Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Cac doi canh quan cua vong dai on hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.8 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>CÁC ĐỚI CẢNH QUAN CỦA VÒNG ĐAI ƠN HỊA</b>



Ranh giới của vịng đai ơn hồ với vịng đai nóng được vạch theo đường đẳng nhiệt 200<sub>C của nhiệt</sub>


độ trung bình năm, ranh giới này gần trùng với vĩ tuyến 300<sub> ở cả Bắc và Nam bán cầu. Cán cân bức</sub>


xạ ở đây là 20 - 60 kcal/ cm2<sub>/năm. Vịng đai này có biên độ nhiệt độ trong năm lớn do vị trí của Mặt</sub>


Trời cao về mùa hè, thấp về mùa đông. Điều kiện nhiệt độ cho phép thực vật phát triển, những nơi
khơng có rừng khơng phải do thiếu nhiệt mà do thiếu ẩm.


Trong vòng đai ơn hồ có thể phân biệt 3 khu vực: khu vực phía Tây các lục địa, khu vực trung
tâm các lục địa và khu vực phía Đơng các lục địa, gồm 6 đới: đới rừng taiga, đới rừng hỗn hợp và
rừng lá rộng, đới thảo nguyên - rừng, đới thảo nguyên, đới nửa hoang mạc, đới hoang mạc.


<i><b>1. Đới rừng taiga</b></i>


<i>Đới rừng taiga là đới cảnh quan rừng đặc trưng cho vịng đai ơn hồ, chỉ có ở Bắc bán cầu.</i>
Taiga là các rừng lá kim và lá nhỏ, có cấu trúc đơn giản, gồm các lồi thơng, tùng, lãnh sam sinh
trưởng trong điều kiện khí hậu lạnh ẩm.


Rừng taiga tập trung ở Bắc Mĩ, phần châu Âu thuộc Liên Xô cũ và ở Xibia. Đây là vùng có
mùa đơng lạnh và khắc nghiệt: nhiệt độ trung bình các tháng lạnh nhất từ -100<sub>C đến -40</sub>0<sub>C, đặc biệt</sub>


ở Đông Xibia nhiệt độ tối thiểu tuyệt đối đạt tới -710<sub>C. Mùa hạ ấm, nhiệt độ tháng nóng nhất từ</sub>


130<sub>C đến 19</sub>0<sub>C, lượng mưa từ 400 - 600 mm/năm, nhưng bốc hơi ít hơn, mạng lưới sơng dày đặc, có</sub>


nhiều đầm lầy, nước ngầm nằm khơng sâu. Điều kiện khí hậu, thuỷ văn như vậy tạo thuận lợi cho
việc hình thành các loại đất đông kết dưới rừng taiga, đất pốtzơn hóa, đất pốtzơn hóa cỏ thứ cấp và
đất đầm lầy.



Rừng Taiga có cấu trúc đơn giản nên giới động vật cũng khơng giàu thành phần lồi. Chủ yếu
là động vật sống trên cây như sóc, chim, cú, khơng có các lồi sống thành từng đàn trên mặt đất, ít
lồi đào hang. Các lồi chủ yếu là linh miêu, gấu nâu, hải li, hoẵng, chồn trắng, chim sáo, cú, v.v…


<i><b>2. Đới rừng hỗn hợp và rừng lá rộng</b></i>


Đới rừng hỗn hợp và rừng lá rộng có ở vùng có khí hậu ơn đới hải dương ấm và ẩm. Tại Bắc
bán cầu, đới này bao chiếm phần phía Đông nước Mĩ, Tây Âu (trừ khu vực Địa Trung Hải) và Viễn
Đông (Nga). Ở bán cầu Nam, đới này chỉ phân bố dọc bờ Tây Nam Mĩ - cho tới 380<sub>N. </sub>


Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất thay đổi từ -120<sub>C đến +5</sub>0<sub>C, tháng nóng nhất từ 16</sub>0<sub>C đến</sub>


210 <sub>C, lượng mưa từ 500 - 1000 mm/năm. Mạng lưới sơng dày đặc, có nhiều đầm lầy, nước ngầm</sub>


nằm khơng sâu. Dưới rừng hỗn hợp có đất pốtzơn, dưới tán rừng có cỏ là đất pốtzơn hóa - cỏ thứ
cấp; nơi đầm lầy có đất đầm lầy, than bùn. Điều kiện hình thành đất dưới rừng lá rộng khác với
rừng hỗn hợp. Lượng mùn với thành phần kiềm được tích luỹ nhiều hơn, vì thế đất giàu phì liệu, có
màu nâu nên gọi là đất nâu. Tùy điều kiện khí hậu, nếu q trình rửa trơi mạnh hơn thì hình thành
đất xám và nếu q trình tích lũy mùn cao hơn thì đất nâu sẫm được hình thành.


Trong đới rừng hỗn hợp, các quần thể hỗn hợp cây lá rộng xen lá kim, giàu thành phần loài hơn
rừng taiga và có khá nhiều lồi cỏ. Cùng mọc với các lồi thơng, tùng, vân sam là các lồi cây lá
rộng như phong, sồi, dẻ, bạch dương, trần bì.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i><b>3. Đới thảo nguyên rừng</b></i>


Đới thảo nguyên rừng là đới chuyển tiếp từ đới rừng sang đới thảo nguyên, với đặc trưng là sự
xen kẽ của những khoảng rừng và các khoảng đồng cỏ. Đới này tập trung thành dải liên tục ở Xibia,
phần châu Âu thuộc Liễn Xô cũ, trung tâm đại lục Bắc Mĩ bao quanh đới thảo ngun và khơng có


ở bán cầu Nam.


Ở đới thảo ngun rừng khí hậu ấm và khơ khan hơn. Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất từ
-50<sub>C đến +20</sub>0<sub>C, tháng nóng nhất từ 18</sub>0<sub>C đến 25</sub>0<sub>C, lượng mưa giảm chỉ cịn từ 400 - 1000</sub>


mm/năm, thỉnh thoảng có hạn hán. Các con sơng có lũ vào mùa xn, ít đầm lầy, chỉ có ở những
vùng đất thấp. Thành phần tiêu biểu của vỏ phong hóa là canxi. Có các loại đất rừng màu nâu và đất
đen, có cả hiện tượng xơlơnsắc. Các dạng địa hình có tính địa đới là mạng lưới dày đặc các rãnh và
máng xâm thực và ở trên đất bằng là các máng lòng đĩa.


Thực vật là hỗn hợp các loài của rừng và của thảo nguyên. Tại các khoảng đồng cỏ, các giống
thực vật thuộc họ Hoà thảo ưa ẩm. Trong các đảo rừng là các loài cây rụng lá như sồi, bạch
dương, đoạn, tần bì, tùng, thơng. Hệ động vật cũng giống như hệ thực vật là khơng có giống riêng
biệt.


<i><b>4. Đới thảo nguyên </b></i>


Thảo nguyên phát triển trong điều kiện địa hình bằng phẳng, khí hậu nóng và khơ hơn đới thảo
nguyên rừng. Đới này phát triển rộng rãi ở Bắc Mĩ, ở phía Nam đồng bằng Tây Xibia và Mơng Cổ. Đới
này khơng có ở bán cầu Nam theo đúng nghĩa của nó, bởi cảnh quan thảo nguyên ở đây chỉ là một diện
đơn lẻ ở phía Đơng đồng bằng thấp Laplata (đồng cỏ Pămpa).


Ở đới thảo nguyên nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất từ 00<sub>C </sub>


đến 200<sub>C, tháng nóng nhất từ 20</sub>0<sub>C đến 23</sub>0<sub>C, lượng mưa chỉ có từ </sub>


140 - 550mm/năm, tập trung vào đầu mùa hạ. Do khí hậu khơ, mạng lưới sơng thưa thớt, sơng ít
nước, chảy quanh co và chậm chạp, khơng có những hồ lớn. Chính vì thế, trên thảo ngun thường
xun xảy ra hạn hán, gió khơ, bão bụi. Nước ngầm nằm sâu và bị khống hóa, thường là loại
sunfat hay sunfat-clorua. Vỏ phong hóa sialit-cácbonát. Ngồi các loại đất secnôziom, đất



xécnôziom - đồng cỏ và đất hạt dẻ cịn có đất xơlơnsắc (đất mặn) và xơlơnét (kiềm mặn). Các dạng
địa hình có tính địa đới là các máng trũng dạng lòng chảo, rãnh xâm thực, máng xâm thực, máng
trũng và ở Bắc Mĩ là địa hình đất xấu (bad land).


Thực vật chính là các lồi cỏ rậm và cao, cịn cây bụi gai và một số rất ít cây thân gỗ chỉ mọc ở
dọc các thung lũng, các chỗ trũng sâu. Động vật ở đây có nhiều lồi gặm nhấm và các lồi ăn cỏ,
đặc biệt là các loài sống thành đàn là sơn dương vằn, thỏ, dúi, hoẵng, các loài chim như chim diều,
đại bàng, kền kền...


<i><b>5. Đới nửa hoang mạc</b></i>


Đây là đới chuyển tiếp giữa các thảo nguyên và hoang mạc, còn gọi là đới thảo nguyên hoang
mạc hay thảo nguyên khô khan. Đới này phát triển ở vùng Cazăcxtan, lan sang Trung Á với một số
chỗ bị đứt đoạn, có mặt ở các cao nguyên thuộc Bắc và Nam Mĩ và khơng có ở Tây Âu.


Tại đới này, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất ở Bắc bán cầu từ


-160<sub>C đến -4</sub>0<sub>C, tháng nóng nhất từ 22</sub>0<sub>C đến 25</sub>0<sub>C. Ở bán cầu Nam các chỉ số tương ứng là 4 - 5</sub>0<sub>C </sub>


và 10-180<sub>C. Lượng mưa chỉ có từ 150 - 400 mm/năm, mạng lưới sông thưa thớt, mùa hạ sông cạn </sub>


hơn, nhiều hồ trở nên khô cạn. Nước ngầm nằm sâu và bị khống hóa (sunfat - clorua). Trong vỏ
phong hóa tích tụ các thành phần như cacbonat, sunfat, muối ăn. Các loại đất chính là đất hạt dẻ
sáng và đất nâu hoang mạc - thảo ngun, đất xơlơnet. Các dạng địa hình đặc trưng là các cồn cát
do gió tạo thành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

pha trộn giữa các giống thảo nguyên và các giống hoang mạc.


<i><b>6. Đới hoang mạc</b></i>



Đới này chiếm một diện tích đáng kể ở vịng đai ơn hồ, đặc biệt ở phía Tây Bắc Mĩ (Bồn địa
lớn) và Trung Á. Các hoang mạc như vậy khơng có ở bán cầu Nam. Khí hậu của đới hoang mạc ơn
đới rất khắc nghiệt. Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất từ -150<sub>C đến 0</sub>0<sub>C, tháng nóng nhất từ 22</sub>0<sub>C</sub>


đến 320<sub>C, nhiệt độ tối đa tuyệt đối tới 50</sub>0<sub>C và đất cát trong những ngày oi bức bị hun nóng tới</sub>


800<sub>C. Lượng mưa chỉ có từ 75 - 250 mm/năm, mùa hạ mưa ít nhất, dịng chảy trên mặt hầu như</sub>


khơng có dịng thường xun, chỉ có một số dịng tạm thời. Nước ngầm nằm sâu và thường bị mặn,
các hồ đều mặn. Trong điều kiện khơ khan, phong hóa vật lí thống trị, trong đất tích tụ các loại
muối, có đất nâu, nâu xám, xơlơnsắc. Các dạng địa hình đặc trưng là các cồn cát, các bờ dốc vách
đứng, các tacưa (vùng đất sét nứt nẻ).


</div>

<!--links-->

×