Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Lý thuyết của keynes vai trò kinh tế của nhà nước và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.72 KB, 19 trang )

Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

ĐỀ CƯƠNG SƠ LƯỢC
Đề tài : Lý thuyết của Keynes vai trò kinh tế của nhà nước và sự vận dụng
ở nước ta hiện nay
Chương 1. Sơ lược về lý thuyết của Keynes.
1.1. Tiểu sử của Keynes.
1.2. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của lý thuyến Keynes.
1. 2.1. Hoàn cảnh ra đời .
1. 2.2. Những đặc điểm cơ bản của trường phái Keynes.
Chương 2. Lý thuyết của Keynes về vai trị kinh tế của nhà nước
2.1. Chính sách đầu tư
2.2. Chính sách tài chính tín dụng ,tiền tệ và thuế khóa
2.3. Chính sách tạo việc làm
2.4. Khuyến khích tiêu dùng cá nhân
Chương 3. Sự vận dụng ở nước ta hiện nay về lý thuyết của Keynes về vai trò kinh tế
của nhà nước.
3.1 Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu 2007- 2008
với các gói giải cứu và kích thích kinh tế theo Keynes
3.2.Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam và các gói kích cầu

ở Việt Nam theo ngun tắc của Keynes
3.2.1.Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam

3.2.2.Các gói kích cầu
3.2.2.1.Tác động tích cực của các gói kích cầu
3.2.2.2.Tác động tiêu cực của các gói kích cầu
3.2.2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các gói kích cầu



-1Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

MỞ ĐẦU
Trong hệ thống tư tưởng , trường phái kinh tế , nhiều nhà lý luận đã
đề cập đến vai trò kinh tế của nhà nước .Trong số họ , Keynes là người
đăc biệt đề cao vai trò kinh tế của nhà nước thơng qua các chính sách và
các cơng cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước .Lý luận này của
ông trở thành cơ sở quan trọng cho việc phát huy vai trò kinh tế của nhà
nước trong điều kiện hiện nay .
Ở nước ta , sau đại hội VI ( 12/1986 ) đường lối đổi mới tồn diện
kinh tế ,xã hội đã nhanh chóng được thực hiện .Một trong những nội
dung đổi mới quan trọng nhất là đổi mới cơ chế kinh tế : Chuyển từ có cơ
chế tập trung , quan liêu bao cấp sang cơ chế tập trung nhưng có sự quản
lý vĩ mơ của nhà nước .Do đó ,việc nghiên cứu lý thuyết của Keynes về
vai trò kinh tế của nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát
triển kinh tế xã hội đất nước .Do vậy chúng tôi đã thực hiện đề tài “lý
thuyết của Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước và sự vận dụng ở nước
ta hiện nay .

-2Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước

và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

Chương 1: Sơ lược về lí thuyết của keynes
1.1.Tiểu sử của Keynes
J.M. Keynes sinh ngày 05 tháng 6 năm 1883 tại Cambridge (Anh)
trong một gia đình có văn hố và được chăm sóc đầy đủ. Bố ơng là John
Neville Keynes, làm giảng viên trường đại học Cambridge, dạy môn
logic và kinh tế chính trị học. Mẹ ơng tên là Florence Ada, một trong
những người phụ nữ đầu tiên tốt nghiệp trường đại học Newham. Bà
cũng là người phụ nữ đầu tiên trở thành cố vấn cho thị trưởng
Cambridge. Năm 1932, bà được bầu làm thị trưởng và nổi tiếng về chủ
nghĩa nữ quyền.
Năm 14 tuổi, ông vào trường đại học Eton, một trường chuyên đào tạo ra
những nhân vật ưu tú của nước Anh. Khi học ở đây, ông đạt tồn điểm ưu
nên năm 1902, ơng được chuyển về học tại Học viện Hoàng gia thuộc
trường Đại học Cambridge và học chun về mơn tốn. Sau khi tốt
nghiệp, ơng tiếp tục ở lại trường Cambridge học thêm triết học và kinh tế
học.
Năm 1906, ông vào làm việc ở Bộ Sự vụ Ấn Độ của Chính phủ trong 2
năm. Năm 1908, ông nhận lời mời của A. Marshall về làm việc tại Học
viện hoàng gia thuộc trường đại học Cambridge, giảng dạy nguyên lý
kinh tế chính trị học và lý luận về tiền tệ, cùng năm đó, ơng biên soạn
cuốn sách: "Bàn về sắc suất", nhờ đó ơng trở thành cán bộ nghiên cứu
của Học viện hoàng gia của trường. Từ đó về sau, ơng vừa giảng dạy ở
trường Đại học Cambridge, vừa phục vụ Chính phủ hoặc giới tài chính
tiền tệ cho đến năm 1942.
Năm 1909, ông sáng lập ra câu lạc bộ kinh tế chính trị học và đạt giải
thưởng Adam Smith do viết cuốn "Phương pháp xây dựng chỉ số". Trong

suốt thời gian dài từ năm 1911 đến 1944, ơng kiêm chức chủ nhiệm "Tạp
chí kinh tế" của Hiệp hội kinh tế Hoàng gia. Từ năm 1913 đến 1914, ông
giữ chức thư ký uỷ ban tiền tệ và tài chính Ấn Độ của hồng gia. Năm
1914, nước Anh bước vào cuộc chiến, ông trở thành một chuyên gia tin
cậy của Sở kho bạc, ông đã hoạt động cuồng nhiệt đến kiệt sức để giải
quyết vấn đề cấp tài chính cho chiến tranh.

-3Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ông chuyển từ luôn luôn được trọng
dụng và đề bạt. Năm 1919 là trưởng đồn đại biểu tài chính tham dự Hội
nghị Hồ ước Versailles ở Paris, nhưng do ý kiến bất đồng, nên ơng tách
khỏi đồn đại biểu Anh. Sau khi về Cambridge, với nỗ lực bản thân, ông
thành lập "Hệ kinh tế học đo lường". Từ năm 1921 đến năm 1938, ông
hoạt động đầu tư tiền tệ và trở thành thương gia giàu có, đồng thời kiêm
chức Hội đồng quản trị Cơng ty Hỗ trợ bảo hiểm nhân thọ tồn quốc.
Năm 1925, ơng kết hơn với nữ diễn viên chính Liubovskaia của đoàn ba
lê Nga, sinh được 02 người con. Năm 1930, ông giữ chức vụ Chủ tịch Uỷ
ban cố vấn kinh tế nội các.
Trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông lại là thành viên chủ
yếu của Uỷ ban tư vấn của Bộ Tài chính, trở thành nhân vật có tác dụng
hết sức quan trọng của giới tài chính Anh trong thời chiến.
Từ năm 1941 trở đi, ông công tác tại Ngân hàng Anh. Năm 1942, ông
được phong làm nam tước Tilton (Lord Keynes of Tilton). Năm 1944,

ơng dẫn đầu đồn đại biểu của Anh đến Mỹ tham dự Hội nghị tài chính
tiền tệ quốc tế, trong hội nghị này, ơng đã có tác dụng rất quan trọng, ơng
đã tích cực vạch kế hoạch lập hai tổ chức là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và
Ngân hàng thế giới về tái thiết và phát triển (tức Ngân hàng thế giới - WB
ngày nay) do ông làm thống đốc. Ông mất năm 1946 do bệnh tim, thọ 63
tuổi.
J.M. Keynes viết nhiều tác phẩm, tác phẩm đầu tiên "Tiền tệ và tài chính
Ấn Độ", "Hậu quả kinh tế của hoà ước" năm 1919, "Thuyết cải cách tiền
tệ" năm 1923, "Hậu quả kinh tế của ngài Churchill" năm 1925, "Thuyết
tiền tệ" năm 1930. Năm 1926, ông phát biểu bài "Sự kết thúc của chủ
nghĩa tự do thả nổi". Năm 1933, ông phát biểu bài "Con đường đi tới
phồn vinh". Năm 1936, ông xuất bản cuốn "Lý thuyết tổng quát về việc
làm, lãi suất và tiền tệ". Sau khi tác phẩm được công bố đã diễn ra một
cuộc tranh luận kịch liệt, những người tranh luận đều công nhận phương
pháp tư tưởng mới của ông. "Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và
tiền tệ" diễn đạt toàn diện nhất tư tưởng kinh tế của Keynes. Giới kinh tế
học phương Tây đánh giá quyển sách đã dẫn đến một cuộc cách mạng
của Keynes trong kinh tế học.
J.M. Keynes được các học giả phương Tây coi là người có tính sáng tạo,
ông là nhà kinh tế học cả ảnh hưởng lớn nhất đối với kinh tế học phương
Tây hiện đại và chính sách kinh tế của các Chính phủ.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, ở các nước phương Tây, khủng hoảng
kinh tế diễn ra thường xuyên, tình trạng thất nghiệp trở nên nghiêm trọng.
-4Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10


Lý thuyết kinh tế của trường phái cổ điển và trường phái tân cổ điển, mà
nội dung cơ bản của nó là sự điều tiết của cơ chế thị trường sẽ đưa nền
kinh tế đến sự cân bằng, không cần có sự can thiệp của Nhà nước vào
kinh tế đã khơng thể giúp ích cho việc khắc phục khủng hoảng và thất
nghiệp. Lý thuyết kinh tế tự điều chỉnh bị thất bại trước thực tế phũ
phàng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đặc biệt một cuộc đại khủng
hoảng kinh tế năm 1929 - 1933 đã làm tan rã tư tưởng tự do kinh tế.
Mặt khác, vào đầu thế kỷ XX, lực lượng sản xuất và sự xã hội hoá sản
xuất phát triển, độc quyền ra đời và bắt đầu bành trướng thế lực. Trước
tình hình đó địi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà nước đối với sự phát
triển kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa. Vì thế, lý thuyết kinh tế "Chủ
nghĩa tư bản có điều tiết" ra đời, sáng lập ra nó là John Maynard Keynes.
Sau khi Keynes mất, làm thế nào để kế thừa và phát triển tư tưởng của
Keynes, các nhà kinh tế học theo học thuyết Keynes đều đưa ra sự kiến
giải của mình, đặc biệt là sau khi áp dụng rộng rãi học thuyết Keynes đã
nảy sinh hàng hoạt vấn đề mới, nạn thất nghiệp và lạm phát xảy ra cùng
một lúc, mỗi người một ý, tranh cãi liên miên và hình thành cái gọi là
"học thuyết hậu Keynes", "học thuyết Keynes mới", "học thuyết Keynes
hiện đại". Việc sửa đổi, bổ sung lý thuyết của Keynes chủ yếu biểu hiện:
Phát triển việc phân tích trạng thái tĩnh, ngắn hạn sang phân tích trạng
thái động, dài hạn; lấy phân tích q trình bổ sung cho việc phân tích
bình qn; lấy nguyên lý gia tốc bổ sung cho nguyên lý số nhân; đưa ra
các loại thuyết giao động kinh tế và tăng trưởng kinh tế, cụ thể hố các
chính sách kinh tế; phác hoạ ra con đường tăng trưởng ổn định.
1.2.Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của lí thuyết keynes
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời
Vào những năm 30 của thế kỉ hai mươi tình hình kinh tế chính trị
thế giới cũng như ở nước Anh có nhiều biến đơng lớn .Chủ nghĩa tư bản
phát triển một cách nhanh chóng ,lực lượng sản xuất phát triển mạnh cả

về quy mơ trình độ với tính xã hội hóa ngày càng cao.Với sự phát triển
mạnh mẽ đó của chủ nghĩa tư bản thì địi hỏi phải có sự can thiệp của nhà
nước vào nền kinh tế.
các mâu thuẫn kinh tế xã hội diễn ra ngày càng gay gắt .Khủng hoảng
kinh tế , thất nghiệp lạm phát xảy ra và ngày càng trở nên nghiêm trọng
hơn.. Điều này đã chứng tỏ “học thuyết tự điều chỉnh”của trường phái cổ
điển mới,lý thuyết bàn tay vơ hình của A.smith ,và cân bằng tổng quát
của walras đã không cịn phù hợp với tình hình mới nữa .
Trước những hàng loạt các vấn đề của kinh tế thị trường ,chủ nghĩa tư
bản đứng trước nguy cơ sụp đổ . Điều này được đặt ra nhu cầu thực tiễn
là phải có một học thuyết kinh tế mới ra đời để bảo vệ chủ nghĩa tư bản
-5Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

đang gặp rất nhiều khó khăn.,giúp chủ nghĩa tư bản thốt khỏi khủng
hoảng .
Cuối cùng là sự thành cơng của lý thuyết mark và nền kinh tế kế hoạch
hóa trong thực tiễn ở liên xô vừa bắt bắt buộc vừa tạo tiền đề cho các nhà
tư sản nghĩ tới sự can thiệp nhiều hơn của nhà nước vào nền kinh tế .
Tất cả những hồn cảnh đó đã dần tới sự ra đời ls thuyết của trường phái
keynes
1.2.2 .Những đặc điểm cơ bản của trường phái keynes
1. 2.2.1. Đặc điểm về nội dung
Thứ nhất , đối lập với lí thuyết của trường phái cổ điển keynes không
ủng hộ quan điểm tự do kinh tế về sự cân bằng của nền kinh tế dựa trên

sự tự điều tiết của thị trường mà khơng có sự can thiệp của nhà nước .
Ơng cho rằng sự khủng hoảng kinh tế đang diễn ra ngày càng trầm trọng
không phải là hiện tượng nội sinh của chủ nghĩa tư bản mà là do thiếu sự
can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế .Theo ông vấn đề nan giải nhất
của chủ nghĩa tư bản không phải là lạm phát hay khủng hoảng mà là vấn
đề thất nghiệp và việc làm.Do đó trong lý thuyết của ông tập trung giả
quyết hai vấn đề chính là tăng trưởng và việc làm dựa trên cơ sở là sự
điều tiết của nhà nước .
Thứ hai., ông chỉ ra rằng điều kiện đảm bảo cho tái sản xuất bình
thường thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giải quyết khủng hoảng và thất
nghiệp là đầu tư bằng tiết kiệm khuyến khích đầu tư và giảm tiết kiệm.
Thứ ba ,lý thuyết của keynes là lý thuyết trọng cầu .Ơng đánh giá vai
trị của tiêu dùng của lĩnh vực trao đổi ,coi đây là nhiệm vụ số một mà
các nhà kinh tế học phải giải quyết .Theo ơng khi việc làm tăng lên thì
thu nhập cũng tăng lên do đó có sự tăng lên của tiêu dùng .Tuy nhiên do
khuynh hướng tâm lí nên mức tăng tiêu dùng nhỏ hơn mức tăng của thu
nhập làm cho cầu có hiệu quả bị giảm xuống .Đây là nguyên nhân gây ra
khủng hoảng ,thất nghiệp trì trệ trong nền kinh tế tư bản chủ nghiã.do đó
muốn đảm bảo phát triển sản xuất ,cân bằng cung cầu thì phải tăng tiêu
dùng ,thực hiện các biện pháp kích cầu có hiệu quả.
1.2.2.2. Đặc điểm về phương pháp luận
Thứ nhất, phương pháp phân tích của keynes dựa trên cơ sở tâm lý chủ
quan.Nhưng khác với trường phái cổ điển mới dựa vào tâm lý cá biệt thì
ơng dựa vào tâm lý chủ quan xã hôi.
Thứ hai, ngược với các nhà cổ điển mới ơng phân tích nền kinh tế với
những đại luợng vĩ mơ có hệ thống .Theo ơng việc phân tích kinh tế phải
xuất phát từ các tổng lượng lớn để nghiên cứu mối quan hệ giữa các tổng
lượng đó và khuynh hướng chuyển biến của chúng .Trên cơ sở đó có thể
rút ra những kết luận vận dụng cho từng đơn vị cá biệt trong nền kinh tế .


-6Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

Chương 2: Lý thuyết của Keynes về vai trò kinh tế của
nhà nước
2. 1.Chính sách đầu tư
Keynes cho rằng : Để thốt khỏi khủng hoảng và giải quyết việc
làm thì trước hết nhà nước phải có một chương trình đầu tư lớn với hai
nội dung chính:
• Nhà nước phải trực tiếp đầu tư vào các chưong trình cơng
cộng bằng ngân sách nhà nước dể thu hút việc làm.
• Nhà nước phải thơng qua các chính sách và cơng cụ để
khuyến khích tư nhân đầu tư thơng qua các đơn đặt hàng của
nhà nước,hệ thống thu mua của nhà nước ,trợ cấp của nhà nước
về tài chính tín dụng....
Mục đích của các chương trình đầu tư lớn này của nhà nước là nhằm
sử dụng số tư bản nhàn rỗi và lao động thất nghiệp.Số người được tuyển
vào làm việc mới khi nhận được thu nhập sẽ lại tham gia vào thị trường
tiêu dùng hàng hóa .Do đó cầu hàng hóa tăng làm cho giá cả hàng hóa
tăng dẫn đến hiệu quả của tư bản đầu tư cũng tăng theo. Điều này sẽ
khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất .Từ đó sẽ tạo ra nhiều
việc làm hơn giải quyết được vấn đề thất nghiệp cũng như tăng trưởng
kinh tế và đẩy lùi khủng hoảng kinh tế.
2. 2.Chinh sách tài chính tín dụng ,tiền tệ và thuế khóa
Theo Keynes vai trị của hệ thống tài chính tiền tệ tín dụng ,thuế là

hết sức quan trọng . Đây là những công cụ điều tiết vĩ mơ nền kinh tế rất
có hiệu quả .
theo ông để đạt được mục tiêu sử dụng hệ thống tài chính tín dụng tiền tệ
nhằm kích thích doanh nhân đầu tư thì phải tăng thêm tiền mặt vàolưu
thơng ,thực hiện “lạm phát có điều tiết” một mặt tăng khối lượng tiền
trong lưu thông để giảm lãi suất cho vay khuyến khích doanh nhân đầu tư
mở rộng sản xuất .Mặt khác lạm phát khi khối lượng tiền tệ trong lưu
thơng tăng và có lạm phát giá cả hàng hóa sẽ tăng lên do đó lợi nhuận của
nhà tư bản sẽ tăng nếu chi phí chưa thay đổi .Ơng chủ chương in thêm
tiền giấy để cấp phát cho ngân sách nhà nước hoạt động và bù dắp những
thiếu hụt của ngân sách nhà nước, đây là nguồn bổ sung ngân sách cho
những hoạt động đầu tư của nhà nước.
Ông chủ chương sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế. Ông
chủ chương tăng thuế đối với người lao động để tăng ngân sách nhà nước
từ đó tăng đầu tư .Còn giảm thuế đối với các doanh nhân để khuyến
khích họ đầu tư mở rộng sản xuất.

-7Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

2.3.Chính sách tạo việc làm
Đối với keynes, cân bằng tiết kiệm và đâu tư không phải là vấn đề
đơn giản với nền kinh tế mà được quyết định bằng nhiều yếu tố phức tạp
ngồi lãi suất ra, và khơng có đảm bảo rằng hai yếu tố nhất thiết bằng
nhau ở mức hoạt động kinh tế tạo ra việc làm vừa đủ.

Keynes lập luận, thất nghiệp chỉ có thể giải quyết hiệu quả bằng việc
vận dụng tổng cầu. công nhân sẵn sàng chấp nhận việc tăng giá gây ra từ
tăng cầu,dựa vào mức lương danh nghĩa ổn định. Tăng nhu thế sẽ làm
giảm tiền lương danh nghĩam, qua đó kích thích việc làm. Keynes xoay
quanh đề xuất của phái cổ điển: việc làm không tăng, bằng cách giảm tiền
lương thực tế, nhưng tiền lương thực tế giảm vì việc làm tăng do tăng
tổng cầu.
Keynes không xem cơ cấu kinh tế của bộ phận tư nhân như một dự
phòng đảm bảo an toàn chống lại nạn thất nghiệp kéo dài. Sự cân bằng có
thể tồn tại ở việc làm đủ có ít hơn. Sự tồn tại của tiền lương và giá cả
thay đổi đi xuống sẽ khơng đảm bảo có đủ việc làm. Vì những hạn chế
khác, nghĩa là những nhu cầu hình thức đầu cơ tiền mặt và hàm đầu tư,
chính sách tiền tệ không hữu ich theo dự án.Keynes lập luận trên cơ sở lý
thuyết của ơng cho rằng chính phủ nên sử dụng quyền hạn để đánh thuế
và chi tiêu để ảnh hưởng chu kỳ kinh doanh. Chi tiêu của chính phủ là
khoản đầu tư cơng cộng bơm thêm vào dịng chảy thu nhập. chi tiêu của
chính phủ có thế được lấy từ đánh thuế(làm giảm tiêu dùng, nhưng ít hơn
số thuế đánh), bằng việc bán trái phiếu cho quỹ dự trữ liên bang, hay
bằng những biện pháp khác. ảnh hưởng sinh ra từ việc làm và thu nhập
của tất cả những biện pháp thay thế này phải đánh giá, và sau đó phải có
hành động đạt đến sự ổn định kinh tế.
Keynes không nghĩ khoản tiền đầu tư bơm vào đơn giản hay “kích thích
kinh tế” là đủ.điều cần phải có là chương trình quy mơ rộng và có kế
hoạch trong chính sách tài chính nhiệm ý cũng tăng cường những yếu tố
ổn định có sẵn(như đành thuế luỹ tiến). tóm lại, chính phủ phải sẵn sàng
cung cấp điều kiện để có đủ việc làm. Thơng điệp kinh tế cơ bản của
Keynes đã rõ.
2.4.Khuyến khích tiêu dùng cá nhân
Keynes khơng bất đồng việc người ta nắm tiền vì mục đích giao dịch hay
nhu cầu giao dịch liên quan đến thu nhập. thế nhưng ông lập luận rằng cá

nhân nắm tiền ít nhất vì lý do quan trọng khác-đầu cơ vào thị trường trái
phiếu. nói cách khác, Keynes lập luận, họ nắm tiền để đầu cơ vào thị
trường trái phiếu.
Ông cho rằng lãi suất sẽ giảm thấp đến mức(giá trái phiếu quá cao) làm
cho mọi người tin rằng trái phiếu là đầu tư khơng phù hợp. tóm lại, tất cả
đều muốn nắm giữ nhiều tài sản bằng tiền mặt hơn, xã hội xem việc nắm
giữ trái phiếu là không an toàn và nắm giữ số dư tiền mặt thay vì mục
-8Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

đích đầu cơ.
Keynes cho rằng mặc dù lãi suất được quyết định bằng sự kết hợp các
yếu tố thực và tiền tệ trong hệ thống kinh tế, sự tồn tại của nhu cầu đầu
cơ tiền có nghĩa là cơ cấu qua đó tiền ảnh hưởng tới thu nhập và việc làm
trong hệ thống kinh tế khơng giản đơn và có thể dự đoán như các nhà
kinh tế học cổ điển thường nghĩ. Một trong những tác động của tiền tệ và
chi tiêu, thu nhập, việc làm là thông qua ảnh hưởng của nó đối với lãi
suất. lãi suất thấp khiến tiêu dùng hiện tại hấp dẫn hơn so với chi tiêu
dùng kỳ hạn, nghĩa là tiết kiệm. điển hình, chính sách tiền tệ làm giảm lãi
suất và bằng cách này làm tăng chi tiêu.

Chương 3: Sự vận dụng ở nước ta hiện nay về lý thuyết của
Keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
3.1.Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu 20072008 với các gói giải cứu và kích thích kinh tế theo Keynes
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ bắt đầu xảy ra từ tháng 8-2007 sau

đó đã lan khắp các thị trường tài chính lớn trên thế giới. Chỉ trong vịng
12 tháng của 2008 đã làm bốc hơi trên 30 ngàn tỉ USD trong tổng số 62
ngàn tỉ USD vốn hóa tồn cầu. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, thế giới
bước vào một cuộc suy thối kinh tế được ví là nghiêm trọng nhất trong
vịng gần 100 năm qua. Chính phủ các nước khơng thể khoanh tay đứng
nhìn. Hàng loạt các gói giải cứu lên đến cả ngàn tỉ USD ở hầu khắp các
nước trên thế giới đổ ra khiến cho người ta nhớ đến một nhà kinh tế vĩ
đại của những năm 30 của thế kỷ trước:John Maynard Keynes .
Nhìn lại các gói kích cầu lên tới cả ngàn tỉ USD của Mỹ, gần 600 tỉ USD
của Trung Quốc, hàng trăm tỉ USD của Nhật Bản và Châu Âu, người ta
thấy các biện pháp để xử lý tình huống chặn đà suy giảm tăng trưởng của
chính phủ các nước này, về cơ bản, vẫn là chính sách tài khóa và chính
sách tín dụng theo các nguyên tắc của Keynes. Về chính sách tài khóa,
các chính phủ chủ trương giảm thuế để hỗ trợ tái đầu tư cho các nhà sản
xuất, thực hành tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mở rộng các dịch vụ công
và trợ cấp cho các khu vực thu nhập thấp, dễ tổn thương nhằm tạo cầu
nội địa, đảm bảo an sinh xã hội và giảm thiểu các xung đột xã hội, thậm
chí có thể chấp nhận cả thâm hụt ngân sách để mở rộng thị trường nội địa
– một sự bù đắp khoảng sụt giảm đột ngột của thị trường xuất khẩu. Do
đó, sau các gói giải cứu mang tính chất tình thế, các chính phủ tiếp tục
gia tăng các gói kích cầu nhằm tạo đà cho tăng trưởng khi đã chạm tới
-9Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

điểm uốn tại đáy của cuộc khủng hoảng. Cũng tương tự như vậy, chính

sách tín dụng rẻ với mức lãi suất thấp nhất so với nhiều chục năm qua,
hiện đã trở thành đặc trưng phổ biến trong chính sách tiền tệ của các quốc
gia. Chính phủ các nước tạo mọi điều kiện để mọi chủ thể tiếp cận dễ
dàng các nguồn tín dụng, chủ trương hỗ trợ lãi suất theo hướng tăng tổng
dư nợ tín dụng nhằm khởi động lại cầu tiêu dùng và cầu đầu tư nội địa.
Nói cách khác, với việc tiền được bơm ra như cái phao cứu sinh cho các
nền kinh tế, ngay cả trong tình trạng khơng dễ kiểm sốt, có vẻ người ta
đã coi tiền tệ và tín dụng là cơng cụ vạn năng điều tiết nền kinh tế giống
như Keynes đã quan niệm.
Sự thực là các gói kích cầu đó mang lại hiệu quả rõ rệt cho các nền kinh
tế. Các nền kinh tế chủ chốt bước đầu ngăn chặn được đà suy giảm tăng
trưởng. Đầu tư của nhà nước và nhu cầu nội địa tăng đã giúp kinh tế
Trung Quốc ra khỏi giai đoạn giảm tăng trưởng kéo dài 8 quý liên tiếp từ
nửa đầu năm 2007, bất chấp động lực xuất khẩu bị thiệt hại nặng nề do
sức cầu từ các thị trường bên ngồi sụt giảm mạnh. Trong khi đó, các chỉ
số kinh tế chính của các nền kinh tế Mỹ, EU và Nhật Bản đồng loạt
chuyển hướng đi lên từ tháng 3 – 4, báo hiệu chu kỳ suy giảm ở các nền
kinh tế này có khả năng sẽ kết thúc trong khoảng tháng 9 đến tháng 102009.
Những thành quả trên đây cho thấy, các nguyên lý của Keynes vẫn có vai
trị tác dụng chặn đà suy giảm kinh tế, nhất là trong các tình huống “sốc”,
ngắn hạn. Hiện tại, dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế thế giới vẫn còn
yếu ớt và chưa vững chắc. Điều này cịn bị quy định bởi tính chất của
cuộc khủng hoảng lần này, đó là sự bùng nổ đồng thời của khủng hoảng
chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu và khủng hoảng về thể chế kinh tế. Theo đó,
các giải pháp của Keynes sẽ là khơng đủ và nó sẽ khơng có tác động tích
cực nếu chính phủ các nước khơng nhân cơ hội này tái cấu trúc lại nền
kinh tế của mình và nỗ lực phối hợp tồn cầu để đưa nền kinh tế thế giới
ra khỏi suy thối. Đó là chưa kể sau các giải pháp này, các nền kinh tế sẽ
phải đối mặt với nguy cơ rơi vào “bẫy thanh khoản” trì trệ kéo dài khi
chính sách tiền tệ “hết dư địa” – lãi suất cơ bản đã ở sát mức 0%. Việc

các chính phủ phụ thuộc quá mức vào cơng cụ tài khóa để duy trì tăng
trưởng sẽ khiến thâm hụt ngân sách tăng cao, có thể kéo theo những hệ
lụy nghiêm trọng như thuế tăng, lãi suất dài hạn lên cao, gia tăng lạm
phát tiền tệ, làm đình trệ hoạt động kinh doanh, thậm chí có thể gây vỡ
nợ quốc gia. Nguy cơ đình trệ – lạm phát của kinh tế thế giới do lượng
tiền cung ra q lớn trên tồn cầu hồn tồn có thể xảy ra như đã từng
xảy ra trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước. Cũng tương tự như vậy, khả
năng giá năng lượng và nguyên liệu tăng cao trở lại cũng là một nguy cơ

- 10 Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

cản trở q trình phục hồi kinh tế tồn cầu. Tại sao vậy? Chúng ta có thể
giải thích các hệ lụy này trên một số lý do sau đây:
Thứ nhất, như lịch sử đã chứng minh, việc vận dụng những nguyên tắc
của Keynes là nguyên nhân của tình trạng trì trệ và lạm phát diễn ra đồng
thời suốt thập kỷ 70. Hay nói cách khác, tình trạng đình trệ – lạm phát
tiến thoái lưỡng nan trong nền kinh tế các nước công nghiệp giai đoạn
1974 – 1983 là do sự vận hành lâu dài và quá mức theo các quan điểm
điều chỉnh kinh tế của chủ nghĩa Keynes. Các nội dung trong hệ thống
điều tiết của Keynes như: cho vay tín dụng, cấp phát tài chính theo
nguyên tắc thiếu hụt của chính phủ và ngân hàng trung ương đã mở hết
tốc độ, khiến cho cùng lúc giá cả tăng vọt trong khi đó, sức lao động và
năng lực sản xuất lại không được huy động và vận hành một cách hiệu
quả. Các biện pháp của chính phủ, về thực chất, chỉ mới dừng lại ở các

biện pháp đối phó tình hình. Cụ thể là để khắc phục suy thối, các biện
pháp vẫn chỉ là tăng chi ngân sách, tín dụng rẻ, mở rộng thị trường công
và để khắc phục lạm phát như là điều đe dọa mới, các biện pháp lại là
thắt chặt tín dụng, giảm chi ngân sách và tăng thu nhà nước. Trong bối
cảnh ấy, ngay cả khi đã có chú ý đến việc kết hợp với các chính sách thu
nhập, chính sách chống chu kỳ và chính sách phát triển dài hạn, tình
trạng đình – lạm của nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục kéo dài hơn một
thập kỷ. Như vậy, cũng có thể nói do lạm phát và suy thoái diễn ra đồng
thời, các biện pháp điều tiết theo Keynes đã biểu hiện ra như con lắc
thường xuyên giao động từ lạm phát sang giảm phát và ngược lại. Điều
này chứng tỏ lý thuyết Keynes có những hạn chế khơng thể vượt qua từ
chính trong bản chất và đặc trưng của nó. Thực tiễn này là một cảnh báo
cho những ai ưa thích và đơn giản hóa khi vận dụng Keynes
Thứ hai, những giải pháp của chủ nghĩa Keynes khơng phải đã phù hợp
hồn tồn với việc ứng phó cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu
2008 bởi các lẽ: 1) thiếu hụt cầu hiện nay khơng mang tính cục bộ, khu
biệt trong các nền kinh tế công nghiệp phát triển như cuộc khủng hoảng
1929 – 1933 mà là trên toàn bộ chỉnh thể của nền kinh tế thế giới; 2) tín
dụng rẻ, dưới chuẩn và dễ tiếp cận trong gần một thập kỷ qua cũng như
sự ủng hộ tài chính vơ hạn từ chính phủ đối với các tập đồn tư nhân là
nguyên nhân tích tụ các khoản nợ xấu, gây mất khả năng thanh toán của
các ngân hàng và các tập đồn đầu tư tài chính, trước hết là ở Mỹ và sau
đó lây lan ra tồn thế giới và trong bối cảnh ấy, mọi giải pháp chống suy
thoái theo các chính sách tín dụng trước đây sẽ rất ít hiệu quả, có thể làm
trầm trọng và rối loạn thêm thị trường tài chính – tiền tệ; và 3) các giải
pháp kích cầu bằng chính sách tài khóa sẽ có tác động, nhất là chính sách
giảm thuế, mở rộng cầu tiêu dùng và đầu tư, chú trọng duy trì sản xuất,
việc làm đầy đủ nhưng trong điều kiện đẩy mạnh toàn cầu hóa và hội

- 11 Lịch sử các học thuyết kinh tế



Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

nhập kinh tế quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau sâu sắc giữa các nền kinh tế
sẽ đưa đến 2 tình huống: a) gói kích cầu sẽ khơng tác dụng nếu không đạt
tới sự đồng bộ quốc tế và khu vực, rất có thể sự hỗ trợ này sẽ mang lại
hiệu quả tích cực cho các nước bên ngồi; và b) gói kích cầu có khuynh
hướng kích cầu nội địa và để đưa nền kinh tế của mình ra khỏi suy thối,
các nước sẽ bất chấp tiến trình tự do hóa, bất chấp các cam kết với WTO,
sẽ chủ trương bảo hộ mạnh mẽ thị trường trong nước. Rốt cuộc, các giải
pháp tình thế, ngắn hạn đã vơ hình chung trở thành vật cản ngáng trở tiến
trình tự do hóa và tồn cầu hóa với tính cách là xu thế phổ biến của sự
phát triển toàn cầu hiện nay. Do đó, có thể nói các giải pháp theo Keynes
có thể tạo nguy cơ đi ngược tiến trình tự do hóa.
Thứ ba, như trên đã chỉ ra, về mặt ngắn hạn, để chặn đà suy giảm, người
ta khơng cịn cách nào khác là phải mở rộng cầu hiệu quả (cả cầu đầu tư
và cầu tiêu dùng) cho nền kinh tế nhưng là cầu hiệu quả trên quy mơ tồn
cầu và vấn đề đặt ra chính là gia tăng trách nhiệm và chia sẻ trách nhiệm
toàn cầu của các nền kinh tế lớn và chủ yếu (cơ chế G-2: Mỹ và Trung
Quốc; nhóm G-7 và G-20) và sự nỗ lực của mọi quốc gia, thúc đẩy sự
phối hợp và hợp tác toàn cầu để chống lại sự co rút quá mạnh của các
động lực tăng trưởng. Về mặt dài hạn, xét theo thực chất của cuộc khủng
hoảng, đây không thuần túy là khủng hoảng chu kỳ mà còn là cuộc khủng
hoảng về mặt cơ cấu (một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu bùng nổ quá
mức các ngành dịch vụ dựa trên sự phát triển rất mạnh của công nghệ
mới và tri thức trong khi đại bộ phận khác vẫn phát triển các ngành công

nghiệp tiêu dùng nhiều vốn, lao động và tài ngun và chính vì sự bất đối
xứng về cầu trên quy mơ tồn thế giới đã đưa các quốc gia trở lại tự tạo
cầu cho một năng lực sản xuất dư thừa nhưng lại thiếu đầu ra do chính sự
lựa chọn cách thức phát triển của mình cung ứng). Các nền kinh tế hướng
về xuất khẩu, nếu không cơ cấu lại theo hướng giảm sự lệ thuộc từ bên
ngồi, phát huy lợi thế so sánh để có giá trị gia tăng cao, rất có thể bị suy
sụp trước các rủi ro khó lường của nền kinh tế thế giới. Đồng thời, đây
còn là cuộc khủng hoảng về thể chế khi sự bng lỏng vai trị định
hướng, sự xem nhẹ chức năng giám sát của nhà nước đã và đang khiến
cho thị trường và hệ thống tài chính của các nước chao đảo. Chưa bao giờ
trong khoảng 40 năm nay người ta lại bàn nhiều đến vấn đề định vị lại
mối quan hệ giữa vai trò nhà nước và nền kinh tế thị trường trong bối
cảnh mới. Sự thật là chưa biết điều gì sẽ xẩy ra nếu khơng có sự cứu trợ
của các nhà nước đối với cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế hiện nay.
Nhưng sẽ là rất nguy hiểm nếu sau sự kiện này, sự can dự của nhà nước
sẽ được tăng cường mạnh và khuynh hướng bảo hộ của các quốc gia sẽ
trở thành chủ đạo và theo đó, kinh tế thị trường theo hướng tự do hóa sẽ
bị cản trở. Nói cách khác, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch sẽ lại hiện hữu –
một lực cản to lớn nhất đối với lô-gic phát triển của nền kinh tế thế giới
- 12 Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

hiện đại. Cũng bởi vậy, vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế cũng như thể chế
kinh tế toàn cầu rất cần một lý thuyết mới và khác với lý thuyết Keynes,
cho dù Keynes ngày nay đã mang hình hài của một Keynes mới –

“Keynes toàn cầu”.
3.2.Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam và các
gói kích cầu ở Việt Nam theo nguyên tắc của keynes
3.2.1.Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam
Với tình hình khủng hoảng kinh tế trên tồn thế giới như vậy, là một bộ
phận cấu thành của nền kinh tế thế giới, vả lại ngày nay kinh tế nước ta
đã hội nhập khá sâu với nền kinh tế thế giới, chúng ta khơng thể khơng
tính đến những tác động sâu xa, mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng toàn cầu
đối với Việt Nam, không thể không nghĩ tới một số vấn đề nảy sinh đối
với nước ta.
Thị trường chứng khoán, nguồn vốn đầu tư hơn 90% vào nền kinh tế
VN đã sụp đổ hồn tồn từ hơm 25.03.2008 với cơ mai hồi phục khơng
cịn, chỉ số VN-Index từ 1.200 điểm rơi thẳng đứng liên tục trong nhiều
phiên giao dịch của nhiều ngày qua xuống còn chỉ còn dưới ngưỡng chết
500 điểm, trong khi các nhà đầu tư sự thật khơng cịn lịng tin vào thị
trường và nền kinh tế do một chính thể cộng sản điều hành. Thị trường
chứng khoán Việt Nam đã đổ vỡ.
Sản xuất của tất cả các ngành kinh tế đều bị tê liệt do không còn vốn
và nhiều tác động khác của kinh tế, xã hội và nhất là chính trị tác động.
Thâm thủng mậu dịch tăng cao. Lạm phát tăng cao và đang diễn ra từng
ngày ở Việt Nam…
Giá lương thực thực phẩm tăng theo từng giờ, với mức tăng cao và
nhanh, uy hiếp đời sống của tuyệt đại đa số người dân, chỉ trừ quan tham
cộng sản đã no túi .
Lòng tin của các nhà đầu tư và mọi người dân Việt Nam kể cả công
nhân viên chức bộ máy quản lý nhà nước, các ngành kinh tế, và đặc biệt
là đông đảo công chức ngành giáo dục và y tế vốn ăn lương và chịu thiệt
nhiều nhất do gá cả tăng nhanh đã khơng cịn tin tưởng vào chính thể
cộng sản đang hoành hành đất nước, với quốc nạn tham nhũng mà hậu
quả “nhãn tiền” đang đến.

Khơng thốt khỏi qui luật, nền kinh tế của Việt Nam với những biến
động nhanh chóng và dồn dập thời gian gần đây, chỉ trong vòng 1 tháng,
nhất là sau tết Mậu Tý. Từ việc giá cả tăng cao đột biến, với mức giá tiêu
dùng sinh hoạt của chợ búa, thịt cá rau cải …tăng trung bình là 50%; giá
bất động sản nhà đất tăng gấp 3 lần (có nơi lên đến 7.000 USD/m2 sàn sử
dụng), giá vàng lên cao trên 18 triệu 200 ngàn/ lượng. Lãi suất cho vay

- 13 Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

trên thị trường liên ngân hàng lên đến mức chóng mặt từ hơn 10% năm
đã lên đến trên 40% năm.
Không có đủ tiền mặt để lưu thơng và thanh khoản tại tất cả ngân
hàng trong nước. Ngân hàng nhà nước đã bơm ra thị trường qua hệ thống
ngân hàng và thanh toán trên 60.000 Tỷ VNĐ tiền mặt trong thời gian
gần đây nhưng cũng khơng cứu vãn được tình hình ngày một bi đát
hơn…và sẽ “ hết thuốc chữa “
Tất cả đó là dấu hiệu cho thấy một sự thật, sự suy thoái và khủng
hoảng kinh tế nghiêm trọng đang diễn ra hàng ngày và nhanh chóng tại
VN. Điều này hoàn toàn theo đúng qui luật kinh tế và thực tế khách quan
diễn ra tại VN trong suốt quá trình phát triển vừa qua, đặc biệt trong thời
gian gần đây.
Nguyên nhân của tình trạng hiện nay có rất nhiều mặt, bắt nguồn từ
nhận thức đối với các vấn đề kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và từ thực tiễn giữa lý luận, chính sách và cuộc sống chưa gắn

chặt với nhau. Về mặt luật pháp, vấn đề sở hữu cũng chưa phải đã rành
rọt, luật pháp chưa quan tâm đầy đủ đến tất cả các thành phần kinh tế nên
ảnh hưởng đến quan hệ sản xuất và sức sản xuất. Kinh tế Nhà nước chưa
thể hiện được vai trò chủ đạo. Hệ thống các thị trường tài chính, vốn, lao
động, khoa học cũng cịn có nhiều chỗ lúng túng, bất cập. Tất cả những
hạn chế đó đã làm giảm sức bật đối với khả năng phản ứng lại với tiêu
cực do khủng hoảng toàn cầu gây ra.
3.2.2.Các gói kích cầu
Các thành phần trong gói kích thích kinh tế của Việt Nam đang trở nên rõ
ràng hơn trong một vài tuần trở lại đây và đang có vẻ tạo được ảnh
hưởng. Tốc độ khẩn trương của gói kích thích được cơng bố vào đầu năm
2009, cho thấy các nhà làm chính sách ở Việt Nam nhận thức rõ sự khẩn
thiết phải giảm nhẹ tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới
nền kinh tế nội địa.
Chính phủ đã đưa ra gói kích cầu thứ nhất trị giá gần 1 tỷ USD và gói
kích cầu thứ 2 trị giá 8 tỷ USD để cứu trợ nền kinh tế đang gặp rất nhiều
khó khăn do khủng hoảng.Trong đó có:
Hỗ trợ lãi suất những khoản vay ngắn hạn
Một trong những thành tố chính của gói kích thích kinh tế là khoản hỗ trợ
lãi suất 4% cho những khoản vay ngắn hạn, gói này đang được khối
doanh nghiệp rất háo hức đón nhận. Mục tiêu của gói kích thích này là
giúp giảm lạm phát, hỗ trợ các công ty trong việc duy trì khả năng sản
xuất và giữ cơng ăn việc làm.

- 14 Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay


nhóm 10

Tuy nhiên, quy mô của việc cho vay theo chương trình này cho thấy nó
được sử dụng chủ yếu để các doanh nghiệp đảo nợ. Tất cả các công ty,
trừ những đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực được coi là “tiêu cực”
(như mơi giới chứng khốn, nhập khẩu hàng tiêu dùng và đầu tư bất động
sản) đều có quyền được tiếp cận gói hỗ trợ này.
Tất cả các ngân hàng thương mại và cơng ty tài chính đều có trách
nghiệm cung cấp các khoản vay ngắn hạn cho doanh nghiệp với lãi suất
ưu đãi và đương nhiên sẽ nhận được khoản bù lãi suất từ Ngân hàng Nhà
nước (SBV).
Cho đến giữa tháng 4, khoảng 220 nghìn tỉ đồng tức khoảng 12,4 tỉ đô la
Mỹ tiền vay mới đã được giải ngân theo chương trình cho vay hỗ trợ lãi
suất này. SBV dự tính con số này sẽ tăng lên tới 420 nghìn tỉ đồng vào
cuối năm 2009 (khi chương trình hỗ trợ lãi suất kết thúc).
Các ngân hàng thương mại thuộc sở hữu nhà nước là những đơn vị năng
động nhất trong việc cung cấp các khoản vay này cịn chi nhánh các ngân
hàng nước ngồi ít tích cực hơn cả. Khoảng 60% khoản vay đã được
cung cấp cho các cơng ty tư nhân, phần cịn lại chảy vào khối doanh
nghiệp nhà nước và hợp tác xã.
Thực hiện chương trình bảo lãnh tín dụng mới
Một thành tố khác trong chương trình kích thích kinh tế của chính phủ là
chương trình bảo lãnh tín dụng mới để hỗ trợ ngân hàng thương mại cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ vay. Việt Nam đã từng lưỡng lự khi triển khai
những quỹ bảo lãnh tín dụng trong quá khứ, chủ yếu là ở cấp tỉnh, với
thành công hết sức hạn chế. Chương trình mới này là ở cấp độ quốc gia.
Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) được uỷ quyền là đơn vị cấp vốn
duy nhất. Khác với thường lệ, VDB có thể đảm bảo 100% khoản vay, cho
cả khoản vay đôla Mỹ lẫn tiền đồng. Những doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn
phải có ít hơn 500 nhân viên, vốn đăng ký ít hơn 20 tỉ đồng và đảm bảo

khơng có những khoản nợ ngân hàng hoặc nợ thuế quá hạn. Khác với
chương trình hỗ trợ lãi suất, VDB có quyền quyết định cơng ty nào sẽ
nhận được khoản đảm bảo.
Gói kích thích hướng tới khu vực nông nghiệp
Thông báo mới đây của chính phủ ngày 18/4 cho biết có hàng loạt những
biện pháp kích thích khác nhắm vào khu vực kinh tế nông nghiệp, khu
vực bị tổn thương nặng nề nhất bởi suy thối tồn cầu.
Chính sách mới bao gồm các khoản vay phi lãi suất để mua thiết bị nông
nghiệp và vay hỗ trợ lãi suất cho phân bón và các đầu vào cho nông

- 15 Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

nghiệp khác. Khu vực nông nghiệp của Việt Nam tạo cơng ăn việc làm
cho 2/3 dân số và góp phần khá lớn vào xuất khẩu.
Chương trình kích cầu nơng thơn cũng nhanh chóng được chính phủ thực
hiện nhằm hỗ trợ nơng nghiệp thốt khỏi khủng hoảng.
Về thực chất, chúng ta đã chú trọng tạo cầu nội địa để bù đắp sự giảm
mạnh của thị trường xuất khẩu, thực hiện hỗ trợ lãi suất và giảm thuế để
giải phóng hàng tồn kho, kích thích đầu tư vào các khu vực cịn nhiều dư
địa cho tăng trưởng như xây dựng cơ sở hạ tầng và hỗ trợ sự phát triển
của khu vực nông nghiệp và nông thôn, hỗ trợ tiêu dùng cho các đối
tượng thu nhập thấp ở vùng sâu, vùng xa, thực hiện chính sách an sinh xã
hội và bảo đảm các ổn định cho sự phát triển. Rõ ràng, chúng ta đã vận
dụng các nguyên tắc của Keynes thông qua việc mở rộng chính sách tài

khóa và nới lỏng tín dụng.
3.2.2.1.Tác động tích cực của các gói kích cầu
Kinh tế Việt Nam trong quý II đã tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước,
vượt mức tăng 3,1% của quý I. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đạt
3,9% so với cùng kỳ 2008. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp cũng
đi lên liên tục trong các tháng quý II (tháng 4 là 5,4%, tháng 5 là 6,8%,
tháng 6 là 8,2%) so với mức 0,4% của quý I. Lĩnh vực xây dựng bùng nổ
trở lại, tăng trưởng 6,9% trong quý I và có thể đạt mức tăng trưởng trên
10% cả năm, đóng vai trị một trong những lĩnh vực dẫn dắt tăng trưởng
kinh tế do có sức lan tỏa cao. Điểm sáng là khu vực dịch vụ đạt tốc độ
tăng 5,5%. Đặc biệt, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước đạt 547,5
ngàn tỉ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngối, chứng tỏ chính sách
kích cầu đã phát huy tác dụng tích cực, đẩy sức cầu trong nước phục hồi
mạnh. Hơn 40 ngàn doanh nghiệp đăng ký thành lập trong 6 tháng vừa
qua cho thấy, môi trường kinh doanh đã hồi phục trở lại.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) quý II tăng 1,35% so với quý I là quý có mức
tăng 1,33%. Như vậy, lạm phát nửa đầu 2009 chỉ ở mức 2,68% cho phép
kỳ vọng sẽ được kiểm soát ở mức dưới 2 con số trong cả năm 2009.
Nhìn chung, Việt Nam trở thành một trong những nước có thành tích
chặn đà suy giảm ấn tượng, thuộc số ít các nền kinh tế trên thế giới đạt
được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao ngay trong bối cảnh nhiều
nền kinh tế khác vẫn ngụp sâu trong suy thoái. Sở dĩ chúng ta đạt được
như vậy vì chúng ta có 2 gói kích cầu kịp thời, bắt đúng mạch, đúng đối
tượng và có được sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của chính phủ
3.2.2.2.Tác động tiêu cực của các gói kích cầu

- 16 Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước

và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

– Thâm hụt ngân sách có nguy cơ tăng mạnh. Do u cầu thực hiện
các gói kích thích tài khóa được dự kiến sẽ đẩy thâm hụt ngân sách lên
mức 7% – 8% trong năm 2009, tức là cao hơn nhiều so với các nước
trong khu vực. Chi phí vốn vay để tài trợ cho thâm hụt này đang tăng lên
với việc hàng loạt phiên đấu giá trái phiếu Chính phủ bằng VNĐ từ đầu
năm đến thất bại do không đáp ứng được kỳ vọng lãi suất của thị trường
ngày một tăng. Cộng với khả năng “nhập khẩu” lạm phát trên tồn cầu,
lạm phát trong nước có nguy cơ quay trở lại trong 1 – 2 năm tới;
– Mất cân đối trên thị trường ngoại tệ. Do gói hỗ trợ lãi suất 4% trị
giá 17 ngàn tỉ đồng (tương đương 1 tỉ USD) với tổng lượng tín dụng 430
ngàn tỉ đồng của hệ thống ngân hàng trong năm 2009 sẽ tạo ra chênh lệch
đáng kể về lãi suất đối với tín dụng trên thị trường ngoại tệ, gây ách tắc
tín dụng ngoại tệ: thừa đô-la vay, nhưng thiếu đô-la bán;
– Nhập siêu tăng trở lại và có thể trầm trọng hơn trong những năm
tới. Vì lẽ, nếu các doanh nghiệp trong nước không kịp thời tranh thủ giai
đoạn vừa qua để chiếm lĩnh thị phần trong nước, thì khi nền kinh tế Việt
Nam bứt khỏi tình trạng suy giảm, tỷ lệ nhập khẩu biên sẽ nhanh chóng
quay lại trạng thái bình thường khiến nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất
khẩu. Thâm hụt cán cân thương mại có thể chỉ khoảng 7 tỉ USD trong
năm nay, nhưng có thể tăng nhanh trong 1 – 2 năm tới, gây tác động tiêu
cực đến cung cầu ngoại tệ và ổn định tiền tệ trong nước;
– Thị trường chứng khoán và bất động sản lại có biểu hiện tăng
trưởng bong bóng. Vì sau tác động của gói kích cầu, chỉ số VN-Index
tăng tốc vượt các thị trường chứng khoán trong khu vực. Thị trường bất
động sản đơ thị tăng trưởng nóng tại một số ít phân khúc như đất nền,
trong khi phân khúc căn hộ và văn phịng cho th lại kém sơi động.

Khơng loại trừ khả năng một phần vốn kích cầu đổ sang đầu cơ ngắn hạn
tại các thị trường chứng khoán và bất động sản, mặc dù Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) thông báo vẫn kiểm sốt chặt chẽ các dịng vốn này.
3.2.2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các gói kích cầu
- Kịp thời điều chỉnh linh hoạt liều lượng, cơ cấu và tiến độ các gói giải
pháp phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế trong nước và thế giới.
Cần chuẩn bị “kế hoạch rút lui” giảm bớt đầu tư cơng vào thời điểm
thích hợp để khuyến khích các nguồn đầu tư từ xã hội.
- Trong điều kiện các thị trường suy yếu, các doanh nghiệp gặp khó khăn
và đầu tư từ các nguồn ngân sách nhà nước tăng mạnh, cần chủ động
ngăn chặn sự trở lại của cơ chế xin – cho và khả năng bùng nổ các loại
giấy phép con. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục,
nâng cao chất lượng hoạt động của khu vực công.
- 17 Lịch sử các học thuyết kinh tế


Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

- Trong điều kiện thực hiện các gói kích thích tài khóa mạnh để ngăn
chặn suy giảm kinh tế, hiệu quả sử dụng vốn ngân sách dùng cho kích
cầu là yếu tố cực kỳ quan trọng, giúp làm giảm những gánh nặng nợ và
méo mó vĩ mơ sau đó. Vì vậy, song song với nỗ lực kích cầu, càng cần
tăng cường các biện pháp giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với tình hình
thực hiện các giải pháp kích thích kinh tế, kịp thời ngăn chặn, chấn chỉnh
việc sử dụng phí phạm, sai mục đích. Cần xem xét đẩy sớm việc “hậu
kiểm” thực hiện các khoản kích cầu ngay trong năm nay.
- Kinh nghiệm chống khủng hoảng của các nước cho thấy, các đợt sát

hạch kiểu “thử tải” đối với các chủ thể có thể gây rủi ro hệ thống là đặc
biệt cần thiết để đánh giá, phát hiện và xử lý sớm các rủi ro tiềm ẩn.
- Tăng cường vai trị giám sát rủi ro tài chính của NHNH đối với tồn bộ
lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Xây dựng các chuẩn mực đánh giá, xếp
hạng rủi ro tài chính đối với các sản phẩm tài chính, các chủ thể thị
trường, cũng như toàn bộ hệ thống ngân hàng, các thị trường chứng
khoán, bất động sản, các luồng tiền lớn luân chuyển giữa các thị trường.
Thúc đẩy các đổi mới tài chính, từng bước phát triển các cơng cụ phòng
chống rủi ro.
- Thiết lập cơ chế đánh giá rủi ro hệ thống đối với các doanh nghiệp có vị
thế độc quyền và tầm ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế, lồng ghép
cơ chế này vào mô hình thí điểm các tập đồn kinh tế sắp được ban hành.
- Trong điều kiện kinh tế các nước lớn và thế giới sẽ có những điều chỉnh
lớn trong giai đoạn “hậu khủng hoảng”, cần kịp thời nắm bắt tình hình,
chủ động tạo bước đột phá về cơ chế, chính sách đẩy mạnh tái cơ cấu lại
các doanh nghiệp, các lĩnh vực sản xuất và các thị trường, nâng cao năng
lực cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Tóm lại, những lưu ý trên đây là rất đáng quan tâm vì xuất phát từ các hệ
lụy tất yếu của việc vận dụng Keynes quá mức và thực tiễn mới đang
khiến cho các ngun tắc của Keynes là khơng phù hợp hồn tồn, chúng
ta cần chú trọng giải quyết hài hịa giữa chặn đà suy giảm với vấn đề phát
triển dài hạn; giữa vấn đề tài chính – tiền tệ với vấn đề phát triển tổng thể
nền kinh tế; giữa vấn đề khắc phục chu kỳ với vấn đề thay đổi cơ cấu;
giữa các nội hàm phát triển với việc hoàn thiện thể chế…, nghĩa là chúng
ta không thể chỉ đánh cược vào tính “vạn năng” của một lý thuyết kinh tế
nào đó, kể cả Keynes. Trong khi chưa có các lý thuyết mới, cũng giống
như trường phái “tổng hợp hậu Keynes”, “ kinh tế hỗn hợp” của P. Samu-en-sơn và sau đó là “tân cổ điển của Rê-gân-nơ-míc” trước kia…, hầu
hết các chuyên gia và giới hoạch định chính sách trên thế giới đều thể
hiện rõ tính thực dụng trong việc tìm kiếm các lý thuyết phục vụ cho các
- 18 Lịch sử các học thuyết kinh tế



Lý thuyết của keynes về vai trò kinh tế của nhà nước
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay

nhóm 10

giải pháp chính sách của mình. Đây là kinh nghiệm rất đáng để chúng ta
tham khảo.

KẾT LUẬN
Như vậy ,lý thuyết của Keynes đặc biệt đề cao vai trò kinh tế của nhà
nước .Theo ông sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là điều kiện
đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội .
Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế
diễn ra và ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng hơn đối với nền kinh tế xã
hội của cả thế giới chứng tỏ đảng và nhà nước ta đã vận dụng một cách
sáng tạo lý thuyết của Keynes trong việc phát huy vai trò kinh tế của nhà
nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân
chủ văn minh.

- 19 Lịch sử các học thuyết kinh tế



×