Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (Đề tài NCKH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 101 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
Mã số: ĐTCT.2017.84

Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Minh Tâm

HÀ NỘI - 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
VIỆN NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
Mã số: ĐTCT.2017.84

Chủ nhiệm đề tài : Nguyễn Minh Tâm
Thành viên đề tài : Bùi Xuân Diện
Nguyễn Phương Anh

HÀ NỘI - 2019



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ............................................................ 8
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO SINH VIÊN ................................................................................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên ............. 9
1.2. Các thành tố của giáo dục pháp luật cho sinh viên .................................... 14
1.3. Các yếu tố tác động đến GDPL cho sinh viên............................................ 22
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI ......................................................... 30
2.1. Thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội ..................................................................................................................... 30
2.2. Đánh giá chung về giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội........................................................................................................... 50
2.3. Nhu cầu của sinh viên đối với việc giáo dục pháp luật của nhà trường..... 63
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 66
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ
HÀ NỘI ............................................................................................................ 67
3.1. Quan điểm cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ......................................................................... 67
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại
học Nội vụ Hà Nội. ............................................................................................ 69

Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 82
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 85


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Tỉ lệ cán bộ giảng viên có chun mơn luật của trường Đại học Nội vụ
Hà Nội tính đến tháng 3/2019 ............................................................................... 37
Bảng 2. Tổng số sinh viên chia theo ngành đào tạo bậc Đại học hệ chính quy
Năm học 2017-2018 .............................................................................................. 39
Bảng 3. Chương trình mơn học pháp luật đại cương dành cho bậc cao đẳng, đại
học ......................................................................................................................... 42
Bảng 4. Chương trình mơn học Luật Hành chính dành cho bậc cao đẳng, đại học ... 42
Bảng 5. Mức độ hấp dẫn của các hình thức giáo dục pháp luật ........................... 46
Bảng 6. Mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục pháp luật .......................... 47
Bảng 7. Bảng tổng hợp số liệu về tài liệu sách, báo, tài liệu điện tử ................... 50
liên quan đến pháp luật tại Trung tâm Thông tin –Thư viện ................................ 50
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ............................................................................ 50
Bảng 8. Hiểu biết pháp luật của sinh viên ............................................................ 52
Bảng 9. Nguồn cung cấp thông tin Luật cho sinh viên ......................................... 53
Bảng 10. Hiểu biết pháp luật của sinh viên đại học Nội vụ nói chung................. 54
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Mức độ hữu ích của các nội dung giáo dục pháp luật......................... 51
Biểu đồ 2. Mức độ cần thiết tiến hành giáo dục pháp luật cho sinh viên của nhà
trường .................................................................................................................... 64
Biểu đồ 3. Các nội dung pháp luật được sinh viên lựa chọn ............................... 65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Giáo dục pháp luật (GDPL) là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
ngành giáo dục. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa hiện nay, GDPL càng trở nên quan trọng, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi tơn trọng pháp luật, góp
phần ổn định và nâng cao mơi trường giáo dục tồn diện. Trong những năm vừa
qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản
pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho công tác GDPL của ngành giáo dục. Điều 5, Luật
Giáo dục năm 2012 khẳng định mục tiêu của giáo dục đại học là: “ Đào tạo nhân
lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học, công nghệ tạo ra
tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo quốc
phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Đào tạo người học có phẩm chất chính trị,
có đạo đức; có kiến thức kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và
ứng dụng phát triển khoa học và cơng nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có
sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp; thích nghi với mơi
trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân”. Như vậy, ngành Giáo dục nói
chung và các Trường Đại học nói riêng có trọng trách lớn lao đối với sự phát
triển toàn diện con người Việt Nam, trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật,
văn hóa pháp lý trong nhân dân. Hoạt động GDPL ln gắn bó với hoạt động
giáo dục nói chung. GDPL khơng chỉ góp phần ổn định hoạt động của ngành giáo
dục mà cịn góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm giáo dục.
Trong những năm qua, xuất phát từ vai trị, ý nghĩa quan trọng của cơng tác
GDPL, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này. Trong rất nhiều văn kiện của
Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập đến công tác GDPL. Nghị quyết số
08-NQ/TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị chỉ rõ: “Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, GDPL với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là
thơng qua các phiên tịa xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để
1



tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”. Nhiều văn bản
pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công tác phổ
biến GDPL như Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường cơng tác phổ biến, GDPL trong giai đoạn hiện nay,
Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác
phổ biến, GDPL từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp
công tác phổ biến, GDPL… Đặc biệt, Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
phổ biến, GDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã
khẳng định: “Phổ biến, GDPL là một bộ phận của cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, là nhiệm vụ của tồn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng”; Luật Phổ biến, GDPL ngày 20/6/2012 và các văn bản hướng dẫn tổ chức,
thực hiện…
Thực hiện các văn kiện của Đảng và pháp luật của nhà nước về GDPL, thời
gian qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường đại học đã chỉ đạo, tổ chức, triển
khai thực hiện GDPL cho sinh viên có trọng tâm, trọng điểm gắn với các ngành
nghề đào tạo đặc thù của từng trường. Về cơ bản, sinh viên các trường đại học đã
được học thì đều hiểu biết về pháp luật. Đại bộ phận sinh viên có ý thức tơn trọng
pháp luật, chấp hành nội quy, quy chế của các nhà trường, thực hiện tốt các quy
tắc và lối sống công cộng. Tuy nhiên, vẫn cịn một bộ phận sinh viên có biểu hiện
xuống cấp về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật, thậm chí phạm tội nghiêm
trọng làm cho cả xã hội phải quan tâm, lo lắng.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trực thuộc Bộ Nội vụ, được thành lập theo
Quyết định số 2016/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ, là cơ sở
giáo dục đại học cơng lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc Bộ Nội
vụ, có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại học
và sau đại học trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề khác có liên
quan; hợp tác quốc tế; nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng tiến bộ khoa
học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Như các cơ sở đào tạo khác
2



trong hệ thống giáo dục, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tổ chức thực hiện
công tác phổ biến, GDPL thơng qua các hoạt động, chương trình giáo dục chính
khóa, giáo dục ngoại khóa và đạt được một số kết quả nhất định. Đã có những
thay đổi theo hướng đa dạng hóa và chuyển dần từ truyền thụ một chiều sang phát
huy tính chủ động, tích cực của sinh viên; giảng viên đưa ra nhiều tình huống cụ
thể và phương pháp giảng dạy mới nhằm tăng tính tích cực, sáng tạo của sinh
viên, tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả GDPL. Tuy nhiên, bên cạnh những kết
quả đạt được thì cơng tác GDPL vẫn cịn một số hạn chế như việc trang bị kiến
thức pháp luật tuy đã bước đầu hình thành kỹ năng, ý thức pháp luật và thói quen
chấp hành pháp luật cho sinh viên nhưng hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy, cơng
tác GDPL trong những năm qua đã được Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường
cùng các đoàn thể và đặc biệt là đội ngũ giảng viên chuyên ngành triển khai thực
hiện sâu rộng nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho sinh viên, góp phần ngăn
chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, tăng
cường sự đồn kết nội bộ, góp phần giữ vững trật tự trị an trong nhà trường.
Để việc thực hiện công tác GDPL cho sinh viên thực sự mang lại hiệu quả,
có tác động tích cực nhằm nâng cao ý thức tuân thủ và xây dựng thói quen chấp
hành pháp luật cho sinh viên, thì việc tìm hiểu thực trạng cơng tác GDPL là thực
sự cấp thiết, cần có sự đi sâu nghiên cứu bài bản và nghiêm túc. Từ những lý do
trên, tôi chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội” nhằm đưa ra một số định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu
quả GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục pháp luật ln giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, thu hút
sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn.
Nhiều cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố:
- Tác giả Dương Thị Thanh Mai với luận án Phó Tiến sĩ Luật học (1996):
“Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam - hình thức đặc thù của

giáo dục pháp luật” [13] đã phân tích vai trị của giáo dục pháp luật trong quá
3


trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam. Luận án nêu rõ những đặc
trưng của công tác giáo dục pháp luật và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu
quả giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp.
- Tác giả Đinh Xuân Thảo với Luận án Phó Tiến sĩ Luật học (1996): “Giáo
dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở
nước ta hiện nay” [21] đã nêu thực trạng giáo dục pháp luật trong các trường đại
học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, từ đó rút ra kinh nghiệm, phương
hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho sinh viên.
- Một số luận văn liên quan như: Luận văn thạc sĩ ngành Lý luận lịch sử nhà
nước và pháp luật (2011) của tác giả Trần Phúc Lộc: “Giáo dục pháp luật cho
thanh thiếu niên ở thành phố Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải pháp” [42] đã
phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, luận văn phân tích
rõ đặc điểm, vai trò và nguyên tắc giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên;
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, phân tích ngun nhân thực trạng của cơng tác
giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà Nội; Đề xuất giải pháp
nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Hà
Nội; Luận văn thạc sĩ Triết học (2013) của tác giả Phạm Thị Thanh Huyền: “Vấn
đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua khảo sát thực
tế ở Hà Tĩnh)” [30] đã phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục ý thức
pháp luật; phân tích rõ đặc điểm, cấu trúc, tầm quan trọng và nội dung của việc
giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay; nêu thực trạng và đưa
ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên ở tỉnh Hà
Tĩnh hiện nay; Tác giả Lê Thị Thùy với luận văn thạc sĩ Luật học (2015): “Giáo
dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”
[25] đánh giá khách quan về thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên trường
cao đẳng nghề Thanh Hóa, thơng qua đó có phương pháp đổi mới chương trình

dạy và học bộ mơn giáo dục pháp luật, nâng cao chất lượng công tác giáo dục
pháp luật trong nhà trường; Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Trung
Nghĩa (2000): “Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan quân đội nhân dân
4


Việt Nam hiện nay” [29] đã nêu việc phổ biến, giáo dục pháp luật là công tác
thường xuyên, quan trọng nhằm nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật quân đội,
pháp luật của nhà nước của cán bộ, chiến sĩ. Trước yêu cầu cao của sự nghiệp xây
dựng quân đội, bảo vệ tổ quốc, công tác này cần tiếp tục được coi trọng, đổi mới.
- Tác giả Vũ Thị Hồng Vân với bài “Giáo dục pháp luật cho sinh viên các
trường đại học - Một yêu cầu cấp bách hiện nay” [46], Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật đã khái quát thực trạng giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học
và nêu ra các giải pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường đại học như:
nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy giáo dục pháp luật cho sinh viên; hoàn thiện
pháp luật về giáo dục pháp luật cho sinh viên; chuẩn hóa nội dung chương trình,
giáo trình giảng dạy chính khóa; đổi mới phương pháp dạy và học pháp luật trong
chương trình chính khóa; xây dựng chương trình giáo dục pháp luật ngoại khóa
và đổi mới cách thức hoạt động giáo dục pháp luật ngoại khóa; nâng cao chất
lượng giảng viên giảng dạy pháp luật trong các trường đại học; tăng cường công
tác xã hội hóa trong các hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường
đại học.
- Bài viết trên Trang Web của Trường Đại học Vinh: “Giáo dục pháp luật
kết hợp giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Vinh” của ThS. Đinh
Văn Liêm và SV Trương Hồ Khánh Ly (2016) [22] đã tập trung tìm hiểu thực
trạng kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại
học Vinh, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho sinh viên nói chung, sinh viên Trường Đại
học Vinh nói riêng.
- Tác giả Phùng Thị Loan với bài viết “Tăng cường công tác phổ biến, giáo

dục pháp luật trong các trường Đại học nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh
viên hiện nay” [31] đưa ra một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong
các trường đại học hiện nay nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội khơng
những đảm bảo u cầu về trình độ chun mơn, nghiệp vụ mà cịn có ý thức:
5


sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của xã hội.
Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về GDPL cho
sinh viên như: “GDPL trong các trường không chuyên luật” đề tài cấp Bộ của
Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (2000); “Giáo dục pháp luật cho sinh
viên các trường đại học không chuyên luật ở Việt Nam” của tác giả Phan Hồng
Dương (2014) [28]; “Vai trò của giáo dục đạo đức, GDPL cho sinh viên hiện
nay” của tác giả Nguyễn Thị Hoàn [27]; “Một số giải pháp nâng cao chất lượng
dạy và học môn Pháp luật đại cương cho sinh viên đại học Thủy lợi hiện nay”
của tác giả Lê Văn Thơi [26]
Nhận xét chung: Đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề
về phổ biến, giáo dục pháp luật. Mỗi đề tài nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu
khác nhau, đưa ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt
động GDPL trên nhiều góc độ, do vậy việc chọn đề tài nghiên cứu này mang cả ý
nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác GDPL đối với sinh
viên nói chung và sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói riêng. Để thực hiện
đề tài, tác giả tiếp thu một cách có chọn lọc nghiên cứu của một số cơng trình khoa
học liên quan đến đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về GDPL cho sinh viên đồng thời kết hợp
với phân tích thực trạng và đánh giá chất lượng GDPL cho sinh viên của trường
Đại học Nội vụ Hà Nội trong thời gian từ năm 2014 - 2018, từ đó đề xuất các giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện GDPL cho sinh viên Đại học Nội vụ Hà
Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về GDPL cho sinh viên;
- Phân tích thực trạng, đánh giá chất lượng việc GDPL cho sinh viên của
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội; chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân;
6


- Đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả GDPL
cho sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động GDPL cho sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Giáo dục pháp luật cho sinh viên.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về GDPL
cho sinh viên không chuyên ngành luật của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng việc GDPL cho sinh viên của
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội từ năm 2014 - 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để thu thập, phân tích
và khai thác thơng tin liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài
liệu của Đảng, Nhà nước; các cơng trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống
kê của các tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến GDPL nói

chung và cho sinh viên nói riêng.
- Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học với 326 sinh viên để
thu thập các thông tin liên quan đến thực trạng: hiểu biết pháp luật của sinh
viên, công tác giáo dục pháp luật của nhà trường; nhu cầu của sinh viên đối với
công tác giáo dục pháp luật của nhà trường.
- Phương pháp chuyên gia: Quá trình triển khai đề tài, nhóm nghiên cứu đã
xin ý kiến các chuyên gia là những người có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn
7


trong hoạt động giáo dục pháp luật cho sinh viên... để làm rõ cơ sở lý luận, xây
dựng khung lý thuyết... của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận: đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về công tác GDPL
cho sinh viên.
- Về thực tiễn: Đề tài đề xuất các giải pháp thiết thực góp phần nâng cao
chất lượng GDPL cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, đáp ứng nhu
cầu của xã hội về đào tạo sinh viên có phẩm chất, đạo đức và ý thức tơn trọng
pháp luật, qua đó góp phần xây dựng đội ngũ cơng chức, viên chức có đủ phẩm
chất và năng lực trong tương lai.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Đề
tài gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật cho sinh
viên.
- Chương 2: Thực trạng và chất lượng giáo dục pháp luật cho sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật
cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.1.1. Khái niệm “Giáo dục pháp luật cho sinh viên”
1.1.1.1. Khái niệm “Giáo dục pháp luật”
Giáo dục pháp luật là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản của Nhà
nước với sự tham gia của các thiết chế xã hội. Đến nay đã có khá nhiều quan
điểm, cách tiếp cận khác nhau về GDPL nói chung và GDPL cho sinh viên nói
riêng. Nhìn chung, GDPL thường được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa
hẹp.
Theo nghĩa rộng, GDPL là quá trình hình thành ý thức pháp luật và văn hóa
pháp lý của các thành viên xã hội, q trình đó chịu sự tác động của những điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan, trong đó điều kiện khách quan (chế độ
chính trị, điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội, mơi trường sống…) là nhân tố ảnh
hưởng, nó có thể tác động tự phát theo chiều tích cực hoặc tiêu cực, còn nhân tố
chủ quan bao giờ cũng là sự tác động tự giác, tích cực, có ý thức, có chủ định
theo chiều hướng xác định nhằm đạt được mục đích của chủ thể tác động [42].
Theo nghĩa hẹp, giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức,
có mục đích của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân (chủ thể giáo
dục) tác động lên đối tượng giáo dục nhằm cung cấp tri thức pháp luật, xây dựng
thái độ, tình cảm tơn trọng pháp luật và tạo lập thói quen tuân thủ pháp luật [42].
Theo Đặc san Tuyên truyền Pháp luật số 08/2012 của Hội đồng phối hợp
công tác Phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ thì Phổ biến, giáo dục pháp
luật hiểu theo nghĩa rộng là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công
đoạn phục vụ cho việc thực hiện phổ biến, GDPL (xây dựng chương trình, kế

hoạch phổ biến, GDPL; triển khai chương trình, kế hoạch phổ biến, GDPL thông
qua việc áp dụng các hình thức, biện pháp phổ biến, GDPL; hướng dẫn, kiểm tra,
9


đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch phổ biến, GDPL).
Hiểu theo nghĩa hẹp là: truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật giúp cho đối
tượng tác động hiểu và hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù
hợp với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành [24].
Tổng hợp các phân tích trên đây, quan niệm về GDPL được hiểu một cách
đầy đủ như sau: Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có
chủ đích của chủ thể giáo dục thơng qua các hình thức, phương pháp tổ chức
khác nhau, tác động đến đối tượng giáo dục một cách có hệ thống nhằm hình
thành ở họ tri thức, giá trị pháp luật, sự tơn trọng pháp luật, tình cảm và hành vi
phù hợp với pháp luật hiện hành để từ đó xây dựng lối sống và văn hóa pháp luật
[24].
1.1.1.2. Khái niệm “Giáo dục pháp luật cho sinh viên”
Tiếp cận đầu tiên với khái niệm có thể thấy đây là GDPL cho một đối tượng
cụ thể, đó là sinh viên.
Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh “Student” có nghĩa là
người làm việc, học tập, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. “Sinh viên” là để
chỉ những người theo học ở bậc đại học và phân biệt với học sinh đang học ở bậc
phổ thông.
Theo từ điển tiếng Việt, khái niệm “sinh viên” được dùng để chỉ người học
ở bậc đại học. Đây là môi trường với đầy đủ tiêu chuẩn chất lượng cao trong hệ
thống giáo dục quốc dân về tài chính, đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên các mơn
học, ngành nghề, nhân viên hành chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học. Ở đó sinh viên được truyền đạt kiến
thức hoàn chỉnh về một ngành nghề cụ thể, chuẩn bị đầy đủ lý thuyết và một phần
thực tiễn cho công việc sau này khi tham gia vào cuộc sống xã hội.

Từ đó có thể nêu khái niệm GDPL cho sinh viên như sau: “GDPL cho sinh
viên là hoạt động có định hướng, có tổ chức có chủ đích của các chủ thể GDPL
trong các trường đại học thơng qua các hoạt động giáo dục chính khóa và ngoại
khóa bằng các phương pháp giáo dục khác nhau nhằm trang bị tri thức pháp luật cơ
10


bản, định hướng, phát triển nhân cách, nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh
hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp
luật, có tri thức pháp luật về chuyên mơn nghiệp vụ, ngành nghề mình được đào tạo,
có ý thức tôn trọng, chấp hành và bảo vệ pháp luật”
Trong phạm vi nghiên cứu giới hạn của đề tài, sinh viên được hiểu là người học
có trình độ đào tạo đại học, cao đẳng khơng chun luật theo hình thức chính quy
tập trung của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
1.1.2. Đặc điểm của giáo dục pháp luật cho sinh viên
Giáo dục pháp luật cho sinh viên mang các đặc điểm khác biệt so với GDPL
cho các đối tượng khác.
Thứ nhất, GDPL cho sinh viên có mối liên hệ chặt chẽ với công tác xây
dựng, thực hiện pháp luật. Quá trình đưa pháp luật đến với đời sống khơng thể
thiếu hoạt động GDPL, đây là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống.
Không phải lúc nào pháp luật cũng được mọi người biết đến, ủng hộ hay chấp
hành nghiêm chỉnh. Bản chất của pháp luật là phản ánh ý chí, nguyện vọng của
đơng đảo quần chúng nhân dân nhưng nếu khơng được nhân dân biết đến thì cũng
khơng có ý nghĩa thực tiễn. Chính vì vậy, GDPL là phương thức truyền tải những
thông tin, những nội dung và quy định của pháp luật với sinh viên, giúp họ hiểu
biết, nắm bắt kịp thời, có hiệu quả. Từ đó, sinh viên có thể nhận thức đúng đắn để
tránh vi phạm pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật vì sinh viên là lứa
tuổi đang phát triển, chưa có nhận thức chín chắn, dễ bị dụ dỗ, lơi kéo vào con
đường phạm pháp.
Thứ hai, đối tượng GDPL là sinh viên, là cơng dân thành niên, là người học

ở trình độ đào tạo cao của hệ thống giáo dục quốc dân, thuộc tầng lớp dân trí cao
nên chủ thể GDPL phải là những người có tri thức pháp luật ở mức độ cao hơn
đối tượng, có tri thức nhất định về nghề nghiệp mà đối tượng được đào tạo, có
nghiệp vụ sư phạm bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp để không chỉ là tuyên
truyền, phổ biến pháp luật mà mục đích cuối cùng là mục tiêu của giáo dục đại
học Việt Nam. Chủ thể GDPL đại diện cho trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, xã
hội thực hiện nhiệm vụ. Giáo dục pháp luật cho sinh viên là mối quan hệ GDPL
11


giữa các đối tượng cơng dân thành niên có học thức, có trình độ và có chun
mơn nghề nghiệp nhất định, cho nên song hành với việc truyền thụ tri thức pháp
luật cơ bản thì việc giáo dục tri thức pháp luật liên quan đến ngành nghề đào tạo
là rất quan trọng và cần được đảm bảo.
Thứ ba, nội dung chương trình của GDPL cho sinh viên phải đảm bảo các
yêu cầu chung của công dân, yêu cầu riêng của trình độ ngành nghề mà sinh viên
theo học trong tính liên thông, hệ thống với các cấp học tiểu học, trung học trước
đó. Việc chuẩn bị nội dung, cân đối về chương trình cịn phải đáp ứng u cầu
đào tạo nghề và đảm bảo đúng quy định.
Thứ tư, nội dung GDPL cho sinh viên được thể hiện qua hình thức và
phương pháp GDPL phù hợp với đối tượng trong và ngồi mơi trường của họ, đó
là các nhà trường đại học. Ở đó giáo dục chính khóa đóng vai trị quan trọng và
giáo dục ngoại khóa là khơng thể thiếu. Hiện nay với môi trường sống năng động,
khoa học công nghệ phát triển thì chủ thể GDPL cho sinh viên cần rèn luyện họ
trở thành những con người phát triển tồn diện về mọi mặt, có kiến thức pháp luật
và tinh thần trách nhiệm đối với xã hội. Bên cạnh những phương pháp truyền
thống thì cần tăng cường áp dụng những phương pháp hiện đại, có sử dụng cơng
nghệ để nâng cao hiệu quả, dễ tiếp thu, tác động nhanh vào nhận thức của sinh
viên.
1.1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật cho sinh viên

Vai trò của GDPL bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của giáo dục và pháp
luật. Bên cạnh đó, vai trị của GDPL còn xuất phát từ bản chất và đặc điểm của
đối tượng mà nó tác động. Giáo dục pháp luật cho sinh viên có vai trị như sau:
Thứ nhất, GDPL góp phần thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Trong đời sống xã hội, pháp luật giữ vai trò quan
trọng, là phương tiện để thể chế hóa đường lối của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo đó
được thực hiện có hiệu quả trên quy mơ tồn xã hội, là phương tiện để nhân dân
phát huy dân chủ và quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, GDPL góp phần cung cấp kiến thức pháp luật và nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật cho sinh viên. GDPL góp phần nâng cao nhận thức và hiểu
12


biết về pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của mọi thành
viên trong xã hội, trong đó có sinh viên. GDPL trong nhà trường có vai trị to lớn
đối với sự phát triển tồn diện của con người Việt Nam. Bác Hồ đã dạy “có tài
mà khơng có đức thì là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì
cũng khó”. Xét trên mọi phương diện, giáo dục đạo đức, lối sống, GDPL đóng
góp một phần quan trọng tạo nên nhân cách của mỗi con người. Đảng và Nhà
nước ta rất quan trâm coi trọng công tác GDPL, nhất là từ khi có đường lối đổi
mới của Đảng từ Đại hội lần thứ XII đến nay, văn kiện lần thứ XII của Đảng đã
xác định rõ: đưa việc dạy pháp luật vào các trường học của Đảng, của Nhà nước
(kể cả các trường phổ thơng, đại học), của các đồn thể nhân dân.
Sinh viên là nhân tố quyết định cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Để có nắm vững kiến thức về pháp luật, có hành vi xử sự phù hợp với các
chuẩn mực pháp luật trong cuộc sống thì sinh viên phải được giáo dục, đào tạo
thông qua việc GDPL trong trường học. Trách nhiệm GDPL của trường đại học là
cung cấp cho sinh viên tri thức pháp luật, am hiểu quyền và nghĩa vụ của mình
theo quy định của pháp luật, được phép làm những việc mà pháp luật cho phép và
không làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm, từ đó áp dụng vào cơng tác thực

tiễn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bản thân, gia đình, xã hội và sẵn
sàng để hội nhập quốc tế. Vì vậy có thể nói, GDPL cho sinh viên chính là hình
thành ở sinh viên, tri thức pháp luật, lịng tin, tình cảm đối với pháp luật để có hành
vi xử sự hợp pháp, tích cực, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng tạo nên nếp sống văn
hóa pháp lý.
Thứ ba, GDPL góp phần hình thành nhân cách trong sinh viên. Giáo dục
pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong thực tiễn cuộc
sống của sinh viên. Thực hiện pháp luật là q trình hoạt động có mục đích mà
các chủ thể pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các quy định bằng việc
tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật. GDPL trong trường đại học không chỉ
làm sâu sắc hơn tri thức pháp luật cho sinh viên mà còn hướng đối tượng vào việc
tuân thủ, thi hành đúng và trau dồi kỹ năng áp dụng pháp luật vào thực tiễn cuộc
sống, nghề nghiệp tương lai. Nhìn thấy được giá trị mà pháp luật mang lại khi đi
13


vào cuộc sống, sinh viên có ý thức “Sống và làm việc theo pháp luật” bền vững.
Hơn thế nữa, khi ý thức đó được nâng lên thành tình cảm, thiện cảm với pháp
luật, sinh viên lúc này từ đối tượng GDPL có thể sẽ trở thành một chủ thể tuyên
truyền, phổ biến pháp luật trong cộng đồng nơi họ sinh sống.
1.2. Các thành tố của giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.2.1. Mục tiêu giáo dục pháp luật cho sinh viên
Trước u cầu mới của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế, Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/12/2013 của Hội nghị Trung ương 8
khóa XI và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của đảng đã xác định
một trong những nhiệm vụ trọng tâm là đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào
tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao
động, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến bộ của khoa học - công
nghệ. Do vậy, mục tiêu của GDPL là tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý
thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, tự giác tìm hiểu pháp luật; xây dựng lối sống và

làm việc theo pháp luật cho sinh viên. Đưa công tác giáo dục pháp luật phát triển ổn
định, bền vững, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, góp phần bảo đảm thực hiện
đầy đủ quyền được thơng tin pháp luật của sinh viên.
Nội dung GDPL thường xuyên được cập nhật kịp thời các kiến thức và quy
định pháp luật của Nhà nước phù hợp với trình độ của sinh viên, đảm bảo sự thống
nhất, đồng bộ giữa hình thức GDPL chính khóa và GDPL ngoại khóa. Bảo đảm
100% sinh viên được trang bị kiến thức pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật.
1.2.2. Nguyên tắc của giáo dục pháp luật cho sinh viên
Các nguyên tắc về giáo dục pháp luật được quy định tại Luật Phổ biến, giáo
dục pháp luật năm 2012 của Quốc Hội. Điều 5 Luật này quy định các nguyên tắc
phổ biến, giáo dục pháp luật gồm:
- Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực.
- Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm.
- Đa dạng các hình thức phổ biến, GDPL, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi,
trình độ của đối tượng được phổ biến, GDPL và truyền thống, phong tục tập quán
tốt đẹp của dân tộc.
14


- Gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hàng
ngày của người dân.
- Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội.
Giáo dục pháp luật cho sinh viên cũng phải bảo đảm đầy đủ các nguyên tắc
nêu trên nhằm đạt được hiệu quả giáo dục tốt nhất.
1.2.3. Chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.2.3.1. Chủ thể giáo dục pháp luật cho sinh viên
Chủ thể GDPL cho sinh viên là tất cả những cơ quan, tổ chức, cá nhân mà theo
chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội tham gia vào việc thực hiện GDPL.
Theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 ngày 20/6/2012, các

cơ quan, tổ chức có trách nhiệm GDPL cho sinh viên là các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội; Toàn án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm tốn nhà nước; chính
quyền các cấp ở địa phương; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận; các tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội nghề
nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp;
các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân và các thành viên trong gia đình.
Trong đó, chủ thể làm công tác GDPL trong các trường đại học là Đảng ủy,
Ban Giám hiệu, giảng viên, bao gồm giảng viên giảng dạy pháp luật và những giảng
viên khác. Xét về tính chuyên nghiệp, chủ thể GDPL chia thành 2 loại: chủ thể
chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp. Trong GDPL cho sinh viên, chủ thể
GDPL chuyên nghiệp là giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp
luật. Chủ thể GDPL không chuyên nghiệp là những người mà chức năng chính
khơng phải là GDPL, nhưng một trong những nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt
động để thực hiện mục đích GDPL như cán bộ quản lý, lãnh đạo, công chức, viên
chức. Về cơ bản, chủ thể GDPL cho sinh viên các trường đại học bao gồm:
Thứ nhất, các Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Trưởng các phòng, khoa của các
trường đại học. Họ vừa là chủ thể tổ chức hoạt động GDPL vừa là chủ thể trực tiếp
GDPL cho sinh viên. Nhiệm vụ quan trọng nhất, thường xuyên nhất của Đảng ủy,
15


Ban Giám hiệu, Trưởng các phòng, khoa của các trường đại học trong hoạt động
GDPL cho sinh viên là tổ chức các hoạt động GDPL cho sinh viên. Bên cạnh đó,
trong nhiều trường hợp họ cịn trực tiếp tham gia vào các hoạt động GDPL cho sinh
viên với vai trò giảng viên, báo cáo viên. Thực tế ở nhiều trường đại học, vai trò của
Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường là yếu tố đầu tiên, quyết định đối với công tác
này.
Thứ hai, giảng viên giảng dạy pháp luật. Giảng viên giảng dạy pháp luật giữ
vai trò quyết định trong hoạt động GDPL cho sinh viên. Giảng viên giảng dạy pháp

luật là người cung cấp tri thức pháp luật, hướng dẫn lĩnh hội và là tấm gương trong
việc thực hiện pháp luật đối với sinh viên. Họ là những người có kiến thức rộng,
vững về chun mơn nghiệp vụ. Cùng với hoạt động giảng dạy, giảng viên cịn có
hoạt động nghiên cứu khoa học được thực hiện hàng năm, định kỳ học tập nâng cao
trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy. Giảng
viên giảng dạy pháp luật còn phải thường xuyên cập nhật những quy định mới của
pháp luật, những văn bản mới được sửa đổi để kịp thời phổ biến tới sinh viên. Thực
hiện những yêu cầu trên, giảng viên ngày càng hồn thiện mình hơn và nhờ đó việc
GDPL mang lại hiệu quả cao hơn.
Thứ ba, viên chức, giảng viên giảng dạy các chuyên ngành khác chuyên ngành
pháp luật. Đây là những người có chức năng, nhiệm vụ chính khơng phải là GDPL
cho sinh viên nhưng thông qua hoạt động chuyên mơn của mình góp phần thực hiện
các mục đích, mục tiêu của GDPL cho sinh viên.
Ngoài các chủ thể nêu trên, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp, cán bộ, công chức, viên chức, báo cáo viên pháp luật và tuyên truyền viên pháp
luật cũng là những chủ thể GDPL cho sinh viên.
Như vậy, ta thấy giảng viên dạy pháp luật là chủ thể GDPL có học vấn, chun
mơn đạt chuẩn chức danh giảng dạy, có khả năng sư phạm, họ vừa là người giảng
dạy, truyền thụ tri thức pháp lý, vừa là người giáo dục nhân cách, ảnh hưởng khơng
nhỏ đến sự hồn thiện nhân cách của sinh viên.
1.2.3.2. Đối tượng giáo dục pháp luật
Đối tượng của GDPL khơng ai khác chính là sinh viên. Họ là những người
16


thành niên, đã trải qua học tập và rèn luyện trong suốt q trình học phổ thơng.
Khi tốt nghiệp đại học, sinh viên trở thành những người lao động có tri thức và
trình độ chun mơn nghề nghiệp cao. Sinh viên, người được GDPL chịu sự tác
động có tổ chức định hướng, vì thế sự hiểu biết, trình độ, đặc điểm tâm sinh lý,
nghề nghiệp của người được giáo dục là yêu cầu hàng đầu. Đồng thời người giáo

dục có trách nhiệm nắm vững tri thức pháp luật, biết cách giáo dục, nhất định
phải là tấm gương mẫu mực về sự tôn trọng và chấp hành pháp luật.
Trong hoạt động học tập của mình, sinh viên phải lĩnh hội hệ thống tri thức
của chuyên ngành mình lựa chọn một cách sâu sắc, bên cạnh đó phải tham gia
các hoạt động nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học là kết quả, là ứng dụng
tích cực, chủ động của những gì đã được tiếp thu từ giáo dục, đào tạo. Hoạt động
này chiếm vị trí ngày càng quan trọng. Ngồi ra cùng với học tập và nghiên cứu
khoa học, sinh viên còn tham gia hoạt động học nghề. Việc học nghề của những
cử nhân tương lai chủ yếu tập trung vào những hành động, những kỹ thuật, những
nguyên tắc chung có tính chất trí óc là chính.
Bên cạnh hoạt động học tập của sinh viên là các hoạt động chính trị - xã hội
khác. Đây cũng là nội dung hoạt động đặc trưng ở sinh viên. Việc tham gia của
họ vào các tổ chức chính trị - xã hội như Đồn thanh niên, Hội sinh viên… vừa
có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhân cách toàn diện của họ, vừa góp
phần khơng nhỏ vào sự thành cơng của các thể chế chính trị - xã hội.
Bao quát hơn tất cả các hoạt động phong phú, đa dạng của sinh viên là
những quan hệ giao lưu, giao tiếp với hàng loạt mối quan hệ xã hội đan xen với
nhau. Hoạt động giao lưu này chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển đời sống
tâm lý, nhân cách, hành động của sinh viên.
1.2.4. Nội dung của giáo dục pháp luật cho sinh viên
Nội dung GDPL là yếu tố quan trọng của quá trình GDPL. Việc xác định
đúng nội dung GDPL là sự đảm bảo cần thiết để GDPL có hiệu quả thiết thực.
Xây dựng được nội dung GDPL phù hợp sẽ giúp việc GDPL có hiệu quả cho cả
việc học và khả năng ứng dụng của người học. Để xây dựng nội dung chương
trình GDPL tốt phải căn cứ vào nhiều yếu tố, như căn cứ vào đối tượng học, mục
17


tiêu của giáo dục đại học, mục tiêu của GDPL, mục tiêu đào tạo của ngành. Nội
dung cơ bản của GDPL được xác định với các mức độ thích hợp cho từng loại đối

tượng trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu, đặc điểm của từng đối tượng.
Nội dung GDPL cho sinh viên không phải được xây dựng cố định mà phải
được hiệu chỉnh hoặc được thay đổi cho phù hợp với thực tiễn của xã hội và thực
tiễn của pháp luật. Vì vậy, người dạy phải ln cập nhật những vấn đề mới,
những thay đổi trong xã hội, trong các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, những thay đổi của pháp luật, những nhu cầu của xã hội đối với
người lao động để xây dựng, điều chỉnh nội dung giảng dạy cho phù hợp, giúp
người học cập nhật được những kiến thức và có khả năng ứng dụng kiến thức tốt
vào cuộc sống.
Nội dung GDPL tại các trường đại học được chia thành hai nhóm:
Nhóm thứ nhất là nhóm kiến thức chung về pháp luật. Những kiến thức
chung này bao quát được các nội dung như sau: Những vấn đề lý luận chung về
nhà nước và pháp luật (Quy định tại Điều 24 Luật phổ biến, GDPL số
14/2012/QH13 ngày 20/6/2012). Trong đó, sinh viên được làm quen với những
vấn đề khái quát chung về Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
những vấn đề khái quát chung về pháp luật; các quy phạm pháp luật và hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật; các quan hệ pháp luật; quy định về thực hiện
pháp luật, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý và một số ngành luật cơ bản
trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Mục tiêu của phần này là sinh viên nắm bắt được những kiến thức cơ bản về
nhà nước và pháp luật như nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước và pháp
luật. Từ đó sinh viên xác định được vai trò của nhà nước và pháp luật trong đời
sống xã hội, xây dựng niểm tin ở sinh viên vào bộ máy nhà nước Việt Nam và
nắm được những nội dung mở đầu về pháp luật.
Nhóm thứ hai là những quy định hiện hành về kiến thức pháp luật phù hợp
với ngành nghề của từng đối tượng học, giúp người học lĩnh hội kiến thức pháp
lý cần thiết trong lĩnh vực hoạt động của mình trong nghề nghiệp tương lai. Nội
dung GDPL theo ngành nghề còn bao gồm một số luật thực định, liên quan trực
18



tiếp đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng giáo dục, các quyền và nghĩa vụ của
công dân trong lĩnh vực hoạt động và các trình tự giải quyết tranh chấp phổ biến
liên quan trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Như vậy, chúng ta thấy rằng nội dung GDPL cho sinh viên hiện nay là
tương đối rộng, khá bao quát để sinh viên nắm bắt được những kiến thức chung
về Nhà nước và pháp luật và cả kiến thức pháp lý có liên quan đến lĩnh vực
chun mơn.
1.2.5. Hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.2.5.1. Hình thức giáo dục pháp luật cho sinh viên
Hình thức GDPL cho sinh viên là hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình
GDPL thể hiện nội dung GDPL. Hình thức GDPL có vai trò rất quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả GDPL. Việc lựa chọn hình thức GDPL phải trên cơ sở
phù hợp với điều kiện, đặc điểm của đối tượng giáo dục và dựa trên tiêu chí: tính
phù hợp với đối tượng GDPL; tính khả thi trong điều kiện thực hiện; tính hiệu
quả của hình thức được chọn. Theo đó GDPL cho sinh viên là quá trình tổ chức
GDPL, chuyển tải nội dung GDPL cho sinh viên - một đối tượng đặc biệt, ở trong
một môi trường đặc biệt và sẽ giữ vị trí đặc biệt trong tương lai của gia đình,
cộng đồng, quốc gia, quốc tế. Vì vậy, hình thức GDPL cho đối tượng này địi hỏi
tính linh hoạt, đa dạng và khách quan.
Giáo dục pháp luật tại các cơ sở giáo dục đại học được thực hiện thông qua
2 hình thức, đó là:
Một là, GDPL cho sinh viên được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động
dạy học chính khóa là mơn học pháp luật đại cương, các môn pháp luật chuyên
ngành tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học. Hình thức dạy học
chính khóa được quy định trong các chương trình đào tạo các ngành hiện nay do
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Hiện nay, môn học Pháp luật đại cương hay Lý
luận Nhà nước và Pháp luật là bắt buộc kể từ khi thực hiện Chỉ thị số
45/2007/CT-BGDĐT ngày 17/8/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng
cường công tác phổ biến, GDPL trong ngành giáo dục. Theo quy định của Bộ

Giáo dục và Đào tạo thì môn Pháp luật đại cương phải bao gồm những kiến thức
19


về Nhà nước và Pháp luật, quan hệ trách nhiệm pháp lý, các quy phạm pháp luật,
văn bản pháp luật, hệ thống pháp luật, cấu trúc bộ máy nhà nước, chức năng thẩm
quyền, địa vị pháp lý của cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước Việt Nam.
Với hình thức này, chương trình đào tạo được triển khai theo quy định
chung, nội dung phù hợp với đối tượng giáo dục là sinh viên; hệ thống tài liệu
đầy đủ. Song vẫn còn hạn chế ở chỗ, nội dung GDPL vẫn nặng về lý thuyết, chủ
yếu cung cấp nội dung các điều luật mà chưa đi sâu vào rèn luyện kỹ năng ứng
xử, kỹ năng vận dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề thực tế của cuộc sống,
chưa thu hút sự hứng thú học tập của đông đảo sinh viên. Theo kết quả khảo sát
100 giảng viên và 900 sinh viên học năm thứ hai ở các trường đại học về chương
trình giảng dạy mơn pháp luật đại cương cho thấy, tỷ lệ giảng viên và sinh viên
đánh giá chương trình mơn pháp luật đại cương khơng đáp ứng được yêu cầu là
5% và 11% [46]
Hai là, GDPL được tổ chức dưới hình thức các hoạt động ngoại khóa và các
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Trừ “tuần sinh hoạt cơng dân” đầu khóa là
bắt buộc, cịn các hoạt động GDPL khác là do các trường đại học chủ động tổ
chức thực hiện. Hình thức GDPL ngoại khóa chủ yếu được thực hiện thơng qua
các hình thức như: các hội nghị tập huấn; biên soạn, phát hành các loại tài liệu, tờ
rơi..; lồng ghép tích hợp trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: tham gia
các câu lạc bộ pháp luật; tham gia các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật; tham gia
các hoạt động tình nguyện; tham dự các phiên tịa thật sự hoặc tổ chức phiên tòa
giả định cho sinh viên thực hiện tại trường; lồng ghép vào các hoạt động như thi
diễn kịch, diễn văn nghệ, các buổi nói chuyện chuyên đề, giới thiệu các văn bản
mới trong những buổi sinh hoạt thường kỳ…
Ưu điểm của hình thức này là các hoạt động giáo dục được tổ chức đa dạng,
linh hoạt, phong phú và hấp dẫn hơn đối với sinh viên. Nội dung truyền tải ngắn

gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ và sinh động hơn, tránh được sự khô khan, cứng
nhắc, tác động trực tiếp đến ý thức pháp luật của sinh viên. Tuy nhiên hạn chế
của các hoạt động này là tổ chức khơng thường xun.
Như vậy có 2 hình thức để thơng qua đó chủ thể làm cơng tác giáo dục thực
20


hiện GDPL, tuy nhiên tùy vào từng đối tượng người học mà hình thức thực hiện
sẽ khác nhau. Qua đó ta thấy người làm công tác giáo dục phải hiểu rõ đặc điểm
đối tượng người học để tìm ra những hình thức giáo dục sao cho phù hợp nhằm
mang lại hiệu quả tốt nhất.
1.2.5.2. Phương pháp giáo dục pháp luật
Phương pháp GDPL là hệ thống cách thức sử dụng để tiến hành hoạt động
GDPL. Là một thành tố cấu thành quá trình giáo dục, phương pháp GDPL cho
sinh viên chịu tác động định hướng của mục đích, nhiệm vụ giáo dục nói chung
và của giáo dục đại học nói riêng được quy định bởi nội dung GDPL và đặc điểm
của đối tượng GDPL là sinh viên đại học. Hiện nay, theo quan điểm tiếp cận của
khoa học giáo dục thì phương pháp GDPL gồm có các nhóm phương pháp, đó là
các phương pháp tác động đến nhận thức, các phương pháp tác động đến tình
cảm, các phương pháp hình thành hành vi thói quen. Cịn theo quan điểm tiếp cận
của các nhà khoa học pháp luật thì phương pháp GDPL bao gồm: phương pháp
áp dụng trong các hoạt động GDPL cụ thể (phương pháp thuyết giảng, phương
pháp nêu vấn đề, phương pháp đóng vai…) và các phương pháp tổ chức GDPL.
Theo đó, về cơ bản, phương pháp GDPL cho sinh viên bao gồm các nhóm
phương pháp sau:
Thứ nhất, nhóm phương pháp thuyết phục. Đây là nhóm phương pháp cơ
bản tác động lên nhận thức và tình cảm của sinh viên nhằm hình thành khái niệm,
tri thức và niềm tin đúng đắn về pháp luật, tạo điều kiện cho sinh viên hình thành
thói quen và hành vi xử sự theo u cầu của pháp luật. Phương tiện được sử dụng
trong nhóm phương pháp này phong phú và đa dạng như ngôn ngữ, sách báo,

khẩu hiệu, các phương tiện kỹ thuật hiện đại, phát thanh, truyền hình, internet.
Những phương pháp được sử dụng trong nhóm là: phương pháp diễn giảng;
phương pháp vấn đáp; phương pháp thảo luận; phương pháp sử dụng sách giáo
khoa, tài liệu và internet (được sử dụng nhiều khi giảng viên hướng dẫn sinh viên
tự học, tự nghiên cứu nhằm mở rộng thêm kiến thức); phương pháp dạy học nêu
vấn đề (giảng viên đưa ra tình huống mâu thuẫn, có vấn đề, tạo cho sinh viên cảm
21


×