Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

skkn giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo tổ quốc cho học sinh trong dạy học lịch sử việt nam ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.18 KB, 42 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Từ ngàn đời nay, Biển Đông cùng với các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là một phần máu thịt thiêng liêng không thể tách rời của mọi người dân đất
Việt. Quyết tâm giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đã thơi thúc nhân dân
Việt Nam đồn kết hơn, chung sức, đồng lịng vì biển đảo thân u.
Việt Nam là đất nước trải qua nhiều thăng trầm, đau thương và mất mát.
Có đi dọc những nghĩa trang liệt sỹ ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước; có
gặp, nói chuyện với những người đã gửi một phần tuổi trẻ, thanh xn cho đất
nước; có tận mắt nhìn những nạn nhân bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam...,
thì mới thấm thía giá trị của hịa bình, mới q trọng vô cùng máu xương của
cha anh đã dâng hiến cho Tổ quốc.
Thế hệ trẻ hôm nay chưa đi qua cuộc chiến, sẽ chưa hiểu hết sự khốc liệt
của chiến tranh. Nhưng chúng ta có thể thấy ở những quốc gia đang hàng ngày
phải hứng chịu bom rơi đạn nổ, có thể gặp các thế hệ đi trước, để biết rằng,
khơng có gì q hơn độc lập, tự do. Đại thắng mùa xuân 1975 trở thành dấu son
chói lọi đối với dân tộc và mỗi người con quê hương đất Việt. Từ đó đến nay,
Đảng và Nhà nước ta vẫn quyết tâm bảo vệ chủ quyền, bảo vệ sự thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ.
Với biển đảo quê hương, Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán được xác lập tại Công ước Liên hợp quốc về
Luật Biển 1982 bằng các biện pháp hịa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trải
qua nhiều mất mát, đau thương nên Việt Nam luôn thực tâm mong mỏi và quyết
tâm gìn giữ hịa bình, ổn định và an ninh trên Biển Đông. Song, Việt Nam cũng
bằng mọi biện pháp để luôn mạnh mẽ đấu tranh không khoan nhượng trước hành
vi xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp của mình
đã được cơng nhận theo luật pháp quốc tế.
Trong bối cảnh các thế lực thù địch, phản động chưa từ bỏ âm mưu, thủ
đoạn diễn biến hịa bình, can thiệp vào cơng việc nội bộ, gây mất ổn định chính
trị - xã hội, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới biển đảo của nước
ta thì bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biên giới quốc gia trên biển


là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới.
Thế kỉ XXI bởi cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, tài
nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền sẽ bị cạn kiệt
sau vài ba thập kỉ tới. Trong bối cảnh đó, các nước có biển, nhất là các nước lớn
đều vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển nên các nhà chiến lược xem thế kỉ XXI
là “thế kỉ đại dương”. Việt Nam là một quốc gia có biển, biển Việt Nam khơng chỉ
chứa đựng tiềm năng kinh tế to lớn mà còn là cửa ngõ để chúng ta mở rộng quan hệ
1


với quốc tế; Biển cịn đóng vai trị quan trọng về an ninh quốc phòng, là địa bàn
chiến lược quan trọng trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Môn lịch sử với chức năng giáo dục của mình đã “...góp phần hình thành
thế giới quan khoa học, giáo dục lịng u quê hương, đất nước, truyền thống
dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy hành động, thái độ ứng xử
đúng đắn trong đời sống xã hội”. Đặc biệt trong xu thế quốc tế hóa ngày càng
mở rộng, việc giáo dục cho thế hệ trẻ những giá trị truyền thống, những phẩm
chất cao quý và những bài học lịch sử có ý nghĩa vơ cùng quan trọng và mơn
lịch sử ở nhà trường phổ thơng đã góp phần quan trọng trong chiến lược chung
của quốc gia về giáo dục ý thức chủ quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh –
những người làm chủ tương lai của đất nước.
Xuất phát từ những lí do trên, tơi chọn vấn đề “Giáo dục ý thức về chủ
quyền biển, đảo Tổ quốc cho học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam ở
trường THPT” (chương trình chuẩn) làm đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm
của mình, với mong muốn góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần
dân tộc và khơi dậy trong các em, ý thức đóng góp sức mình vào nhiệm vụ bảo
vệ chủ quyền dân tộc trong đó có chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
2. Điểm mới, đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần làm phong phú về mặt lí luận dạy học,

khẳng định vai trò, ý nghĩa của giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc cho học sinh Trung học Phổ thông trong dạy học lịch sử.
Đồng thời, đề tài đề xuất những phương pháp tổ chức các hoạt động
dạy học lịch sử Việt Nam cho học sinh nhằm giáo dục ý thức về chủ quyền
biển, đảo Tổ quốc hiệu quả, nâng cao chất lượng bộ môn.
Đề tài giúp tơi trong q trình dạy học thực tiễn, ngồi ra đề tài là tài tiệu
tham khảo đối với các đồng nghiệp, đặc biệt đối với giáo viên dạy môn lịch sử ở
các trường Trung học Phổ thông cũng như những ai quan tâm tâm và vận dụng
nội dung kiến thức về vấn đề chủ quyền biển, đảo trong dạy học Lịch sử Việt
Nam ở trường THPT vào quá trình dạy học, góp phần nâng cao chất lượng và
tính hiệu quả trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT trong cả nước. Đề
tài cịn góp phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay và tiến tới thay đổi
SGK, thực hiện chương trình giáo dục phổ thơng mới trong những năm tới.

2


PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC VỀ
CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm “Ý thức”, “Giáo dục ý thức”
Theo từ điển Tiếng Việt:
“Ý thức” là khả năng của con người phản ánh và tái hiện hiện thực vào
trong tư duy; là sự nhận thức đúng đắn, biểu hiện bằng thái độ hành động cần
phải có (ý thức được việc làm của mình).
“Giáo dục” là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát

triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần
có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
“Giáo dục ý thức” là sự phản ánh của hiện thực khách quan, hình thức
thơng qua quá trình giáo dục con người. Như ý thức về chủ quyền lãnh thổ tổ
quốc, ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc...Giáo dục ý thức chính là quá trình
giáo dục làm khơi dậy sự phản ánh của hiện thực khách quan cho con người.
1.1.1.2. Khái niệm “chủ quyền biển, đảo”
Khái niệm “chủ quyền biển, đảo” nằm trong khái niệm “chủ quyền lãnh
thổ quốc gia”.
Theo Từ điển thuật ngữ Lịch sử phổ thông: “chủ quyền quốc gia” là
quyền cao nhất của một dân tộc, một quốc gia độc lập, tự mình làm chủ đất đai,
tài sản, tự mình quyết định vận mệnh của mình. Những nội dung này được
khẳng định trong pháp luật mỗi nước, trong văn bản pháp lý quốc tế, là nguyên
tắc cơ bản cần tuân theo.
Vì vậy, “Chủ quyền lãnh thổ quốc gia” là quyền tối cao tuyệt đối, hoàn
toàn và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình. Quyền
tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ là quyền quyết định mọi vấn đề của quốc
gia đối với lãnh thổ, đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Quốc gia có
quyền đặt ra quy chế pháp lí đối với lãnh thổ. Với tư cách là chủ sở hữu, Nhà
nước có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với lãnh thổ thông qua hoạt
động của các cơ quan nhà nước như các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Theo Hiến pháp 1992 của nước ta: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là một nước độc lập có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm
đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời”. Công ước Liên hợp quốc về Luật
Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) được thông qua tại thành phố Môn-tê-gô-bay
3


của Gia-mai-ca vào ngày 10-12-1982. Cơng ước đã có hiệu lực và hiện nay có
161 thành viên tham gia, trong đó có các nước ven Biển Đơng là Việt Nam,

Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, In-đơ-nê-xi-a, Xin-ga-po và Bru-nây.
Cơng ước quy định các quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lãnh hải,
vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của
các vùng biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải của quốc gia
ven biển. UNCLOS 1982 quy định rất rõ quy chế pháp lý của từng vùng biển.
1.1.2. Nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong dạy học
Lịch sử dân tộc ở trường phổ thông
1.1.2.1. Giáo dục ý thức cho HS về vai trị, vị trí của biển, đảo trong lịch
sử dựng nước và giữ nước.
Thông qua bài học lịch sử HS thấy được vai trò của biển, đảo nước ta: Đã
bao đời nay gắn với đời sống kinh tế, văn hóa con người Việt Nam. Biển, đảo đã
góp phần tạo nên những thắng lợi hiển hách trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam. Biển, đảo có vị trí quốc phịng an ninh quan trọng. Trải qua hàng
nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển luôn gắn liền với
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vươn ra biển, khai thác những tiềm năng
của biển để làm giàu đất nước cũng chính là bảo vệ Tổ quốc từ phía biển.
1.1.2.2. Giáo dục cho HS ý thức về chủ quyền quốc gia và quá trình chiếm
hữu thật sự, hịa bình và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa,
Trường Sa của Việt Nam từ thời phong kiến đến nay.
Đó là q trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền biển, đảo - Trường Sa,
Hoàng Sa cũng như Sự khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam qua các
thời kỳ lịch sử được thể hiện hết sức mạnh mẽ qua các hoạt động: Quản lý hành
chính liên tục, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, vẽ bản đồ… Từ thời phong
kiến đến Pháp đô hộ (1884-1954 ), đến giai đoạn Việt Nam tạm thời bị chia cắt
(1954 – 1975) và thời kỳ đất nước thống nhất cho đến nay.
1.1.2.3. Giáo dục cho HS về những giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo
Việt Nam và vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, đảo.
Giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam hết sức to lớn: Du lịch,
nguồn thủy hải sản phong phú không chỉ là nguồn sống của ngư dân ven biển mà
cịn là nguồn đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm kinh tế quốc dân, ịch vụ

giao thông biển đang ngày càng được chú trọng. Nguồn khoáng sản biển hết sức
đa dạng: Cát, sỏi, muối, titan, monazite... với trữ lượng lớn, dễ khai thác. Đáng
kể là dầu thô và khí đốt là những nguồn tài ngun thiên nhiên vơ cùng phong
phú ở khu vực biển Việt Nam, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia
đồng thời cũng là mặt hàng xuất khẩu chiến lược của nền kinh tế. Tuy nhiên tài
nguyên, môi trường biển, đảo đang bị đe dọa: Ô nhiễm nguồn nước, khai thác
bừa bãi, mang tính hủy diệt, khai thác chưa đi đơi với bảo vệ bền vững, việc
đánh bắt hải sản bằng các phương tiện “hủy diệt” như mìn, hóa chất, xung điện,
4


lưới nhỏ hay khai thác san hô để nung vôi, làm đồ trang trí… vẫn diễn ra ở các
vùng biển nước ta. Các tài nguyên khác như khoáng sản, vận tải biển, du lịch
biển, tài nguyên địa chiến lược… chưa được đầu tư khai thác đúng mức nên
chưa phát huy hết tiềm năng vốn có.
Tình hình trên đặt ra u cầu cấp thiết của việc bảo vệ tài nguyên, môi
trường biển, vì đây là vấn đề sống cịn và cấp bách, ảnh hưởng lâu dài đến sự tồn
tại và phát triển của từng quốc gia, dân tộc. Biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay là
phải đưa nội dung bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, đảo vào trong nhà
trường. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng không thể thiếu khi
thực hiện mục tiêu giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSDT
ở trường THPT.
1.1.2.4. Giáo dục cho HS về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo - Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam hiện nay.
Từ thời phong kiến cho đến nay, Việt Nam ln đấu tranh cho hịa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực cũng như của thế giới. Nhà nước Việt
Nam luôn khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp liên quan đến vấn đề
biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa bằng các biện pháp hịa bình, phù hợp với
pháp luật quốc tế, trên cở sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
nước nhà. Dựa vào những bằng chứng lịch sử và pháp lí quốc tế, các nhà lãnh

đạo Việt Nam cũng luôn khẳng định lập trường nhất quán về chủ quyền không
thể tranh cãi của nước ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục cho học sinh về chủ quyền biển,
đảo trong dạy học Lịch sử ở trường THPT
1.1.3.1. Về kiến thức: Thông qua việc dạy học Lịch sử nhằm giáo dục về
chủ quyền biển, đảo cho HS để HS biết được vị trí địa lí, tầm quan trọng của
biển, đảo, những thành tựu về kinh tế, những mối đe dọa đối với biển, đảo như
tranh chấp chủ quyền, ô nhiễm môi trường…); biết được những nét chính về q
trình xác lập, thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa; biết được những thay đổi mạnh mẽ của kinh tế, xã hội ở các vùng
biển đảo nước ta hiện nay. HS được khắc sâu những kiến thức cơ bản của bài
học Lịch sử, nắm bắt được vai trò của biển, đảo trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc, vai trị của biển, đảo đối với cơng cuộc phát triển kinh tế đất
nước hiện nay.
1.1.3.2. Về phẩm chất năng lực: Thông qua việc dạy học Lịch sử dân tộc
nói chung, dạy học về chủ quyền biển, đảo Việt Nam nói riêng nhằm giáo dục
lịng u q hương, đất nước, tự hào về lịch sử lâu đời của dân tộc; bồi dưỡng ý
thức độc lập dân tộc, bảo vệ sự thống nhất nước nhà qua nhiều thế kỉ. Giáo dục
lòng biết ơn đối với các thế hệ tổ tiên, các anh hùng dân tộc đã chiến đấu vì độc
lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc trong đó có chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.

5


Từ đó có trách nhiệm đối với quê hương, đất nước, xác định động cơ học tập vì
lý tưởng cao đẹp, phục vụ lợi ích của Tổ quốc.
Ngồi ra nhằm hình thành và phát triển cho HS các năng lực tư duy như:
Phát hiện, phân tích, khả năng xác định điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, mối quan
hệ tác động qua lại giữa biển, đảo với đời sống con người trong xã hội, rèn
luyện cho HS năng lực đánh giá, nhận xét vai trò của biển, đảo đối với sự vận động

và phát triển của xã hội. Qua đó các em sẽ có khả năng phân biệt, có thái độ ứng xử
đúng đắn đối với vấn đề chủ quyền biển, đảo hiện nay
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng của việc giáo dục cho học sinh về chủ quyền biển, đảo
trong dạy học Lịch sử ở trường THPT
Việt Nam là một quốc gia biển có hơn 3260 km bờ biển và 4000 hịn đảo,
trong đó có 2 quần đảo Hồng sa, Trường Sa nằm giữa Biển Đông – một giao lộ
hàng hải quan trọng bậc nhất thế giới. Tài nguyên biển đa dạng: thuỷ-hải sản
(11000 lồi sinh vật…); dầu khí, băng cháy, đất hiếm,…tiềm năng du lịch rất lớn
với 125 thắng cảnh. Biển đảo Việt Nam là một bộ phận của lãnh thổ Tổ quốc
chúng ta, có vai trị to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước hiện
nay. Đặc biệt trong thời gian gần đây dư luận xã hội và các phương tiện thông
tin đại chúng đã dành sự quan tâm rất lớn đến chủ quyền biển đảo, nhất là khi
Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trái phép HD 981 trong vùng thềm
luc địa nước ta, bởi vậy việc giáo dục về biển đảo Việt Nam là một nhiệm vụ
quan trọng trong nhà trường phổ thơng hiện nay.
Bên cạnh đó tồn ngành giáo dục đang ra sức thực hiện công tác đổi mới
phương pháp dạy học để mang lại hiệu quả cao. Riêng bộ môn lịch sử trong thời
gian gần đây cũng thường xuyên bị “đưa lên bàn cân” vì sự thờ ơ của học sinh,
vì kết quả thấp trong các kỳ thi hàng năm, ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc của thế hệ trẻ nói chung và học sinh THPT nói riêng đang có chiều hướng
đi xuống, thế hệ trẻ hôm nay khi nhắc đến vấn đề chủ quyền biển, đảo Tổ quốc
thì rất “mơ hồ” vậy nên nhiệm vụ của GV môn lịch sử phải giáo dục HS đế các
em nhận thức được quá trình xác lập chủ quyền biển đảo, tầm quan trọng của
việc khai thác chủ quyền biển đảo, chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước
về chủ quyền biển đảo, cũng như thấy được vai trò, trách nhiệm của bản thân
trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay.
Để hiểu rõ thực tiễn việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc
cho học sinh trong dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông, tôi tiến hành điều tra,
khảo sát một số trường THPT trên địa bàn huyện (Phụ lục 1, 2).

1.2.1.1. Về nội dung điều tra:
Đối với Giáo viên: Tôi tập trung làm rõ một số vấn đề chủ yếu như: Sự cần
thiết phải giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSDT những
nội dung về vấn đề biển, đảo trong SGK Lịch sử hiện nay, phương pháp dạy học
6


những nội dung về biển, đảo trong các bài học LSDT, những ý kiến đề xuất
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn cũng như nâng cao hiệu quả
dạy học về vấn đề biển, đảo trong các bài học LSDT ở trường THPT..
Đối với Học sinh: Tập trung làm rõ một số vấn đề cơ bản như sau: Tìm
hiểu sự hứng thú của HS đối với vấn đề chủ quyền biển, đảo Việt Nam, nhận
thức của HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo thông qua các mơn học, các hình thức
giáo dục chủ quyền biển, đảo được tổ chức trong nhà trường, sự hiểu biết của
các em về vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam,
khó khăn của HS trong học tập nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo.
1.2.1.2. Về phương pháp điều tra
Tôi tiến hành các phương pháp như dùng phiếu điều tra, trao đổi trực tiếp
với GV, HS, quan sát, dự giờ... Sau khi xử lý các nguồn thông tin điều tra, kết
quả điều tra thực tiễn đã cho phép tôi rút ra một số kết luận về các vấn đề đã đặt
ra như sau:
Về phía Giáo viên:
Khi hỏi về sự cần thiết phải giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong
dạy học LSDT: có 90% GV được hỏi đều cho rằng đây là việc làm rất cần thiết,
100% cho rằng cần thiết, không có ý kiến nào cho rằng đây là việc làm khơng
cần thiết.
Về bộ mơn có ưu thế trong việc giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo
trong nhà trường phổ thơng: có đến 90% GV cho rằng mơn Lịch sử có ưu thế
nhất, có 50% ý kiến GV cho rằng môn Địa lý, 50% ý kiến cho rằng môn Giáo
dục cơng dân và mơn Giáo dục quốc phịng là 25%.

Về sử dụng Phương pháp dạy học đối với môn Lịch sử khi dạy phần
LSDT nói chung và dạy học về nội dung chủ quyền biển, đảo nói riêng: Có đến
90% ý kiến cho rằng cần sử dụng linh hoạt, hiệu quả các phương pháp dạy học
kết hợp giữa dạy học hiện đại và truyền thống nhằm phát huy được tính tích cực,
độc lập của HS. Tuy nhiên vẫn cịn một số ít GV (10%) có ý kiến khơng muốn
đổi mới phương pháp dạy, vẫn muốn sử dụng phương pháp truyền thống.
Về thực trạng của việc giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong nhà
trường phổ thông hiện nay: Có đến 75% ý kiến cho rằng có đề cập tới vấn đề
giáo dục chủ quyền biển, đảo cho HS trong nhà trường, 25% GV có dạy lồng
ghép nội dung chủ quyền biển, đảo; 15% ý kiến cho rằng có đưa vấn đề chủ
quyền biển, đảo vào dạy lồng ghép trong các môn như Địa lý, Giáo dục công
dân và mơn Giáo dục quốc phịng.
Khi hỏi về hình thức để giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong dạy
học LSDT: có 50% ý kiến GV cho rằng muốn thực hiện việc giáo dục chủ quyền
biển, đảo cho HS trong bài học nội khóa LSDT và bài LSĐP, 90% ý kiến GV
chọn hình thức ngoại khóa để tun truyền giáo dục về vấn đề này; 10% cho
7


rằng HS tự tìm hiểu, tiếp cận, khai thác trên các kênh thông tin (mạng Internet,
tivi, báo, radio…).
Về vấn đề nội dung chương trình trong SGK, tất cả GV được hổi đều nhấn
mạnh: Vấn đề xác lập, thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo của nhà nước ta qua
các thời kì lịch sử (từ thế kỉ XVII đến nay) và cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo hiện nay của Việt Nam cần được đưa vào chương trình SGK phần
LSDT ở tất cả các khối lớp.
Về phía Học sinh:
Kết quả thu được từ phiếu điều tra HS về sự cần thiết của việc đưa nội
dung giáo dục chủ quyền biển, đảo vào chương trình SGK phần LSDT: Có 90%
ý kiến HS cho rằng đây là việc làm cần thiết, chỉ có 10% cho rằng đây là việc

làm khơng cần thiết.
Khi hỏi hiểu biết của các em về những vấn đề cơ bản nhất liên quan đến
biển, đảo Việt Nam cũng như những tài liệu chứng minh cho chủ quyền của
nước ta đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Chỉ có khoảng 20% HS
trả lời đúng, còn lại đa số các em trả lời sai hoặc khơng trả lời.
Khi đề cập tới các hình thức giáo dục chủ quyền biển, đảo đã được tổ
chức trong nhà trường: Có 70% ý kiến HS cho rằng đã đưa vào chương trình nội
khóa dạy lồng ghép trong một số môn học như Lịch sử, Giáo dục công dân, Địa
lý, Giáo dục quốc phòng; 90% HS cho rằng nhà trường đã tiến hành tổ chức hoạt
động ngoại khóa.
Về hình thức giáo dục chủ quyền biển, đảo gây hứng thú cho HS: Đa số
các em cho rằng hình thức tổ chức ngoại khóa gây nhiều hứng thú cho các em
trong học tập (90%), một số ít (25%) cho rằng bài học nội khóa.
Những khó khăn của bản thân trong học tập các nội dung giáo dục về chủ
quyền biển, đảo: 88.9% HS cho rằng thiếu dụng cụ, tài liệu học tập; 61.1% cho
rằng GV lên lớp chưa thực sự hấp dẫn; 52.8% HS cho rằng đó là những kiến
thức khơ khan, nhàm chán.
Nhận xét: thông qua việc khảo sát, điều tra nhỏ tôi rút ra được một số
nhận xét như sau:
Về phía Giáo viên: Hầu hết GV đều nhận thức được vai trò, ý nghĩa của
việc dạy học nội dung về chủ quyền biển, đảo trong chương trình LSDT. 100%
GV cho rằng nên đưa nội dung giáo dục chủ quyền biển, đảo vào chương trình
SGK để dạy học cho HS. Tuy nhiên, vấn đề còn dừng lại ở nhận thức lý luận.
Nhiều GV còn tỏ ra khá lúng túng khi khai thác các vấn đề về chủ quyền biển,
đảo trong chương trình giảng dạy, nhất là việc lựa chọn và vận dụng phương
pháp dạy học phù hợp với nội dung yêu cầu.
Đa số GV chỉ sử dụng một phương pháp dạy học duy nhất đó là trình bày
miệng, chưa kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học trong một bài học
8



Lịch sử, do đó dẫn đến sự nhàm chán, đơn điệu, không khai thác hết nội dung và
yêu cầu bài học. Một số GV còn lạm dụng khi sử dụng tài liệu tham khảo nên
dẫn đến tình trạng "quá tải", làm cho giờ học trở nên nặng nề, hoặc làm lỗng
nội dung, làm mất tính đặc trưng của bài học Lịch sử. Sự kết hợp linh hoạt các
hình thức tổ chức dạy học của một bộ phận GV còn nhiều hạn chế, các hình thức
ngoại khóa chưa thật phong phú.
Về phía Học sinh: Hầu hết HS THPT về cơ bản đều quan tâm đến vấn đề
chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, nhưng ở mức độ
khác nhau. Đa số HS đều cho rằng cần phải đưa nội dung giáo dục chủ quyền
biển, đảo vào trong nhà trường phổ thơng. Tuy nhiên, vẫn cịn một tỉ lệ khơng ít
những HS khơng quan tâm hoặc thờ ơ với vấn đề này. Điều đó cho thấy ý thức
về trách nhiệm công dân của HS chưa cao, chưa được uốn nắn, giáo dục một
cách kịp thời và nghiêm túc.
Về phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục về nội dung chủ
quyền biển đảo: Đa số các em cho rằng nên kết hợp cả hình thức nội khóa và
ngoại khóa, bên cạnh đó GV cần đổi mới phương pháp dạy học để tiết học thoải
mái và đạt kết quả cao hơn.
Tuy vậy, nhận thức của HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam
còn rất hạn chế, nhiều vấn đề các em nhận thức cịn theo cảm tính. Khi đề cập
tới hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa của Việt Nam, tơi hỏi những bằng
chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này hay tên các đảo ở
Trường Sa... thì vẫn cịn nhiều HS khơng đưa ra được câu trả lời đúng. Đây thực
sự là vấn đề thực tế và cũng là vấn đề cấp thiết được đặt ra trong nhận thức của
HS. Hay nói một cách khác là kiến thức của HS nói riêng và của mọi người dân
Việt Nam nói chung về vấn đề chủ quyền biển, đảo hiện nay đang yếu cần được
giáo dục một cách nghiêm túc và cẩn thận.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Thứ nhất, về chương trình và sách giáo khoa, những vấn đề cần thiết thực
tiễn như vấn đề xác lập chủ quyền biển, đảo của các nhà nước trong lịch sử dân

tộc, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo chưa được đưa vào chương trình
sách giáo khoa.
Thứ hai, về phương pháp dạy học. Trong đổi mới phương pháp dạy học
Lịch sử hiện nay, hứng thú học tập là “chìa khóa vàng” cần thiết để học sinh
vượt khỏi tính áp đặt của cách học truyền thống, hướng đến cách học tích cực.
Cùng với chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy của giáo viên
hết sức quan trọng. Dĩ nhiên, dạy và học môn Lịch sử không chỉ giới hạn trong
sách giáo khoa, trong bốn bức tường của lớp học mà cần được mở rộng với
những hình thức như tham quan bảo tàng, nhà lưu niệm, ngoại khóa… Giáo dục
lịch sử trong trường phổ thơng cịn cần sự kết hợp với cả môi trường giáo dục
của gia đình, xã hội, của các phương tiện thơng tin đại chúng.
9


Thứ ba, quan niệm “Mơn chính”, “Mơn phụ” trong trường phổ thông đã
chi phối và ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy học Lịch sử. Tâm lí đó đã ăn sâu
vào suy nghĩ của nhiều cán bộ quản lí, GV, phụ huynh và HS dẫn đến những
ứng xử lệch chuẩn làm cho bộ mơn Lịch sử khơng được nhìn nhận và đánh giá
đúng vị thế của nó. Nhiều HS vốn khơng thích học Lịch sử, nên càng khơng
hứng thú với các nội dung cần sự tư duy, phân tích và vận dụng như môn Lịch
sử. Nhất là thời lượng dành cho bộ mơn này cịn q ít. Vì vậy, GV càng khó
khăn trong việc nâng cao chất lượng và phát huy ưu thế giáo dục thế hệ trẻ của
bộ môn.
Thứ tư, vấn đề giáo dục chủ quyền biển, đảo trong trường phổ thơng hiện
nay chưa đồng bộ, cịn mang tính hình thức, phong trào và hầu như được quan
niệm là của riêng môn Lịch sử. Điều này dẫn tới việc tiếp thu của HS có phần
phiến diện. Bên cạnh đó, trong hoạt động ngoại khóa, nhiều trường chỉ giao cho
một số ít GV trong trường thực hiện. Cách làm này có chiều rộng về phong trào
hơn là chiều sâu về kiến thức, hiệu quả giáo dục mang lại chưa cao.


10


CHƯƠNG 2
CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ý THỨC VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TỔ
QUỐC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở
TRƯỜNG THPT
2.1. Vị trí, mục tiêu của chương trình Lịch sử Việt Nam ở trường
THPT.
2.1.1. Vị trí
Trong chương trình Lịch sử hiện nay, phần LSVN được dạy ở cả ba khối
lớp 10, 11, 12 như sau:
Khối lớp 10: Khái quát LSVN từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX (từ bài
13 đến bài 28).
Khối 11: LSVN từ năm 1858 đến kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ
nhất (1918) (từ bài 19 đến bài 24).
Khối 12: LSVN từ năm 1919 đến năm 2000 ( từ bài 12 đến bài 27).
Lịch sử xã hội loài người là quá trình thống nhất, hợp quy luật, đầy mâu
thuẫn và đa dạng. LSVN là một bộ phận của lịch sử thế giới, nó vừa thể hiện
những quy luật chung của lồi người vừa có những quy luật riêng đặc thù của
từng dân tộc. Nói cách khác, lịch sử của mỗi quốc gia nằm trong dòng chảy của
lịch sử nhân loại. Do vậy, LSDT Việt Nam có tầm quan trọng và ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển chung của lịch sử loài người.
2.1.2. Mục tiêu
2.1.2.1. Về kiến thức:
Học xong phần Lịch sử Việt Nam, HS phải nắm được:
Những kiến thức đầu tiên về sự ra đời, cuộc sống vật chất và tinh thần của
người nguyên thủy ở Việt Nam. Những chính sách đơ hộ của các triều đại phong
kiến phương Bắc ở nước ta dẫn đến những chuyển biến về kinh tế, văn hóa, xã
hội nước ta thời kì này. Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong

kiến Việt Nam từ thế kỉ X - XV. Trải qua 5 thế kỉ độc lập, nhân dân Việt Nam
đã xây dựng được cho mình một nền kinh tế phát triển, một nền văn hóa dân tộc
tiên tiến và củng cố chính quyền ngày càng vững chắc.
Bước sang thời cận đại, đứng trước những khó khăn và thử thách của dân
tộc, và tình hình chung của thế giới, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản đã liên tục đấu tranh và liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn, lật đổ
chế độ phong kiến, giải phóng đất nước thốt khỏi qn phát xít, thành lập chính
quyền mới do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Đến thời kì hiện đại dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản, đứng
đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường,
11


bất khuất nhân dân ta đã đánh đổ hai thế lực xâm lược hùng mạnh là thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, hồn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc về mặt địa lí cũng như hành chính. Từ năm 1975 đến nay,
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã luôn thực hiện những hành động nhằm củng cố,
bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia nói chung và chủ quyền biển, đảo
của dân tộc nói riêng.
2.1.2.2. Về phẩm chất, năng lực.
Qua dạy học phần Lịch sử dân tộc nói chung, dạy học những nội dung về
chủ quyền biển, đảo nói riêng, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, tự hào về
lịch sử lâu đời của đất nước. Bồi dưỡng ý thức tinh thần lao động sáng tạo, ý
thức về văn hóa dân tộc, về chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc. Giáo dục lòng biết ơn
đối với các thế hệ tổ tiên, các anh hùng dân tộc đã chiến đấu vì độc lập, tự do,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong đó có ý thức về chủ quyền biển, đảo quốc
gia. Từ đó HS phải có trách nhiệm đối với quê hương, đất nước, xác định được
động cơ học tập vì lý tưởng cao đẹp, phục vụ cho lợi ích của Tổ quốc.
Rèn luyện cho HS tinh thần chủ động, tích cực trong học tâp, các kĩ năng
học tập và thực hành bộ môn (sử dụng SGK, tài liệu tham khảo, tranh ảnh, bản

đồ, lập niên biểu, thống kê…), phát triển các thao tác của tư duy HS: quan sát,
đối chiếu các sự kiện, hiện tượng lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, hình
dung… góp phần phát huy năng lực nhận thức, năng lực thực hành, kỹ năng, kỹ
xảo của HS. Biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống cũng như
trong học tập như: làm việc nhóm, thuyết trình, giải quyết vấn đề, biết ứng phó
trước vấn đề hiện tại đặt ra, hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập.
2.2. Những nội dung cần khai thác trong chương trình Lịch sử Việt
Nam nhằm giáo dục về chủ quyền biển, đảo cho HS THPT.
2.2.1. Ý thức về chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên
biển.
Nhiều chứng cứ lịch sử cho thấy, từ thời các chúa Nguyễn (thế kỉ XVII)
cho đến nay, ý thức về chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên biển luôn được các
chính quyền Nhà nước đề cao. Điều đó được thể hiện bằng nhiều hoạt động,
trong đó có ý thức tiến hành việc đo đạc vẽ bản đồ, cắm cột mốc, dựng bia chủ
quyền… Có nhiều tư liệu lịch sử đã ghi lại như: Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực
lục…Bên cạnh đó, nhiều tấm bản đồ được vẽ trong khoảng thời gian này như:
Vương quốc An Nam (1650); “Bãi Cát vàng” (Hồng Sa – 1686; Trong cuộc
Tổng tiến cơng và nổi dậy Xuân 1975, cùng với các chiến dịch giải phóng trên
đất liền, chiến dịch giải phóng Trường Sa và các đảo ven bờ đã nổ ra thắng lợi
(4-1975), giang sơn thu về một mối.
GV có thể dạy lồng ghép nội dung trên trong các bài: Bài 25, lớp 10: Tình
hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX), mục 1 Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước - Chính sách ngoại giao.
12


Bài 23, lớp 12: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải
phóng hồn tồn miền Nam (1973 - 1975), mục III. 2 - Cuộc Tổng tiến cơng và
nổi dậy Xn 1975.
2.2.2. Q trình xác lập và thực thi chủ quyền biển, đảo Tổ quốc một
cách hịa bình và liên tục qua các triều đại phong kiến Việt Nam.

Trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam, con đường mở mang bờ cõi
xuống phía Nam của người Việt cũng đồng thời là con đường tiến ra chiếm lĩnh
biển, đảo. Các triều đại phong kiến Việt Nam kể từ khi giành quyền tự chủ lâu
dài đã xác định hải giới và chú trọng bảo vệ chủ quyền trên biển được thể hiện
qua các nội dung: quá trình mở rộng lãnh thổ, tổ chức qn đội, chính sách đối
nội và đối ngoại của các triều đại phong kiến
GV có thể dạy lồng ghép nội dung trên trong các bài: Bài 17, lớp 10: Quá
trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (từ thế kỷ X đến thế kỷ
XV, Bài 22, lớp 11: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực
dân Pháp, mục 1 - Những chuyển biến về kinh tế; Bài 24, lớp 12: Việt Nam
trong năm đầu sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước năm
1975, mục III - Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước (19751976); Bài 26, lớp 12: Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội
(1986 - 2000), mục I. 2 - Đường lối đổi mới của Đảng.
2.2.3. Vai trị của biển, đảo góp phần tạo nên những thắng lợi hiển
hách trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII, thủy quân Việt Nam đã biết dựa vào thế
mạnh của sông, biển chiến thắng nhiều trận oanh liệt như: chiến thắng Bạch
Đằng các năm (938, 981, 1288); thắng lợi ở Rạch Gầm – Xoài Mút của nghĩa
quân Tây Sơn, thắng lợi trước hạm đội của thực dân Anh năm 1702 tại đảo Côn
Lôn (nay là Côn Đảo)… Bước sang thế kỉ XIX và XX, phát huy truyền thống
đánh giặc của cha ông trong lịch sử, nhân dân Việt Nam tiếp tục chiến đấu và
giành thắng lợi trước hai thế lực lớn mạnh đến từ phương Tây là Pháp và Mỹ.
Nhiều trận thắng đã đi vào lịch sử như: thắng lợi trước liên quân Pháp và Tây
Ban Nha tại cửa biển Đà Nẵng (9 - 1858) làm thất bại bước đầu kế hoạch “đánh
nhanh thắng nhanh” của quân Pháp; thắng lợi trong Cuộc tiến cơng và giải
phóng Trường Sa (từ 9 - 4 đến 29 – 4 - 1975)...
GV có thể chọn một số kiến thức để giáo dục cho HS qua một số bài sau:
Bài 19, lớp 10: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X - XV,
mục I và II; Bài 19, lớp 11: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm
lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873), mục I - 3: Chiến sự ở Đà Nẵng năm

1858; ; Bài 23, lớp 12: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải
phóng hồn tồn miền Nam (1973 - 1975), mục III - 2: Cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Xuân 1975…

13


2.2.4. Những giá trị, tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam trong công
cuộc xây dựng đất nước hiện nay và vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường
biển, đảo.
Biển, đảo nước ta có giá trị, tiềm năng kinh tế hết sức to lớn như: Du lịch
biển, đảo; nguồn thủy hải sản phong phú; giao thông đường biển thuận lợi;
nguồn khống sản biển đa dạng… Chính vì vậy, ngay sau ngày đất nước được
thống nhất, Nhà nước ta rất chú trọng đến việc phát triển nền kinh tế biển thông
qua việc ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị… phấn đấu mục tiêu đến năm 2020
đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển. Tuy nhiên, trước thực trạng về tài
nguyên, môi trường biển, đảo đang bị đe dọa nghiêm trọng, vấn đề bảo vệ tài
nguyên, môi trường biển, đảo cũng được chú trọng thơng qua việc kí kết các
cơng ước quốc tế và ra nhiều văn bản liên quan đến vấn đề biển, đảo như: Công
ước Luật Biển 1982, Luật Biên giới quốc gia 2013...
Ở phần này, GV có thể chọn một số kiến thức tiêu biểu để giáo dục cho
HS qua một số bài sau: Bài 18, lớp 10: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế
trong các thế kỉ X - XV, mục 3 - Mở rộng thương nghiệp; Bài 22, lớp 10: Tình
hình kinh tế ở các thế kỉ XVI - XVIII, mục 3 - Sự phát triển của thương nghiệp;
Bài 26, lớp 12: Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội (1986 2000), mục I - 2: Đường lối đổi mới của Đảng.
2.2.5. Giáo dục cho HS về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo - Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam hiện nay.
Ở nội dung này, GV cần cho HS khai thác nội dung của các văn bản mang
tính pháp lí quốc tế như: Cơng ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982;
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002; q trình thúc

đẩy việc hướng tới kí kết COC; để giáo dục cho HS thấy, Việt Nam là một thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, ln tơn trọng và tuân thủ luật
pháp quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng kiên quyết đấu tranh để bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình theo đúng pháp luật Việt
Nam, luật pháp và thông lệ quốc tế, củng cố hịa bình, an ninh trên biển; trên cơ
sở đó khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên biển, đảo phục vụ công cuộc
dựng xây và bảo vệ đất nước.
GV có thể lựa chọn những kiến thức trên để dạy lồng ghép trong các bài:
Bài 24, lớp 12: Việt Nam trong năm đầu sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mĩ, cứu nước năm 1975, mục III - Hoàn thành thống nhất đất nước về
mặt nhà nước (1975-1976); Bài 26, lớp 12: Đất nước trên đường đổi mới đi
lên chủ nghĩa xã hội (1986 - 2000), mục I. 2 - Đường lối đổi mới của Đảng.
2.3. Những yêu cầu cơ bản khi xác định biện pháp giáo dục cho HS về
chủ quyền biển, đảo trong dạy học LSVN ở trường THPT
2.3.1. Phải xác định đúng kiến thức cơ bản cần giáo dục
14


Đây là yêu cầu quan trọng để dạy học bộ mơn Lịch sử nói chung và dạy
học về vấn đề chủ quyền biển, đảo nói riêng. Vì có xác định đúng kiến thức cơ
bản mới có biện pháp giáo dục phù hợp. Việc xác định đúng kiến thức cơ bản
của bài học sẽ định hướng cho GV biết cần phải dạy cái gì và dạy như thế nào,
HS học tập và lĩnh hội kiến thức gì và bằng cách nào. Như vậy mới có thể giúp
GV thực hiện được mục tiêu của bộ môn và bài học hướng tới, giúp HS nhận
thức đúng vấn đề cần giáo dục, mang lại hiệu quả bài học cao.
2.3.2. Đảm bảo tính khoa học, chính xác về nội dung và tính tư tưởng
Tính khoa học được thể hiện qua việc lựa chọn những kiến thức cơ bản
nhất, chính xác nhất để hình thành những kiến thức lịch sử cho học sinh, từ đó
giáo dục cho các em về thế giới quan khoa học, đúng đắn, xây dựng cho các
niềm tin, ý thức trách nhiệm đối với những vấn đề của quá khứ, hiện tại và tương

lai. Khi dạy học lịch sử nói chung, dạy về chủ quyền biển, đảo Tổ quốc nói
riêng, phải cung cấp cho học sinh những tư liệu lịch sử khoa học, chính xác làm
bằng chứng về việc xác lập chủ quyền biển, đảo Tổ quốc qua các giai đoạn lịch
sử, của bao thế hệ người Việt Nam. Từ đó hình thành cho thế hệ trẻ ý thức, trách
nhiệm để bảo vệ những thành quả mà cha ông ta đã dựng xây, bảo vệ lãnh thổ
Tổ quốc nói chung, biển đảo nói riêng.
Bên cạnh đó GV cần phải tơn trọng các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước trong vấn đề biển, đảo và giáo dục chủ quyền biển đảo, tránh
những kích động khơng cần thiết đối với HS. Từ việc giáo dục chủ quyền biển,
đảo hình thành cho HS ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
quốc gia nói chung, chủ quyền biển, đảo nói riêng, bảo vệ những thành quả mà
cha ông ta đã xây dựng để có được
2.3.3. Đảm bảo tính cụ thể, trực quan sinh động, giàu biểu tượng lịch
sử
Thực trạng giáo dục Lịch sử hiện nay cho thấy, HS chán học Lịch sử một
phần do các bài giảng khô cứng, thiếu tính thực tế, thiếu sự liên hệ thực tiễn của
GV. Do vậy, trong dạy học Lịch sử, đặc biệt là việc giáo dục vấn đề chủ quyền
biển, đảo, lời nói của GV cần phải sinh động, hấp dẫn, giàu tính hình ảnh và cần
sử dụng các tư liệu, đồ dùng trực quan sinh động như: bản đồ, sơ đồ, phim tư
liệu, tranh, ảnh, hiện vật lich sử,… hướng dẫn HS phát hiện ra vấn đề, xử lí và
thẩm thấu vấn đề bằng nhãn quan Lịch sử của HS.
Mặt khác GV cần phải phát huy tối đa tính tích cực, độc lập và sáng tạo
trong quá trình nhận thức của HS. Muốn vậy GV cần đa dạng hóa các hình thức
tiến hành (bài học nội khóa, bài học ngoại khóa, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về
vấn đề chủ quyền biển, đảo Tổ quốc) để vấn đề biển, đảo trở nên hấp dẫn, hứng
thú, dễ hiểu, dễ tiếp thu và lĩnh hội sâu sắc vấn đề đối với đối tượng HS.
15


2.3.4. Cần đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với tâm lí, lứa tuổi HS

Có thể nói, đây là ngun tắc cơ bản, quan trọng hang đầu cần phải tuân
thủ khi tiến hành các biện pháp giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong
dạy học bộ môn Lịch sử ở trường phổ thơng. Vì đây là đối tượng rất phù hợp để
giáo dục và định hướng. Đây là giai đoạn HS phổ thơng đang có những chuyển
biến và thay đổi lớn về tâm sinh lý đặc biệt là tâm lý, là giai đoạn quan trọng,
quyết định đến việc hình thành nhân cách cho HS. Chính vì vậy, việc đưa vấn đề
biển, đảo vào trường PTTH là phù hợp, vừa sức và mang tính kịp thời. Đối với
HS lớp 10 và lớp 11 cần chú trọng đến việc giáo dục ý thức cho HS về nội dung
những chứng cứ lịch sử để chứng minh được chủ quyền các quần đảo của Việt
Nam được xác lập ngay từ thời phong kiến (thế kỷ XVII) đến nay. Đối với HS
lớp 12, đây là những HS đã đủ tuổi công dân, tự chịu trách nhiệm trước hành vi
của mình cần phải giáo dục một cách sâu sắc và kĩ lưỡng hơn về tình hình Biển
Đơng nói chung và hai quần đảo Hồng Sa, Trường Sa nói riêng; đặc biệt chú
trọng đến việc định hướng cho HS thái độ đối với việc giải quyết vấn đề tranh
chấp ở hai quần đảo Trường sa và Hoàng Sa hiện nay theo quan điểm của Đảng
và Nhà nước, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam.
2.3.5. Cần định hướng thường xuyên và cập nhật
Chủ quyền biển, đảo trong tiến trình lịch sử của dân tộc không phải là vấn
đề mới nhưng lại là mới đối với thực trạng dạy và học bộ môn Lịch sử ở trường
phổ thông hiện nay. Việc giáo dục như thế nào cho có hiệu quả về vấn đề Biển
Đông, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là vấn đề rất “nhạy cảm”, diễn tiến rất phức tạp với những thay đổi
không ngừng do nhiều yếu tố khách quan khác nhau. GV cũng phải thường
xuyên tự cập nhật những thông tin mới qua nhiều kênh thông tin khác nhau để
định hướng cho HS kịp thời, qua đó giúp HS nhận thức được vấn đề đúng đắn
về tình hình hiện tại, nhất là trong bối cảnh Biển Đông thường xuyên “nổi
sóng” như hiện nay.
2.4. Bảng thống kê những nội dung vận dụng nhằm giáo dục cho ý
thức chủ quyền biển, đảo cho HS trong dạy học LSVN ở trường THPT.
STT


Lớp, Tên, bài

Địa chỉ

Nội dung

Lớp 10 – Bài 14:

1

Mục 1: Quốc gia Ý thức về chủ quyền lãnh thổ
Các quốc gia cổ Văn Lang, Âu Lạc quốc gia, giá trị tiềm năng của
đại trên đất nước Mục 2: Quốc gia kinh tế biển.
Việt Nam
Chăm Pa
Mục 3: Quốc gia
Phù Nam
16


Mục II: Một số Biển đảo góp phần tạo nên
Thời bắc thuộc và cuộc khởi nghĩa những chiến công hiển hách
trong công cuộc bảo vệ Tổ
cuộc đấu tranh tiêu biểu
quốc
giành độc
Lớp 10 - Bài 16:

2


Mục II: Luật pháp Các triều đại phong kiến luôn
ý thức sâu sắc về chủ quyền
Qúa trình hình và qn đội
đất nước trong đó có biển đảo.
thành và phát triển
của nhà nước
phong kiến từ thế
kỉ X - XV
Lớp 10 - Bài 17:

3

Mục 3: Mở rộng Giá trị tiềm năng kinh tế của
biển trong phát triển kinh tế
Công cuộc xây thương nghiệp
đất nước
dựng và phát triển
kinh tế trong các
thế kỉ X – XV.
Lớp 10 - Bài 18:

4

Lớp 10 - Bài 19:

5

Mục I: Các cuộc
Những cuộc kháng kháng chiến chống

chiến chống ngoại quân xâm lược
xâm thế kỉ X - XV Tống.
Mục II: Các cuộc
kháng chiến chống
quân xâm lược
Mông – Nguyên ở
thế kỉ XIII

Biển đảo góp phần tạo nên
những chiến công hiển hách
trong công cuộc bảo vệ Tổ
quốc.

Mục 3: Sự phát Vai trò của biển, đảo trong sự
thương phát triển kinh tế đất nước.
Tình hình kinh tế triển
trong các thế kỉ nghiệp
XVI - XVIII
Lớp 10 - Bài 22:

6

7

Mục II (1): Kháng Biển đảo góp phần tạo nên
Phong trào Tây chiến chống quân những chiến công hiển hách
trong công cuộc bảo vệ Tổ
Sơn và sự nghiệp Xiêm
quốc
thống nhất đất

nước bảo vệ Tổ Mục III: Vương Qúa trình chiếm hữu và thực
quốc cuối thế kỉ triều Tây Sơn
thi liên tục chủ quyền biển,
XVIII
đảo của ta thời kỳ Tây Sơn.

8

Lớp 10 - Bài 24:

Lớp 10 - Bài 23:

Mục I: Tư tưởng, Vai trò của biển, đảo trong đời
17


sống văn hóa con người Việt
Nam và q trình chiếm hữu
thực sự hịa bình, thực thi chủ
Mục III: Nghệ quyền biển, đảo Hoàng Sa,
thuật và khoa học Trường Sa của Việt Nam
kĩ thuật

Tình hình văn hóa tơn giáo
ở các thế kỉ XVI –
XVIII

Lớp 10 - Bài 25:

9


Mục 1: Xây dựng
Tình hình chính và củng cố bộ máy
trị, kinh tế, văn nhà nước – Chính
hóa dưới triều sách ngoại giao
Nguyễn (Nửa đầu
thế kỉ XIX

Ý thức chủ quyền lãnh thổ
quốc gia trên biển của ta có từ
rất sớm và q trình xác lập,
chiếm hữu và thực thi chủ
quyền biển đảo với Hoàng Sa
và Trường Sa thời nhà
Nguyễn.

10

Lớp 11 – Bài 19: Mục I – 3: Chiến Biển đảo góp phần tạo nên
Nhân dân Việt sự ở Đà Nẵng những chiến công hiển hách
Nam kháng chiến 1858
trong công cuộc bảo vệ Tổ
chống thực dân
quốc
Pháp xâm lược
(1858 đến trước
1873)

11


Lớp 11 – Bài 20:
Chiến sự lan rộng
ra cả nước, cuộc
kháng chiến của
nhân dân ta từ
1873 – 1884 nhà
Nguyễn đầu hàng

12

Lớp 11 – Bài 22: Mục 1: Những Pháp đã thực hiện chủ quyền
Xã hội Việt Nam chuyển biến về ở hai quần đảo Hoàng Sa và
trong cuộc khai kinh tế
Trường Sa.
thác thuộc địa lần
thứ nhất của thực
dân Pháp

Mục III – 2: Hai Pháp đã thực hiện chủ quyền
bản hiệp ước 1883 ở hai quần đảo Hoàng Sa và
và 1884, nhà nước Trường Sa
phong
kiến
Nguyễn đầu hàng.

13

Mục I – 1: Chính Pháp đã thực hiện chủ quyền
Phong trào dân sách khai thác ở hai quần đảo Hoàng Sa và
tộc dân chủ ở Việt thuộc địa lần thứ Trường Sa.

Nam từ 1919 – hai của thực dân
Pháp
1925.

14

Lớp 12 – Bài 21:

Lớp 12 – Bài 12:

Mục I: Tình hình Chính quyền Việt Nam Cộng
18


15

Xây dựng CNXH
ở miền Bắc, đấu
tranh chống đế
quốc Mĩ và chính
quyền Sài Gịn ở
miền Nam 91954
– 1965)

và nhiệm vụ của hòa đã thực hiện chủ quyền ở
cách mạng nước ta hai quần đảo Hoàng Sa và
sau hiệp định Giơ Trường Sa.
ne vơ

Lớp 12 – Bài 22:


Mục II – 2: Mĩ Chủ quyền biển đảo đã bị kẻ
tiến hành chiến thù lợi dụng để thực hiện mưu
tranh bằng không đồ đen tối của chúng.
quân và hải quân
phá hoại miền Bắc

Nhân dân hai
miền trực tiếp
chiến đấu chóng
đế quốc Mĩ xâm
lược. Nhân dân
miền Bắc vùa
chiến đấu vừa sản
xuất (1965 –
1973)

Mục IV – 2: Miền Vai trò của biển, đảo trong sự
Bắc thực hiện kế phát triển kinh tế đất nước.
hoạch nhà nước 5
năm (1961 – 1965)

Lớp 12 – Bài 23:

16

Mục III – 2: Cuộc
Khôi phục và phát tổng tiến công và
triển kinh tế - xã nôi dậy mùa xuân
hội ở miền Bắc, 1975

giải phóng hồn
tồn miền Nam
(1973 – 1975)
Lớp 12 – Bài 24:

17

Việt Nam trong
những năm đầu
của cuộc kháng
chiến chống Mĩ,
cứu nước 1975
Lớp 12 – Bài 26:

18

Ý thức về chủ quyền quốc gia
trên biển của ta.
Biển đảo góp phần tạo nên
những chiến cơng hiển hách
trong cơng cuộc bảo vệ Tổ
quốc

Mục III: Hồn Bảo vệ chủ quyền biển, đảo
thành thống nhất của nước ta hiện nay
đất nước về mặt
nhà nước (1975 –
1976)

Mục I – 2: Đường

Đất nước trên con lối đổi mới của
đường đổi mới đi Đảng
lên xây dựng
CNXH (1986 –
2000)

Vai trò của biển, đảo trong sự
phát triển kinh tế đất nước.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo
của nước ta hiện nay

19


2.5. Một số biện pháp giáo dục cho HS về chủ quyền biển, đảo trong
dạy học LSVN ở trường THPT.
2.5.1. Khai thác triệt để các sự kiện trong bài học lịch sửu nội khóa để
giáo dục ý thức về chủ quyền biển, đảo cho HS
Trong chương trình mơn lịch sử ở trường THPT hiện hành khơng có bài
học nào trực tiếp đề cập đến chủ quyền biển đảo nói chung và Trường Sa, Hồng
Sa nói riêng, vì vậy khi dạy học GV có thể sử dụng tài liệu, lồng ghép, nhằm cụ
thể hóa một số sự kiện trong các bài học lịch sử nội khóa có liên quan để liên hệ
giáo dục ý thức về CQBĐ cho HS cụ thể:
2.5.1.1. Khai thác triệt để những nội dung lịch sử có khả năng giáo dục
cho HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo.
Muốn dạy tốt phần LSVN cho HS trong chương trình của bộ mơn ở
trường THPT nói chung và giáo dục về vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa,
Trường Sa nói riêng đạt kết quả cao nhất, GV cần khai thác triệt để những sự
kiện, hiện tượng lịch sử có khả năng giáo dục.
Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, GV cần nắm vững nội dung

chương trình SGK để phân biệt được sự kiện thể hiện trực tiếp nội dung về chủ
quyền biển, đảo hay sự kiện liên quan đến vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt
Nam để tìm phương pháp giáo dục thích hợp và hiệu quả nhất.
Thứ nhất, khai thác những sự kiện, tài liệu lịch sử thể hiện trực tiếp về
chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ cổ đến đương đại
như: Các văn bản nhà nước (Châu bản…), sách điển chế, chính sử, sách địa chí,
bản đồ lịch sử, tư liệu và bản đồ của phương Tây.
Khi tiến hành khai thác, GV tiến hành theo 3 bước như sau:
- Bước 1: Xác định tài liệu khai thác là tài liệu nào? Phục vụ cho việc dạy
học bài nào, mục nào?
- Bước 2: GV chọn phương pháp hướng dẫn HS khai thác và lĩnh hội tài
liệu, sự kiện.
- Bước 3: Ý nghĩa của việc khai thác tài liệu, sự kiện.
Trong chương trình LSVN khối THPT, chúng ta có thể khai thác được
nhiều tài liệu gốc trực tiếp thể hiện chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa
của Việt Nam để giáo dục cho HS như: Phủ biên tạp lục - 1776 của Lê Qúy
Đôn, lịch triều hiến chương loại chí - 1821, hồng Việt dư địa chí - 1833 của
Lê Huy Chú), đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) thời Minh Mạng; bản đồ lịch
sử như: An Nam quốc đồ được thực hiện vào thời Hồng Đức (1490)… đặc biệt là
Bộ Atlas bản đồ thế giới của Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827, trong đó
có tấm bản đồ Partiedela Cochinechine (106) có giá trị quan trọng khẳng định
chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (Phụ lục 5).
20


Ví dụ 1: Khi dạy bài 25, lớp 10: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa
dưới triều Nguyễn (Nửa sau thế kỉ XIX), mục 1- Xây dựng và củng cố bộ máy
nhà nước. Chính sách ngoại giao, GV khai thác các tài liệu gốc như: Các Tờ
lệnh; tư liệu trong cuốn Lịch triều hiến chương loại chí của Lê Huy Chú; các tấm
bản đồ lịch sử như: Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) thời Minh Mạng...GV

hướng dẫn HS khai thác những tài liệu nói trên và đặt câu hỏi: Em hãy nhận xét
ý nghĩa của các loại tài liệu nói trên đối với cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền
biển, đảo hiện nay của Việt Nam?
Những nguồn tài liệu nói trên cho thấy, Việt Nam có đầy đủ cơ sở lịch sử
và pháp lí quốc tế khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
được xác lập từ thời phong kiến, ít nhất là thời các chúa Nguyễn (thế kỉ XVII).
Ví dụ 2: Bài 20, lớp 11: Chiến sự lan rộng ra cả nước. Cuộc kháng chiến
của nhân dân ta từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng, mục III. 2 Hai bản Hiệp ước 1883 và 1884. Nhà nước phong kiến Nguyễn đầu hàng, phần
nội dung Hiệp ước Hác măng. GV khai thác tài liệu gốc như: Nghị định số 4702CP ngày 21-12-1933 của Thống đốc Nam Kì ra sắc lệnh sáp nhập đảo Trường
Sa vào tỉnh Bà Rịa; Dụ số 10 ban hành ngày 29-2-1938 tách quần đảo Hoàng Sa
khỏi địa hạt tỉnh Nam Ngãi, đặt vào tỉnh Thừa Thiên; hình ảnh về bia chủ quyền,
trạm khí tượng, ngọn hải đăng được dựng ở Hoàng Sa (1838)…
GV hướng dẫn HS tìm hiểu những tài liệu nói trên và đặt câu hỏi: Những
hành động nói trên của chính quyền thực dân Pháp có ý nghĩa gì đối với cuộc
đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo hiện nay của Việt Nam?
Những hành động nói trên của chính quyền Pháp cho thấy, trong thời kì
này, chính quyền thực dân đã rất quan tâm đến chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam, tích cực có những hành động nhằm thực thi chủ
quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa
quan trọng, tạo thêm những cơ sở lịch sử và pháp lí vững chắc trong cuộc đấu
tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo của Việt Nam hiện nay.
Như vậy, việc sử dụng những tài liệu lịch sử gốc trực tiếp thể hiện chủ
quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam nói trên nhằm giáo dục
cho HS nắm vững, hiểu sâu kiến thức cơ bản của bài học. Rèn luyện cho HS các
kĩ năng về bộ môn như phân tích, khai thác và sử dụng tài liệu gốc, khả năng tư
duy, giải quyết vấn đề độc lập. Đồng thời giáo dục cho HS lòng yêu nước, dũng
cảm, ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc, đặc biệt là bảo vệ chủ
quyền biển, đảo trong bối cảnh hiện nay.
Thứ hai, khai thác những sự kiện, tài liệu liên quan hoặc là hệ quả của
vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.

Trong quá trình thiết kế bài giảng, GV trình bày bài giảng của mình theo
nội dung SGK hoặc có thể sắp xếp lại cấu trúc các mục cho phù hợp với nội
dung giáo dục. Điều quan trọng là GV phải xác định được những sự kiện cơ bản,
21


hiểu được nội dung, bản chất của sự kiện đó thể hiện sự liên quan như thế nào
đến việc giáo dục cho HS về vấn đề chủ quyền biển, đảo, từ đó GV lựa chọn các
phương pháp bộ mơn phù hợp với sự kiện và nội dung bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài 26, lớp 12: Đất nước trên đường đổi mới đi lên
chủ nghĩa xã hội (1986 - 2000), mục I. 2 - Đường lối đổi mới của Đảng. GV
có thể khai thác nội dung các văn bản liên quan đến chủ quyền biển, đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ở Biển Đông như: Công ước của Liên
Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông
(DOC - 2002); Luật Biển Việt Nam năm 2012. Việc cho HS tìm hiểu nội dung
của các văn bản nói trên, một mặt giáo dục cho HS hiểu, nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã đặt cơ sở pháp lý và kế thừa các chính quyền trước, tiếp
tục thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi kí kết
các văn bản mang tính pháp lý như trên, mặt khác HS cũng thấy được Nhà nước
Việt Nam luôn khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp liên quan đến
vấn đề biển, đảo - Hoàng Sa và Trường Sa bằng các biện pháp hịa bình, phù hợp
với pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng kiên quyết đấu tranh để bảo
vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình theo đúng pháp luật
Việt Nam, luật pháp và thông lệ quốc tế, củng cố hịa bình, an ninh trên biển.
2.5.1.2. Sử dụng tài liệu lịch sử để liên hệ kiến thức cần giáo dục cho HS
về vấn đề chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
Hiện nay, việc dạy học và giáo dục cho HS ở trường THPT được tiến
hành trong giờ học nội khóa là chủ yếu. Do đặc trưng của việc học tập bộ môn
Lịch sử, các loại tài liệu tham khảo ngồi SGK có ý nghĩa quan trọng trong việc
khơi phục, tái hiện lại hình ảnh quá khứ và đặc biệt là làm rõ những nội dung,
vấn đề mới như vấn đề biển, đảo. Việc GV sử dụng tài liệu lịch sử trong bài học

nội khóa khi tiến hành dạy lồng ghép vấn đề chủ quyền biển, đảo vào nội dung
chương trình LSVN khối THPT là rất phù hợp. Vì đây là nguồn tài liệu tin cậy,
loại tài liệu này dùng để làm dẫn chứng, minh họa cho các sự kiện đang trình
bày trong nội dung bài học. Khai thác nguồn tài liệu này không chỉ cung cấp
thêm tư liệu lịch sử phong phú, bổ sung thêm phần nội dung chưa có trong SGK
mà cịn làm sáng rõ hơn những kiến thức cơ bản của bài học.
Ví dụ 1: Sử dụng tài liệu lịch sử để giáo dục cho HS về vai trị, vị trí của
biển, đảo Việt Nam. Cụ thể:
Biển, đảo có vai trị quan trọng trong đời sống văn hóa con người
Việt.
Ở bài 24, lớp 10: Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI - XVIII, mục I - Về
tư tưởng, tôn giáo và mục III - Nghệ thuật và Khoa học - Kĩ thuật, GV có thể
dạy lồng ghép như sau:
Từ lâu, biển, đảo đã là chủ đề để con người sáng tạo nên các giá trị văn
hóa có giá trị cịn lưu lại qua hàng nghìn năm lịch sử như: các cổ vật (Trống
22


đồng Đông Sơn), các tác phẩm văn học, các công trình kiến trúc… Ở các thế kỉ
XVI - XVIII, biển có vai trị quan trọng trong việc là cầu nối đưa những giá trị
văn hóa của phương Tây đến với Việt Nam như: Đạo Thiên Chúa giáo, chữ
Quốc ngữ. Biển còn là nguồn cảm hứng cho các ngư dân sáng tác ra những điệu
hò Bá Trạo được thực hiện khi ra khơi và trong Lễ cầu ngư của cư dân ven biển.
Trong lĩnh vực khoa học, các cơng trình nghiên cứu có nội dung về biển,
đảo được xuất bản có ý nghĩa quan trọng là những chứng cứ lịch sử và pháp lí
vững chắc cho Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa như: Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn, Thiên Nam Tứ chí
lộ đồ thư của Đỗ Bá (1686)…
Ví dụ 2: Sử dụng tài liệu lịch sử để giáo dục cho HS về q trình chiếm
hữu thật sự, hịa bình và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa,

Trường Sa của Việt Nam từ thời phong kiến đến nay. Cụ thể:
Quá trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền trong thời Phong kiến
Bài 25, lớp 10: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn
nửa sau thế kỉ XIX, mục 1 - Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước. Chính sách
ngoại giao. GV phân tích cho HS hiểu, cùng với việc củng cố về mặt chính
quyền, các ơng vua triều Nguyễn tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động
nhằm xác lập, chiếm hữu và thực thi chủ quyền biển, đảo đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa như: đo đạc vẽ bản đồ, cắm cột mốc chủ quyền, xây
miếu, trồng cây trên đảo…
Dưới thời Minh Mạng, việc đo đạc để vẽ bản đồ về Hoàng Sa được tiến
hành mạnh mẽ, thường xuyên bằng việc hàng năm sai lính đi thuyền ra các đảo
cắm cột mốc, bên cạnh đó nhà vua cho vẽ bản đồ, dựng bia chủ quyền, xây miếu
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong cuốn Đại Nam thực lục chính
biên có ghi: “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai xuất đội thủy
quân Phạm Hữu Nhật điều binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ( mỗi bài gỗ
dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc) dựng bàn dấu mốc”. “ Năm Giáp Ngọ, niên
hiệu Minh Mạng thứ 15(1834) sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng
thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ
bản đồ”.
Quá trình thực thi chủ quyền trong thời Pháp thuộc
Ở bài 22, lớp 11: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của
thực dân Pháp, mục 1 - Những chuyển biến về kinh tế. GV trích dẫn tư liệu: Từ
năm 1927, thực dân Pháp bắt đầu nghiên cứu sâu quá trình xác lập chủ quyền
của “vương quốc An Nam” tại Hoàng Sa và Trường Sa. Trong bức thư của
Khâm sứ Trung kì Le Fol viết ngày 22-1-1929 gửi Tồn quyền Đơng Dương có
đoạn viết “…các tài liệu trong kho lưu trữ của chính phủ An Nam cung cấp cho
chúng ta những chi tiết về hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải đặt dưới
quyền chỉ huy của đội Hoàng Sa”.
23



Bên cạnh đó, thực dân Pháp tiến hành các cuộc khảo sát ở Hoàng Sa
(1925), Trường Sa (1927); dựng bia chủ quyền, ngọn hải đăng, trạm khí tượng
trên đảo Hồng Sa (1938)…Như vậy, với việc cho HS tìm hiểu những tư liệu
lịch sử nói trên nhằm giáo dục cho HS hiểu q trình chiếm hữu thật sự, hịa
bình và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa của Việt
Nam từ thời các chúa Nguyễn (thế kỉ XVII), sang thời Pháp thuộc cho đến nay.
Ví dụ 3: Sử dụng tài liệu lịch sử để giáo dục cho HS về những giá trị,
tiềm năng kinh tế biển, đảo Việt Nam. Cụ thể:
Bài 22, lớp 10: Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI - XVIII, mục 3 - Sự
phát triển của thương nghiệp. GV dạy lồng ghép nội dung sau: Trong thời phong
kiến, ngay từ thời Lí - Trần đã nhận thấy được vai trị, giá trị to lớn về kinh tế
của biển, đảo. Điều đó được thể hiện bằng việc cho xây dựng trang Vân Đồn
(Quảng Ninh) làm bến cảng để thuyền bn nước ngồi vào trao đổi hàng hóa,
GV trích dẫn tư liệu: “Kỷ Tỵ, năm thứ 10 (1149)…thuyền buôn ba nước Trảo
Oa, Lộc Hạc, Xiêm la vào Hải Đông xin ở lại buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi
hải đảo gọi là Vân Đồn để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa
phương”. Vùng biển Vân Đồn có nhiều sản vật quý: “Chân châu do giống trai
sinh ra ở bể Vân Đồn”, “vùng biển này không chỉ là huyết mạch giáo thơng
trong qn sự, thương mại mà cịn đem lại những lợi ích kinh tế”.
Như vậy, những hoạt động trên của chính quyền Nhà nước thời bấy giờ
khơng chỉ có ý nghĩa nhằm phát triển kinh tế đất nước mà cịn là chứng cứ lịch
sử và cơ sở pháp lí để Việt Nam khẳng định chủ quyền của mình đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2.5.1.3. Sử dụng đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học để giáo dục ý
thức về chủ quyền biển, đảo cho HS.
Đồ dùng trực quan có vai trị to lớn trong dạy học bộ mơn Lịch sử ở
trường THPT. Nó góp phần quan trọng nhằm tạo biểu tượng cho HS về một
nhân vật lịch sử, một hiện tượng lịch sử diễn ra trong quá khứ, giúp HS nhớ kĩ,
hiểu sâu những kiến thức lịch sử. Đồng thời, việc sử dụng đồ dùng trực quan cịn

góp phần phát triển kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập cho
HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
Đồ dùng trực quan về CQBĐ gồm: Bản đồ, tranh ảnh, hiện vật, phim tư
liệu…rất phong phú đa dạng đòi hỏi thầy và trò phải biết vận dụng phương pháp
và khai thác có hiệu quả đồng thời ngơn ngữ của GV phải sinh động và hấp dẫn
và kết hợp chặt chẽ với tài liệu viết thì việc sử dụng đồ dùng trực quan mới thực
sự hiệu quả
Ví dụ 1: Sử dụng phim tư liệu lịch sử để giáo dục cho HS về cuộc đấu
tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Cụ thể:
Bài 24, lớp 10: Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI - XVIII, mục III Nghệ thuật và khoa học - kĩ thuật. GV cho HS xem một đoạn phim tư liệu về
24


“Lễ khao lề thế lính Hồng Sa” nhằm tái hiện lại việc những hùng binh Hoàng
Sa năm xưa trên những chiếc thuyền nan mỏng manh đã giong buồm vượt trùng
dương giữ gìn bờ cõi.
Bài 23, lớp 12: Khơi phục và phát triển kinh tế xã hội ở miền bắc, giải
phóng hồn tồn miền Nam (1973-1975), mục III - Giải phóng hoàn toàn miền
Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. GV cho HS xem một đoạn phim tư liệu
về sự kiện quân đội Việt Nam giải phóng Trường Sa (1975)
Qua việc cho HS tìm hiểu những đoạn phim tư liệu lịch sử như trên nhằm
giáo dục cho các em truyền thống uống nước nhớ nguồn, hiểu rõ giá trị của nền
hịa bình, độc lập thống nhất mà chúng ta có được phải đánh đổi bằng sự hi sinh,
mất mát máu xương của bao thế hệ cha anh đã chiến đấu để giữ vững chủ quyền
biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa - phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Ví dụ 2: Sử dụng tranh, ảnh, bản đồ lịch sử để giáo dục cho HS về quá
trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường Sa qua các
thời kỳ lịch sử. Cụ thể:
Bài 25, lớp 10: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn
nửa sau thế kỉ XIX, mục 1 - Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước. Chính sách

ngoại giao. GV cần sử dụng 2 tấm bản đồ gốc: Đại Nam nhất thống toàn đồ
(1838) vẽ thời Minh Mạng khá hồn chỉnh, ghi rõ địa danh hành chính các tỉnh,
các đạo, địa danh dọc biển và khối đảo Hoàng Sa và “Vạn lý Trường Sa” nằm
ngoài bờ biển từ Quảng Ngãi tới Khánh Hòa; An Nam đại quốc họa đồ (1838)
của Giám mục Taberd đã ghi rõ “Paracels seu Cát Vàng” với tọa độ rõ ràng như
hiện nay. (Phụ lục 5).
Bài 22, lớp 11: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của
thực dân Pháp, mục 1 - Những chuyển biến về kinh tế. GV có thể sử dụng một
số hình ảnh như: bia chủ quyền được dựng trên đảo Hồng Sa (1838), trên bia có
khắc dòng chữ, dịch nghĩa là "Cộng hòa Pháp - Đế chế An Nam quần đảo
Hoàng Sa năm 1816 - Đảo Hồng Sa năm 1938"; hình ảnh ngọn hải đăng, trạm
khí tượng trên đảo Hồng Sa; hình ảnh Lính bảo an đào giếng nước ngọt trên
đảo Hoàng Sa; ảnh về cảnh một buổi chào cờ trên đảo Hoàng Sa... (Phụ lục 5).
Việc sử dụng các bản đồ lịch sử, tranh, ảnh nói trên sẽ giúp HS hiểu rõ
hơn về q trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền biển, đảo - Hoàng Sa, Trường
Sa của Việt Nam được tiến hành liên tục ít nhất từ thời các chúa Nguyễn (thế kỉ
XVII) đến nay. Đây cũng chính là những chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lí
khẳng định chắc chắn về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hồng
Sa và Trường Sa.
Ví dụ 3: Sử dụng đồ dùng trực quan hiện vật để tạo biểu tượng lịch sử về
q trình chiếm hữu thật sự, hịa bình và thực thi liên tục chủ quyền biển, đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.

25


×