Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đề tài thực trạng tăng trưởng và bất bình đẳng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.46 KB, 30 trang )

Đề án môn học

MỤC LỤC
Lời mở đầu.......................................................................................................2
I.Tăng trưởng và các thước đo đánh giá tăng trưởng....................................................3
1. Tăng trưởng......................................................................................................................3
2. Các thước đo đánh giá tăng trưởng..............................................................................3

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đã chứng kiến những chuyển biến rất tích cực
trong những năm vừa qua, trong đó nổi bật nhất là sự tăng trưởng mạnh mẽ
trong đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và xuất khẩu. Trong năm 2007, Việt
Nam đã thu hút trên 20 tỷ đô la Mỹ FDI, tăng gấp đôi so với năm trước và
kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 50 tỷ đô la Mỹ, tăng 21,5% so với năm 2006.
Việc gia nhập WTO đối với Việt Nam là tích cực, qua đó góp phần giúp nền
kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao và ổn định ở mức 8,5% trong năm
2007 – tốc độ tăng trưởng cao kỷ lục đối với Việt Nam trong những năm gần
đây. Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, cũng cần phải thấy rõ nền kinh
tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức như chỉ số giá tiêu dùng
tăng cao, nhập siêu lớn, chất lượng tăng trưởng của một số ngành chưa bền
vững, năng lực cạnh tranh ở các cấp độ còn hạn chế, đặc biệt là tình trạng bất
bình đẳng trong thu nhập giữa người giàu và người nghèo có sự gia tăng. Để
đạt được mục tiêu trở thành nước thu nhập trung bình vào năm 2010, đã đến
lúc phải đảm bảo tăng tối đa đối tượng dân cư được thụ hưởng những kết quả
Bùi Diễm My

1

Lớp: KTPT 47A-QN



Đề án mơn học

phát triển này. Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng và bất
bình đẳng thu nhập là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa. Làm thế nào để định
lượng phân phối thu nhập tại VN? Phải chăng có sự đánh đổi giữa các mục
tiêu tăng trưởng và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo? Chính phủ cần có chính
sách gì để dung hồ hai mục tiêu này? Bài đề án này sẽ giúp chúng ta trả lời
được những câu hỏi đó.

Bùi Diễm My

2

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án mơn học

Chương 1. Cơ sơ lí luận của bất bình đẳng
I.Tăng trưởng và các thước đo đánh giá tăng trưởng
1. Tăng trưởng
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm). Sự gia tăng được thể hiện ở
quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn
tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh
sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kì. Khi nghiên cứu tăng trưởng kinh
tế của một nước cần phải quan tâm đến mối quan hệ giữa quy mô và tốc độ
tăng trưởng. Mối quan hệ này thường được phản ánh thông qua lượng tuyệt
đối trong 1% tăng thêm như thế nào. Thu nhập của nền kinh tế có biểu hiện
dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ

tiêu GDP, GNI và được tính cho tồn thể nền kinh tế hoặc tính bình qn trên
đầu người.
Chúng ta cần phải quan tâm đến số lượng và chất lượng của tăng trưởng.
Dưới góc độ triết học, lượng được nhận biết qua thuộc tính bên ngồi của tăng
trưởng và chất được biểu hiện qua thuộc tính bên trong của tăng trưởng. Dấu
hiệu của thuộc tính bên ngồi là xem xét qua động thái của tăng trưởng theo
đó biết được nền kinh tế tăng trưởng nhanh hay chậm, nhiều hay ít (quy mơ).
Cịn dấu hiệu của thuộc tính bên trong là tính bền vững và tính hiệu quả của
tốc độ tăng trưởng. Trong đó dấu hiệu của tăng trưởng kinh tế về lượng và có
tính bền vững là khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh trong dài hạn,
nguồn lực nào cho tăng trưởng kinh tế, khả năng bảo tồn và tái tạo tài nguyên
(nhấn mạnh vấn đề tăng trưởng kinh tế đi kèm bảo vệ tài nguyên mơi trường).
Và dấu hiệu phản ánh tính hiệu quả là cơ cấu, yếu tố cấu thành giá trị hàng hóa.
2. Các thước đo đánh giá tăng trưởng
Các yếu tố cấu thành giá trị hàng hóa bao gồm chi phí sức lao động, chi
phí mua nguyên vật liệu, chi phí nhà xưởng… Hay nói cách khác các yếu tố

Bùi Diễm My

3

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án mơn học

cấu thành giá trị hàng hóa bao gồm chi phí trung gian (IC) và giá trị gia tăng
(VA). Muốn tăng GDP phải tăng giá trị gia tăng, với dấu hiệu thể hiện ở cơ
cấu, tỉ lệ đóng góp của các yếu tố đầu vào.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về

lượng của nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền
với tính bền vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao.
Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục,
có hiệu quả của chỉ tiêu quy mơ và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người.
Hơn thế nữa, quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trị quyết
định là khoa học, công nghệ, vốn nhân lực, trong điều kiện một cơ cấu kinh tế
hợp lí.
Thước đo của sự tăng trưởng kinh tế thường được thể hiện bằng một số chỉ
tiêu như sau:
2.1. Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross output) : là tổng giá trị sản phẩm vật
chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong
một thời kì nhất định (thường là 1 năm).
Có 2 cách tính GO :
Theo đầu vào GO = VA + IC
Theo đầu ra

GO = Tổng doanh thu

2.2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross domestic product) : là tổng giá trị
sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kì nhất định.
Có 3 cách tính GDP :
Tiếp cận từ sản xuất GDP = VA = tổng của VAi với VAi = GOi – ICi
trong đó VA: giá trị gia tăng của tồn nền kinh tế; VAi: giá trị gia tăng ngành
I; GOi : tổng giá trị gia tăng ngành i; ICi : chi phí trung gian của ngành i
Tiếp cận từ chi tiêu GDP = C + G + I + (X – M) với C là tiêu dùng
cuối cùng của hộ gia đình, G là chi tiêu của chính phủ, I là đầu tư tích lũy tài
sản, X – M là giá trị kim ngạch xuất khẩu trừ kim ngạch nhập khẩu.
Bùi Diễm My


4

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án môn học

Tiếp cận từ thu nhập GDP = W + R + In + Pr + Dp + Ti với W là thu
nhập của người lao động dưới hình thức tiền cơng và tiền lương, R là thu nhập
của người có đất cho thuê, In là thu nhập của người có tiền cho vay, Pr là thu
nhập của người có vốn, Dp là khấu hao vốn cố định, Ti là thuế kinh doanh.
2.3. Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross national income) : là tổng thu
nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân của một nước tạo
nên trong một khoảng thời gian nhất định.
GNI hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập và được điều chỉnh
theo con số chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài
GNI = GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài
Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài = thu nhập lợi tức nhân tố từ
nước ngoài – chi trả lợi tức nhân tố ra nước ngoài
2.4. Thu nhập quốc dân (NI – National income): là phần giá trị sản phẩm vật
chất và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định
NI = GNI – Dp
2.5. Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI – Natinal Disposable Income): là phần
thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần trong
một thời kì nhất định.
NDI = NI + chênh lệch về chuyển nhượng hiện hành với nước
ngồi
2.6. Thu nhập bình qn đầu người (GDP/người, GNI/người). Chỉ tiêu này
phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số. Quy mơ và tốc
độ tăng thu nhập bình qn đầu người là những chỉ báo quan trọng phản ánh

và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung. Sự gia tăng liên tục với
tốc độ ngày càng cao của chỉ tiêu này là dấu hiệu thẻ hiện sự tăng trưởng bền
vững và nó cịn được sử dụng trong việc so sánh mức sống dân cư giữa các
quốc gia với nhau.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng thu nhập quốc dân (GNI), tổng giá
trị sản xuất (GO), thu nhập quốc dân (NI), thu nhập quốc dân sử dụng (NDI),
Bùi Diễm My

5

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án mơn học

thu nhập bình qn đầu người (GDP/người, GNI/người) là các thước đo của
các trạng thái tăng trưởng kinh tế. Mỗi chỉ tiêu trên đều có ý nghĩa nhất định
và được sử dụng tùy theo từng mục đích nghiên cứu. Nó là những số đo mang
tính chất tương đối các trạng thái và tốc độ biến đổi của tăng trưởng kinh tế.
II. Bất bình đẳng thu nhập và các thước đo đánh giá
1. Bất bình đẳng
Tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập biểu hiện với những
mức độ khác nhau ở các quốc gia. Bất bình đẳng trong phân phơi thu nhập là
có sự khác biệt lớn về tình trạng thu nhập giữa các nhóm dân cư khác nhau
trong xã hội. Thu hẹp bất bình đẳng trong phân phối thu nhập đã trở thành
những vấn đề lớn trong quá trình phát triển kinh tế mà được nhiều nước quan
tâm.
2. Các thước đo bất bình đẳng
Thước đo cho bất bình đẳng về phân phối thu nhập đã được các nhà kinh tế và
tổ chức thế giới sử dụng phổ biến trong phân tích và nghiên cứu kinh tế là

đường cong Lorenz, hệ số Gini, tiêu chuẩn 40 và hệ số giãn cách thu nhập
2.1. Đường cong Lorenz
Hình dưới là đồ thị biểu diễn đường cong Lorenz. Trục hoành thể hiện tủ
lệ phần trăm cộng dồn của dân số và được sắp xếp theo thứ tự tăng dần. Trục
tung biểu thị tỉ lệ phần trăm cộng dồn của thu nhập mà mỗi phần trăm dân số
nhận được.
Đường 45 độ trong hình cho biết ở bất kì điểm nào trên đường này đều phản
ánh tỉ lệ phần trăm thu nhập nhận được đúng bằng tỉ lệ phần trăm dân số.
Đường này cịn được gọi là đường bình đẳng tuyệt đối.
Đường cong Lorenz cho thấy mối quan hệ giữa tỉ lệ phần trăm trong tổng thu
nhập nhận được trong khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm).
Khoảng cách giữa đường Lorenz và đường 45 độ cho biết mức độ bình đẳng
trong phân phối thu nhập.

Bùi Diễm My

6

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án mơn học

Các trường hợp có thể xảy ra:
- Bất bình đẳng khơng xảy ra (cơng bằng tuyệt đối) trong phân phối thu nhập
khi đường Lorenz ở dạng đường 45 độ.
- Bất bình đẳng tuyệt đối trong phân phối thu nhập khi đưởng Lorenz ở dạng
đường OCD.
- Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập khi đường cong ở dạng hình vẽ và
nằm trong khu vực giữa đường 45 độ và đường OCD. Trường hợp này xảy ra

phổ biến ở các nước.
Ý nghĩa về vị trí của đường Lorenz:
- Khi đường Lorenz dịch chuyển về đường 45 độ, tình trạng bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập có xu hướng giảm.
- Khi đường Lorenz dịch chuyển ra xa đường 45 độ, tình trạng bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập có xu hướng tăng.
2.2. Hệ số Gini
Đường cong Lorenz thể hiện tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập bằng hình vẽ. Hạn chế của đường Lorenz là khơng lượng hóa được mức
độ cụ thể của tình trạng bất bình đẳng (trên thực tế, các đường cong này cắt
nhau vì có những đoạn nằm gần đường phân giác và có những đoạn lại nằm
xa đường phân giác), vì thế phải sự dụng thước đo tiếp theo bằng con số.

Bùi Diễm My

7

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án môn học

Hệ số Gini là thước đo được sử dụng rộng rãi hiện nay. Dựa vào đường cong
Lorenz có thể xác định được hệ số Gini.
G=
Trong đó:
dt A là diện tích hình A (diện tích nằm giữa đường 45 độ và đường Lorenz), dt
B là diện tích hình B (diện tích tam giác nằm bên dưới đường 45 độ trừ đi
diện tích hình A).
Các trường hợp có thể xảy ra đối với hệ số Gini:

- Hệ số Gini = 0, hồn tồn bình đẳng trong phân phối thu nhập
- Hệ số Gini = 1, hồn tồn bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
- Phổ biến là 0 < G < 1, có xuất hiện tình trạng bất bình đẳng tỏng phân phối
thu nhập.
Theo kết quả nghiên cứu của World Bank, giá trị của hệ số Gini biến động từ
0,2 đến 0,6. Đối với những nước có thu nhập thấp, hệ số Gini biến động từ 0,3
đến 0,5 và những nước có thu nhập cao hệ số biến động từ 0,2 đến 0,4. Trong
đánh giá thu nhập thì hệ số Gini sấp xỉ 0,3 là tốt nhất vì nếu hệ số này mà thấp
hơn 0,3 thì sẽ gia tăng bất bình đẳng, cịn nếu thấp hơn nghĩa là khoảng cách
giữa người giàu và nghèo nhỏ dẫn đến triệt tiêu động lực để thúc đẩy phát
triển.
2.3. Tiêu chuẩn 40% của World Bank
World Bank (2002) đề xuất chỉ tiêu đánh giá tình trạng bất bình đẳng thu
nhập: Tỉ lệ thu nhập chiếm trong tổng thu nhập dân cư của 40% dân số có
mức thu nhập thấp nhất của xã hội. Theo chỉ tiêu này, có 3 mức độ bất bình
đẳng cụ thể sau:
- Khi thu nhập của 40% dân số có mức thấp nhất trong xã hội chiếm tỉ lệ
cao hơn 17% của tổng thu nhập thì tương đối bình đẳng.
- Khi thu nhập của 40% dân số có mức thấp nhất trong xã hội chiếm tỉ lệ từ
12% đến 17% của tổng thu nhập thì tình trạng bất bình đẳng tương đối.

Bùi Diễm My

8

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án môn học


- Khi thu nhập của 40% dân số có mức thấp nhất trong xã hội có tỉ lệ nhỏ
hơn 12% của tổng thu nhập thì tình trạng bất bình đẳng cao.
2.4. Hệ số giãn cách thu nhập
Trong nhiều cơng trình nghiên cứu, chỉ tiêu hệ số giãn cách thu nhập được
sử dụng để đánh giá tình trạng bất bình đẳng thu nhập. Chỉ tiêu này được xác
định bởi mức chênh lệch thu nhập của 20% dân số có thu nhập cao nhất và
20% dân số có thu nhập thấp nhất. Hệ số giãn cách thu nhập (chênh lệch)
càng lớn, tình trạng bất bình đẳng càng cao.
III. Các mơ hình về bất bình đẳng và tăng trưởng kinh tế
1. Mơ hình Kuznets
Trong năm 1955, Simon Kuznets (nhà kinh tế học người Mỹ) đã đưa một
mơ hình nghiên cứu magn tính thực nghiệm nhằm xem xét mối quan hệ giữa
thu nhập và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập được thể hiện
theo hình chữ U ngược. Qua các nghiên cứu Kuznets đã đưa ra giả thiết cho
rằng: bất bình đẳng sẽ tăng ở giai đoạn ban đầu và giảm ở giai đoạn sau khi
lợi ích của sự phát triển được lan tỏa rộng rãi hơn. Nếu biểu diễn mối quan hệ
trên đồ thị sẽ có dạng chữ U ngược. Nguyên nhân của hiện tượng này là do
các yếu tố liên quan đến cầu. Cụ thể, tại thời điểm bắt đầu thực hiện cơng
nghiệp hố, cơng nghệ và thể chế thay đổi sẽ kéo theo nhu cầu về vốn và lao
động có kỹ năng, trong khi hạ thấp vai trị của lao động khơng có kỹ năng.
Sau đó, kỹ thuật mới liên tục xuất hiện (theo nguyên tắc đàn nhạn bay “catching up”), cịn thể chế thì thay đổi chậm hơn. Nhờ đó, thu nhập của đại
bộ phận lao động (chuyên môn kém) cũng được cải thiện bởi vai trò của yếu
tố nhân lực trong cơ cấu sản phẩm lại được chú trọng

Bùi Diễm My

9

Lớp: KTPT 47A-QN



Đề án môn học

Giai đoạn I: đối với một quốc gia thì đây là giai đoạn đầu kinh tế chưa
tăng trưởng, thu nhập bình qn thấp, bất cơng trong phân phối thu nhập thấp.
Giai đoạn II: kinh tế có tăng trưởng, thu nhập bình qn tăng, bất cơng
cũng tăng theo.
Giai đoạn III: kinh tế phát triển, thu nhập bình quân cao, tình trạng bất
cơng lại giảm.
Hạn chế trong mơ hình Kuznets là khơng giải thích được 2 vấn đề quan
trọng. Thứ nhất là khơng giải thích được ngun nhân nào tạo ra sự thay đổi
bất bình đẳng trong quá trình phát triển. Và thứ hai là phạm vi khác biệt giữa
các nước về xu thế thay đổi này trong điều kiện họ sử dụng các chính sách
khác nhau tác động đến tăng trưởng và bất bình đẳng.
2. Mơ hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewis
Dưới dạng tổng quát, A. Lewis cũng nhất trí với Kuznets về nhận xét cho
rằng sự bất bình đẳng tăng lên lúc đầu và sau đó giảm bớt khi đã đạt được tới
mức độ phát triển nhất định. Nhưng tiến thêm một bước, mô hình đã giải
thích được ngun nhân của xu thế này. Trước hết, sự bất bình đẳng tăng lên ở
giai đoạn đầu bởi vì cùng với việc mở rộng quy mơ sản xuất công nghiệp, số
lượng lao động được thu hút vào làm việc ở khu vực này ngày càng tăng lên
nhưng tiền cơng của cơng nhân nói chung vẫn ở mức tối thiểu. Như vậy, trong

Bùi Diễm My

10

Lớp: KTPT 47A-QN



Đề án môn học

khi mức tiền công của công nhân khơng thay đổi thì thu nhập của các nhà tư
bản vừa tăng lên do quy mô mở rộng, vừa tăng lên do lao động công nhân đưa
lại. Ở giai đoạn sau sự bất bình đẳng giảm bớt do khi lao động dư thừa được
thu hút vào khu vực thành thị (sản xuất cơng nghiệp và dịch vụ) thì lao động
trở thành yếu tố khan hiếm trong sản xuất. Nhu cầu lao động ngày càng tăng
thêm đòi hỏi phải tăng tiền lương như vậy sẽ dẫn đến giảm bớt sự bất bình
đẳng.
Trong mơ hình này thì sự bất bình đẳng khơng chỉ là kết quả của tăng
trưởng kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết của tăng trưởng. Sự bất bình đẳng
ở đây cũng có nghĩa là các nhà tư bản và nhóm người có thu nhập cao sẽ nhận
được nhiều hơn. Và họ là những người sử dụng phần tiết kiệm của mình tạo ra
tích lũy mở rộng sản xuất. Bất bình đẳng là điều kiện để người giàu tăng tích
lũy, tăng đầu tư, do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
3. Mơ hình phân phối lại trước, tăng trưởng sau
Mơ hình được đúc kết qua kinh nghiệm phát triển của những quốc gia có
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Ở những quốc gia này,sự phát triên được bắt đầu
bằng cách “tước đoạt của những kẻ tước đoạt”. Nhà nước tiến hành cơng hữu
hóa các nguồn lực chủ yếu của phát triển kinh tế. Các nguồn lực sản xuất
được phân phối lại cho các đơn vị nhà nước và người sản xuất nhỏ trong công
nghiệp cũng như nơng nghiệp dưới hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập
thể.
Hệ quả của phương thức này là ngay lập tức, tình trạng bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập khơng cịn đáng kể. Tuy nhiên, trong dài hạn có 2 hệ quả
có thể xảy ra:
Một là, nếu những người chủ mới bao gồm các đơn vị sản xuất kinh doanh
thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể quản lí có hiệu quả các tài sản và các
nguồn lực sản xuất tốt hơn các chủ cũ thì tăng trưởng kinh tế và phát triển
kinh tế được thực hiện. Như vậy, đồng thời thực hiện được công bằng trong

phân phối thu nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bùi Diễm My

11

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án môn học

Hai là, nếu những người chủ mới khơng thể quản lí có hiệu quả các tài sản
và nguồn lực thì tăng trưởng và phát triển khơng thể đảm bảo thực hiện. Như
vậy, thực hiện được công bằng trong phân phối thu nhập nhưng không thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thực tiễn cho thấy, hệ quả thứ hai thường xuất hiện vì những người chủ
mới chưa đủ kinh nghiệm và năng lực quản lí kinh tế và khả năng tích lũy từ
khu vực cơng và tập thể rất chậm.
4. Mơ hình tăng trưởng đi đơi với bình đẳng của H.Oshima
H.Oshima cho rằng có thể giảm tình trạng bất bình đẳng ngay trong giai
đoạn đầu của quá trình phát triển. Xuất phát từ đặc điểm sản xuất nơng nghiệp
châu Á, q trình phát triển bắt đầu từ khu vực nông nghiệp nên khoảng cách
thu nhập giữa nông thôn và thành thị sẽ được cải thiện ngay từ giai đoạn đầu.
Do việc tập trung phát triển khu vực nơng thơn dựa trên chính sách cải cách
ruộng đất, dựa trên sự trợ giúp của Nhà nước về giống, kĩ thuật, đồng thời
việc mở rộng và phát triển ngành nghề đã làm cho thu nhâp ở khu vực nông
thôn (vốn là khu vực có thu nhập thấp trong xã hội) được tăng dần.
Tiếp đó là q trình cải thiện dần khoang cách thu nhập giữa xí nghiệp có
qui mơ lớn và xí nghiệp có qui mơ nhở ở thành thị, cũng như giữa nông trại
lớn và nông trại nhỏ ở nơng thơn. Q trình này có thể chia làm 2 giai đoạn.
Trong giai đoạn đầu, khoảng cách thu nhập tăng lên do các cơ sở sản xuất lớn

tận dụng được lợi thế về qui mơ và có điều kiện áp dụng kĩ thuật mới. Sau đó
do lợi ích của cơ sở hạ tầng và khả năng áp dụng kĩ thuật mới tăng lên ở các
cơ sở nhỏ, làm cho khoảng cách về thu nhập giảm dần.
Theo Oshima, tiết kiệm sẽ được tăng lên ở các nhóm dân cư, kể cả các
nhóm có thu nhập thấp nhất, vì thu nhập ở họ dần dần thỏa mãn được các
khoản chi và khi đó họ bắt đầu tiết kiệm để trả nợ các khoản vay đầu tư trước
đó và tiếp tục đầu tư phát triển sản xuất và đầu tư giáo dục – đào tạo cho con
em họ.

Bùi Diễm My

12

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án mơn học

5. Mơ hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế của World Bank
Quan điểm này về cơ bản cũng giống quan điểm của Oshima là tăng
trưởng kinh tế đi đơi với bình đẳng hay tăng trưởng đi đôi với giải quyết các
vân đề phúc lợi. Tuy nhiên khác về cách thức tiếp cận để đạt mục tiêu.
Phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế là cách thức phân phối lại các
thành quả của tăng trưởng kinh tế sao cho cùng với thời gian, phân phối thu
nhập dần được cải thiện hoặc ít nhất là khơng xấu đi trong khi q trình tăng
trưởng vẫn tiếp tục. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự lựa
chọn các giải pháp chính sách phân phối lại được xem là quan trọng. Nó bao
gồm chính sách phân phối lại tài sản (của cải) và chính sách phân phối lại từ
tăng trưởng.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, có nhiều nước dựa vào mơ hình tăng nhanh

đầu tư, dù phải chấp nhận gánh nặng nợ nước ngoài ngày càng gia tăng, nghĩa
là tăng trưởng cao bằng mọi giá. Kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế xấp xỉ
2 con số, đồng thời lạm phát cũng gia tăng, nền kinh tế phát triển quá “nóng”,
các nhân tố khủng hoảng kinh tế - tài chính xuất hiện và ngày càng chín muồi
dẫn tới khủng hoảng khơng thể tránh khỏi. Tuy vậy, một số nhà kinh tế vẫn
ủng hộ quan điểm chấp nhận khủng hoảng (khủng hoảng lạm phát cao, khủng
hoảng nợ, khủng hoảng thâm hụt ngân sách nhà nước) và coi đó như một
nhân tố thúc đẩy cải tổ cơ cấu nhanh hơn, có hiệu quả hơn và do đó tiếp tục
đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn. Tóm lại, đây là mơ hình tăng trưởng nhanh
“lồi lõm” nhưng xu hướng chung vẫn đưa nền kinh tế đạt trình độ cao hơn.
Quan điểm thứ hai đang được nhiều nước ủng hộ là tăng trưởng ổn định.
Từ góc độ kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tạo cơ sở vững chắc cho những
bước phát triển trong tương lai, hay còn gọi là tăng trưởng kinh tế “theo
đường thẳng”, nghĩa là khơng có hay giảm thiểu khủng hoảng. Bản chất của
nền kinh tế thị trường thường xuyên phát sinh ra những nhân tố gây khủng
hoảng, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao, nên
các chính sách kinh tế vĩ mơ phải nhạy cảm và thường xuyên được điều chỉnh
Bùi Diễm My

13

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án mơn học

phù hợp với tình hình. Đây khơng phải là một việc dễ dàng. Thêm vào đó, tốc
độ tăng trưởng chỉ có thể duy trì được dài hạn nếu ở mức vừa phải, kinh
nghiệm quốc tế chỉ ra rằng mức đó khơng q 6 – 8%/năm. Muốn quy mơ
GDP năm 2010 gấp đơi so với năm 2000 thì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình

quân hàng năm phải đạt 7,2%, tức là nằm trong khung 6 - 7%/năm.

Bùi Diễm My

14

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án môn học

Chương II. Thực trạng tăng trưởng và bất bình đẳng
tại Việt Nam
I. Tình hình tăng trưởng của Việt Nam trong những năm gần đây
Nước ta hiện nay có tốc độ tăng trưởng kinh tế được đánh giá là cao trong
khu vực. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc
gia có tốc độ tăng trưởng rất cao. Cùng với tăng trưởng kinh tế cao, chất
lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện. Tuy nhiên, theo nhiều
đánh giá trong nước và quốc tế, mặc dù Việt Nam đạt được những kết quả
tăng trưởng cao, nhưng đó là những kết quả tăng trưởng theo chiều rộng chứ
chưa có sức bật tăng trưởng theo chiều sâu. Việt Nam vẫn đang ở trong ranh
giới của những nước kém phát triển theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc.
Năm
g (%)

2001
6.9

2002
7,0


2003
7,3

2004
7,7

2005
7,5

2006
8,2

2007
8,5

So với tốc độ tăng trưởng kinh tế 8,17% của năm 2006. Sau một năm Việt
Nam gia nhập WTO, tăng trưởng GDP của cả nước năm 2007 đã đạt 8,5% là
mức tăng cao nhất trong vòng 10 năm qua. Tổng GDP tính theo giá hiện hành
đạt 1.144 nghìn tỉ đồng, tương đương 71,3 tỉ USD (bình quân đầu người đạt
13,4 triệu đồng - tương đương 835 USD). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch
theo hướng tích cực. Ngành nơng nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do thiên tai,
dịch bệnh nhưng vẫn vươn lên đạt được kế hoạch (đạt tốc độ tăng 3,41%).
Lần đầu tiên trong nhiều năm qua, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao
hơn tốc độ tăng trưởng chung của GDP (nhóm ngành dịch vụ tăng 8,68%, cao
hơn tốc độ tăng 8,29% năm 2006), Nhóm ngành cơng nghiệp và xây dựng
tăng 10,6%. Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng khá cao (20,5%) trong năm
đầu gia nhập WTO. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì chỉ số giá tiêu
dùng năm 2007 cao nhất trong 10 năm (kể từ năm 1997) Theo số liệu từ Tổng
cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 đã tăng tới 2,91% so với

tháng 11. Tính chung cho 12 tháng trong năm 2007, mức tăng của CPI đã lên
Bùi Diễm My

15

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án môn học

đến hai con số (tăng 12,63%) nhưng theo cách tính chỉ số giá bình qn mới,
CPI năm nay chỉ tăng 8,3%, thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việc điều
chỉnh giá xăng dầu tăng (xăng tăng 1.700đ/lít, dầu tăng 2.500đ/kg) vào ngày
22/11/2007 được xem là “cú hích” lớn đẩy giá nhiều mặt hàng và dịch vụ tăng
cao, kéo chỉ số CPI tăng vọt, vượt ra ngoài dự đốn của các nhà hoạch định
chính sách.
Cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển rõ nét theo hướng hiện đại hóa. Trong
thời kỳ 2001-2005, mặc dù nơng nghiệp gặp khó khăn (do hạn hán kéo dài,
dịch cúm gia cầm lan rộng, bão lụt xảy ra liên tục..., gây tổng giá trị thiệt hại
lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng), nhưng nhờ thuỷ sản vẫn tăng khá, nên tính
chung giá trị sản xuất của nhóm ngành nơng - lâm nghiệp và thuỷ sản v ẫn đạt
bình quân trên 5,4%/năm, thì đến năm 2006 giảm cịn 20,4%. Trong khi đó,
các ngành công nghiệp và xây dựng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, tăng tương
ứng từ 22,7% lên 41,5%, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến cũng
không ngừng tăng. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp qua 15 năm liên
tục đạt 2 chữ số. Năm 2005 so với năm 1990, quy mơ giá trị sản xuất tồn
ngành cơng nghiệp gấp trên 7,6 lần, bình quân tăng 14,5%/năm, một tốc độ
tăng vừa cao, vừa liên tục, vừa trong thời gian dài, điều mà trong lịch sử nền
kinh tế, chúng ta chưa bao giờ đạt được. Ngành dịch vụ duy trì khá ổn định ở
mức khoảng 38%. Giá trị sản xuất của ngành dịch vụ tăng bình quân

12%/năm. Tốc độ này giảm sút dần trong 5 năm 1996-2000 với mức tăng
bình quân 6,8%/năm, nhưng trở lại đà tăng trưởng kể từ năm 2001 đến nay.
GDP do nhóm ngành dịch vụ tạo ra năm 2005 ước tăng 8,5%, cao nhất tính từ
năm 1997, và lần đầu tiên kể từ năm 1996, đã cao hơn tốc độ tăng chung của
nền kinh tế.
Năng suất lao động ngày càng tăng. Những ngành có năng suất lao
động tăng cao nhất phải kể đến là ngành khai thác (tăng 17%/năm), ngành
điện, khí đốt, nước (tăng 11,1%) nhờ áp dụng nhiều tiến bộ khoa học và công
nghệ mới trong sản xuất kinh doanh và quản lý. Hệ số vốn đầu tư phát triển so
Bùi Diễm My

16

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án môn học

với tốc độ tăng GDP đã giảm, chứng tỏ hiệu quả đầu tư đã tăng lên, mặc dù
vẫn còn cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, ấn
Độ do chi phí lớn. Xét chung lại, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam
thời kỳ 2001 - 2005 đạt bình quân 4,81%/năm(1).
Thu nhập theo đầu người ngày càng tăng. Trước thời kỳ đổi mới, phần
lớn dân số nước ta sống bằng nghề nông, Việt Nam bị đánh giá là một đất
nước nghèo nàn, lạc hậu, với mức thu nhập bình quân đầu người rất thấp và
có nhiều người trong diện nghèo đói. Đường lối đổi mới và chính sách hội
nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, dẫn
đến nâng cao thu nhập cho người dân. Thu nhập bình quân đầu người năm
2007 của người dân Việt Nam đã đạt 820 USD/năm. So với năm 1995, mức
thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt Nam đã tăng khoảng 2,8 lần.

(Đơn vị: USD/người/năm)

GDP/
người

1995

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

289

402,1 412,9

440

491,9 552,9 639,1 725,1 835,9

Nguồn: Kinh tế Việt Nam 2007 - 2008

Trong khi đó, vài năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu lẫn tỷ lệ nhập siêu
tăng nhanh. Năm 2007 thâm hụt cán cân thương mại đã lên đến trên 10 tỉ
USD, tăng hơn 140% so với cùng kỳ năm trước. Điều đáng lưu ý là, nhập siêu
tập trung chủ yếu vào khu vực kinh tế trong nước, chứng tỏ Việt Nam chưa
tận dụng được thời cơ, chậm khắc phục thách thức do cắt giảm thuế nhập
khẩu theo lộ trình hội nhập đã cam kết. Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng của
chúng ta chưa có thương hiệu riêng hoặc phải dùng thương hiệu của nước
khác khi xuất khẩu, nên không tạo ra được giá cả cạnh tranh với hàng hóa
cùng loại của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Năng lực cạnh tranh quốc gia thấp và khoảng cách tụt hậu so với các nước
trong khu vực có xu hướng tăng. Vào năm 2003, Việt Nam đứng thứ 60 trên

Bùi Diễm My

17

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án môn học

thế giới về năng lực cạnh tranh, tăng 5 bậc so với năm 2002, nhưng giảm 7
bậc so với thứ hạng 53 của năm 2000. Năm 2006, Việt Nam xếp thứ 77/125
quốc gia, tụt 3 hạng so với năm 2005. Xét theo từng tiêu chí, tình hình cụ thể
như sau: thể chế kinh tế xếp thứ 74; kết cấu hạ tầng xếp thứ 83; kinh tế vĩ mô
xếp thứ 53; giáo dục phổ thông và y tế xếp thứ 56; giáo dục đại học xếp thứ
90; hiệu quả của cơ chế thị trường xếp thứ 73; công nghệ xếp thứ 85... Nếu so
sánh năng lực cạnh tranh của Việt Nam với một số nước ASEAN, thì Xin-gapo xếp thứ 26, Thái Lan xếp thứ 35, In-đô-nê-xi-a xếp thứ 50, Phi-lip-pin xếp

thứ 71, Cam-pu-chia xếp thứ 103. Như vậy, Việt Nam chỉ xếp trên Cam-puchia. Các nước Lào, Bru-nây, Mi-an-ma chưa được xếp hạng về năng lực cạnh
tranh. Năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt bậc này cho thấy, Việt
Nam đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có thể bị tụt hậu so với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
II. Thực trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tại Việt Nam
Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao và ổn
định, bình quân khoảng 7% - 8%. Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong công cuộc đổi mới, tuy nhiên hố sâu ngăn cách giàu nghèo lại càng bị
nới rộng ra. Bên cạnh những thành tựu từ tăng trưởng kinh tế mang lại, Việt
Nam đang lỗ lực trong việc giải quyết vấn đề công bằng về thu nhập. Qua
bảng số liệu bên dưới cho thấy thu nhập của người dân giữa thành thị và nông
thôn, giữa các vùng trong cả nước đều tăng nhưng mức thu nhập ở khu vực
thành thị vẫn luôn cao hơn khu vực nông thôn, mức chênh lệch thu nhập ở
khu vực thành thị luôn gấp hơn 2 lần khu vực nông thôn. Tương ứng thu nhập
ở thành thị năm 1999 cao gấp 2,29 lần ở khu vực nông thôn, con số này qua
các năm tương ứng 2,26; 2,15; 2,09 lần. Tuy đã có sự thu hẹp khoảng chênh
lệch nhưng vẫn còn ở mức chậm. Giữa các vùng cũng có sự chênh lệch thu
nhập, giữa vùng Đơng Nam Bộ với vùng Tây Bắc là 3,31 lần. Các vùng Tây
Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc vẫn là những vùng có mức thu
nhập thấp.
Bùi Diễm My

18

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án mơn học

Thu nhập thực tế bình qn đầu người

(Đơn vị: 1000 đồng/người/ tháng)

Cả nước
Phân theo thành thị và nông thôn
Thành thị
Nông thôn
Phân theo vùng
ĐB sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên Hải miền Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
ĐB sông Cửu Long

1999

2002

2004

2006

295

356

448


636

517
225

622
275

815
378

1058
506

488
380
266
317
415
390
833
471

---------

280
210
210
212
253

244
528
342

353
269
197
235
306
345
620
371

Sự chênh lệch thu nhập còn được thể hiện thông qua hệ số GINI. Hệ số
GINI giảm nhẹ trong giai đoạn 2002 – 2004 nhưng đến năm 2006 tăng lên,
đây là kết quả tất yếu đi theo cùng với quá trình phát triển kinh tế. Nền kinh tế
của ta đang chuyển sang cơ chế thị trường thì sự mất cân đối trong phân phối,
việc chênh lệch mức sống và khoảng cách giàu nghèo là khó tránh khỏi, tuy
nhiên khoảng cách này khơng có nghĩa là thu nhập của người nghèo thấp.
Thực tế trong những năm qua, mặt bằng chung thu nhập của Việt Nam đã
được cải thiện, tỷ lệ người nghèo đã giảm đáng kể.
Hệ số Gini từ thu nhập
Năm

Bùi Diễm My

1993

1998


19

2002

2004

2006

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án môn học

Hệ số GINI từ thu nhập

0.35

0.39

0.42

0.41

0.43

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Sự chênh lệch thu nhập còn được thể hiện thông qua khoảng cách chênh
lệch thu nhập của các nhóm thu nhập,mức chênh lệch này qua các năm đều
tăng nhưng chỉ tăng nhẹ. Theo kết quả KSMSHGĐ 2006 hệ số chênh lệch thu
nhập giữa 20% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 20% số hộ có thu nhập

thấp nhất là 8,4 lần, năm 2004 là 8,3% lần.
Chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm giàu nhất với 20% nhóm nghèo
nhất.
10
9
8
7

6.2

6.5

7

7.6

8.1

8.3

8.4

2002

2004

2006

6
5


4.1

4.2

1990

1991

4
3
2
1
0
1993

1994

1995

1999

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê.
Theo phương pháp tính tỷ trọng tổng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập
thấp nhất, nếu tỷ trọng thấp hơn 12% là có sự bất bình đẳng cao, nếu nằm
trong khoảng 12 - 17% là có sự bất bình đẳng vừa; nếu lớn hơn 17% là có sự
tương đối bình đẳng. Các chỉ số thống kê của Việt Nam từ cuộc khảo sát mức
sống qua các năm cho thấy, tỷ trọng này của nước ta năm 1999 là 18,7%, năm
2002 là 18%, năm 2004 là 17,4%, năm 2006 là 17,4%. Như vậy, sự chênh
lệch về thu nhập giữa các nhóm hộ có thu nhập thấp nhất so với các nhóm cịn


Bùi Diễm My

20

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án môn học

lại là giảm. Theo tiêu chuẩn này thì Việt Nam có phân phối thu nhập trong
dân cư ở mức tương đối bình đẳng nhưng đang có xu hướng tăng lên mức bất
bình đẳng vừa hay mức tương đối bất bình đẳng.
Nhìn chung mức chi tiêu bình quân đều tăng qua các năm, năm 2006 tăng
28,9% so với năm 2004, bình quân mỗi năm tăng 13,5%( thời kì 2002 – 2004
là 15,7% một năm). Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì chi tiêu thực tế thời kì
2004 – 2006 tăng 5,2%, thấp hơn mức tăng chi tiêu thực tế 10,3% của thời kỳ
2002 – 2004( Theo điều tra mức sống hộ gia đình 2006 của Tổng cục Thống
Kê).
Tỷ trọng chi ăn uống trong chi tiêu đời sống là một chỉ tiêu đánh giá mức
sống cao hay thấp. Tỷ trọng này càng cao thì mức sống càng thấp và ngược
lại. Việt Nam là một nước nghèo nên tỷ trọng này cịn cao, nhưng đã có xu
hướng giảm rõ rệt: Chi ăn uống trong chi tiêu đời sống từ 57% năm 2002,
năm 2004 xuống đến 53,5% và năm 2006 là 52,8%. Tỷ lệ này năm 2006 của
khu vực thành thị, nơng thơn và hầu hết các nhóm thu nhập đều xuống thấp
hơn năm 2004.
Các gia đình thuộc nhóm hộ trung bình, hộ khá và hộ giàu chi tiêu nhiều
hơn cho các nhu cầu ngoài ăn uống như: Chi mua sắm thiết bị và đồ dùng từ
8,1% năm 2002 lên 9,1% năm 2004 và năm 2006 là 9,2%; chi y tế chăm sóc
sức khỏe tăng từ 6,1% lên 6,3% và năm 2006 tăng lên 6,4%; chi đi lại và bưu

điện tăng từ 10% lên 11% và năm 2006 lên 11,9%. Mức chi tiêu này cũng rất
khác biệt giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo, giữa thành thị và nơng thôn,
các khoản chi tiêu phụ thuộc vào khoản thu nhập mà mỗi nhóm nhận được.
Năm 2006 tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống trong chi tiêu ở thành thị là 43,9%
trong khi ở nơng thơn là 50,2%, cịn năm 2004 tỷ lệ này tương ứng là 44,6%
và 51,1%.
Từ sự chênh lệch trong thu nhập đã kéo theo đó là sự chênh lệch trong chi
tiêu.Nhóm người có thu nhập khá trở lên sẽ có đủ khả năng mua sắm hơn để
phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống ngoài ăn uống, cịn nhóm những người

Bùi Diễm My

21

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án mơn học

nghèo và cận nghèo chỉ có đủ khả năng lo cho nhu cầu thiết yếu. Nhóm hộ
giàu nhất có mức chi tiêu những hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ngoài ăn uống
cao gấp 7,1 lần so với nhóm hộ nghèo nhất, trong đó chi về nhà ở, điện nước,
vệ sinh gấp 8,8 lần; chi thiết bị và đồ dùng gia đình gấp 7,2 lần, chi y tế chăm
sóc sức khỏe gấp 3,9 lần, chi đi lại và bưu điện gấp 12,1 lần, chi giáo dục gấp
5,2 lần, chi văn hóa thể thao giải trí gấp 69,8 lần.(Theo Khảo sát mức sống hộ
gia đình năm 2006). Như vậy, những hộ giàu có điều kiện nhà ở, phương tiện
đi lại, phương tiện sinh hoạt tốt hơn, đồng thời có cơ hội tiếp cận với các dịch
vụ xã hội chất lượng cao hơn.
Trong thời gian qua, chênh lệch tăng tương đối nhanh (bình quân mỗi năm
tăng thêm gần 0,4 lần) và cịn có xu hướng cịn tăng cao hơn nữa trong thời

gian tới. Để vừa đạt tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, đồng thời khắc phục
chênh lệch giàu - nghèo, chênh lệch về kinh tế - xã hội, nước ta cần có những
chính sách thích hợp đẩy mạnh cải cách kinh tế và cải cách hành chính, tiếp
tục hội nhập kinh tế quốc tế, kiểm soát và tái phân phối thu nhập một cách
hợp lý, chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia làm giàu
chính đáng, đồng thời hỗ trợ hơn nữa người nghèo về các mặt để tăng thu
nhập nhằm thoát nghèo, mặt khác có chính sách, có phong trào vận động để
người giàu đóng góp về thuế thu nhập, làm từ thiện...

Bùi Diễm My

22

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án mơn học

Bất bình đẳng trong phân bổ phúc lợi xã hội ở Việt Nam (1998)

Nhóm 20%
dân số

Tổng thu
nhập từ các
quỹ phúc lợi
trên tổng thu
nhập của hộ
(%)


Thu nhập từ các chương trình
(đồng Việt Nam/đầu người/năm)

Chương Trợ giúp Tổng thu
Quỹ bảo
Quỹ bảo trình xóa từ tổ chức nhập từ
hiểm xã
trợ xã hội đói giảm phi chính phúc lợi xã
hội
nghèo
phủ
hội

-

Nhóm 20%
nghèo nhất

15.961

11.282

1.472

1.152

29.868

2,7


Nhóm 20%
thứ 2

42.020

15.597

2.415

554

60.586

3,7

Nhóm 20%
thứ 3

77.120

24.500

1.053

313

102.986

4,8


Nhóm 20%
thứ 4

153.840

23.535

869

298

178.542

6,1

Nhóm 20%
giàu nhất

207.654

21.776

659

443

230.532

3,8


Tổng

99.352
(82,4%)

19.339
(16%)

1.294
120.537
552 (0,5%)
(1,1%)
(100%)

4,4

Số liệu của bảng trên trình bày các khoản thu nhập (tính theo đầu người)
mà các hộ gia đình (xếp theo nhóm ngũ vị phân) nhận được từ những chương
trình phúc lợi của chính phủ và tổ chức phi chính phủ (ước tính của WB từ số
liệu khảo sát mức sống dân cư của Việt Nam năm 1998). Quỹ bảo hiểm xã
hội, chi trả lương hưu và trợ cấp mất sức lao động cho cán bộ công nhân viên
nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, chiếm 82,4% các khoản phúc lợi xã hội.
Quỹ bảo trợ xã hội, chiếm 16% các khoản phúc lợi, bao gồm lương cựu chiến

Bùi Diễm My

23

Lớp: KTPT 47A-QN



Đề án mơn học

binh và trợ cấp gia đình liệt sĩ. Cịn lại là chương trình xóa đói giảm nghèo và
trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ chỉ chiếm trên dưới 1%. Có thể nêu lên
hai nhận xét: 1. Tỷ trọng của hai chương trình đặc thù chống nghèo khá nhỏ
đối với nhóm 20% người nghèo nhất, chỉ tương đương 7,8% phúc lợi xã hội
mà nhóm này nhận được. 2. Nhóm 20% người giàu nhất hưởng phúc lợi xã
hội nhiều hơn nhóm 20% người nghèo nhất đến 7,7 lần.
Trong lĩnh vực y tế và giáo dục, báo cáo UNDP về an sinh xã hội cho biết
nhóm 20% giàu nhất hưởng 45% các trợ cấp y tế, nhóm 20% nghèo nhất chỉ
nhận được 7%; nhóm 20% giàu nhất hưởng 35% các trợ cấp giáo dục, trong
khi nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận có 15%.
III. Tác động của bất bình đẳng trong tăng trưởng kinh tế
Ở quốc gia nào cũng vậy, mục tiêu kinh tế hàng đầu là đạt tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và ổn định. Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế
nhanh và liên tục nhằm phù hợp với xu thế kinh tế thế giới và đáp ứng yêu
cầu nội tại của nền kinh tế: tăng trưởng nhanh và ổn định, thu nhập thực tế
trên đầu người tăng khoảng 7%/năm. Khoảng 30 triệu người, tương đương
một phần ba dân số, đã thoát khỏi cảnh nghèo đói. Tuy nhiên, việc lựa chọn
con đường tăng trưởng lại cực kỳ khó khăn. Thực tế khó có thể phát triển
nhanh, mà giữ vững được trong dài hạn, vì bản thân tăng trưởng kinh tế nhanh
thường chứa đựng nhiều nhân tố gây mất cân đối, thậm chí dẫn tới khủng
hoảng. Nổi bật nhất là hiện tượng tăng trưởng quá nóng, lạm phát tăng và
khơng phải quốc gia nào cũng tìm được cách “hạ nhiệt” an toàn. Trung Quốc
cũng đã nhiều lần tìm các giải pháp để hạ nhiệt nền kinh tế tăng trưởng quá
nóng, có lúc lên tới hai con số. Bên cạnh đó, tính chu kỳ của nền kinh tế
không chừa bất kỳ quốc gia nào, ngay cả đối với những nền kinh tế được gọi
là “thần kỳ”.


Bùi Diễm My

24

Lớp: KTPT 47A-QN


Đề án mơn học

Việt Nam hiện là nước có thu nhập thấp, người nghèo vẫn chiếm tỷ lệ cao.
Vì vậy, cơng cuộc xóa đói giảm nghèo là một chặng đường lâu dài, nhưng
chắc chắn sẽ thành cơng. Chính phủ Việt Nam ln gắn kết các chính sách
xóa đói giảm nghèo bền vững với các chính sách kinh tế, xã hội khác; chính
sách xã hội đối với vùng sâu, vùng xa, giúp người nghèo được thụ hưởng thực
sự từ những chính sách đó. Giao thơng, điện lực, cơ sở hạ tầng ở nông thôn,
phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nghề cho nơng dân... là những lĩnh vực mà
Chính phủ đang dành nhiều ngân sách để đầu tư. Chính phủ Việt Nam nhận
thức được điều này và coi tăng trưởng kinh tế cao, bền vững là điều kiện chủ
yếu và nhân tố quan trọng để rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển kinh
tế của Việt Nam so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, đồng
thời tạo nguồn lực để tăng phúc lợi, cải thiện mức sống nhân dân, giảm nghèo
đói, thực hiện cơng bằng xã hội.
Mới đây Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẳng định phát triển bền vững là con
đường tất yếu mà Việt Nam phải hướng tới. Trong đó bền vững về kinh tế địi
hỏi phải đảm bảo kết hợp hài hồ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hoá xã hội, cân đối tốc độ tăng trưởng kinh tế với việc sử dụng các
điều kiện nguồn lực: tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ, đặc biệt chú
trọng phát triển công nghệ sạch. Bền vững về xã hội là phải xây dựng được
một xã hội trong đó nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định phải đi đôi với
dân chủ công bằng và tiến bộ xã hội, trong đó giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội

phải được chăm lo đầy đủ, toàn diện cho mọi đối tượng trong xã hội. Bền
vững về tài nguyên và môi trường nghĩa là các dạng tài nguyên thiên nhiên
cần được sử dụng tiết kiệm, hợp lý nhất và một số có thể được tái tạo. Môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội nhìn chung khơng bị các hoạt động của
con người làm ơ nhiễm, suy thối và tổn hại. Các nguồn phế thải từ công
nghiệp và sinh hoạt được sử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh môi trường được đảm
bảo, con người được sống trong môi trường trong sạch.

Bùi Diễm My

25

Lớp: KTPT 47A-QN


×