của hàng
loạt nƣớc chƣ hầu nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu, phá hoại trật tự
triều hội, triều cống, chinh phạt giữa các nƣớc chƣ hầu làm cho mâu thuẫn
trong giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt và sự rối loạn trong xã hội
ngày càng tang. Đặc biệt những nghi lễ chặt chẽ, tơn nghiêm trƣớc đây đã
từng góp phần bảo vệ và làm hƣng thịnh chế độ tông pháp nhà Chu, đến lúc
này cũng bị xem thƣờng. Tình trạng lễ nghĩa, cƣơng thƣờng đảo lộn, đạo
đức suy đồi ở thời kỳ Xuân thu biểu hiện ra qua các tệ nạn xã hội nhƣ “tiếm
ngôi việt vị”, chế độ triều cống cũng bị các chƣ hầu tự ý phá bỏ. Thậm chí
các nƣớc lớn cịn mƣợn danh Thiên tử bắt các nƣớc nhỏ cống nạp và lệ
thuộc vào mình. Theo Tử Sản, mỗi lần nƣớc Trịnh cống nạp cho nƣớc Tấn
“phải dùng đến một trăm xe chở lụa và da thú, mà một trăm xe thì phải cả
ngàn ngƣời”. Trong xã hội, cảnh tôi giết vua, con hại cha, anh em, vợ chồng
chia lìa thƣờng xuyên xảy ra. Tình trạng đó, theo Khổng Từ khơng phải xảy
ra một sớm một chiều mà nó đã âm ỉ, mục ruỗng từ lâu. Vì thế khi Tề Cảnh


15

Cơng và Khổng Tử bàn về chính sự, Tề Cảnh Công đã phải cay đắng thừa
nhận: “Nghĩa nhƣ vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con

chẳng ra con, ở trong tình cảnh hỗn loạn nhƣ thế, dẫu ta có lúa đầy kho, có
chắc ngồi yên mà ăn đƣợc chăng? – Tín nhƣ quân bất quân, thần bất thần,
phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chƣ?"2. Chế độ lễ nghi
nhà Chu trở thành các hình thức sáo rỗng. Việc “tang viếng, tế lễ, chúc
mừng” trở thành thủ đoạn ngoại giao chứ khơng cịn là lễ nghĩa của quan hệ
gia tộc và trật tự xã hội nữa.
Trong khi ngƣời dân phải chịu cảnh cùng cực thì các vƣơng hầu, lãnh
chúa quý tộc sống rất xa hoa. Họ xây cất những cung điện nguy nga, nhƣ
cung Bồng Đế của vua Tấn rộng đến mấy dặm, trong cung chen chúc cung
nữ(Tả truyện, Chiêu Cơng năm thứ ba). Do đói rét, cực khổ, nạn trộm cƣớp
nổi lên. Bọn thống trị lại tăng cƣờng “hình pháp” làm cho đời sống nhân dân
càng them nghẹt thở. Đó đây đã nổi lên những cuộc khởi nghĩa của nơng dân
và nơ lệ. Tất cả tình hình ấy đã đẩy mâu thuẫn xã hội thời Xuân Thu lên đến
đỉnh cao, đƣa chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc lao nhanh đến giờ phút
cáo chung.
Trong thời Xuân thu, ngoài các cuộc chiến tranh thƣờng xuyên giữa
các nƣớc, trong từng nƣớc cũng luôn xảy ra những cuộc tranh giành đất đai,
địa vị, quyền thế giữa bọn quý tộc với nhau. Ở nƣớc Tấn, năm 403 Tr.CN có
ba dịng họ lớn là Hàn, Triệu, Nguỵ. Khi đó Trung Quốc đã bƣớc vào thời kỳ
Chiến quốc3. Bây giờ chỉ còn bảy nƣớc lớn là Tề 齊, Sở 楚, Yên 燕, Tần 秦,
Hàn 韓, Triệu 趙, Nguỵ 魏, tạo thành cục diện “thất hùng”, thƣờng gây
chiến tranh với quy mô lớn và tàn khốc hơn thời Xuân thu để giành ngôi bá

"信如君不君, 臣不臣, 父不父, 子不子,雖有粟, 吾得而飠諸” (Luận ngữ, Nhan Uyên,
11)
3Thời Chiến quốc từ năm 475 đến 221 Tr.CN.
2


16


chủ thiên hạ. Trong đó nƣớc Tần ở phía tây Hàm Cốc quan, sáu nƣớc kia ở
đơng ải quan đó, nên thƣờng gọi là Sơn Đông lục quốc.
Thời Chiến quốc đã có bƣớc phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Nghề
luyện sắt đã đạt tới trình độ khá cao. Đồ dung bằng sắt, đặt biệt là các công
cụ sản xuất nhƣ lƣỡi cày, liềm, cuốc, rìu, dao đƣợc sử dụng phổ biến. Các
nƣớc đều hình thành những trung tâm luyện sắt lớn nhƣ Hàm Đan nƣớc
Triệu, Đƣờng Khê nƣớc Hàn, Lâm Truy nƣớc Tề… Vì vậy mà kỹ thuật thuỷ
lợi và canh tác, khai khẩn đất đai càng phát triển. Các cơng trình thuỷ lợi
đƣợc xây dựng khắp nơi từ lƣu vực sơng Hồng Hà tới lƣu vực sơng Trƣờng
Giang, từ Biển Đơng đến vùng Tứ Xun. Kéo theo đó là sự phát triển của
nghề thủ công, nhƣ nghê làm đồ gốm, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, nghề
chạm trổ vàng bạc… Tiền tệ bằng kim loại ra đời. Thƣơng nghiệp và các
trung tâm buôn bán trao đổi hàng hố hƣng thịnh. Đơ thành các nƣớc và một
số thành ấp lập trên những trục lộ giao thông trọng yếu đã biến thành những
thành đô sầm uất nhƣ Hàm Dƣơng nƣớc Tần, Thọ Xuân nƣớc Sở, Lâm Truy
nƣớc Tề, Khai Phong nƣớc Nguỵ. Tuy nhiên, chiến tranh tàn khốc trên quy
mô lớn và lien tục giữa các nƣớc chƣ hầu đẫ làm cho đời sống nhân dân lao
động ngày càng cùng cực hơn. Mạnh Từ đã viết: “Đánh nhau giành đất, giết
ngƣời thây phơi đầy đồng. Đánh nhau giành thành, giết ngƣời thấy chất đầy
thành. – Tranh địa dĩ chiến, sát nhân doanh dã. Tranh thành dĩ chiến, sát
nhân doanh thành."4. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá và chiến tranh
loạn lạc xảy ra liên miên đã làm cho công xã nông thôn tan rã. Chế độ chiếm
hữu tƣ nhân về ruộng đất dần trở thành quan hệ sở hữu thống trị. Thay thế
cho chế độ thu thuế dựa vào sản lƣợng thu hoạch trƣớc kia, thì nay thu thuế
tính theo số lƣợng ruộng đất. Việc mua bán ruộng đất tự do và sự phổ biến
của chế độ tƣ hữu đã mở đƣờng cho sự tập trung ruộng đất vào tay một số ít
4

"爭地以戰, 殺人盈墅. 爭城以戰, 殺人盈城” (Mạnh Tử, Ly Lâu Thượng, 14).



17

lãnh chúa, địa chủ giàu có. Đa số nơng dân nghèo mất hết ruộng đất phải đi
cày thuê, cày mƣớn trở thành tá điền, cố nơng. Chế độ bóc lột bằng phát
canh thu tơ xuất hiện. Trong lịng xã hội đã xuất hiện những yếu tố của quan
hệ sản xuất mới, đó là chế độ phong kiến quận huyện. Mâu thuẫn giai cấp
ngày càng gay gắt hơn, đã đẩu xã hội tới nguy cơ nghiêm trọng. Điều đó
chính giai cấp thống trị đã nhận thấy, nên chúng đã tiến hành một số biện
pháp cải cách nhằm ngăn chặn nguy cơ đảo lộn xã hội. Đó là phong trào
“biến pháp” ở một loạt nƣớc nhƣ nƣớc Nguỵ, nƣớc Triệu, nƣớc Hàn, nƣớc
Tề, nƣớc Tần... suốt thời Chiến quốc.
Năm 362 Tr. CN, trong tất cả những quốc gia lớn thời đó, có vƣơng
quốc Tần là mạnh nhất. Tần Hiếu Công lên ngôi đã tích cực phát triển nơng
nghiệp, củng cố và chuẩn bị binh bị. Nhờ những cuộc cải cách của Thƣơng
Ƣởng, vào những năm từ 359 đến 349 Tr. CN về kinh tế, tổ chức hành
chính, pháp luật, tiền tệ, thuế má, chế độ khen thƣởng, quan hệ gia trƣởng và
công xã nơng thơn ở nƣớc Tần hồn tồn tan rã. Chính từ những cải cách
trên và sử dụng pháp trị, nƣớc Tần đã trở thành nƣớc hùng mạnh nhất trong
“thất hùng”. Cục diện thời Chiến quốc đã làm nảy sinh những thủ đoạn
ngoại giao và quân sự dùng để đối phó lẫn nhau giữa các nƣớc, gọi là thuật
"hợp tung"合縱 và “liên hồnh” 連橫. Trong đó, Tơ Tần 蘇秦 (thế kỷ IV Tr.
CN, ngƣời Lạc Dƣơng) đã đề xuất thuật “hợp tung”, “hợp chúng nhƣợc dĩ
công nhất cƣờng - 合众弱以攻一強", tức hợp nhiều nƣớc yếu đánh nƣớc
mạnh, và Trƣơng Nghi 張儀 (thế kỷ IV Trc. CN, ngƣời nƣớc Nguỵ) đề xuất
thuật “liên hồnh”, “sự nhất cƣờng dĩ cơng chúng nhƣợc - 亊一強以攻众弱
", tức tôn một nƣớc mạnh để đánh những nƣớc yếu, giúp nƣớc Tần lần lƣợt
đánh bại sáu nƣớc ở phía đơng là Hàn, Triệu, Nguỵ, Sở, Tề, n, chấm dứt
các cuộc chiến tranh liên miên tàn khốc, thống nhất Trung Quốc thành một

quốc gia phong kiến trung ƣơng tập quyền đầu tiên vào năm 221 Tr. CN. Đó


18

là đế chế Tần. Biến cố này là dấu ấn ghi lại sự thay đổi lớn nhất trong lịch sử
chính trị Trung Quốc. Nó gắn liền với một tƣ tƣởng triết học có ảnh hƣởng
lớn thời bấy giờ là Pháp gia mà ngƣời đại biểu xuất xắc là Hàn Phi Tử, đã
giúp nƣớc Tần thành công trong sự nghiệp thống nhất Trung Quốc.
Với chính sách hà khắc, để đạt mục đích thống nhất về tƣ tƣởng và
chính trị trong xã hội nhà Tần đã chủ trƣơng "chôn nho, đốt sách", cấm tất cả
các học thuyết đƣơng thời, chỉ cho giữ lại và truyền bá các sách về y học,
chiêm tinh, nông học, cùng với việc gây chiến tranh chinh phạt, huy động
bằng bạo lực hàng chục vạn nông dân xây Vạn Lý Trƣờng Thành, đã phá
hoại cơ sở kinh tế và vùng chính trị của nƣớc Tần, nhà Tần đứng đầu là Tần
Thuỷ Hồng đã từ làm mình sụp đổ nhanh chóng, Cuộc khởi nghĩa nơng dân
hùng mạnh do Lƣu Bang lãnh đạo đã lật đổ nhà Tần, xây dựng lên chính thể
của một triều đại mới, đó là nhà Hán, năm 206 Tr. CN.
1.1.2. Thành tựu về văn hóa và tƣ tƣởng của Trung Quốc thời
Xuân thu - Chiến quốc
Cùng với thực tiễn lịch sử xã hội, những tri thức về khoa học, văn hoá
khá phong phú của nhân dân Trung Quốc thời Xuân thu - Chiến quốc nhƣ
thiên văn, địa lý, cơ học, y học, sinh vật học, văn học... đã góp phần khơng
chỉ thúc đẩy q trình sản xuất xã hội phát triển mà còn là những tiền đề làm
nảy sinh những tƣ tƣởng triết học ở Trung Quốc cổ đại.
Về thiên văn học, vào thế kỷ thứ IV Tr. CN, nhà thiên văn Trung Hoa là
Thạch Nhân đã sáng tạo ra bảng tổng mục về các vì sao bao gồm 800 tinh tú.
Những biên niên sử ở thế kỷ II Tr. CN đã có nói tới cuộc du lịch trên bộ, trong
đó ngƣời Trung Quốc cổ đã biết sáng chế và sử dụng la bàn. Cuốn Cam thạch
tinh kinh là cuốn ghi chép các hành tinh cổ nhất trên thê giới mà ngƣời Trung

Hoa đã tạo ra, Dựa theo vị trí của 28 ngơi sao trên xích đạo thiên cầu lúc bấy
giờ, ngƣời ta phân chia tồn bộ bầu trời thành 28 "túc". Theo vị trí mặt trời


19

đối chiếu với các túc, ngƣời ta phân biệt đƣợc các tiết của một năm nhƣ lập
xuân, xuân phân; lập thu, thu phân; lập hạ, hạ chí; lập đơng, đơng chí.
Trên lĩnh vực y học, vào thời Chiến quốc, những tri thức y học Trung
Quốc cổ đại đã kinh qua kinh nghiệm thực tiễn phong phú và lâu dài đƣợc
tổng kết lại trong các cuốn sách y học hết sức q báu nhƣ Hồng Đế nội
kinh, Thần Nơng bản thảo kinh. Các nhà y học Trung Quốc thời kỳ này đã
biết giải phẫu cơ thể ngƣời, biết các cơ quan nội tạng và hệ thống tuần hồn
khá rõ. Họ cịn đi sâu nghiên cứu các nguyên nhân của bệnh tật, các phƣơng
pháp chẩn đốn bệnh nhƣ nghe, nhìn, hỏi, bấm huyệt, sắc thuốc uống bằng
các lá cây. Họ cũng nói tới các phƣơng pháp giữ gìn sức khoẻ nhƣ việc giữ
vệ sinh, thuật dƣỡng sinh...
Về toán học, ngƣời Trung Quốc cổ đại cũng đã đạt đƣợc một trình độ
khá cao. Ngay vào thời Chiến quốc, các các nhà bác học Trung Hoa đã biết
rằng trong một tam giác vng, bình phƣơng của cạnh huyền bằng tổng bình
phƣơng của hai cạnh góc vng. học cũng đã biết tính tốn diện tích các
hình, biết các phép đo lƣờng, v.v..
Về nơng học và sinh vật học, những điều ghi chép trong Kinh Thi, một
trong tuyển tập thi ca gồm 305 bài, đƣợc sáng tác trong khoảng thời gian 500
năm, từ thời Tây Chu đến giữa thời Xuân thu, là một trong những cuốn sách
cổ nhất của Trung Quốc đã nói tới hơn 200 loài thảo mộc, chứng tỏ sự
phong phú về tri thức sinh vật học của ngƣời Trung Quốc cổ xƣa. Trên cơ sở
những kinh nghiệm lao động sản xuất nông nghiệp của nhiều thế hệ, ngƣời
Trung Hoa cổ đã xây dựng đƣợc cả một hệ thống các phƣơng pháp canh tác
chuyên canh, chu kỳ thƣờng là ba năm, phƣơng pháp bón phân cho đất,

phƣơng pháp trồng trọt theo thời vụ và kỹ thuật "dẫn thuỷ nhập điền".
Về văn học, thời Tần đã để lại nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng trong
đó phải kể đến các tác phẩm nhƣ Kinh Thi 詩經, Sở Từ 楚詞. Kinh Thi gồm


20

có ba bộ phận: Phong, Nhã, Tụng. Đây là cơng trình sáng tác tập thể, do
nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ khác nhau viết nên, trong đó căn bản là
những sáng tác từ nhân dân lao động. Nó phản ánh tình hình chính trị, kinh
tế, phong tục, tập qn, đời sống tình cảm và nguyện vọng của nhân dân lao
động. Nó phản ánh tình hình chính trị, kinh tế, phong tục, tập quán, đời sống
tình cảm và nguyện vọng của nhân dân Trung Quốc trong thời gian từ thời
Tây Chu đến cuối thời Xuân thu. Tiếp theo Kinh Thi là bộ Sở từ của nhà thơ
yêu nƣớc vĩ đại Khuất Nguyên (??? - 280 Tr. CN).Sở từ là tập dân ca nƣớc
Sở tiếp thu nhiều ảnh hƣởng tốt của Kinh Thi, phản ánh đặc điểm của thời
Chiến quốc và của địa phƣơng - nƣớc Sở. Sở từ gồm có Cửu ca, Chiêu hồn,
Thiên uẩn, Cửu chƣơng và Ly tao.
Về sử học, thời cổ đại ngƣời Trung Quốc đã sáng tạo ra nhiều bộ sử có
giá trị. Xuân thu 春秋 là bộ biên niên sử vào hạng xƣa nhất thế giới, phản
ánh sinh động tình hình xã hội loạn lạc từ Xuân thu qua thời Chiến quốc.
Nhƣng Xuân thu không chỉ có giá trị về mặt sử học mà cịn có giá trị về cả
mặt triết học, nhất là quan điểm "chính danh, định phận" của Khổng Tử. Sau
Xuân Thu là Tả truyện 左傳, cũng là sách ghi chép những sự kiện thời Xuân
thu, Quốc ngữ 國語 cũng là sách ghi chép những sự kiện thời Xuân thi,
nhƣng Quốc ngữ khác Tả truyện ở chỗ nó chép sử theo địa phƣơng, theo khu
vực và theo từng nƣớc. Tƣơng truyền, sách Tả truyện và Quốc ngữ là do Tả
Khâu Minh làm ra. Trông bài Thái Công Sử tự đề tựa, Tƣ Mã Thiên đã viết:
"Tả Khâu bị mù, bèn làm Quốc ngữ"5. Nhƣng thực ra Quốc ngữ là cơng
trình biên soạn của nhiều mà thành.

Hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiến lâu dài của nhân dân lao
động, những tri thức khoa học mà nhân dân Trung Hoa đạt đƣợc đã góp
phần thúc đẩy, phát triển đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội
5Tƣ

Mã Thiên: Sử Ký, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1998, tr.29.


×