Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc việt nam ở tỉnh thanh hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.02 MB, 179 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---♣♣♣---

NGUYỄN THỊ THU

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HĨA DÂN TỘC VIỆT NAM
Ở TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---♣♣♣---

NGUYỄN THỊ THU

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HĨA DÂN TỘC VIỆT NAM
Ở TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY

Chuyên ngành: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 60.22.03.08

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. TRẦN CHÍ MỸ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2018


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Triết học, Trƣờng đại học Khoa học xã hội
& Nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - nơi đã trang bị cho tôi
thêm những kiến thức khoa học trong quá trình học tập nâng cao trình độ và nghiên
cứu khoa học của mình.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Trần Chí Mỹ - ngƣời đã
thƣờng xuyên hƣớng dẫn, giúp đỡ, động viên, khích lệ tơi trong suốt q trình tơi
thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thƣ viện Trƣờng đại học Khoa
học xã hội & Nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Thƣ viện Khoa
học Tổng hợp Thành phố hồ Chí Minh; và các tác giả với các cơng trình đã cơng bố
có liên quan đến đề tài luận văn tơi thực hiện. Đây là nơi cung cấp cho tôi những tƣ
liệu quan trọng trong q trình tơi thực hiện đề tài luận văn của mình.
Cuối cùng, tơi xin gửi tới gia đình, cơ quan cơng tác, đồng nghiệp và bạn bè
lời biết ơn sâu sắc đã luôn tạo mọi điều kiện, khích lệ, động viên tơi trong suốt q
trình học tập và thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Tác giả


Nguyễn Thị Thu

năm 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dƣới sự hƣớng
dẫn khoa học của Tiến sĩ Trần Chí Mỹ. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về kết
quả nghiên cứu của cơng trình khoa học này.

Ngƣời làm luận văn

Nguyễn Thị Thu


MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU:…………………………………………………………...

1

Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN
SẮC VĂN HĨA DÂN TỘC VIỆT NAM Ở TỈNH THANH HÓA……..

11

1.1. QUAN NIỆM VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ BẢN SẮC

VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM………………………………………...

11

1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH
NHỮNG NÉT ĐẶC THÙ TRONG BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
VIỆT NAM Ở TỈNH THANH HÓA……………………………………….

38

Kết luận chƣơng 1……………………………………………………….....

73

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIỮ
GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM Ở
TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY…………………………………………

76

2.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HĨA DÂN TỘC VIỆT NAM Ở TỈNH THANH HÓA….

76

2.2. THỰC TRẠNG CỦA THỰC TRẠNG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HĨA DÂN TỘC VIỆT NAM Ở TỈNH THANH HÓA
HIỆN NAY…………………………………………………………………..

92


2.3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM Ở TỈNH THANH HÓA
HIỆN NAY…………………………………………………………………

117

Kết luận chƣơng 2………………………………………………………...

133

KẾT LUẬN CHUNG……………………………………………………..

136

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………...

139

PHỤ LỤC………………………………………………………………….

144


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đƣợc hình thành, phát huy và phát triển gắn

liền với quá trình xây dựng và bảo vệ đất nƣớc, đƣợc Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định là giá trị cốt lõi của nền văn hóa của dân tộc; nó thể hiện tâm hồn, cốt cách, lý
trí, sức mạnh của dân tộc; tạo nên sự kết nối các cộng đồng ngƣời gắn bó, đồn kết,
chung sức chung lòng với nhau, là cội nguồn sức mạnh bảo đảm cho dân tộc Việt
Nam trƣờng tồn, phát triển trƣớc mọi biến cố của lịch sử.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trƣờng, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế nhƣ hiện nay Việt Nam có nhiều cơ hội để tiếp thu
những tinh hoa giá trị văn hóa của thế giới để làm phong phú hơn kho tàng văn hóa
của dân tộc. Đồng thời, mặt trái của các q trình đó cũng có những tác động tiêu
cực, làm cho nền văn hóa dân tộc có nguy cơ bị biến dạng, bị lai căng, đồng hóa,
làm xói mịn, tan lỗng các giá trị bản sắc vốn có của dân tộc. Vì vậy, điều quan
trọng hiện nay trong q trình tiếp thu văn hóa nƣớc ngoài là vừa phải học hỏi, tiếp
thu các giá trị văn hóa đích thực của thế giới, vừa phải giữ vững những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm sao để “hịa nhập” mà khơng “hịa tan”; hội
nhập mà khơng đánh mất mình.
Cũng nhƣ các địa phƣơng khác trên đất nƣớc ta, tỉnh Thanh Hóa đang trong
q trình phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đã xác định việc giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ở địa phƣơng là một
trong những nhiệm vụ quan trọng vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay. Song, do
điều kiện tự nhiên, lịch sử ra đời và q trình hình thành văn hóa có tính đặc thù
ở địa phƣơng, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay, bên cạnh những thuận lợi và khó khăn chung nhƣ cả nƣớc
tỉnh Thanh Hóa cũng có những thuận lợi và khó khăn của riêng mình, đó là:
nhiều giá trị truyền thống của các dân tộc ở địa phƣơng đang bị mai một, pha


2

trộn, khơng cịn giữ đƣợc bản sắc, lối sống lai căng thực dụng, hƣởng thụ, suy

tôn vật chất, chú trọng vật dụng hiện đại mà coi nhẹ những giá trị tinh thần mang
đậm đà bản sắc địa phƣơng; đề cao cá nhân mà suy giảm tính cộng đồng, mờ
nhạt về ý thức tự tơn dân tộc, khơng ít trƣờng hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà
đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trị, đồng chí, đồng nghiệp. Nghiêm
trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức quyền không chỉ tồn tại ở các khu đô
thị mà đã len lỏi vào các vùng nông thôn của tỉnh Thanh Hóa - vốn dĩ đƣợc xem
là một pháo đài vững chắc trong việc lƣu giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đối với tỉnh Thanh Hóa là làm thế nào
để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở nơi đây một cách tốt
hơn, hiệu quả hơn, làm nền tảng tinh thần cho sự phát triển và bền vững của địa
phƣơng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh nhƣ vậy, là một ngƣời con sinh ra và lớn lên ở huyện Triệu
Sơn, tỉnh Thanh Hóa, với mong muốn góp phần cùng với các cấp ủy Đảng, chính
quyền và nhân dân Thanh Hóa nghiên cứu tìm những giải pháp tối ƣu nhằm giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, tơi chọn
vấn đề “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở tỉnh Thanh
Hóa hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và viết cơng trình luận văn thạc sỹ chuyên
ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, bƣớc vào thời kỳ đổi mới phát triển kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế, đề tài bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung và bản sắc văn hóa dân tộc ở
từng địa phƣơng nói riêng đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học,
các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức văn hóa và khoa học trên cả nƣớc. Và, cho
đến hiện nay, nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về đề tài này đã đƣợc cơng bố.
Có thể khái qt các cơng trình đó theo hai chủ đề chính nhƣ sau:



3

Chủ đề thứ nhất, nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc và giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam. Tiêu biểu ở chủ đề này có các cơng trình sau:
Cuốn sách Phát triển văn hóa giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp
với tinh hoa văn hóa nhân loại của tác giả Phạm Minh Hạc (Hà Nội: Khoa học xã
hội, 1996), đã đề cập đến các khái niệm cơ bản về văn hóa, về bản sắc văn hóa dân
tộc và phân tích đi sâu vào từng khía cạnh của văn hóa, khẳng định vai trị của văn
hóa là hết sức to lớn và có sự ảnh hƣởng khơng nhỏ đến sự phát triển kinh tế thời
kỳ hội nhập. Bên cạnh đó tác giả cũng đề cập đến việc phát triển văn hóa phải kết
hợp giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc đi đơi với kết hợp tinh hoa văn hóa nhân
loại, làm sao để giữ gìn đƣợc bản sắc dân tộc mà vẫn tiếp thu đƣợc những nền văn
hóa mới. Giữa văn hóa cũ và văn hóa mới có sự hịa hợp, nhƣng không làm mất
cái bản sắc riêng.
Tác phẩm Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc của tác giả Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) Hà Nội: Chính trị quốc gia,
2001), các tác giả phản ánh những n t chính yếu về tính tiên tiến của nền văn hóa
mà Việt Nam đang xây dựng, về bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời đề xuất một số
giải pháp và những kiến nghị để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng đúng những yêu cầu của cuộc sống. Định
hƣớng chiến lƣợc cho sự nghiệp xây dựng, củng cố và tăng cƣờng nền tảng tinh
thần của xã hội, góp phần đƣa Việt Nam phát triển và tiến bƣớc vững chắc trên con
đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cuốn sách Bản sắc văn hóa Việt Nam tác giả TS. Hồ Bá Thâm (Văn hóa Thơng tin, 2003), trong tác phẩm này tác giả trình bày một số vấn đề về văn hóa
nhƣ: khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa Việt Nam cũng nhƣ một số đặc trƣng cũng
nhƣ những điều kiện hình thành bản sắc văn hóa, làm nổi bật những giá trị to lớn
mà nhờ có bản sắc riêng mà Việt Nam khơng bị đồng hóa, bên cạnh đó tác phẩm
cũng đề cập đến những hạn chế của nền văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập cần
phải đƣợc nhìn nhận và đánh giá, qua đó cho chúng ta cái nhìn rõ hơn để đƣa ra
phƣơng hƣớng đúng đắn.



4

Tác phẩm Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại của PGS.TS. Lê Nhƣ Hoa
(Văn hóa - Thơng tin, 2003), trong cuốn sách này đề cập và phân tích tất nhiều nội
dung nhƣ: bản sắc dân tộc trong lối sống, lối sống đơ thị, lối sống gia đình, lối sống
thanh niên. Tác giả đã phân tích cụ thể về khái niệm, đặc trƣng và những điều kiện
để hình thành nên lối sống, từ đó dần trở thành những n t riêng có và đã chi phối
ảnh hƣởng đến đời sống trong xã hội ngày nay.
Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới của tác giả Phan Ngọc (Văn hóa Thơng tin, 2005), trong tác phẩm này tác giả đã đề cập đến nhiều nội dung, ngồi
lời nói đầu, cuốn sách đƣợc chia làm ba phần chính, cụ thể: phần thứ nhất, tác giả
đƣa ra những khái niệm về văn hóa và bản sắc văn hóa; bản sắc văn hóa Việt Nam
và cách tiếp cận mới; sự khác nhau giữa văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt Nam;
bề dày văn hóa của ngƣời Việt Nam. Phần thứ hai, với chủ đề giao lƣu văn hóa, nội
dung đƣợc thể hiện trong phần này bản sắc văn hóa Việt Nam trong giao lƣu văn
hóa, nền tảng của giao lƣu quốc tế; trí thức Việt Nam với văn hóa; tín ngƣỡng Việt
Nam qua tiếp xúc với đạo giáo Trung Hoa; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đỉnh cao của văn
hóa Việt Nam. Phần thứ ba, bảo vệ và phát huy văn hóa, tác giả đề cập đến cách
phát huy văn hóa trong cuộc tiếp xúc văn hóa hiện nay; ƣu thế văn hóa Việt Nam
trong giai đoạn kinh tế thị trƣờng,.. tất cả những nội dung trên đƣợc tác giả tiếp cận
rất và đánh giá rất chi tiết.
Tác phẩm Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của tác giả Trần Ngọc Thêm
(Thành phố Hồ Chí Minh, 2006). Đây là cuốn sách nghiên cứu những vấn đề: Cơ sở
lý luận cho cách nhìn hệ thống - loại hình, văn hố nhận thức, văn hoá tổ chức cộng
đồng; đời sống tập thể, văn hoá tổ chức cộng đồng; đời sống cá nhân, văn hố ứng
xử với mơi trƣờng tự nhiên, văn hố ứng xử với mơi trƣờng xã hội. Tất cả những
loại hình văn hóa nêu trên đã tạo nên một bản sắc riêng khơng lẫn và cũng khơng dễ
hịa tan vào nền văn hóa khác. Ngồi ra, cuốn sách đã đề cập đến tất cả các khía
cạnh của xã hội đã tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.

Một nền văn hóa văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ
thuật phong phú của tác giả Hà Minh Đức (Hà Nội: Khoa học xã hội – 2008). Đây


5

là cuốn sách nghiên cứu những vấn đề của văn hóa Việt Nam về lý luận cũng nhƣ
thực tiễn sáng tác, một nền văn hóa có bản sắc riêng đƣợc bồi đắp và sáng tạo từ
hàng ngàn năm lịch sử. Tác giả đề cập đến một nền văn hóa, văn nghệ đậm đà bản
sắc dân tộc với nhiều loại hình nghệ thuật phong phú. Bên cạnh đó tác giả giúp cho
ngƣời đọc tìm hiểu thêm điểm Hồ Chí Minh về văn hóa; về bản sắc truyền thống
văn hóa dân tộc; giá trị văn hóa, nhận thức và chuyển đổi; những điều kiện chính trị
- xã hội; sự kết tinh của những giá trị văn nghệ. Cuốn sách là tƣ liệu nghiên cứu có
tính chất chun luận về một vấn đề của văn hóa dân tộc, đó là các loại hình nghệ
thuật, những giá trị tinh thần phong phú và nhiều vấn đề cịn đang ở phía trƣớc, cần
đƣợc khám phá, diễn giải trong khi những giá trị và chuẩn mực văn hóa ln thay
đổi và phát triển.
Cuốn sách Phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới của tác giả Đinh Xuân
Dũng (Thời đại, 2010), trong cuốn sách này đề cập khá phong phú những vấn đề về
văn hóa, về văn học, nghệ thuật, và những vấn đề mang ý nghĩa và giá trị văn hóa.
Bên cạnh đó, tác giả phân tích một cách sâu sắc những quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn về văn hóa trong thời kỳ hội nhập,
những khó khăn cũng nhƣ thuận lợi đã đƣợc tác giả đề cập trong cuốn sách này.
Cơng trình Văn hóa Việt Nam giàu bản sắc do tác giả Nguyễn Đắc Hƣng sƣu
tầm và biên soạn) (Hà Nội: Chính trị quốc gia, 2010), đã sƣu tầm và giới thiệu
những lễ hội, phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa giàu bản sắc của từng dân
tộc tạo nét riêng cho nền văn hóa Việt Nam. Tác giả đề cập đến làng xã và gia đình
Việt Nam, những định hƣớng phát triển văn hóa, những mối quan hệ và sự tác động
qua lại lẫn nhau giữa con ngƣời, tầm quan trọng của nền văn hóa giàu bản sắc đối

với sự phát triển của mỗi quốc gia .
Bản sắc văn hóa Việt Nam của tác giả Phan Ngọc (Văn hóa - Thơng tin, 2013),
tác phẩm này nhằm cung cấp một số khái niệm: Văn hóa và bản sắc văn hóa, bản
sắc văn hóa Việt Nam trong giao lƣu văn hóa; đạo Nho Việt Nam - một sự khúc
xạ, trí thức Việt Nam xƣa với văn hóa. Một nội dung khác là những minh chứng


6

của việc áp dụng phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học để nghiên cứu, lý giải một số
chủ đề trong văn hóa, lịch sử, dân tộc học Việt Nam nhƣ: Truyền thống quân sự
Việt Nam - nền tảng mọi thắng lợi quân sự, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đỉnh cao của
văn hóa dân tộc, tiếp xúc văn hóa Việt – Pháp,... cách phát huy văn hóa trong cuộc
tiếp xúc văn hóa hiện nay, ƣu thế của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn kinh tế thị
trƣờng, đồng thời giúp ngƣời đọc trả lời đƣợc các câu hỏi liên quan đến ngƣời
Việt và văn hóa Việt nhƣ: bản sắc văn hóa Việt Nam là gì? Văn hóa Việt Nam
khác văn hóa Trung Hoa, văn hóa Pháp,... ở chỗ nào? Vì sao có sự khác biệt đó?
Làm gì và làm nhƣ thế nào để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong
thời hội nhập?...
Tác giả Hồng Thị Hƣơng trong bài Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc trong q trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế (Tạp chí Cộng sản
online tapchicongsan.org.vn, ngày 22/9/2010) đã chỉ ra tầm quan trọng của việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Theo tác giả, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc là giữ gìn cốt cách dân tộc trong quá trình phát triển của dân tộc. Nói tới cốt
cách của một dân tộc thì khơng chỉ nói tới những n t đặc sắc, đậm đà đƣợc biểu
hiện qua tính cách mà cịn thơng qua tồn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân
tộc. Lĩnh vực thể hiện rõ nhất cốt cách dân tộc, tinh thần dân tộc là văn hóa. Sự phát
triển hài hịa giữa kinh tế và văn hóa, đặc biệt là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn
với giữ gìn cốt cách dân tộc là một ngun tắc ln cần đƣợc tơn trọng trong q
trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế.

Chủ đề thứ hai, nghiên cứu về bản sắc văn hóa và giữ gìn phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam ở một vùng miền, địa phƣơng cụ thể:
Tác phẩm Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam của tác giả Ngô Đức Thịnh (Giáo
dục Việt Nam, 2009). Trong cơng trình này tác giả trình bày về các vùng văn hóa ở
Việt Nam cụ thể 7 vùng văn hóa từ Bắc vào Nam và thể loại văn hóa với những nét
độc đáo mang rõ bản sắc của từng vùng, về q trình hình thành và đặc trƣng văn
hóa các vùng trong nƣớc, cụ thể: về vị trí địa lý, về lịch sử hình thành, về con
ngƣời, về phong tục, tập quán và lễ hội, tín ngƣỡng đƣợc tác giả đề cập khá chi tiết.


7

Nguyễn Đình Quốc Cƣờng (2013): Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay (Luận án tiến sĩ triết học, Đại học Khoa học
xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh), nội dung của luận án gồm ba chƣơng,
chƣơng 1, trình bày và phân tích những quan niệm về văn hóa, bản sắc văn hóa dân
tộc, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, những biểu hiện đặc thù của bản sắc dân tộc
Việt Nam ở tỉnh Đắk Lắk. Chƣơng 2, tác giả nêu ra thực trạng giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở tỉnh Đắk Lắk, trong đó nêu rõ những nguyên
nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam ở tỉnh Đắk Lắk. Chƣơng 3, ngƣời viết đƣa ra phƣơng hƣớng
và những giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam ở tỉnh Đắk Lắk
Lê Võ Thanh Lâm (2015): Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam ở Thành Phố Hồ Chí Minh trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
(Luận án tiến sĩ triết học, Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh), nội dung của luận án trình bày về vấn đề bản sắc dân tộc Việt Nam ở Thành
phố Hồ Chí Minh, đề xuất và luận giải một số phƣơng hƣớng và giải pháp giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở thành phố này.

Thuộc chủ đề thứ hai này cịn có các cơng trình nghiên cứu về bản sắc văn
hóa dân tộc, sự thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở tỉnh Thanh Hóa,
những giải pháp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở địa
phương này, tiêu biểu có các cơng trình sau:
Tác giả Vƣơng Anh 2001): “Tiếp cận văn hóa bản Thái xứ Thanh” (Thanh
Hóa: Sở Văn hóa thơng tin Thanh Hóa). Nội dung cuốn sách trình bày: 1. Từ cội
nguồn tộc ngƣời Thái; 2. Vào kho tàng văn hóa phi vật thể; 3. Tiếp tục phát triển
đời sống văn hóa xây dựng môi trƣờng xã hội - nhân văn ở xứ Thanh.
Bảo tàng tổng hợp tỉnh Thanh Hóa 2002): “Thanh Hóa di tích và thắng cảnh”
(Thanh Hóa). Nội dung cuốn sách giới thiệu về những di tích và danh lam thắng
cảnh ở xứ Thanh.


8

Hồng khơi 2003): “Nét văn hóa xứ Thanh” Thanh Hóa). Nội dung cuốn
sách này tác giả đề cập đến lịch sử ra đời của xứ Thanh, giới thiệu về dấu ấn văn
hóa cũ và văn hóa mới.
Đồng tác giả Nguyễn Văn Hảo – Lê Thị Vinh (2003): “Di sản văn hóa xứ
Thanh” (Thanh niên). Các tác giả giới thiệu về sự ra đời của văn hóa và con ngƣời
xứ Thanh.
Ban quản lý di tích và Danh thắng Thanh Hóa (2004): “Thanh Hóa di tích và
danh thắng” Thanh Hóa). Nội dung cuốn sách giới thiệu về những di tích và những
địa danh thắng cảnh ở xứ Thanh.
Vi Văn Biên 2006): “Văn hóa vật chất của người Thái ở Thanh Hóa và Nghệ
An” Văn hóa dân tộc). Nội dung cuốn sách trình bày: 1. Khái quát về tộc ngƣời
Thái ở Thanh Hóa và Nghệ An; 2. Văn hóa ẩm thực; 3. Làng bản- nhà cửa; 4. Trang
phục; 5. Công cụ lao động và phƣơng tiện vận chuyển.
Ban quản lý di tích và Danh thắng Thanh Hóa (2006): “Di tích và Danh thắng
Thanh Hóa” (Thanh Hóa). Cuốn sách này làm rõ giá trị lịch sử văn hóa của vùng

đất Hàm Rồng dƣới góc nhìn là một di chỉ khảo cổ học.
Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Thanh Hóa (2007): “Những thắng tích
của xứ Thanh” (Thanh Hóa)
Ban nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (2007): “Danh nhân Thanh
Hóa” (Thanh Hóa). Cuốn sách giới thiệu về những địa danh và con ngƣời xứ
Thanh. Bên cạnh đó cịn có một số tác phẩm: Hà Nguyễn, Tiểu vùng văn hóa xứ
Thanh, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông – 2016. Nội dung cuốn sách giới
thiệu về lịch sử, về con ngƣời, về đời sống vật chất – tinh thần, về tôn giáo, tín
ngƣỡng, về di sản văn hóa, về lễ hội,... ở tiểu vùng văn hóa này.
Nhƣ vậy, số lƣợng lớn các cơng trình nghiên cứu, bài báo viết về bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam và bản sắc văn hóa dân tộc ở tỉnh Thanh Hóa là khá đồ sộ, có
giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với việc giữ gìn bản sắc dân tộc đối với cả
nƣớc nói chung, tỉnh Thanh Hóa nói riêng.


9

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở tỉnh Thanh Hóa, luận văn đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt đƣợc mục đích nói trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận chung về bản sắc văn hóa
của dân tộc Việt Nam và vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam ở tỉnh Thanh Hóa.
Thứ hai, phân tích, làm rõ thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của
dân tộc Việt Nam ở tỉnh Thanh Hóa.

Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất một số phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở
tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tƣợng nghiên cứu: giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phƣơng pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đồng thời ngƣời viết còn sử dụng hệ thống phƣơng pháp nghiên cứu khoa học
bao gồm phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và lơgích, hệ thống và cấu
trúc, so sánh - đối chiếu, thống kê, điều tra xã hội học,…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, đề tài góp phần làm sáng tỏ những giá trị văn hóa đặc trƣng ở
tỉnh Thanh Hóa; thực trạng cơng tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc


10

Việt Nam ở Thanh Hóa những năm qua.
Về mặt thực tiễn, đề tài nghiên cứu đề xuất phƣơng hƣớng và những giải pháp
góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam ở tỉnh Thanh Hóa, từ đó giúp cho thế hệ trẻ Thanh Hóa nhìn lại mình và
có trách nhiệm trƣớc những thành tựu văn hóa mà cha ơng đã để lại. Ngồi ra, luận
văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, học
tập triết học văn hóa, và cho tất cả những ngƣời quan tâm đến văn hóa Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn có kết cấu gồm 2 chƣơng 6 tiết.



11

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC
VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM Ở TỈNH THANH HÓA
1.1. QUAN NIỆM VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ BẢN SẮC
VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM
1.1.1. Quan niệm về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Khái niệm văn hóa
Cho đến nay đã có hàng trăm định nghĩa về văn hoá. Và khối lƣợng định
nghĩa về văn hóa chƣa dừng lại ở con số đó. Giới khoa học và quản lý tiếp tục
đề xuất những quan niệm, những định nghĩa hay cách lý giải mới về khái niệm
văn hóa. Văn hóa sở dĩ là một khái niệm có sự giao động và linh hoạt về nghĩa
nhƣ vậy là do: Thứ nhất, văn hóa gắn với sự sáng tạo của con ngƣời. Sự sáng
tạo của con ngƣời và lồi ngƣời là khơng ngừng nghỉ trong vơ tận thời gian. Do
đó, khái niệm văn hóa sẽ khơng ngừng nhận đƣợc những sắc thái ý nghĩa mới.
Thứ hai, văn hóa là một hiện tƣợng xã hội, xuyên thấm trong mọi hoạt động và
quan hệ của con ngƣời. Nó phản ánh và thể hiện mọi mặt của cuộc sống (của
mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng nhƣ đang diễn ra
trong hiện tại. Sự năng động và linh hoạt của cuộc sống, của các hoạt động và
quan hệ của con ngƣời và xã hội tất yếu kéo theo sự năng động và linh hoạt của
khái niệm văn hóa. Thứ ba, tùy theo góc độ tiếp cận của từng ngƣời, từng bộ
môn khoa học, khái niệm văn hóa đƣợc lý giải và hiểu theo những nội dung
khác nhau.
Trƣớc tình hình nhƣ vậy, để có thể đi tới một nhận thức về khái niệm văn
hóa vừa bao quát đƣợc những ý nghĩa cốt lõi nhất của từ văn hóa, vừa sát hợp với
đối tƣợng, hƣớng tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi qua
khảo sát một khối lƣợng lớn các định nghĩa về văn hóa, nhận thấy và dẫn ra dƣới

đây một số quan niệm và định nghĩa về khái niệm về văn hóa có nội dung đáp ứng
đƣợc điều mà chúng tơi cần tìm kiếm, xác định.


12

Trƣớc hết, nhiều nhà nghiên cứu, bằng phƣơng pháp phân tích, đối chiếu –
so sánh văn bản học, đã chỉ ra rằng từ
“Văn hóa có nguồn gốc từ tiếng Latinh Cultura mà nghĩa gốc của từ văn hóa
là “trồng trọt” đƣợc dùng theo hai nghĩa: Cultus agri là “trồng trọt ngoài
đồng”, tức hoạt động lao động cải biến tự nhiên và Cultus animi là “trồng
trọt tinh thần”, tức là sự giáo dục bồi dƣỡng tâm hồn con ngƣời” (Phan
Ngọc, Văn hóa Việt Nam và Cách tiếp cận mới, 1994, pp. 7 -8).
Trong cuốn giáo trình Cơ sở lý luận văn hóa Mác – Lênin dùng để giảng dạy
trong các trƣờng đại học văn hóa ở Liên xơ trƣớc đây, các tác giả cũng đã chỉ ra
rằng, nguồn gốc của từ “văn hóa” có liên quan đến lao động hoạt động tích cực cải
tạo của con ngƣời, khởi đầu có nghĩa là vỡ đất, chăm bón đất đai, lao động nơng
nghiệp. Về sau từ này chuyển nghĩa nói về tính chất khai trí, tính chất có giáo dục,
có học vấn của con ngƣời Trƣờng văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, 1984, p. 15).
Câu nói của Hồ Chí Minh “Vì lợi ích mƣời năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng ngƣời” là phù hợp với nghĩa gốc đó.
Trong quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, văn hóa gắn với hoạt động lao
động của con ngƣời, đƣợc các ông xem xét trong mối quan hệ hiện thực, chặt chẽ
giữa hoạt động cải biến tự nhiên và sự phát triển “những lực lƣợng bản chất
ngƣời” của con ngƣời. Quá trình phát triển văn hóa trƣớc hết là q trình lao động
hoạt động tích cực của con ngƣời cải biến tự nhiên, trên cơ sở đó, sáng tạo ra
những điều kiện sinh tồn cho bản thân mình và sáng tạo ra lịch sử của mình, đồng
thời cũng sáng tạo ra chính bản thân con ngƣời. Ph.Ăngghen viết:
“Các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi
của cải. Lao động đúng là nhƣ vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp

những vật liệu cho lao động biến thành của cải. Nhƣng lao động cịn là một
cái gì vơ cùng lớn lao hơn thế nữa. Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của
toàn bộ đời sống loài ngƣời, và nhƣ thế đến một mức mà trên một ý nghĩa
nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con ngƣời” (Các
Mác & Ăngghen, Toàn tập, Tập 20, 1994, p. 641).


13

V.I.Lênin, sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mƣời, đã nhiều lần đề
cập đến văn hóa và cách mạng văn hóa, coi cách mạng văn hóa là một trong
những điều kiện cơ bản đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nƣớc Nga xô viết lúc bấy giờ. Xuất phát từ điều kiện và hoàn cảnh thực tế ở
nƣớc Nga và những nhiệm vụ trƣớc mắt của Chính quyền xơ viết trong những
năm đầu sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mƣời, nội dung nhiệm vụ của cách
mạng văn hóa đƣợc V.I.Lênin chỉ ra, chủ yếu là phát triển giáo dục, sự nghiệp
khoa học, xóa nạn mù chữ, nâng cao trình độ học vấn của nhân dân. Nhƣ vậy, có
thể thấy C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, các nhà kinh điển chủ nghĩa xã hội
khoa học đều chƣa xây dựng khái niệm văn hóa một cách rõ ràng và hồn chỉnh.
Nhƣng các ơng đã xác lập nên những quan điểm khoa học vững chắc cho việc
nhận thức khái niệm văn hóa và xử lý vấn đề văn hóa trong thực tiễn cách mạng.
Trong nhận thức của giới học thuật ở các nƣớc thuộc hệ thống xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu trƣớc đây, khái niệm văn hóa đƣợc sử dụng theo hai
nghĩa: Nghĩa rộng, văn hóa là “Tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
ngƣời sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội – lịch sử và tiêu biểu cho trình
độ đạt đƣợc trong lịch sử phát triển xã hội” (Từ điển triết học, 1986, p. 656).
Nghĩa hẹp, văn hóa là “Tồn bộ những hình thức của đời sống tinh thần của xã
hội” (Từ điển triết học, 1976, p. 973). Định nghĩa văn hóa theo nghĩa rộng đƣợc sử
dụng chủ yếu trong nghiên cứu triết học văn hóa; cịn theo nghĩa hẹp đƣợc dùng
phổ biến trong đƣờng lối, chính sách văn hóa của các Đảng Cộng sản và nhà nƣớc

xã hội chủ nghĩa.
Văn hóa học tƣ sản có nhiều định nghĩa về văn hóa, trong đó, định nghĩa của
E.B.TyLor trong cuốn Văn hóa nguyên thủy xuất bản ở Luân Đôn vào năm 1871
đƣợc xem là định nghĩa đầu tiên có tính kinh điển về văn hóa. Định nghĩa này nêu:
“văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó, là tồn bộ phức thể bao gồm hiểu biết,
tín ngƣỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng và tập
quán khác mà con ngƣời có đƣợc với tƣ cách là thành viên xã hội” Đại học Quốc
gia Hà Nội, 1996, p. 52).


14

Hồ Chí Minh, trong cuốn sổ ghi chép những bài thơ “Nhật ký trong tù”
(1942), có đoạn giải thích về ý nghĩa của từ văn hóa rằng:
“Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích của cuộc sống, lồi ngƣời mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các
phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà lồi ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
địi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, 1995, p. 431).
Theo Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp, đây là lời định nghĩa đầy đủ nhất của Hồ Chí
Minh về văn hóa.
Tun bố chung của Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa do UNESCO tổ
chức tại Mêhicô năm 1982 xác định khái niệm văn hóa là:
“Tổng thể những n t đặc sắc về tinh thần, vật chất, tri thức và cảm xúc tiêu
biểu cho một xã hội hay một tập đoàn xã hội, và bao gồm, ngoài nghệ thuật
và văn học, những lối sống, những quyền căn bản của con ngƣời, các hệ
thống giá trị, các truyền thống và các tín ngƣỡng” (Claude Fabrigio, 1997,
pp. 10-13).

Định nghĩa văn hóa nhƣ vừa nêu đã đƣợc thừa nhận và sử dụng rộng rãi ở
nhiều quốc gia, các chính phủ trên thế giới trong việc hoạch định chính sách văn
hóa. Theo đó, yếu tố cốt lõi của văn hóa là hệ giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc tiêu
biểu cho một cộng đồng xã hội, trong đó bao hàm cả các giá trị truyền thống của
cộng đồng đó.
Tập thể tác giả trong cuốn sách Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Định nghĩa văn
hóa: “Đó là hoạt động nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh và bản chất của
con ngƣời, vƣơn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Là hoạt động nhằm tạo ra những
giá trị, những chuẩn mực xã hội – là môi trƣờng thứ hai, cái nơi ni dƣỡng sự
hình thành nhân cách con ngƣời” (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Khoa Văn hóa Xã hội Chủ nghĩa, 1993, pp. 31-32).


15

Trong định nghĩa này, nhận thấy văn hóa là hoạt động sáng tạo của con
ngƣời mà bản thân hoạt động đó cũng nhƣ sản phẩm của nó thể hiện và thúc đẩy
sự gia tăng giá trị con ngƣời – giá trị gốc, làm nảy nở những giá trị mới cao hơn.
Văn hóa là sáng tạo, nhƣng nhƣ C.Mác nói, phải “theo quy luật của cái đẹp”. Cái
đẹp chân chính bao hàm cả cái đúng, cái tốt.
Nhƣ vậy, văn hóa là vấn đề đã đƣợc nghiên cứu từ lâu với nhiều định nghĩa
về văn hóa đƣợc đề xuất và lƣu hành rộng rãi trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam.
Qua tổng quan một số định nghĩa về văn hóa có tính tiêu biểu, đƣợc sử dụng rộng
rãi ở Việt Nam và trên thế giới, chúng tôi nhận thấy, mặc dù có những khác biệt
trong chi tiết, nhƣng giữa các định nghĩa có những điểm tƣơng đồng về những đặc
trƣng bản chất trong nội hàm khái niệm văn hóa. Đó là văn hóa là hoạt động sáng
tạo của con ngƣời – của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Con ngƣời sáng tạo ra các
giá trị văn hóa, đồng thời con ngƣời cũng trƣởng thành lên cùng với những giá trị
văn hóa do chính mình tạo ra. Sức sáng tạo, khuynh hƣớng sáng tạo văn hóa của
mỗi dân tộc có mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với mơi trƣờng xã hội – tự
nhiên và q trình lịch sử mà dân tộc đó tồn tại. Văn hóa là nơi biểu hiện rõ nhất

bản sắc dân tộc, là cái làm cho mỗi dân tộc biểu hiện ra với những n t độc đáo,
phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Từ những phân tích nội dung cốt lõi xuyên suốt trong một số định nghĩa tiêu
biểu về văn hóa, xuất phát từ hƣớng tiếp cận chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa
học, đối tƣợng và mục đích nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi tán thành định
nghĩa văn hóa của Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor đƣợc ơng nêu ra
năm 1988 tại lễ phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1988 – 1997) rằng:
“Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của
cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng
nhƣ đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên
một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống và dựa trên đó
từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” (Ủy ban Quốc gia về thập
kỷ phát triển văn hóa, 1992, p. 23).


16

Quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc
Trong sinh hoạt học thuật và tƣ tƣởng ở Việt Nam hiện nay, các từ “Bản sắc
văn hóa dân tộc”, “Bản sắc dân tộc của văn hóa”, đƣợc sử dụng một cách linh
hoạt, có thể thay thế lẫn cho nhau nhƣ những từ đồng nghĩa.
GS, VS. Hoàng Trinh, trong cuốn sách Vấn đề văn hóa và phát triển (Hồng
Trinh, Vấn đề văn hóa và Phát triển, 1996) và Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa
trong văn hóa (Hồng Trinh, Bản sắc dân tộc và hiện đại, 2000), chỉ sử dụng từ
“Bản sắc dân tộc của văn hóa”. Cịn GS. Nguyễn Đức Bình, trong tổng tập Về
cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay (Nguyễn Đức Bình, 2016, p. 595) đã
sử dụng cả hai từ “Bản sắc dân tộc của văn hóa” và “Bản sắc văn hóa dân tộc”.
Trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi có Nghị quyết 01 ngày
28-3-1992 của Bộ Chính trị về cơng tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, phổ biến
sử dụng từ “Bản sắc văn hóa dân tộc”. Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị đã vạch ra

những hƣớng nghiên cứu lý luận chủ yếu trong đó có nêu: “Nghiên cứu mối quan
hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với việc
tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới” (Nghị quyết của Bộ Chính trị, 1992, p. 11). Văn
kiện Đại hội VIII (1998) xác định: “Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng và mở rộng
giao lƣu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân
tộc” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
1998, p. 111). Trong luận văn này, đúng nhƣ tên đề tài của nó, chúng tơi thống
nhất sử dụng từ “Bản sắc văn hóa dân tộc”. Trong đó, khái niệm “Dân tộc” đƣợc
hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, theo nghĩa tộc ngƣời – là một cộng đồng tộc ngƣời
có chung nguồn gốc, ngơn ngữ, đời sống văn hóa và ý thức tự giác về tộc ngƣời
của mình, thể hiện ở tên tự gọi. Theo nghĩa này, có dân tộc Kinh, dân tộc Mƣờng
(ở Việt Nam), dân tộc Hán (ở Trung Hoa),… Thứ hai, theo nghĩa quốc gia dân tộc
– là một khối cộng đồng ngƣời ổn định đƣợc hình thành trong lịch sử, hợp thành
nhân dân một nƣớc, có lãnh thổ nhất định, có ngơn ngữ chung, có nền kinh tế
thống nhất và có tâm lý chung biểu hiện trong nền văn hóa. Theo nghĩa này có dân
tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Pháp,…Với cách hiểu nhƣ vậy, hầu hết


17

các quốc gia trên thế giới đều là quốc gia đa dân tộc. Trong luận văn này, khái
niệm dân tộc trong cụm từ “Bản sắc văn hóa dân tộc” đƣợc hiểu chủ yếu theo
nghĩa quốc gia dân tộc. Và, ở những quốc gia đa dân tộc, bên cạnh bản sắc văn
hóa chung của cả cộng đồng, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng của mình. Cịn
khái niệm “Bản sắc”, trong Từ điển tiếng việt do Văn Tân chủ biên) đƣợc giải
thích là: “Tính chất, màu sắc riêng tạo thành phẩm cách đặc biệt của một vật”
Văn Tân, 1977, p. 44). Từ điển tiếng việt, Hoàng Phê (chủ biên), giải thích “Bản
sắc” là “Màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính” (Hồng Phê, 2016, p.
38). Trong từ điển mở (Wiktionary tiếng Việt), từ “Bản sắc” đƣợc giải thích: về
mặt từ ngun – “bản” là của mình; “sắc” là dung mạo. Về mặt danh từ -“Bản

sắc” là “Tính chất đặc biệt vốn có, tạo thành phẩm cách riêng”. Nhƣ vậy, từ sự
giải thích của các từ điển nhƣ vừa dẫn, có thể hiểu “Bản sắc” là tính chất, màu sắc
riêng tạo thành đặc điểm, thành phẩm cách đặc biệt của một đối tƣợng, một sự vật.
Vậy “Bản sắc văn hóa dân tộc” là gì? Cho đến nay đã có nhiều cách lý giải,
nhiều định nghĩa về khái niệm này đƣợc đề xuất.
GS, VS. Hoàng Trinh, tác giả cuốn Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong
văn hóa nêu một quan niệm rằng bản sắc văn hóa dân tộc là:
“Tổng thể những tính chất, tính cách, đƣờng nét, màu sắc, biểu hiện ở một
dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp cho dân tộc đó giữ đƣợc tính
duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán của bản thân mình trong quá trình
phát triển,…Thể hiện ra trong tất cả các lĩnh vực của đời sống: ý thức thuộc
về một dân tộc; cách tƣ duy, cách sống, cách dựng nƣớc, giữ nƣớc, cách sáng
tạo trong văn hóa, khoa học, văn học, nghệ thuật,…” (Hoàng Trinh, Bản sắc
dân tộc và hiện đại trong văn hóa, 2000, pp. 18-19).
Trong cuốn sách Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, tác giả - GS.
Ngô Đức Thịnh đã đề xuất một định nghĩa: “Bản sắc văn hóa dân tộc là một tổng
thể các đặc trƣng của văn hóa, đƣợc hình thành, tồn tại, phát triển suốt quá trình
lịch sử lâu dài của dân tộc, các đặc trƣng văn hóa ấy mang tính bền vững, trƣờng
tồn, trừu tƣợng và tiềm ẩn” Ngơ Đức Thịnh, Những giá trị văn hóa truyền thống


18

Việt Nam, 2010, p. 29). Qua hai định nghĩa vừa dẫn, có thể nhận thấy, bản sắc văn
hóa dân tộc là những tính chất, đặc trƣng riêng tạo thành phẩm cách đặc biệt của
một dân tộc. Những đặc tính, đặc trƣng ấy có tính bền vững, trƣờng tồn trong tất
cả các lĩnh vực đời sống, hoạt động và quan hệ con ngƣời của dân tộc đó.
Trong cuốn Những thách thức của văn hóa Việt Nam trong q trình hội
nhập kinh tế quốc tế, Phạm Duy Đức (chủ biên) (Phạm Duy Đức, Những thách
thức của văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, 2006, p. 167)

và cuốn Về bản lĩnh văn hóa Việt Nam của Hồ Sỹ Vịnh, các tác giả đã đề xuất
quan niệm của mình về bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó có sự thống nhất ở một
điểm, nếu có thể nói một cách đơn giản thì bản sắc văn hóa dân tộc là cái làm cho
mỗi dân tộc là mình, khác với dân tộc khác (Hồ Sỹ Vịnh, 2005, p. 289). Tuy nhiên,
từ “khác” nói ở đây khơng có nghĩa là mọi cái phải hồn tồn độc đáo ngồi dân tộc
đó ra, khơng dân tộc nào có cả. Nhƣ chúng ta đã biết, tại Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII (1998), khi thảo luận về
Dự thảo Nghị quyết xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc có ý kiến nói rằng, trong hệ giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam đƣợc nêu trong Dự thảo có những điểm khơng chỉ dân tộc ta mà nhiều dân tộc
khác cũng có. Về vấn đề này, quan điểm của Bộ Chính trị là “Vấn đề cần xem xét là
những điểm đã nêu có đúng với thực tế bản sắc dân tộc ta hay khơng? Cịn khi nói
bản sắc dân tộc, khơng có nghĩa mọi cái phải hoàn toàn độc đáo ngoài ta ra, khơng
dân tộc nào có cả” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ƣơng khóa VIII, 1998, p. 23).
Qua một số quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc nêu trên và trên cơ sở
những nhận thức của bản thân, chúng tôi rút ra một số nhận xét về khái niệm bản
sắc văn hóa dân tộc nhƣ sau:
Thứ nhất, văn hóa đƣợc sáng tạo bởi con ngƣời. Con ngƣời sáng tạo ra văn
hóa trong mơi trƣờng tự nhiên và hồn cảnh lịch sử của bản thân mình. Do đó, văn
hóa bao giờ cũng gắn với từng dân tộc, mang bản sắc dân tộc. Chủ thể sáng tạo
văn hóa là nhân dân lao động. Họ sống và sáng tạo trong môi trƣờng tự nhiên và


19

lịch sử của dân tộc. Những cảm xúc, suy nghĩ, phƣơng thức ứng xử, thị hiếu và
khát vọng,… của nhân dân đã in đậm lên những sáng tạo văn hóa của họ, dần dần
hình thành những dấu hiệu đặc trƣng, đặc thù, phân biệt văn hóa của dân tộc này
với dân tộc khác. Đó chính là bản sắc văn hóa dân tộc.

Thứ hai, bản sắc văn hóa dân tộc là bộ mặt tinh thần của dân tộc, có thể ví
nhƣ “căn cƣớc”, “chứng minh thƣ” của một dân tộc. Nó chỉ rõ anh là ai, thiếu nó
anh khơng cịn tồn tại nhƣ một giá trị. Trong phạm vi ý nghĩa này, có thể nói, bản
sắc văn hóa dân tộc cịn thì dân tộc cịn, mất bản sắc văn hóa dân tộc là mất dân
tộc; bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc là bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, bản sắc văn hóa dân tộc khơng ra đời một cách ngẫu nhiên hay do
trời phú mà đƣợc tích tụ lâu đời trong lao động, trong đấu tranh. Nó cũng khơng
phải là cái nhất thành, bất biến trong dịng thời gian. Nó hình thành và phát triển
nhƣ là sản phẩm, gắn với những điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử của từng dân
tộc. Mà tất cả những điều đó lại biến đổi theo thời gian. Vì vậy, bản sắc văn hóa
dân tộc cũng phải đƣợc xét và hiểu trong sự vận động.
Thứ tư, con đƣờng hình thành bản sắc văn hóa dân tộc của một dân tộc
khơng chỉ bằng sự sáng tác của dân tộc đó mà cịn bằng sự chiếm lĩnh, tiếp biến
các giá trị văn hóa của các dân tộc khác từ bên ngồi. Trong lịch sử, khơng có nền
văn hóa nào là “thuần chủng”, hồn tồn bản địa. Các nền văn hóa đều có tiếp thu
các giá trị, các tinh hoa văn hóa của nhau. Những giá trị, những tinh hoa văn hóa
ngoại sinh đƣợc hấp thụ, nhào nặn và biến hóa trên cơ sở cái vốn có của dân tộc
trong cuộc sống hiện thực từ thế hệ này sang thế hệ khác, hình thành nên bản sắc
văn hóa của dân tộc đó.
Thứ năm, bản sắc văn hóa của một dân tộc đƣợc biểu hiện chú ý trong cốt
cách và tâm hồn của con ngƣời, thể hiện ra trong mọi mặt đời sống, hoạt động và
quan hệ của con ngƣời, của nhân dân thuộc dân tộc đó. Các chế độ thì thay đổi,
nhân dân thì trƣờng tồn và luôn luôn phát triển. Nhân dân là ngƣời mang trong
mình những giá trị mà dựa vào đó từng dân tộc khẳng định bản sắc văn hóa của
dân tộc mình.


20

Từ những phân tích và nhận x t nhƣ đã trình bày trên, chúng tơi diễn đạt

khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc nhƣ sau: Bản sắc văn hóa dân tộc là một tập
hợp những giá trị văn hóa nổi bật tạo nên phẩm cách đặc biệt của một dân tộc,
làm cho dân tộc đó hiểu ra với những nét độc đáo, phân biệt với dân tộc khác. Nó
được hình thành và phát triển như là sản phẩm, gắn với điều kiện tự nhiên, xã hội
và lịch sử của từng dân tộc.
1.1.2. Quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
Những điều kiện lịch sử quyết định sự hình thành và phát triển bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam
Bản sắc văn hóa dân tộc khơng hình thành một cách ngẫu nhiên hay do trời
phú. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng
nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cƣờng dựng nƣớc và giữ nƣớc của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lƣu và tiếp thu tinh hoa của
nhiều nền văn minh thế giới” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần
thứ năm Ban chấp hành Trung ƣơng khóa VIII, 1998, p. 40). Theo đó, bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam hình thành và phát triển với lịch sử dựng nƣớc, giữ
nƣớc và giao lƣu văn hóa của nhân dân Việt Nam. Nó là sản phẩm của xã hội,
gắn liền với điều kiện địa lý tự nhiên và lịch sử của dân tộc Việt Nam. Trong bài
phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa VIII
(1998) của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thƣ lúc đó – Lê Khả Phiêu đã
nêu rằng: “Bằng lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh bền bỉ, kiên cƣờng, nhân
dân ta đã xây đắp một nền văn hóa kết tinh sức mạnh và in đậm dấu ấn bản sắc
dân tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trƣờng tồn của dân tộc” Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ƣơng
khóa VIII, 1998, p. 6).
Xuất phát từ quan điểm của Đảng, từ sự hiểu biết còn rất hạn chế của bản
thân và từ sự kế thừa, tiếp thu những kết quả nghiên cứu các nhà khoa học đi
trƣớc, chúng tơi xin trình bày khái qt về những điều kiện lịch sử quyết định sự
hình thành và phát triển của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam nhƣ sau:



×