Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.85 KB, 41 trang )

LUẬN VĂN:

Giải pháp để đẩy nhanh tiến trình
cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà
nước ở Việt Nam


Phần mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, Đảng ta luôn xác định thành phần kinh tế
nhà nước phải nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, điều tiết các thành phần
kinh tế khác theo định hướng XHCN. Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý,
khu vực kinh tế nhà nước đã được sắp xếp lại và có nhiều chuyển biến tích cực, giảm
được gần một nửa số doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp địa phương nhỏ bé
hoạt động không hiệu quả. Số lớn doanh nghiệp còn lại được tổ chức lại và từng bước
phát huy quyền tự chủ kinh doanh làm ăn năng động và có hiệu quả. Nhìn chung, kinh
tế nhà nước được đổi mới một bước cơ bản, đã và đang phát huy vai trò chủ đạo với
nội dung thực chất hơn theo yêu cầu của cơ chế mới, góp phần thực hiện mục tiêu giữ
vững ổn định và từng bước phát triển kinh tế - xã hội do đại hội Đảng VI - VII và VIII
đề ra.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước vẫn cịn nhiều khó
khăn, bên cạnh một số doanh nghiệp đã thích ứng với cơ chế mới làm ăn có hiệu quả,
có lãi. Cịn lại hầu hết các doanh nghiệp đều làm ăn thua lỗ, không tương xứng với số
vốn mà nhà nước bỏ ra, nhiều doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ bị phá sản gây
gánh nặng cho ngân sách nhà nước và ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế quốc dân. Do đó,
nhu cầu hiện nay cần phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu, tìm bước khắc phục những
hạn chế trên.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương đúng đắn của Đảng
và nhà nước ta trong quá trình tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, nó
khơng những khắc phục được những khó khăn nêu trên mà cịn có khả năng tạo ra mơi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đây là yếu tố cơ bản để phát
triển nềnkt thị trường. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đã được Đảng và Nhà


nước ta để ra từ rất sớm sau đổi mới (từ những năm 92) tới nay đã được một số kết quả
nhất định. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện đã vấp phải nhiều khó khăn,
khiến cho nó khơng tiến triển kịp với yêu cầu và kế hoạch đề ra.


Việc bài viết này đưa ra đề tài “Giải pháp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa
các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam” với mục đích có thể đưa ra một số giải
pháp nhằm đẩy nhanh bánh xe cổ phần hóa theo đúng mục tiêu đã định - Một vấn đề
bức bách đang đặt ra hiện nay.
Với kết cấu và nội dung như trên bài viết đề cập tới những nội dung chủ yếu sau:
1. Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta từ khi đổi mới đến nay.
2. Phân tích những nguyên nhân dẫn tới thực trạng cổ phần hóa ở nước ta diễn ra
một cách chậm chạp và khó khăn.
3. Kiến nghị một số giải pháp để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước.


B. Phần nội dung
I/ Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - Những vấn đề lý luận chung
I.1. Cổ phần hóa là gì?
Khái niệm cổ phần hóa: Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một
công việc rất mới mẻ, đầy khó khăn và phức tạp đối với chính phủ, nhà nước. Song
đây lại là giải pháp cơ bản để cải cách xắp xếp lại các DNNN ở nước ta hiện nay.
Khi bàn về vấn đề cổ phần hóa, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau. Ta có thể khái quát thành ba nhóm ý kiến khác nhau.
Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng: “Thực chất cổ phần hóa là tư nhân hóa”. Theo
quan điểm này họ cho rằng cổ phần hóa là quá trình chuyển DNNN sang hình thức
cơng ty cổ phần có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác”.
Nhóm ý kiến thứ hai lại cho rằng “Cổ phần hóa là nhằm xác định chủ sở hữu cụ

thể đối với doanh nghiệp”. Theo họ, trước đây khi doanh nghiệp còn là DNNN thì việc
xác định chủ sở hữu là khơng rõ ràng, khi doanh nghiệp đó chuyển thành cơng ty cổ
phần thì các cổ đơng chính là chủ sở hữu của cơng ty cổ phần.
Nhóm ý kiến thứ ba thì cho rằng “Thực chất cổ phần hóa là q trình xã hội hóa
doanh nghiệp nhà nước”.
Nhìn chung, mỗi nhóm quan điểm trên đây đã đưa ra được một vài khía cạnh nào
đó về vấn đề cổ phần hóa.
Để có một cái nhìn tổng quan về vấn đề cổ phần hóa DNNN, ta có thể hiểu “Cổ
phần hóa DNNN là qua chuyển toàn bộ hoặc một phần tài sản, vốn và quyền quản lý
DNNN sang các thành phần kinh tế khác dưới dạng công ty cổ phần”.
* Công ty cổ phần - hình thức kinh doanh phổ biến trong nền kinh tế thị
trường.
Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần gắn liền với quá trình phát triển của
nền sản xuất hàng hóa- nền kinh tế thị trường. Quá trình hình thành và phát triển cơng
ty cổ phần trải qua các giai đoạn sau:


Hình thái kinh doanh một chủ: Đây là hình thái phổ biến thống trị trong nền sản
xuất hàng hóa nhỏ và trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do.
Phương thức kinh doanh này có đặc điểm, người sở hữu đồng thời là người lao động
và người đó chỉ có thể làm giàu bằng lao động của chính mình, do vậy sự phát triển
sản xuất có được rất chậm chạp, quy mô mở rộng từ từ tùy theo sự phát triển của thị
trường địa phương và khu vực.
Hình thái kinh doanh chung vốn. Khi sản xuất phát triển, quy mơ ngày càng mở
rộng địi hỏi cần có nguồn vốn đầu tư lớn dẫn tới sự ra đời hình thức kinh doanh chung
vốn. Xét về mặt lịch sử, đó là bước tiến hóa trong chế độ tín dụng từ phương thức kinh
doanh chủ yếu dựa vào vay mượn sang phương thức kinh doanh chủ yếu dựa vào góp
vốn. Vì vậy, xét về mặt sở hữu, hình thái kinh doanh chung vốn là điểm xuất phát của
hình thái công ty cổ phần với tư cách là sự chung vốn của nhiều người cùng tham gia
kinh doanh, cùng chia xẻ lợi nhuận và rủi ro theo tỉ lệ góp vốn.

Hình thái cơng ty cổ phần: Sự ra đời và phát triển ngày càng mạnh mẽ của chế độ
tín dụng, hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính đã dẫn tới sự ra đời của công ty cổ
phần, giúp cho các công ty này mở rộng và xâm nhập ngày càng mạnh mẽ ra hầu hết
các lĩnh vực của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Sự ra đời và phát triển của
các công ty cổ phần đánh dấu sự chuyển hướng nền kinh tế từ trạng thái vay mượn chủ
yếu qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính. Các
cơng ty cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự phồn vinh của thị trường này. Đối
lại, sự thịnh vượng của thị trường tài chính tạo điều kiện cho các cơng ty cổ phần sinh
sơi nảy nở.
Qua việc phân tích về q trình hình thành cơng ty cổ phần ở trên ta thấy sự ra
đời và phát triển của công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của sự phát triển nền kinh tế
thị trường. Đổi lại, các công ty cổ phần đã đóng vai trị lịch sử hết sức to lớn trong sự
phát triển nền kinh tế thị trường TBCN. Nó có vai trị cơ bản sau:
- Đẩy nhanh q trình tích tụ và tập chung tư bản các công ty cổ phần ra đời làm
xuất hiện nhiều xí nghiệp có quy mơ và nguồn vốn khổng lồ mà với tư bản riêng lẻ
không thể nào thiết lập được.


- Là kết quả của sự vận động tách biệt hai mặt của sở hữu, biểu hiện ở mối quan
hệ giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh. Công ty cổ phần ra đời cho phép mở rộng
quy mô sản xuất nhanh chóng mà khơng bị giới hạn bởi tích lũy của từng tư bản riêng
biệt, đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất.
- Ngồi ra, sự phát triển của cơng ty cổ phần đã trực tiếp mang hình thái tư bản
xã hội, đối lập với tư bản tư nhân. Đó chính là sự thủ tiêu tư bản với tư cách sở hữu tư
nhân trong khuôn khổ của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
I.2. Điều kiện tiến hành cổ phần ở các DNNN
Cổ phần hóa là một nội dung của đa dạng hóa sở hữu, xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần, là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu của một đơn vị kinh tế quốc
doanh nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế cao hơn.
Cổ phần hóa kinh tế quốc doanh hiện nay đang trở thành bức thiết và Nhà nước

ta coi đó là chủ trương lớn trong chính sách cải cách kinh tế đất nước.
Khái niệm chung về cổ phần hóa và mục tiêu của nó đã được giới thiệu trên
nhiều báo chí. Trong bài này, chúng tơi xin đề cập đến những điều kiện và bước đi tiến
hành cổ phần hóa.
Nói chung về nguyên tắc, các DNNN đăng ký kinh doanh theo nghị định
388/HĐBT đều có thể tiến hành cổ phần hóa. Tuy nhiên trong điều kiện nước ta hiện
nay, với mục tiêu đã nêu ở trên, những doanh nghiệp có đủ các yếu tố sau đây sẽ là đối
tượng tốt để thực hiện cổ phần hóa.
Thứ nhất là, nhưng doanh nghiệp có quy mơ vừa (khơng q lớn, mà cũng khơng
q nhỏ). Q lớn khó tìm đủ cổ đơng. Q nhỏ mang tính chất “khơng bõ cơng”. Thế
nào là quy mô vừa? Việc phân loại ở mức tương đối. Vận dụng kinh nghiệm của các
nước vào nước ta cho thấy để tiến hành cổ phần hóa có hiệu quả đối với các doanh
nghiệp, cần bảo đảm:
- Vốn cổ phần không dưới 500 triệ đồng


- Số người mua cổ phiếu (số cổ đông) cho phép bán hết cổ phiếu của doanh
nghiệp. Điều này đặt ra vấn đề khi tiến hành cổ phần hóa phải dự tính được số lượng
cổ phiếu bán ra cần thiết.
Thứ hai, các đơn vị kinh tế quốc doanh không nằm trong danh mục nhà nước cần
đầu tư 100% vốn.
Thứ ba, Những DNNN làm ăn có lãi thực, hoặc trước mắt tuy khơng có lãi, gặp
khó khăn, song có thị trường ổn định và phát triển, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Có
mấy lý do để chọn đơn vị làm ăn có lãi và có tương lai hứa hẹn để cổ phần hóa.
Một là nếu làm ăn thua lỗ thì sẽ không ai mua khi bán. Người mua cổ phần hy
vọng vào tính sinh lợi của đồng vốn trong tương lai của doanh nghiệp. Tương lai đầy
hứa hẹn sẽ có sức hấp dẫn đối với những người muốn trở thành cổ đơng của doanh
nghiệp.
Hai là, để có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh hơn nữa. hạn chế
tối đa rủi ro đối với đồng vốn của những người lao động nghèo góp lại.

Ba là, cho phép nhà nước thu hồi được vốn để đầu tư vào những nhu cầu thiết
yếu khác. Bởi vì doanh nghiệp có lãi mới có người bỏ tiền ra mua. Nhờ đó nhà nước
mới rút được vốn. Tức là thực hiện được cổ phần hóa.
Cần phải thấy rằng, bước đầu thực hiện cổ phần hóa DNNN nên xuất phát từ
những doanh nghiệp làm ăn có lãi. Khi cơng việc này trở nên bình thường thì yếu tố cơ
bản nhất để thực hiện thành cơng cổ phần hóa là những doanh nghiệp.
- Có phương án sản xuất - kinh doanh hiệu quả, đầy triển vọng, có khả năng tạo
ra được lợi nhuận cao (tính sinh lợi của đồng vốn cao).
- Giá bán phù hợp.
I.3. Khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay
I.3.1. Vai trò kinh tế của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế quốc dân


Khu vực kinh tế nhà nước được hiểu là khu vực kinh tế bao gồm “những doanh
nghiệp do nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và nhà nước kiểm sốt tới một
mức độ nhất định q trình ra quyết định của doanh nghiệp”
Kinh tế nhà nước có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và đã trở thành một
bộ phận quan trọng thiết thực trong cơ cấu kinh tế của mỗi nước. Tuy nhiên, tùy đặc
điểm của mỗi nước mà khu vực kinh tế nhà nước có phạm vi và vài trị khác nhau.
ở các nước tư bản phát triển. Dựa vào học thuyết kinh tế của Keynes để thực
hiện một hệ thống chính sách can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế nhằm điều tiết
chukỳ phát triển. Khu vực kinh tế nhà nước ở các nước tư bản phát triển tuy chỉ chiếm
tỷ trọng thấp trong nền kinh tế quốc dân nhưng đã có đóng góp quan trọng và duy trì
được tốc độ tăng trưởng ổn định trong thời kỳ dài của những năm 1960-1970.
ở các nước xây dựng nền kinh tế XHCN. Theo mơ hình kinh tế chỉ huy và kế
hoạch hóa tập trung đã vận dụng học thuyết Mác - Lênin để thực hiện chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất mà nhà nước là đại điện, coi đó là nền tảng kinh tế để xóa bỏ sự
phân hóa giàu nghèo, bất công trong xã hội do cơ chế thị trường và chế độ tư hữu gây
ra và xây dựng một xã hội công bằng do nhân dân lao động làm chủ.

ở các nước đang phát triển. Sau khi đã thoát khỏi chế độ thực dân kiểu cũ và
giành được độc lập về chính trị, thì sự can thệp trực tiếp của nhà nước thơng qua quốc
hữu hóa các cơ sở kinh tế của tư bản nước ngoài và xây dựng các cơ sở công nghiệp
quốc doanh trở nên rất phổ biến. Khu vực kinh tế nulà công cụ quan trọng để nhà nước
điều tiết vĩ mô nền kinh tế chống lại sự phát triển mạnh mẽ của CNTB với chế độ tư
hữu được coi là nguyên nhân của sự nghèo khổ, bất bình đẳng, sự bóc lột và áp bức
thực dân.
Như vậy, sự tồn tại của kinh tế nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới và vai
trị quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân chứng tỏ sự cần thiết khách quan của
khu vực kinh tế này trong bối cảnh kinh tế hiện đại. Khi các hoạt động quản lý vĩ mơ
địi hỏi nhà nước phải đóng vai trị ngày càng lớn trong nền kinh tế. Có thể nói, khu
vực kinh tế nhà nước giữ vai trị như một cơng cụ kinh tế của nhà nước, vừa thực hiện


chức năng kinh tế vừa làm một phần chức năng xã hội, góp phần thực hiện sự tăng
trưởng và ổn định nền kinh tế mỗi nước.
ở nước ta, sau đại hội VI (1986) chúng ta đã chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Tuy nhiên Đảng ta luôn xác định kinh tế
nhà nước là thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
I.3.2. Thực trạng khu vực kinh tế nhà nước ở nước hiện nay
Cũng giống như các nước XHCN, trước đây chúng ta thực hiệ mơ hình kế hoạch
hóa tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển kinh tế nhà nước bao trùm tàon bộ nền
kinh tế quốc dân, làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, khu vực kinh tế nhà nước đã được phát triển một cách nhanh chóng rộng khắp
trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu quả
đích thực mà nó mang lại, trong đó phải kể đến sự ra đời tràn lan của các doanh nghiệp
do cấp địa phương quản lý. Theo số liệu thống kê, đến ngày 1 tháng 1 năm 1990, cả
nước có 12.084 doanh nghiệp nhà nước trong đó có 1.695 doanh nghiệp do trung ương

quản lý, 10.389 doanh nghiệp do cấp địa phương quản lý. Khu vực kinh tế nucó số vốn
trị giá khoảng 10 tỷ USD, chiếm 85% tổng giá trị tài sản toàn xã hội. Tuy nhiên, khu
vực này chỉ mới tạo ra khoảng từ 30-38% giá trị tổng sản phẩm xã hội (GDP) và thu
nhập quốc dân khoảng 25-30%.
Hiện nay, tỷ trọng của kinh tế nhà nước trong tổng sản phẩm xã hội của từng
ngành tương ứng là: xây dựng 76%; trồng rừng trong lâm nghiệp 35%; nông nghiệp
3%, trong các ngành bưu chính viễn thơng, vận tải đường sắt, hàng không chiếm
100%, viễn dương chiếm 98%, đường bộ 80%. Trong nhiều ngành sản xuất cơng
nghiệp: dầu khí, điện than, khai thác quặng, hầu hết các ngành chế tạo, hóa chất cơ
bản, xi măng, thuốc lá... Khu vực kinh tế nhà nước vẫn nắm chủ yếu.
Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tín dụng, ngân hàng... hầu hết là do kinh tế nhà
nước nắm giữ. Hàng năm, kinh tế nhà nước vẫn là nguồn thu chủ yếu của ngân sách
nhà nước (chiếm khoảng 60% đến 70% tổng thu ngân sách). Tuy nhiên, so với khối


lượng vốn đầu tư và khoản trợ cấp ngầm qua tín dụng ưu đãi của ngân hàng, cũng như
phần khấu hao cơ bản và một phần rất lớn thuế tiêu thụ đặc biệt cộng với các loại thuế
gián thu khác đánh vào người tiêu dùng mà nhà nước thu qua doanh nghiệp thì mức độ
đóng góp trên cịn chưa tương xứng.
Các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được hình thành và phát triển trên cơ sở
nguồn vốn cấp phát của ngân sách nhà nước và do đó tất cả các hoạt động đều chịu sự
kiểm soát và chi phối trực tiếp của nhà nước. Do đó, khơng phát huy được tính chủ
động sáng tạo của các doanh nghiệp dẫn tới hậu quả là hầu hết các doanh nghiệp nhà
nước đều hoạt động hết sức kém hiệu quả. Có thể minh hoạ nhận xét này, qua mấy chỉ
tiêu cụ thể sau:
- Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế nhà
nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một đồng thu nhập quốc dân thường cao
gấp hai lần so với kinh tế tư nhân.
Mức tiêu hao vật chất của các DNNN trong sản xuất cho một giá trị đơn vị tổng
sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao cấp 1,3 lần so với mức trung bình trên thế giới.

- Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp nhà nước rất thấp và khơng ổn
định. Trung bình khu vực kinh tế nhà nước chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất
khẩu, 20% số sản phẩm kém chất lượng. Dó đó, hiện tượng hàng hóa ứ đọng với khối
lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu động của toàn xã hội.
- Hệ số sinh lời của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp. Ví dụ, hệ số sinh lời của
vốn lưu động tính chung chỉ đạt 7%/năm trong đó ngành giao thơng đạt 2%/năm,
ngành cơng nghiệp đạt khoảng 3%/ năm, ngành thương nghiệp đạt 22%/năm.
- Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước hết sức thấp. Cụ
thể là trong mấy năm gần đây, hàng năm nhà nước giành vốn 70% vốn đầu tư ngân
sách của toàn xã hội cho các doanh nghiệp nhà nước, tuy nhiên chúng chỉ tạo ra được
từ 34%-35% tổng sản phẩm xã hội. Hơn nữa khu vực này lại sử dụng hầu hết lao động
có trình độ đại học, công nhân kỹ thuật.
- Số các doanh nghiệp thua lỗ chiếm tỉ trọng lớn. Theo số liệu thống kê thì trong
số 12.084 cơ sở quốc doanh thì có tới 4.584 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ, chiếm


34% tổng số các doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, quốc doanh trung ương có 501 cơ
sở thua lỗ, bằng 29,6% số cơ sở trung ương quản lý; Quốc doanh địa phương có 4.083
cơ sở thua lỗ chiếm 39,95 số đơn vị do địa phương quản lý. Các số liệu trên cho thấy
việc làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước đã gây tổng thất rất nặng nề cho
ngân sách nhà nước và là một trong những nguyên nhân gây ra việc bội chi ngân sách
trong những năm qua. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự hoạt động kém hiệu quả của khu
vực kinh tế nhà nước là do cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp mấy chục năm qua.
Trước đây do đất nước có chiến tranh, nền kinh tế được quản lý sẽ đảm bảo huy động
ở mức cao nhất mọi tiềm lực cho kháng chiến thắng lợi mà khơng cần tính tới hiệu
quả. Tuy nhiên, khi đất nước chuyển sang thời kỳ hịa bình thì việc kéo dài quá lâu cơ
chế quản lý này đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và đẩy nền kinh tế tới
khủng hoảng.
Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế nước ta đã thực sự bước sang hoạt động theo
cơ chế thị trường. Một số doanh nghiệp đã thích ứng được với cơ chế thị trường làm

ăn có hiệu quả, nhưng phần lớn các doanh nghiệp nhà nước vẫn ở trong tình trạng làm
ăn kém hiệu quả. Nguyên nhân chủ yếu là do tư tưởng bao cấp trong đầu tư vẫn còn rất
nặng nề tất cả các doanh nghiệp được thành lập đều được cấp toàn bộ vốn từ ngân sách
nhà nước, hàng năm trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được giành cho các
doanh nghiệp nhà nước vay. Dẫn tới thực trạng là việc thất thu vốn cho nhà nước; vấn
đề nợ nần vịng vo mất khả năng thanh tốn cịn diễn ra khá nghiêm trọng; việc buông
lỏng quản lý của nhà nước dẫn tới nạn tham nhũng, lãng phí diễn ra ở mức báo động,
đời sống của cán bộ công nhân chậm được cải thiện. Từ đó làm suy yếu nghiêm trọng
khu vực kinh tế nhà nước trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các thành phần
kinh tế khác, đặc biệt là các cơ sở kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Để đảm bảo vai
trị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và là công cụ đắc lực trong việc điều tiết vĩ mô
nền kinh tế của nhà nước, yêu cầu khách quan đặt ra cần phải đổi mới, sắp xếp lại khu
vực kinh tế nhà nước.
I.4. Cổ phần hóa biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả và đổi mới khu vực
kinh tế nhà nước ở nước ta.


Xuất phát từ những kinh nghiệm, thực tiễn và quá trình nghiên cứu đặc điểm sản
xuất kinh doanh của các DNNN ở nước ta. Chúng ta có thể đưa ra 3 phương pháp khắc
phục những yếu kém và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN. Đó là:
- Tư nhân hóa
- Liên doanh với nước ngồi
- Cổ phần hóa
Tư nhân hóa, là việc chuyển các doanh nghiệp từ tay nhà nước sang tay tư nhân
thông qua bán. Như đã nói ở trên tư nhan hóa cũng là một trong những giải pháp khắc
phục tình trạng thua lỗ của các DNNN và làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên qua kinh nghiệm của một số nước đã tiến hành, thì việc tư nhân hóa
đều gặp phải những trở ngại sau:
Các chính phủ chỉ muốn bán những xí nghiệp hoạt động khơng có hiệu quả, thua
lỗ kéo dài với các điều kiện và giá cả do chính phủ đặt ra, nên khơng hấp dẫn người

mua, do đó việc thực hiện kế hoạch tư nhân hóa gặp nhiều khó khăn và thường khơng
đạt được dự tính mong muốn.
Trong xã hội, thường chỉ có một số ít người mới có khả năng mua cỏ phần của
các xí nghiệp hóa giá, vì vậy trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường. Khi
mà môi trường pháp lý cũng như mơi trường kinh doanh cịn chưa hồn thiện như ở
nước ta thì thường dẫn tới tình trạng độc quyền hóa của một số ít người.
ở các nước đang phát triển, do sự hạn chế về nguồn vốn trong nước nên các xí
nghiệp hóa thường rơi vào các cơng ty tư bản độc quyền của các nước tư bản phát
triển, tạo điều kiện cho tư bản nước ngoài thâm nhập sâu vào nền kinh tế làm cho
nguồn tài nguyên, lao động bị vơ vét và bóc lột.
Ngồi ra tư nhân hóa cịn làm suy yếu đi khu vực kinh tế nhà nước. Do đó, trong
hồn cảnh kinh tế nước ta, thì việc tư nhân hóa là khâu phù hợp.
Liên doanh với nước ngồi là hình thức liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp
trong nước với các nhà tư bản nước ngoài. ở nước ta từ khi thực hiện chính sách mở
cửa, hình thái này đã được phát triển nhanh chóng và đóng góp một phần đáng kể vào


sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiếnno đã bộc lộ những măt hạn chế
trong quá trình triển khai. ở nước ta, để thấy được ưu thế hơn hẳn của hình thức cổ
phần hóa với liên doanh với nước ngoài ta đi so sánh sự khác nhau của chúng.
Công ty cổ phần

Công ty liên doanh

1. Trong trường hợp cổ đông không 1. Nếu một trong hai bên liên doanh vì lý
đồng tình với phương án làm ăn của do gì đó mà rút vốn thì phương hướng
cơng ty, họ có thể bán cổ phần cho kinh doanh của công ty lập tức bị sụp đổ.
người khác, nhưng điều đó khơng ảnh
hưởng tới hoạt động của cơng ty.
2. Hoạt động của cơng ty khơng có thời 2. Hoạt động của cơng ty có thời hạn

gian hạn định. Đầu tư chỉ chấm dứt khi định. Hết hạn các bên ký kết thu hồi vốn
công ty bị phá sản.

chấm dứt đầu tư.

3. Hội đồng quản trị do đại hội cổ đông 3. Hội đồng quản trị là đại diện của hai
bầu ra. Hội đồng quản trị cử ra ban giám bên liên doanh.
đốc làm việc trực tiếp với công ty
4. Mục đích đầu tư của cổ đơng là thống 4. Mục đích đầu tư liên doanh của các
nhất, họ muốn làm ăn lâu dài và muốn bên là khác nhau. Các bên đều muốn
cơng ty ngày càng phát triển.

hồn vốn nhanh, chấm dứt liên doanh và
chuyển vốn đầu tư vào lĩnh vực khác.

Qua sự so sánh trên đây ta có thể thấy những ưu thế của cổ phần hóa so với tư
nhân hóa như sau:
- Cổ phần hóa có khả năng huy động vốn đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Có sự thống nhất về mục tiêu giữa những người cùng góp vốn.
- Có sự liên tục và khơng hạn định về thời gian hoạt động.
- Có sự phân tán cao độ rủi ro mạo hiểm.
Như vậy trong ba phương án trên, ta thấy cổ phần hóa là phương án tối ưu vừa
nâng cao hiệu quả sản xuất vừa củng cố vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong
nền kinh tế quốc dân, phù hợp với đường lối xây dựng đất nước mà Đảng ta đã đề ra.


Sở dĩ như vậy là vì cổ phần hóa DNNN ở nước ta hiện nay có vai trị quan trọng như
sau:
Nếu xét trên phạm vi doanh nghiệp:
Cổ phần hóa tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động và thu hút vốn cho các

DNNN. Các doanh nghiệp nhà nước hiện đang thiếu vốn nghiêm trọng. Trong khi đó
nhà nước đang bội chi ngân sách, không thể và cũng không nên tiếp tục bao cấp vốn
cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả như vậy. Cổ phần hóa sẽ huy động các nguồn
vốn quản lý trong xã hội một cách nhanh chóng để phát triển sản xuất kinh doanh. Khi
doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nguồn vốn dồi dào trong dân cư sẽ đổ vào nơi có lợi
nhuận cao, làm cho các doanh nghiệp cổ phần hóa ngày càng có nguồn vốn lớn để
trang bị kỹ thuật, mở rộng sản xuất. Đồng thời nguồn vốn ngày càng được sử dụng tốt
lại tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu liên tục. Các doanh
nghiệp khi đã cổ phần hóa sẽ liên doanh được với các doanh nghiệp trong và ngồi
nước từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn hơn nữa.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN. Trước đây, trong cơ
chế quan liêu bao cấp, các DNNN được nhà nước bao cấp hồn tồn, hoạt động dưới
sự kiểm sốt trực tiếp của nhà nước do đó khơng phát huy được tính năng động sáng
tạo của các doanh nghiệp dẫn tới thực trạng là hầu hết các doanh nghiệp làm ăn thua
lỗ. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, trong các doanh nghiệp đã được hoạt động tự
chủ hơn nhưng do buông lỏng quản lý dẫn tới tệ nạn tham nhũng, lãng phí ảnh hưởng
lớn tới nền kinh tế, xã hội. Khi các doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang các công ty
cổ phần đã khắc phục được những khuyết điểm trên. Để thấy rõ vấn đề ta thử xem xét
cấu trúc quản lý và kiểm sốt của cơng ty cổ phần qua sơ đồ sau:


Đại hội cổ
đơng

Hội đồng
quản trị

Ban kiểm
sốt


Giám đốc điều
hành

Phó giám đốc
điều hành

Phịng
chu
n mơn

Phó giám đốc
điều hành

Phịng
chu
n mơn

Phịng
chu
n mơn

Phó giám đốc
điều hành

Phịng
chu
n môn

Qua sơ đồ trên ta thấy cơ cấu hoạt động của công ty cổ phần là rất chặt chẽ, hội
đồng quản trị sẽ bầu ra (hoặc đi thuê) ban giám đốc và thực hiện giám sát trực tiếp hoạt

động của doanh nghiệp. Ngồi ra cịn có ban kiểm sốt hoạt động độc lập do đại hội cổ
đông bầu ra. Do đó các cơng ty cổ phần sẽ hoạt động một cách an tồn và hiệu quả.
- Cổ phần hóa tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp.
Trước đây do chưa coi trọng và chưa có cơ chế cụ thể để người lao động thực hiện
quyền làm chủ về kinh tế. Từ đó quyền làm chủ chỉ dừng lại ở nguyên tắc, khẩu hiệu
chứ không đi vào thực chất. Với việc cổ phần hóa DNNN tất cả các cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp đều có thể tham gia mua cổ phần của cơng ty. Họ trở thành
người chủ thực sự của doanh nghiệp, có trách nhiệm rõ ràng cụ thể thông qua lá phiếu
biểu quyết tương ứng với số cổ phần sở hữu. Quyền lợi của họ gắn liền với kết quả sản
xuất kinh doanh do đó tạo điều kiện thúc đẩy họ làm việc. Và điều quan trọng khác là


họ có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý cơng ty. Đó là sự làm chủ thực
sự của người lao động.
Ngồi các vai trị trên của q trình cổ phần hóa đối với hoạt động của các doanh
nghiệp. Xét trên phạm vi toàn xã hội, cổ phần hóa các DNNN cịn có vai trị quan
trọng trong việc cấu trúc lại nguồn vốn đầu tư của nhà nước, lành mạnh hóa nền tài
chính quốc gia; thu hút tiềm năng vốn nhàn rỗi trong dân chúng, thúc đẩy quá trình
hồn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa xuất phát từ vai trị to lớn đó ta có thể
khẳng định cổ phần hóa là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhà nước trong quá
trình tổ chức sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay.
II/ Thực trạng quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta hiện nay.
Kể từ khi có quyết định 202/CP của chính phủ ngày 8/6/1992 về việc cổ phần
hóa doanh nghiệp, đến nay đã được hơn 6 năm. Trong q trình cổ phần hóa có rất
nhiều vấn đề nảy sinh cần giải quyết, tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chỉ đi vào
nghiên cứu tiến trình cổ phần hóa DNNN và nêu ra các nguyên nhân dẫn đến tình
trạng cổ phần hóa ở nước ta diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn để từ đó đưa ra
các biện pháp phù hợp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN.
II.1. Cổ phần hóa DNNN ở nước ta - tốc độ chưa đáp ứng được yêu cầu.
Tính tới ngày 1/9/1998, cả nước có 38 DNNN đã hồn thành cổ phần hóa(*),

trong đó có 12 cơng ty đã đi vào hoạt động hơn một năm, có thể thấy, vốn điều lệ của
các doanh nghiệp này tăng bình quân 19,06%, doanh thu tăng bình quân 46%/năm, các
khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%/năm, tỉ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu năm
1997 là 44% số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng 30%/năm, thu nhập của
người lao động tăng bình quân 14,3%/năm. Tuy nhiên nếu đem so sánh với số lượng
doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện nhà nước giữ lại 100% vốn và mục tiêu
chuyển 150 DNNN thành công ty cổ phần năm 1998 thì q trình này diễn ra q
chậm và khơng đồng đều giữa các ngành các địa phương.
Để làm rõ vấn đề, chúng ta hãy xem xét tiến trình cổ phần hóa DNNN từ tháng
6/1992 tới nay.


Q trình cổ phần hóa DNNN được bắt đầu từ ngày 8/6/1992 khi chủ tịch hội
đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng chính phủ) ban hành quyết định 203/CT về danh
sách DNNN được chọn để chỉ đạo thí điểm thành công ty cổ phần gồm 7 doanh
nghiệp:
- Nhà máy xà phịng miền Nam
- Nhà máy diêm thống nhất
- Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc
- Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình
- Cơng ty vật tư tổng hợp Hải Hưng
- Xí nghiệp sản xuất bao bì Hà Nội
- Xí nghiệp may mặc Legamex thành phố HCM
Kết quả sau 6 tháng triển khai thì chỉ có duy nhất xí nghiệp may mặc Legamex
chuyển thành cơng ty cổ phần vào tháng 12/1992. Cịn lại các doanh nghiệp khác thì
hoặc là muốn rút lui hoặc là muốn chờ đợi, nhưng chưa có nào có văn bản đề nghị
chính thức. Ngun nhân cơ bản là do mục tiêu cổ phần hóa của doanh nghiệp của
chính phủ chưa phù hợp. Một số vấn đề cơ bản về cơ chế chính sách chưa phù hợp.
Một số vấn đề về cơ chế chính sách chưa phù hợp với thực tế khách quan, chưa
khuyến khích được doanh nghiệp tham gia cổ phần hóa. Mặt khác có sự khơng đồng

tình từ phía lãnh đạo doanh nghiệp và cơng nhân do có sự đụng chạm về quyền lợi, lợi
ích vật chất và việc làm.
Sau năm 1992, quá trình cổ phần hóa vẫn tiếp tục được triển khai, tuy nhiên tốc
độ quá chậm. Trong 3 năm từ năm 1993-1995 chúng ta chỉ cổ phần hóa được thêm 5
doanh nghiệp nữa là: Đại lý LH vận chuyển (Tổng công ty hàng hải); Cơ điện lạnh
(TP. HCM); Giầy Hiệp An (Bộ Công nghiệp); CB hàng xuât khẩu Long An; Công ty
chế biến thức ăn gia súc (Bộ nông nghiệp). Từ năm 1996, tốc độ có tăng lên, năm 1996
ta cổ phần hóa được 6 DNNN, năm 1997 ta cổ phần hóa được 4 DNNN gồm khách sạn
Sài gịn, CTCP Nam Đơ (TP. HCM); xí nghiệp sơn Bạch Tuyết (TP. HCM). Năm
(*)

Theo số liệu của Thời báo kinh tế 26/9/1998


1998 ta đã cổ phần hóa được 17 doanh nghiệp. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là
hai địa phương dẫn đầu về số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trong cả nước. Cho tới
năm 1998, thành phố HCM có 662 DNNN, cùng với việc chuẩn bị sẵp xếp lại DNNN
việc cổ phần hóa một bộ phận DNNN cũng được đẩy mạnh. Từ khi có nghị định 28/CP
ngày 7/5/1996 của chính phủ về việc cổ phần hóa DNNN thành phố cho thấy: ngồi
hai cơng ty: cơ điện lạnh, cơng ty ong mật đã thực hiện cổ phần hóa trong thời gian
làm thí điểm, 7 doanh nghiệp đã chuyển sang công ty cổ phần, 3 doanh nghiệp đang ở
giai đoạn thẩm tra giá trị doanh nghiệp, 15 doanh nghiệp đang xây dựng đề án. Cùng
với thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội là nơi thực hiện sớm nhất chương trình cổ
phần hóa các DNNN. Trong 3 năm đầu thành phố đã chọn xí nghiệp đồ mộc làm thí
điểm. Từ cuối năm 1996 tới hết năm 1997 khi chính phủ ban hành nghị định 28/CP,
thành phố đã có 10 doanh nghiệp triển khai cổ phần hóa, trong đó 5 doanh nghiệp
thuộc ngành thương mại dịch vụ và 5 doanh nghiệp khác thuộc ngành sản xuất và xây
dựng. Sang năm 1998, các đơn vị: Cơng ty giầy Thụy Kh, Xí nghiệp cơ khí điện tử,
nhà máy thực phẩm chùa Bộc... cũng đang tích cực triển khai các bước cổ phần hóa
doanh nghiệp. Tuy nhiên trong tất cả doanh nghiệp nói trên hiệ mới chỉ có 4 doanh

nghiệp đã chuyển thành công ty cổ phần là: Công ty đầu tư sản xuất thương mại, công
ty cổ phần khách sạn Phú Gia, CTCP Thành Công, XN sản xuất đồ mộc.
Như vậy so với mục tiêu năm 1998 thành phố HCM v 20 doanh nghiệp và theo
đánh giá của ông Đinh Hạnh - Phó chủ tịch UBND thành phố Hà Nội thì tốc độ cổ
phần hóa của hai thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh - hai thành phố được coi là địa
phương đầu đàn về cổ phần hóa - quá chậm chạp và chưa đáp ứng yêu cầu.
Qua thực tiễn hơn 6 năm thực hiện cổ phần hóa DNNN, bài viết xin đưa ra một
số đánh giá về những mặt được và chưa được trong thí điểm cổ phần hóa một số
DNNN.
- Thứ nhất, về mục tiêu lý tưởng và mục tiêu đạt được trong thực tế. Về mục tiêu
lý tưởng Đảng ta đưa ra ba mục tiêu cơ bản quá trình cổ phần hóa. Một là, chuyển một
phần sở hữu nhà nước thành sở hữu của cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Hai là, phải huy động được một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài


nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Ba là, tạo điều kiện để người lao động thực
sự làm chủ doanh nghiệp. Kết quả thực tế là:
Về mục tiêu thứ nhất, hầu hết các doanh nghiệp đều đạt được mục tiêu này, hiệu
quả sản xuất được nâng cao, doanh thu tăng 146%, lợi nhuận doanh nghiệp tăng 181%,
nộp ngân sách nhà nước tăng 157%. Ngồi ra, nhà nước cịn có thể cổ tức của 18%
vốn.
Về mục tiêu thứ ba, các doanh nghiệp được cổ phần đã huy động được một khối
lượng vốn trong nước. Tuy nhiên, hiện nay số vốn thu mua từ các nhà đầu tư nước
ngồi thơng qua cơng ty cổ phần là rất ít do đó cần phải có giải pháp để khuyến khích
các cổ đơng là người ngoại quốc trong thời gian tới.
Về mục tiêu thứ ba, thì phần lớn các cổ đơng ở các công ty cổ phần là cán bộ
công nhân viên chức trong doanh nghiệp cũ, họ làm chủ thực sự công ty của họ, họ
hoạt động khơng chỉ vì đồng lương mà cịn vì lợi tức hoạt động và giá trị cổ phần trong
công ty.
- Thứ hai, về phương pháp cổ phần hóa. Do chưa có sự thống nhất của cơ quan

chỉ đạo cổ phần hóa nhà nước về sự cần thiết để lại cổ đông nhà nước, mức độ để lại là
bao nhiêu phần trăm, vì vậy các doanh nghiệp cổ phấn hóa đều để lại một phần cổ
đơng của nhà nước. Nhưng mức độ khác nhau. Việc xác định tỉ lệ phần trăm về bán
cho ai? Cán bộ công nhân trong doanh nghiệp, bán ra bên ngoài và để lại cổ đông nhà
nước thiếu sự quy định thống nhất.
- Thứ ba, về quyền lợi của người lao động trong các cơng ty cổ phần hóa. Vấn đề
này trong q trình cổ phần hóa được thảo luận nhiều, về sau đã có thơng tư 09/LĐTBXH của Bộ Lao động hướng dẫn. Tuy nhiên khi về địa phương, các cơ quan quản lý
lao động và bảo hiểm xã hội lại chưa được quán triệt vì thiếu sự chỉ dẫn của cấp trên
về phương pháp tiến hành cho đến nay vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Thứ tư, vấn đề các tổ chức Đảng, cơng đồn, các tổ chức xã hội khác hoạt động
như thế nào. Hiện nay trong các công ty cổ phần hóa, các hoạt động của các tổ chức
Đảng, cơng đồn, đồn thanh niên vẫn diễn ra bình thường. Tuy nhiên, đã nảy sinh ra
một số vấn đề cần giải quyết:


- Mục tiêu, nói chung và phương pháp lãnh đạo của tổ chức Đảng trong các công
ty cổ phần, mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của tổ chức Đảng với hội đồng quản trị.
- Mục tiêu nói chung, phương pháp hoạt động cơng đồn trong các cơng ty cổ
phần mà trong đó vừa có sở hữu của nhà nước vừa có sở hữu của các cổ đơng. Đại hội
của các cổ đông và đại hội công nhân viên chức trong cơng ty sẽ tiến hành ra sao...
- Chi phí cho các hoạt động của Đảng, cơng đồn cơng ty phải có đóng góp như
trước đây khơng.
II.2. Vì sao cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lại diễn ra chậm chạp và khó
khăn
Mặc dù, chính phủ đã ban hành quyết định về cổ phần hóa DNNN cách đây hơn
6 năm, trong thời gian đó chính phủ, các bộ, các ngành đã ban hành nhiều nghị quyết,
chỉ thị về việc hướng dẫn, thi hành, tuy nhiên q trình cổ phần hóa DNNN trên thực
tế diễn ra rất chậm chạp, vậy nguyên nhân nào làm cho các DNNN chần chừ khi tham
gia vào q trình cổ phần hóa. Sau đây là một số nguyên nhân cơ bản:
Cũng như các nước thuộc phe XHCN trước đây, khó khăn, cản trở lớn nhất của

nước ta khi tiến hành cổ phần hóa là cơ chế quản lý quan liêu bao cấp được duy trì
quá lâu vì vậy khu vực tư nhân ln được coi là đối tượng cải tạo XHCN. Sự nhỏ bé
và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị
trường, trong đó hình thái kinh tế một chủ tự đúng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái
cơng ty cổ phần cịn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều nay gây ra sự bỡ ngỡ cho cả
mẫu đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu và đó cũng là một
trong những nhân cơ bản làm cho chương trình cổ phần hóa ở nước ta phải thực hiện
trong một thời gian dài.
Cùng với sự yết ớt, nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị
trường tài chính thực sự, trong đó phải kể tới thị trường chứng khốn. Thị trường
chứng khoán được hiểu là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch và mua bán chứng
khoán. Chứng khoán bao gồm nhiều loại song cổ phiếu là cơ bản. Do đó, thị trường
chứng khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong
nền kinh tế thị trường. Do thiếu vắng thị trường chứng khoán do đó việc huy động vốn,


trao đổi, giao dịch chứng khốn gặp nhiều khó khăn, do đó nó đã gây khó khăn và làm
cản trở q trình cổ phần hóa của chúng ta trong mấy năm qua.
Tuy đã xác định được các mục tiêu chủ yếu cần đạt tới qua cổ phần hóa “Nâng
cao hiệu quả kinh tế kinh doanh, huy động một bộ phận vốn và tạo điều kiện phát huy
quyền làm chủ của người lao động” là đúng, song một loạt vấn đề có tính ngun tắc
cần xử lý để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trên đã không được định hướng rõ ràng,
dứt khoát trên cơ sở nhận thức nhất quán. Hơn nữa khơng phải mọi mục tiêu nêu ra là
hồn toàn thống nhất với nhau, nhất là phương án lựa chọn tỉ lệ các loại cổ đông hay
các phần giá trị doanh nghiệp bán cho các cổ đông. Dẫn đến lúng túng trong xử lý
công việc.
Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mơ của nhà nước về luật phát, thuế khóa,
tiền tệ... chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người đầu tư lâu dài. Nhiều chính
sách kinh tế ra đời chồng chéo, mâu thuẫn nhau và thay đổi đột ngột, sự đổi mới của
hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm so với đòi hỏi của kinh tế

thị trường... là yếu tố gây bất lợi cho q trình cổ phần hóa các DNNN.
Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt các vấn đề
có liên quan tới chương trình cổ phần hóa như: các khoản trợ cấp cho người lao động
thất nghiệp, chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm xã hội, các chi phí để thực hiện
việc tư vấn quảng cáo, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các giao dịch bn bán cổ
phiếu... các khoản phí tổn này thường là rất lớn, tuy nhiên nếu bỏ qua sẽ khơng khuyến
khích được q trình chuyển từ DNNN sang cơng ty cổ phần.
Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Sự yếu
kém trong hệ thống kiểm tốn gây nhiều trở ngại cho việc đánh chính xác giá trị của
doanh nghiệp, tình hình hoạt động và triển vọng kinh doanh của các doanh nghiệp
được chọn làm cổ phần hóa, do đó gây khó khăn cho việc cung cấp các thông tin trung
thực, tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phần hóa với những doanh
nghiệp này.
Trong phạm vi doanh nghiệp, nguyên nhân cơ bản là do các doanh nghiệp nhà
nước của ta hầu hết có trang bị máy móc cũ kĩ, cơng nghệ lạchậu, khả năng cạnh tranh


và thích nghi thấp... do đó khó có thể tiến hành cổ phần hóa ở các doanh nghiệp này,
số doanh nghiệp có mức lợi nhuận đủ hấp dẫn cịn q ít mặt khác đối với các doanh
nghiệp có lợi nhuận cao thì phần lớn nhà nước chưa có ý định cổ phần hóa. Điều này
gây khó khăn cho việc lựa chọn các doanh nghiệp cổ phần, cũng như thu hút sự hưởng
ứng của đơng đảo những người có vốn đầu tư bằng cổ phiếu.
Q trình cổ phần hóa vẫn chưa được sự đồng tình ủng hộ của cán bộ, cơng nhân
trong các DNNN vì vấn đề cổ phần hóa động chạm tới lợi ích của họ, người cơng nhân
thì chưa thỏa đáng với việc đánh đổi giữa lợi tức cổ phần thu được và sự thất nghiệp,
đối với cán bộ quản lý đứng trước nguy cơ mất việc nếu không làm tốt. Điều nay gây
cản trở lớn cho quá trình cổ phần hóa vì cổ phần hóa được tiến hành là do nguyện
vọng của các bên tham gia.
Về tư tưởng và tâm lý của đại đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với
vấn đề mới mẻ này, thậm chí cịn có những phản ứng nhất định đối với những người

đang sống yên ổn trong khu vực nhà nước. Về mặt suy nghĩ, nhiều người làm công tác
lãnh đạo và quản lý nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được quan điểm coi kinh tế nhà
nước là CNXH và vì vậy thu hẹp khu vực này có nghĩa là xa rời với CNXH, là phá vỡ
cơ chế kinh tế CNXH... Đó là những trở ngại chủ quan khơng thể khơng tính đến trong
q trình tiến hành cổ phần hố.
II3. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước trên thế giới và bài học rút ra cho
Việt Nam.
II.3.1. Cổ phần hoá qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Cổ phần hoá DNNN tuy là mới mẻ so với nước ta nhưng trên thực tế hầu hết các
nước phát triển thoe nền kinh tế thị trường đều đã tiến hành. Là một nước đi sau,
chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước và qua đó rút ra bài học cho
q trình cổ phần hố ở nước ta.
* Cổ phần hoá ở các nước tư bản phát triển.
Tiến trình cổ phần hố DNNN được các nước tư bản phát triển (đặc biệt ở Tây
âu) tiến hành mạnh mẽ trong thập kỷ 80. Chính sách cổ phần hố bao trùm ở các nước
này dựa trên quan điểm cho rằng, việc tổ chức đời sống xã hội tuân theo các qui luật


thị trường thương mại hoá sản xuất và cạnh tranh bình đẳng có hiệu quả hơn là tn
theo các quan hệ chỉ huy tập trung và cơ chế hành chính.
Việc cổ phần hố ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển khơng phải là để
xố bỏ những chức năng đặc biệt về kinh tế mà chỉ có khu vực kinh tế nhà nước mới
đảm nhận được mà là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực này. Do đó
chính phủ mỗi nước đã lựa chọn các phương pháp tiến hành cổ phần hố sao cho
khơng làm suy yếu khu vực kinh tế nhà nước, mà trái lại nó đã củng cố địa vị xứng
đáng cho các doanh nghiệp nhà nước.
Xét về qui mô, sau khi tiến hành cổ phần hoá khu vực kinh tế nhà nước ở các
nước cơng nghiệp phát triển có sự thu hẹp theo các chỉ số về tỉ lệ việc làm tỉ trọng vốn
đầu tư tư bản cố định và thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, sự suy giảm này không làm
thay đổi vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực quan

trọng đối với nền kinh tế.
Nét đặc trưng q trình cổ phần hố ở các nước tư bản phát triển là hình thành c
ác công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước, tư nhân hoạt động trên cơ sở thị trường và pháp
luật của nhà nước. Những công ty quốc doanh được đổi mới thành các công ty cổ phần
quan trọng làm cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị này trở lên
năng động.
* Cổ phần hoá ở nhóm các nước đang phát triển.
ở đây chúng ta nghiên cứu kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN ở các nước đang
phát triển châu á. Mục tiêu chính của cổ phần hoá ở các nước này là nhà nước rút khỏi
các lĩnh vực hoạt động xét thấy không cần thiết phải nắm giữ và duy trì sự độc quyền
của nhà nước mà chuyển giao cho khu vực tư nhân, nhằm thực hiện cạnh tranh để nâng
cao hiệu quả, mục tiêu nữa của cổ phần hoá ở các nước này là phát triển thị trường
chứng khoán trong nước. Điều này cho phép cùng với việc bán cổ phần của nhà nước
cho tư nhân, thì việc mở rộng thị trường và huy động vốn qua đăng ký và phát hành cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán cũng đã trở lên phổ biến và do đó số lượng các loại
hình cơng ty cổ phiếu ở các nước này tăng nhanh chóng. Số tiền thu được từ việc bán


cổ phiếu của các DNNN sẽ được bổ sung vào khoản ngân sách giành cho đầu tư vào
cơ sở hạ tầng, và các ngành kinh tế chiến lược mà nhà nước cần kiểm sốt.
* Cổ phần hố ở nhóm các nước XHCN trước đây thuộc Đông Âu.
Khác với các nước phát triển và đang phát triển, nơi có nền kinh tế thị trường khá
phát triển và quá trình cổ phần hoá nhằm hướng vào thúc đẩy các hoạt động của thị
trường sẵn có. Đơi với các nước XHCN cũ ở Đông âu đã trở thành cuộc thử nghiệm
quan trọng đối với các chính phủ mới thành lập, cam kết thực hiện chuyển sang nền
kinh tế thị trường và chuyển sang một hệ thống chính trị dựa trên quyền sở hữu tư
nhân và quyền tự do cá nhân.
Đối với các nước này, việc tiến hành cổ phần hoá và tư nhân hố được đặt trong
một chương trình tư nhân hố rộng lớn, diễn ra một cách ồ ạt, cho nên quá trình này
trở nên hết sức khó khăn và phức tạp, qui mô và phạm vi tiến hành đồ sộ mà thời gian

đòi hỏi ngắn hơn nhiều so với các nước khác, hơn nữa hầu hết các DNNN làm ăn kém
hiệu quả.
II.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam qua kinh nghiệm cổ phần hoá
DNNN ở các nước trên thế giới.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, có thể rút ra một số bài
học cho q trình cổ phần hố DNNN ở nước như sau:
* Tính phổ biến của q trình cổ phần hố.
Việc triển khai có tính chất tồn cầu hố q trình cổ phần hoá được tiến hành
mạnh mẽ từ những năm 80 tới nay đã chứng tỏ rằng hầu hết các chính phủ các nước
đều thấy sự cần thiết phải xác lập lại mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước và khu vực
kinh tế tư nhân theo hướng giảm bớt mức độ sở hưũ và kiểm soát trực tiếp của nhà
nước, giành sự điều tiết mạnh mẽ hơn cho cơ chế thị trường.
Tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam không thể thiếu nội dung cơ cấu lại nền
kinh tế, trong đó đặc biệt quan tâm tới vấn đề thu hẹp sở hữu nhà nước và sự can thiệp
trực tiếp của nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp coi trọng
vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Vì vậy, tiến hành cổ phần hố DNNN ở nước ta


là tất yếu khách quan và cũng là một đòi hỏi khách quan của quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
* Tính đặc thù của q trình cổ phần hố. Q trình cổ phần hố phản ánh các
sắc thái khác nhau vì mục tiêu, các tổ chức, bước đi và các biện pháp cụ thể do những
đặc điểm về hồn cảnh chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước, cũng như quan niệm xây
dựng và phát triển nền kinh tế của mỗi chính phủ qui định. ở các nước có nền kinh tế
thị trường phát triển, nhất là đã có hoạt động mạnh mẽ của thị trường chứng khốn thì
gặp thuận lợi hơn nhiều so với những nước có nền kinh tế thị trường chậm phát triển
và thị trường chứng khoán chưa hình thành. Đặc biệt là ở các nước Đơng Âu do thiếu
những điều kiện hết sức quan trọng cho nên q trình cổ phần hố của các nước này
diễn ra lâu dài và phức tạp hơn nhiều so với các nước tư bản phát triển.
Quá trình cổ phần ở Việt Nam, chúng ta không thể không chú ý đến tính đặc thù

về điều kiện qui định mục tiêu, phương pháp bước đi trong q trình cổ phần hố các
DNNN. Trong điều kiện ở nước ta chưa có thị trường chứng khốn, khu vực kinh tế
nhà nước cịn chiếm tỉ trọng lớn, thì có thể học tập kinh nghiệm của các nước có điều
kiện tương đồng. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng những kinh nghiệm đó cần chú ý
tới tính đặc thù của mỗi nước để sàng lọc và thử nghiệm kỹ càng trong điều kiện của
nước ta.
Tính chiến lược của q trình thực hiện cổ phần hố: Nhiều cơng trình nghiên
cứu về kinh nghiệm của một số nước về vấn đề này đều cho thấy cổ phần hoá là một
bộ phận của q trình cải cách tồn bộ nền kinh tế và vì vậy, nó đỏi hỏi phải được suy
xét và hành động mang tính chiến lược cao. Vì vậy ở hầu hết các nước, để cho chương
trình thực hiện thành cơng, chính phủ đều lập ra cơ quan đại diện đứng đầu hoàn toàn
chịu trách nhiệm đối với vấn đề cổ phần hoá. Cơ quan này phải quản lý tồn bộ q
trình theo những quan điểm có tính chiến lược trong việc đánh giá, soạn thảo chỉ đạo,
kiểm tra và điều chỉnh. Đây là một yếu tố cốt lõi trong sự thành cơng của chương trình
cổ phần hố ở nhiều nước.
Tạo mơi trường pháp lý cho việc cổ phần hoá. Các nước khi tiến hành cổ phần
hoá đều phải tạo ra một môi trường pháp lý cần thiết. Đó là các bộ luật quan trọng và


×