Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Vấn đề vi phạm hợp đồng trước thời hạn theo công ước viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ

NGUYỄN VŨ KIÊN

VẤN ĐỀ VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRƯỚC THỜI HẠN
THEO CƠNG ƯỚC VIÊN VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HĨA QUỐC TẾ

CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ - LUẬT

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
-----------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

VẤN ĐỀ VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRƯỚC THỜI HẠN
THEO CÔNG ƯỚC VIÊN VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN VŨ KIÊN
Khóa: 40

MSSV: 1551101030071

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN TUẤN VŨ


TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Tuấn Vũ, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Người cam đoan

Nguyễn Vũ Kiên


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

CISG

Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

LTM


Luật Thương mại

PECL

Bộ nguyên tắc về Luật Hợp đồng Châu
Âu

UPICC

Bộ nguyên tắc UNIDROIT về Hợp đồng
Thương mại Quốc tế

VPHĐTTH

Vi phạm hợp đồng trước thời hạn


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRƯỚC THỜI HẠN
THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 ..............................................................................6
1.1. Mối quan hệ giữa Công ước viên 1980 và pháp luật hợp đồng Việt Nam ....6
1.2. Tổng quan về vi phạm hợp đồng trước thời hạn theo Công ước viên 1980 ..8
1.2.1.

Khái niệm ................................................................................................8

1.2.2.

Lịch sử hình thành học thuyết vi phạm hợp đồng trước thời hạn .........13


CHƯƠNG 2: TẠM NGỪNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DO VI PHẠM HỢP
ĐỒNG TRƯỚC THỜI HẠN THEO CƠNG ƯỚC VIÊN 1980 ..........................17
2.1. Mục đích áp dụng .............................................................................................17
2.2. Điều kiện áp dụng.............................................................................................17
2.2.1. Mức độ chắc chắn của vi phạm trước thời hạn ........................................18
2.2.2. Mức độ, tính chất của vi phạm trước thời hạn .........................................20
2.2.3. Dấu hiệu thể hiện vi phạm trước thời hạn ................................................22
2.2.4. Trường hợp bên bán đã gửi hàng .............................................................26
2.3. Nghĩa vụ thông báo ..........................................................................................28
2.4. Hệ quả pháp lý ..................................................................................................29
2.4.1. Trong trường hợp tạm ngừng đúng luật ...................................................29
2.4.2. Trong trường hợp tạm ngừng trái luật ......................................................32
2.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................................33
CHƯƠNG 3: HỦY BỎ HỢP ĐỒNG DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRƯỚC
THỜI HẠN THEO CƠNG ƯỚC VIÊN 1980.......................................................38
3.1. Mục đích áp dụng .............................................................................................38
3.2. Điều kiện áp dụng.............................................................................................38
3.2.1. Mức độ chắc chắn của vi phạm trước thời hạn ........................................39
3.2.2. Mức độ, tính chất nghiêm trọng của vi phạm ..........................................40
3.2.3. Điều kiện áp dụng trong hợp đồng giao hàng từng phần .........................42
3.3. Nghĩa vụ thông báo ..........................................................................................45
3.3.1. Trường hợp áp dụng Điều 72 Công ước Viên 1980.................................45
3.3.2. Trường hợp áp dụng khoản 2 Điều 73 Công ước Viên 1980 ...................47
3.4. Hệ quả pháp lý ..................................................................................................47
3.4.1. Trường hợp căn cứ hủy bỏ hợp đồng đúng luật .......................................47
3.4.2. Trường hợp căn cứ hủy bỏ hợp đồng trái luật ..........................................49
3.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................................50



KẾT LUẬN ..............................................................................................................55


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 18/12/2015, Việt Nam chính thức phê duyệt việc gia nhập Cơng ước
Liên Hợp Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 (“CISG” hoặc
“Công ước viên 1980”) và trở thành thành viên thứ 84 của điều ước quốc tế này.
CISG có hiệu lực tại Việt Nam vào ngày 01/01/2017, mang lại những nguồn lợi ích
to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong giao thương hàng hóa quốc tế, nhưng
đồng thời cũng làm cho Việt Nam đứng trước những nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn. Một là
các doanh nghiệp Việt Nam không biết, hoặc chưa quen thuộc với CISG. Việc không
thật sự hiểu rõ những quy định trong công ước sẽ là một sự bất lợi đối với các doanh
nghiệp khi họ ký hợp đồng với đối tác nước ngồi, dẫn đến trở thành bên yếu thế khi
có tranh chấp phát sinh. Ngoài ra, CISG chỉ mới trở thành nguồn luật bắt buộc tại
Việt Nam, nên phần lớn các luật sư, thẩm phán và một số trọng tài viên cũng không
thật sự hiểu rõ về CISG, dẫn đến sự thiếu năng lực trong giải quyết tranh chấp liên
quan đến CISG. Vì vậy, việc nghiên cứu và phân tích những điều khoản trong CISG
là một việc làm quan trọng, giúp tăng cường nhận thức của các đối tượng liên quan,
giảm nguy cơ tranh chấp và tăng khả năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Một trong những chế định được quy định trong CISG nhưng chỉ được quy định
sơ sài, hay chỉ được chấp nhận một cách hạn chế trong pháp luật Việt Nam là chế
định vi phạm hợp đồng trước thời hạn (VPHĐTTH) thực hiện nghĩa vụ (anticipatory
breach). Theo thống kê của IICL (Institute of International Commercial Law), tính
tới ngày 05/3/2020, số lượng vụ việc được giải quyết liên quan tới Điều 71, Điều 72
và Điều 73 CISG (là những Điều quy định về VPHĐTTH) là 183 vụ. Có thể thấy,
những tranh chấp về VPHĐTTH trong quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế là khá phổ
biến. Tuy nhiên, cho đến hiện tại, số lượng những vụ việc liên quan đến chế định này
tại Việt Nam rất ít, nếu khơng muốn nói là hiếm. Chính bởi pháp luật Việt Nam quy

định rất dè dặt về chế định này, thiếu quy phạm điều chỉnh, dẫn đến các chủ thể trong
nền kinh tế không dám tạm ngưng hay hủy bỏ hợp đồng khi biết rõ bên cịn lại trong
hợp đồng khơng thể thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn, và các cơ quan tài phán không
giải quyết hoặc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là một vấn đề khác (vi phạm
hợp đồng truyền thống), chứ khơng phải VPHĐTTH.
Vì vậy, tác giả thực hiện đề tài “Vấn đề vi phạm hợp đồng trước thời hạn theo
Công ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” nhằm nghiên cứu chuyên
sâu về chế định trên, giúp hiểu rõ hơn về chế định VPHĐTTH thực hiện nghĩa vụ
trong CISG và thực tế áp dụng của những điều khoản liên quan để giải quyết các
1


tranh chấp. Hiểu rõ bản chất, cách thức áp dụng chế định sẽ giúp các chủ thể trong
nước tự tin hơn, có lợi thế hơn khi đàm phán hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và
khi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại các cơ quan tài phán. Hơn thế nữa,
tác phẩm này cũng sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp, giới học
thuật khi tiến hành lấy ý kiến để sửa đổi, bổ sung pháp luật về hợp đồng của Việt
Nam trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có một số cơng trình nghiên cứu về VPHĐTTH theo CISG của các
học giả nước ngoài, cụ thể có các nghiên cứu tiêu biểu sau:
Mercédeh Azeredo da Silveira (2005), Anticipatory Breach under the United
Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods, Nordic Journal
of Commercial Law. Bài nghiên cứu nêu ra những tổng hợp và nhận định chuyên sâu
của tác giả về những vấn đề pháp lý liên quan đến VPHĐTTH của CISG, trong sự
tham khảo những bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế phổ biến.
Michael G. Bridge (2005-2006), “Issues arising under Article 64, 72 and 73 of
the United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods”, 25
Journal of Law and Commerce. Bài viết đơn thuần nêu ra những vấn đề pháp lý phát
sinh từ các điều khoản và qua quá trình thực tế áp dụng, nhưng chưa đưa ra được câu

trả lời cho những vấn đề đó.
Chengwei Liu (2005), Suspension or avoidance due to anticipatory breach:
Perspectives from Arts. 71/72 CISG, the UNIDROIT Principles, PECL and Case
Law, LL.M. of Renmin University of China. Bài nghiên cứu phân tích chuyên sâu
những vấn đề pháp lý cần giải quyết tại Điều 71 và 72 CISG, đồng thời so sánh, đối
chiếu với những quy định trong những bộ ngun tắc hợp đồng khác giúp có cái nhìn
rõ hơn về cách hiểu các điều khoản trong CISG.
Chengwei Liu (2005), Avoidance in the case of an installment contract, LL.M.
of Renmin University of China. Bài viết phân tích những vấn đề cần giải quyết liên
quan tới hủy hợp đồng giao hàng từng phần tại Điều 73 CISG, đối chiếu với những
bộ nguyên tắc hợp đồng khác. Đồng thời, tác giả đối chiếu với Điều 71, 72 CISG để
làm rõ sự chồng lấn giữa các điều khoản này.
Tại Việt Nam, vấn đề về VPHĐTTH chưa được quan tâm đúng mức. Số lượng
các nghiên cứu không nhiều, cụ thể là:
Nguyễn Thị Quỳnh Nga (2018), Vi phạm hợp đồng trước thời hạn thực hiện
nghĩa vụ theo công ước viên 1980, kinh nghiệm cho Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp
cử nhân, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Bài viết phân tích khái quát về quy
định VPHĐTTH trong CISG và quy định của pháp luật thương mại Việt Nam. Tuy
2


nhiên bài viết chưa phân tích thực tiễn áp dụng, quan điểm của Tòa án, Trọng tài
trong giải quyết tranh chấp, cũng như chưa đi sâu về hệ quả của VPHĐTTH.
Nguyễn Trung Nam - Lê Trần Đức Huy - Ngụy Thị Bích - Nguyễn Hiếu Bình
- Nguyễn Trịnh Thủy Tiên (2017), “Nghiên cứu so sánh pháp luật hợp đồng Việt
Nam, Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và nguyên
tắc hợp đồng thương mại quốc tế về vấn đề vi phạm hợp đồng trước thời hạn”, Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 7 (110). Nghiên cứu tổng hợp lại cơ sở lý luận, điều kiện áp
dụng và các chế tài một bên được áp dụng khi bên còn lại vi phạm trước thời hạn,
trong đó có sự so sánh với những bộ nguyên tắc quốc tế khác về hợp đồng. Nhưng

bài viết vẫn chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, đề cập một cách sơ lược những vấn đề
trên, chưa làm nổi bật được những vấn đề còn đang gây tranh cãi.
Phạm Ánh Dương (2014), Vi phạm hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa
vụ theo công ước viên 1980, kinh nghiệm cho Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử
nhân, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Bài viết có sự phân tích đối với các
quy định của CISG, dẫn chiếu bản án, quyết định, phán quyết của Tòa án và Trọng
tài, đồng thời phân tích quy định về VPHĐTTH trong Luật Thương mại (LTM) 2005.
Bài viết chưa giải quyết được những tranh cãi đang còn tồn tại trong cách hiểu một
số vấn đề pháp lý liên quan. Hơn thế nữa, đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh Bộ
luật Dân sự (BLDS) 2015 chưa ra đời, nên một số nhận định đã khơng cịn phù hợp
trong thời điểm hiện tại.
Tựu trung lại, hầu hết các cơng trình nghiên cứu của Việt Nam đều chỉ nêu ra
được những vấn đề chung nhất của VPHĐTTH và sự thiếu sót trong cách tiếp cận
của pháp luật hợp đồng Việt Nam đối với vấn đề trên. Nhưng các nghiên cứu đều
chưa đi một cách triệt để những vấn đề pháp lý tồn tại theo CISG. Đồng thời, phương
pháp phân tích vụ việc chỉ được sử dụng hạn chế.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Thông qua đề tài này, tác giả muốn hướng tới các mục đích, nhiệm vụ nghiên
cứu quan trọng sau:
Thứ nhất, đưa ra hệ thống những vấn đề mang tính lý luận về chế định
VPHĐTTH trong CISG;
Thứ hai, đánh giá thực tiễn áp dụng chế định VPHĐTTH theo CISG tại các cơ
quan tài phán quốc gia và quốc tế;
Thứ ba, làm rõ quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về VPHĐTTH và
chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong hệ thống pháp luật;
Thứ tư, đưa ra các kiến nghị nhằm làm cơ sở tham khảo, nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện chế định VPHĐTTH của pháp luật thương mại Việt Nam.
3



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài lựa chọn đối tượng nghiên cứu là những vấn đề pháp lý liên quan đến
chế định VPHĐTTH theo CISG và pháp luật hợp đồng Việt Nam. Những vấn đề pháp
lý trên sẽ được phân tích đan xen giữa lý luận và thực tiễn áp dụng chế định trên trong
các cơ quan giải quyết tranh chấp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm những quy định về VPHĐTTH trong
CISG; các bản án, phán quyết của Tòa án và Trọng tài giải quyết tranh chấp liên quan
đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; quan điểm của những chuyên gia, giới học
thuật và của những nhà soạn thảo CISG. Ngoài ra, pháp luật thực định của Việt Nam
về VPHĐTTH và một số bản án, phán quyết của cơ quan tài phán trong nước liên
quan cũng sẽ được tác giả đưa ra phân tích để chỉ ra những bất cập, thiếu sót trong
cách tiếp cận của Việt Nam đối với chế định quan trọng về hợp đồng này.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Thứ nhất, phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp: Hai phương pháp
này được dùng để làm rõ những vấn đề pháp lý liên quan đến VPHĐTTH theo CISG,
các bộ nguyên tắc quốc tế khác về hợp đồng và pháp luật thực định của Việt Nam.
Đồng thời, phương pháp này cũng là công cụ hỗ trợ trong việc nghiên cứu, diễn giải
quan điểm của các cơ quan tài phán trong các bản án và phán quyết liên quan.
Thứ hai, phương pháp so sánh: Tác giả so sánh giữa pháp luật Việt Nam và
CISG nhằm chỉ ra những bất cập tồn tại trong pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, phương pháp phân tích bản án, vụ việc: được sử dụng để phân tích
một số vụ việc được các cơ quan tài phán giải quyết liên quan đến VPHĐTTH, tạo ra
cái nhìn thực tiễn cho vấn đề pháp lý được nghiên cứu.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Đề tài được chia làm 03 chương, gồm một chương khái quát chung và hai
chương giải quyết từng vấn đề cụ thể.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRƯỚC THỜI HẠN THEO
CÔNG ƯỚC VIÊN 1980
Chương 1 sẽ giới thiệu về CISG, vai trò của CISG trong giao thương và pháp
luật quốc tế, mối quan hệ giữa CISG và pháp luật hợp đồng Việt Nam; nêu và giải

thích những khái niệm cơ bản liên quan, đồng thời giới thiệu khái quát lịch sử hình
thành và những vấn đề pháp lý xung quanh chế định vi phạm hợp đồng trước thời hạn
để làm cơ sở, nền tảng lý luận giúp hiểu rõ hơn những chương sau.
CHƯƠNG 2: TẠM NGỪNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
TRƯỚC THỜI HẠN

4


Chương 2 sẽ phân tích chi tiết mục đích của điều khoản, những điều kiện (cơ
sở) để áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, trách nhiệm của các bên cũng
như hệ quả pháp lý kéo theo. Đồng thời, tác giả cũng sẽ nêu khái quát quy định về
tạm ngừng thực hiện hợp đồng do vi phạm trước hạn theo pháp luật Việt Nam để từ
đó đưa ra những kiến nghị sửa đổi bổ sung pháp luật.
CHƯƠNG 3: HỦY BỎ HỢP ĐỒNG DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRƯỚC THỜI
HẠN
Chương 3 sẽ được cấu trúc tương tự Chương 2 và giải quyết những vấn đề
tương tự liên quan đến vấn đề hủy bỏ hợp đồng do VPHĐTTH, trong đó bao gồm cả
hủy bỏ hợp đồng do VPHĐTTH trong hợp đồng giao hàng từng phần.

5


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRƯỚC THỜI HẠN
THEO CƠNG ƯỚC VIÊN 1980
1.1.

Mối quan hệ giữa Cơng ước viên 1980 và pháp luật hợp đồng Việt Nam
Với sự góp mặt của khoảng 60 quốc gia và 8 tổ chức quốc tế, ngày 11 tháng


04 năm 1980, CISG được ký kết để thay thế cho hai Công ước La Haye 1964 vốn
không cho thấy nhiều hiệu quả. CISG là một nỗ lực nhằm hướng tới “việc thống nhất
nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”.1 Hai nhiệm vụ chính
của CISG là: giúp thúc đẩy giao thương quốc tế, duy trì các hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế tồn tại lâu dài và được các bên tơn trọng thực hiện nhằm khuyến khích
sự thiện chí, trung thực và sự nghiêm túc trong giao thương quốc tế; và hạn chế tối
đa việc tranh tụng liên quốc gia,2 một việc làm tiêu tốn nhiều thời gian và chi phí của
các bên.
CISG chủ yếu điều chỉnh những vấn đề liên quan đến ký kết hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế, các quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua phát sinh
từ hợp đồng và không điều chỉnh vấn đề hiệu lực của hợp đồng cũng như những tác
động của hợp đồng đối với quyền sở hữu hàng hóa (Điều 4 CISG). CISG được coi là
một trong những điều ước quốc tế thành công nhất cho đến thời điểm hiện tại khi có
tới 93 quốc gia là thành viên và điều chỉnh các giao dịch chiếm đến 80% thương mại
hàng hóa quốc tế.3 09 trong số 10 nền kinh tế thương mại lớn nhất thế giới đều là
thành viên của Công ước (ngoại trừ Vương quốc Anh khi quốc gia này có hệ thống
pháp luật khác biệt). Kể từ khi CISG được soạn thảo, giao thương hàng hóa quốc tế
đã cho thấy sự phát triển vượt bậc khi giá trị thương mại hàng hóa trong năm 2018 là
19,67 nghìn tỷ Đơ la Mỹ, gấp khoảng 17 lần so với năm thời điểm CISG được soạn
thảo.4 CISG đã và đang giúp hài hịa hóa những khác biệt trong hệ thống pháp luật
các quốc gia riêng lẻ, dần trở thành tiêu chuẩn pháp lý chung chi phối nền thương
mại thế giới.5
Việt Nam ký kết gia nhập CISG vào ngày 18 tháng 12 năm 2015. Đến 01 tháng
01 năm 2017, CISG chính thức trở thành nguồn luật điều chỉnh cho quan hệ giao
thương hàng hóa quốc tế của Việt Nam. Khi tham gia Công ước, Việt Nam đang tham
“Sơ lược lịch sử Công ước Viên 1980 (CISG)”, truy cập ngày 08/3/2020
2
Mercédeh Azeredo da Silveira (2005), Anticipatory Breach under the United Nations Convention on
Contracts for the International Sale of Goods, Nordic Journal of Commercial Law, tr. 3
3

“Mục tiêu và vai trò của CISG trong thương mại quốc tế”, truy cập ngày 05/3/2020
4
truy cập ngày 05/3/2020
5
“International Sale of Goods (CISG) a Success?”, truy cập ngày
05/3/2020
Ingborg (2009), The CISG – Successes and Pitfalls, 57 Am. J. Comp. L, tr. 461-463
1

6


gia vào sân chơi thương mại toàn cầu, và CISG trở thành phương tiện giúp đơn giản
hóa các thương vụ mua bán có tính quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam bằng việc áp
dụng quy trình chung cho việc giao kết hợp đồng và những nguyên tắc chung để giải
quyết tranh chấp (nếu có), giúp giảm chi phí và thời gian đàm phán luật áp dụng.
Vì vậy, trước hồn cảnh có nhiều nguồn luật khác nhau có thể cùng điều chỉnh
một quan hệ hợp đồng, tức là quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế có doanh nghiệp
Việt Nam, việc xác định luật áp dụng là CISG hay pháp luật Việt Nam trong các
trường hợp khác nhau là việc làm quan trọng, vì nó sẽ giúp các bên nhìn nhận đúng
đắn quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó bảo vệ chính mình và hạn chế vi phạm, cũng
như định hướng Tòa án hay Trọng tài trong giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các
bên từ hợp đồng. Hiện nay, việc các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập
có được áp dụng trực tiếp tại Việt Nam hay khơng, hay nói cách khác có thể áp dụng
điều chỉnh các quan hệ xã hội mà không cần nội luật hóa hay khơng (tức là, cần có
quyết định áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế của Quốc hội, Chủ tịch nước hoặc
Chính phủ), vẫn cịn là một vấn đề gây tranh cãi bởi sự không rõ ràng trong quy định
của Luật Điều ước quốc tế 2016 (Điều 6). Tuy nhiên, thực tế hiện nay Việt Nam tham
gia hàng ngàn điều ước quốc tế khác nhau mà có rất hiếm trường hợp có quyết định
áp dụng trực tiếp của các cơ quan có thẩm quyền,6 đồng thời việc nội luật hóa tất cả

và liên tục các điều ước quốc tế mỗi khi Việt Nam ký kết một điều ước quốc tế mới
là tốn kém và tạo sức ép rất lớn cho các cơ quan nhà nước.7 Vì vậy, tác giả đồng ý
với quan điểm cần hiểu quy định tại Điều 6 Luật Điều ước quốc tế 2016 theo hướng
điều ước quốc tế có thể áp dụng trực tiếp tại Việt Nam một cách tự động, và điều này
là phù hợp với nguyên tắc pacta sunt servanda trong luật quốc tế (Điều 26 Công ước
Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969), cũng như thực tế áp dụng tại Việt Nam.
Như vậy, theo cách hiểu trên, CISG sẽ được áp dụng trực tiếp tại Việt Nam mà không
cần thơng qua một quyết định của cơ quan có thẩm quyền nào.8
Trong mối quan hệ giữa CISG và pháp luật Việt Nam, CISG sẽ được áp dụng
trong việc xác định vấn đề pháp lý liên quan đến giao kết hợp đồng, quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong hai trường hợp sau
đây: thứ nhất, khi tất cả các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế đều có trụ
sở thương mại tại các quốc gia là thành viên của CISG và các bên không thỏa thuận
luật áp dụng hoặc thỏa thuận lựa chọn CISG (điểm a khoản 1 Điều 1 CISG); thứ hai,
Đến hiện nay chỉ có 07 điều ước quốc tế có quyết định áp dụng trực tiếp, xem thêm “Thực tiễn áp dụng trực
tiếp điều ước quốc tế ở Việt Nam”, truy cập ngày 19/3/2020.
7
Nguyễn Thị Tường Vân (2015), “Vấn đề áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế và quy định của pháp luật Việt
Nam về áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế”, Tạp chí Luật học, số 11/2015, tr. 69
8
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ,
Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 56, 57
6

7


khi một bên là thương nhân Việt Nam và (ít nhất) một bên cịn lại có trụ sở thương
mại tại quốc gia không là thành viên của CISG nhưng các bên thỏa thuận lựa chọn
pháp luật Việt Nam để điều chỉnh quan hệ hợp đồng hoặc luật nước ngoài, điều ước

quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định dẫn chiếu áp dụng pháp luật Việt
Nam theo quy tắc tư pháp quốc tế (khoản 2 Điều 1 LTM 2005 và điểm b khoản 1
Điều 1 CISG). Điều này là bởi, khi Việt Nam trở thành thành viên ký kết của CISG,
CISG có thể được áp dụng trực tiếp tại Việt Nam và trở thành một bộ phận của pháp
luật Việt Nam điều chỉnh các vấn đề mua bán hàng hóa quốc tế trong đó một bên là
thương nhân Việt Nam (hoặc có trụ sở thương mại tại Việt Nam).9 Tuy nhiên, cần
lưu ý rằng Việt Nam đã căn cứ Điều 12, Điều 96 CISG để tuyên bố bảo lưu các quy
định về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Điều 11 và Điều 29
CISG. Tức là, mọi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, và bất kỳ sửa đổi, bổ sung
nào liên quan đến hợp đồng đều phải được thực hiện bằng văn bản hoặc bằng các
hình thức khác có giá trị tương đương (khoản 2 Điều 27 LTM 2005).
CISG sẽ không được áp dụng trong trường hợp các bên có thỏa thuận một cách
rõ ràng loại bỏ hiệu lực của CISG đối với hợp đồng, không áp dụng CISG để điều
chỉnh hợp đồng. Điều này dựa trên nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, theo đó các
bên có quyền tự do lựa chọn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng, miễn là không trái với
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (khoản 2 Điều 5 LTM 2005).
Nguyên tắc trên được CISG luật hóa tại Điều 6, các bên có thể loại bỏ áp dụng CISG
hoặc hiệu lực của bất kỳ điều khoản nào trong đó. Khi đó, pháp luật Việt Nam sẽ
được áp dụng nếu các bên thỏa thuận lựa chọn pháp luật Việt Nam để điều chỉnh
quyền và nghĩa vụ của mình.
1.2. Tổng quan về vi phạm hợp đồng trước thời hạn theo Công ước viên 1980
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Vi phạm hợp đồng
Hợp đồng là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa
vụ của từ ít nhất 02 (hai) bên trở lên. Khi tham gia vào hợp đồng, mỗi bên đều theo
đuổi lợi ích của riêng mình, đó có thể là: thu lợi nhuận khi cung cấp hàng hóa, dịch
vụ; có được nguyên liệu để sản xuất hàng hóa; được giải quyết một công việc, vấn đề
cụ thể; và các lợi ích khác. Trong một chừng mực những lợi ích theo đuổi là hợp pháp
và đáp ứng được những yêu cầu khác (như hình thức hợp đồng), hợp đồng có hiệu
lực và ràng buộc các bên. Hợp đồng được sinh ra là nhằm để được thực hiện và mang

lại kết quả các bên mong muốn. Tuy nhiên, nếu vì một lý do nào đó mà một hoặc các
bên từ bỏ hoặc khơng thể hồn thành (đầy đủ) nghĩa vụ của mình, đây được xem là
9

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), tlđd (8), tr. 57

8


vi phạm hợp đồng. Theo từ điển Luật học, “vi phạm hợp đồng” được hiểu là “sự
khơng hồn thành bất kỳ điều khoản nào của hợp đồng, bằng văn bản hoặc lời nói,
mà khơng có lý do chính đáng”.10 “Khơng hoàn thành” nghĩa vụ ở đây bao gồm cả
những hành vi như không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ.
Tuy nhiên, khái niệm “vi phạm hợp đồng” mà CISG theo đuổi có phạm vi rộng
hơn cách hiểu trên. CISG không trực tiếp định nghĩa thuật ngữ “vi phạm hợp đồng”
trong bất kỳ điều luật nào cụ thể, nhưng nội hàm của “vi phạm hợp đồng” theo CISG
có thể được suy luận thơng qua các điều khoản liên quan. Khoản 1 Điều 45 (và khoản
1 Điều 46) CISG quy định người bán (hoặc người mua) có thể áp dụng các quyền của
mình và chế tài lên người mua (hoặc người bán) nếu bên đó “khơng hồn thành được
được bất kỳ nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng mua bán hay Công ước
này”. Như vậy, đối với các nhà soạn thảo CISG, vi phạm hợp đồng không chỉ bao
phủ nghĩa vụ theo hợp đồng giữa các bên, mà còn gồm cả những nghĩa vụ được quy
định trong CISG. Tức là, nếu các bên khơng quy định nghĩa vụ đó trong hợp đồng và
CISG có quy định, đồng thời các bên cũng khơng loại bỏ hiệu lực của CISG, thì việc
một bên vi phạm nghĩa vụ này cũng sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng và phải chịu các
chế tài tương ứng. Theo một học giả, Điều 45 cho thấy CISG đang sử dụng cách tiếp
cận “khái niệm vi phạm hợp đồng phổ biến, bao gồm tất cả biểu hiện không tuân thủ
hợp đồng, như không giao hàng, giao hàng trễ hạn, giao hàng khơng như mơ tả hàng
hóa, giao hàng hóa khơng phù hợp, và tương tự”.11 Thêm vào đó, cách tiếp cận của

CISG cũng cho thấy CISG không phân biệt tính chất hay nội dung của nghĩa vụ có
liên quan mật thiết đến mục đích chính khi giao kết của các bên hay không. Bất kỳ
sự không đáp ứng nào, dù là liên quan trực tiếp hay không trực tiếp đến hoạt động
mua, bán hàng hóa, đều cấu thành vi phạm hợp đồng. Cách tiếp cận này của CISG là
tương thích với khái niệm “vi phạm hợp đồng” của pháp luật thương mại Việt Nam
(khoản 12 Điều 3 LTM 2005).
Tuy nhiên, một số chế tài được quy định trong CISG có tính chất khá nghiêm
trọng (như hủy bỏ hợp đồng) và sẽ là không hợp lý khi cho các bên được áp dụng một
cách tùy tiện với bất kỳ hành vi vi phạm hợp đồng nào. Hợp đồng được sinh ra là để
tồn tại, được thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho các bên, đây cũng là tiêu chí của các
quốc gia khi tham gia vào soạn thảo CISG. Vì vậy, pháp luật cần hạn chế những
trường hợp áp dụng chế tài nghiêm khắc như vậy, hủy bỏ hợp đồng chỉ nên là biện
pháp cuối cùng các bên cân nhắc đến. Từ đó, khái niệm “vi phạm cơ bản” ra đời.
10

truy cập ngày 25/3/2020
Jurgen Basedow (2005), Towards a Universal doctrine of breach of contract: The impact of the CISG, 25
International Review of Law and Economics
11

9


Theo các nhà soạn thảo CISG, “định nghĩa của vi phạm cơ bản hợp đồng rất quan
trọng vì nhiều biện pháp khắc phục khác nhau của bên bán và bên mua, cũng như một
số vấn đề liên quan đến chuyển giao rủi ro, là dựa trên vi phạm cơ bản”.12 Trong mối
liên hệ với chế định VPHĐTTH, khái niệm vi phạm cơ bản cũng đóng vai trị rất quan
trọng, khi đây là một trong những điều kiện bắt buộc phải chứng minh nếu một bên
muốn tuyên bố hủy bỏ hợp đồng. Để được xem là vi phạm cơ bản, thì hành vi vi phạm
hợp đồng đó phải: (i) làm cho bên kia thiệt hại (results in such detriment), bị mất một

cách đáng kể điều mà họ có quyền kỳ vọng theo hợp đồng; và (ii) bên vi phạm phải
tiên liệu được hoặc bắt buộc phải tiên liệu được hậu quả xảy ra (Điều 25 CISG). Khái
niệm này sẽ được phân tích sâu hơn ở Chương 3 nhằm làm rõ điều kiện để áp dụng
biện pháp hủy bỏ hợp đồng khi VPHĐTTH xảy ra.
1.2.1.2. Vi phạm hợp đồng trước thời hạn
Vi phạm hợp đồng trước thời hạn (thực hiện nghĩa vụ) (anticipatory breach) là
một khái niệm khơng cịn xa lạ với pháp luật hợp đồng quốc tế, nhưng vẫn còn khá
mới tại Việt Nam. Thông thường, một bên chỉ bị coi là vi phạm hợp đồng khi nghĩa
vụ hợp đồng đã đến hạn nhưng bên đó khơng thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ. Sau thời điểm đó, bên bị vi phạm mới có quyền áp
dụng các chế tài, biện pháp khắc phục với bên vi phạm và yêu cầu bồi thường. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, một bên đã tuyên bố không thực hiện nghĩa vụ của
mình hoặc thể hiện rõ khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ (đúng hạn) trước thời
điểm đến hạn. Nếu bên còn lại phải chờ cho đến khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ của
bên vi phạm mới được áp dụng các biện pháp khắc phục thì là khơng hợp lý, có thể
làm phát sinh thêm nhiều chi phí khắc phục, tổn thất mà đáng lẽ đã có thể hạn chế
được nếu bên bị vi phạm áp dụng ngay các biện pháp cần thiết khi biết rõ bên kia
không thể thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn. Vì vậy, pháp luật quốc tế (và CISG) cho
phép coi việc một bên tuyên bố không thực hiện hợp đồng hoặc cho thấy một cách rõ
ràng khơng có khả năng thực hiện hợp đồng trước hạn của nghĩa vụ là một hành vi vi
phạm hợp đồng (trước thời hạn). Điều này giúp cho bên cịn lại có thể ngay lập tức
áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo nghĩa vụ sẽ được thực hiện hoặc chấm
dứt hợp đồng và dừng việc thực hiện nghĩa vụ của mình, đi tìm đối tác khác để giảm
thiểu thiệt hại.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu một cách chung nhất về khái niệm
VPHĐTTH là “hành vi [vi phạm] của một bên đối với hợp đồng trước khi nghĩa vụ
của bên đó đến hạn, làm cho bên cịn lại được giải phóng khỏi nghĩa vụ hợp đồng”.13
12

United Nations (1991), Official records: documents of the Conference and Summary Records of the

Plenary Meetings and of the Main Committees, tr. 26
13
Anselmo Reyes (2018), “Anticipatory Breach in Charterparties”, Tulane Maritime Law Journal, số 43, tr. 1

10


Chế định VPHĐTTH trong CISG bao gồm ba (03) điều khoản, Điều 71, Điều 72 và
Điều 73. Mỗi điều khoản đề cập đến tình huống, điều kiện áp dụng và hậu quả pháp
lý khác nhau.
1.2.1.3. Đặc điểm vi phạm hợp đồng trước thời hạn theo Công ước viên 1980
Từ những quy định tại ba điều luật trên, có thể rút ra được những đặc điểm
chung nhất về VPHĐTTH theo CISG như sau:
Thứ nhất, VPHĐTTH được áp dụng cho các bên là chủ thể trong quan hệ hợp
đồng mua bán hàng hóa. Điều này là bởi CISG chỉ điều chỉnh những vấn đề liên quan
đến hợp đồng mua bán hàng hóa, mà không áp dụng với những hợp đồng thương mại
khác như hợp đồng dịch vụ, hợp đồng thuê tài sản.
Thứ hai, thời điểm xuất hiện hành vi vi phạm của một bên phải trước thời hạn
thực hiện nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng và sau khi các bên ký kết hợp đồng,
hoặc đã xuất hiện tại thời điểm ký kết nhưng bên bị vi phạm không biết và khơng thể
biết đến tình trạng đó. “Trước thời hạn” là đặc điểm quan trọng nhất của chế định này
giúp phân biệt được với những vi phạm nghĩa vụ đến hạn thông thường. Việc vi phạm
nghĩa vụ đến hạn hay trước hạn sẽ kéo theo những hậu quả pháp lý, biện pháp khắc
phục khác nhau và đòi hỏi những điều kiện cần đáp ứng cũng như mức độ nghiêm
trọng của vi phạm khác nhau. Ví dụ, khi nghĩa vụ đến hạn, việc vi phạm bất kỳ nghĩa
vụ nào của một bên cũng làm phát sinh quyền áp dụng biện pháp khắc phục của bên
còn lại. Còn đối với vi phạm trước hạn, một bên phải vi phạm một phần đáng kể
(substantial và fundamental) nghĩa vụ hợp đồng mới kéo theo quyền khắc phục của
bên kia. Trong mối tương quan với thời điểm ký kết hợp đồng, nếu bên bị vi phạm đã
biết (hoặc bắt buộc phải biết) về tình trạng khơng thể thực hiện được nghĩa vụ hợp

đồng của bên còn lại khi đến hạn mà vẫn giao kết, thì phải xem như bên đó đã chấp
nhận rủi ro và việc bên cịn lại khơng thực hiện được nghĩa vụ đến hạn đã được các
bên dự liệu trước và khơng cịn bị xem là vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, hình thức của vi phạm trước thời hạn có thể được thể hiện qua một
tuyên bố rõ ràng của một bên sẽ không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, thông qua khả
năng thực hiện hoặc uy tín bị khiếm khuyết nghiêm trọng hoặc sự thiếu chuẩn bị của
một bên cho thấy rõ ràng một bên sẽ không thể thực hiện được nghĩa vụ khi đến hạn.
Có thể thấy, phạm vi áp dụng VPHĐTTH của CISG rất rộng, bao quát hầu hết mọi
trường hợp có thể xảy ra. Tun bố thối thác nghĩa vụ của một bên sẽ ngay lập tức
trở thành vi phạm mà khơng cần biết thực tế bên đó có thể thực hiện được hay khơng
hay có thực hiện khi đến hạn hay không. Yếu tố nguyên nhân gây ra sự khiếm khuyết
hoặc sự thiếu chuẩn bị nói trên khơng được CISG đề cập đến.

11


Thứ tư, để bị xem là vi phạm trước thời hạn (hay nói cách khác, để áp dụng
chế định này), nghĩa vụ bị vi phạm phải đáng kể (substantial) hoặc cơ bản
(fundamental). CISG không cho phép áp dụng các biện pháp khắc phục đối với
VPHĐTTH khi những nghĩa vụ có thể bị vi phạm chỉ là những nghĩa vụ không đáng
kể, khơng tác động nhiều tới lợi ích của các bên khi giao kết hợp đồng. Bởi như đã
trình bày, CISG hướng tới mục đích giúp cho hợp đồng được duy trì lâu dài và được
tơn trọng thực hiện. Việc cho phép một bên được áp dụng những chế tài đối với bên
còn lại khi hợp đồng còn chưa đến hạn được xem như một ngoại lệ đặc biệt, nên chế
tài chỉ nên được sử dụng khi nghĩa vụ (có thể bị vi phạm) đó ảnh hưởng đáng kể đến
lợi ích các bên hướng tới khi tham gia vào hợp đồng, đảm bảo nguyên tắc thiện chí
trong thực hiện hợp đồng.
Thứ năm, bên bị vi phạm phải có cơ sở hợp lý, xác đáng cho những suy luận
hay kết luận của mình. Những suy luận thiếu căn cứ hoặc từ những căn cứ khơng có
thực sẽ khơng làm phát sinh quyền áp dụng biện pháp khắc phục. Mức độ rõ ràng của

căn cứ mà CISG yêu cầu sẽ tùy thuộc vào chế tài mà bên bị vi phạm dự định áp dụng.
Ví dụ, để áp dụng tạm ngừng thực hiện hợp đồng, thì CISG chỉ u cầu “có dấu hiệu”
(it becomes apparent) cho thấy một bên sẽ vi phạm (một phần đáng kể) hợp đồng.
Còn hủy bỏ hợp đồng chỉ được áp dụng khi có cơ sở “rõ ràng” (it is clear) một bên sẽ
vi phạm (cơ bản) hợp đồng. Ngồi ra, những suy luận cảm tính, chủ quan sẽ khơng
được xem xét. Việc nhìn nhận, đánh giá phải mang tính khách quan.
Vì vi phạm trước thời hạn cũng được xem như một vi phạm hợp đồng bình
thường, nên vẫn có thể gây ra thiệt hại cho đối tác và phải chịu các chế tài. Đối với
các vi phạm hợp đồng khi đến hạn truyền thống, CISG cho phép bên bị vi phạm áp
dụng những chế tài như buộc tiếp tục thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp
đồng, hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy vậy, đối với những vi
phạm trước thời hạn, các nhà soạn thảo CISG chỉ nêu ra chế tài tạm ngừng thực hiện
hợp đồng (Điều 71) và hủy bỏ hợp đồng (Điều 72, Điều 73).
Đối với chế tài buộc tiếp tục thực hiện hợp đồng, tác giả cho rằng việc CISG
không đề cập đến chế tài này trong chế định VPHĐTTH là hợp lý. Bởi lẽ, khi nghĩa
vụ chưa đến hạn mà một bên thấy rằng bên kia có dấu hiệu không thể thực hiện được
nghĩa vụ, điều mà bên bị vi phạm cần làm là tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ đối ứng
hoặc phát hành một thông báo nêu ý định muốn hủy bỏ hợp đồng, đồng thời yêu cầu
bên kia cung cấp sự đảm bảo rằng sẽ thực hiện nghĩa vụ đúng hạn. Nếu bên vi phạm
không thể đảm bảo sẽ thực hiện hợp đồng, thì bên bị vi phạm cần hủy bỏ ngay hợp
đồng và thực hiện các biện pháp khắc phục để giảm thiểu hậu quả, phù hợp với

12


nguyên tắc hạn chế tổn thất theo Điều 77 CISG.14 Việc buộc tiếp tục thực hiện thời
điểm này là không hợp lý và không phù hợp với nguyên tắc hạn chế tổn thất, vì bên
vi phạm đã cho thấy rõ khơng có khả năng thực hiện và bên bị vi phạm có thể gánh
chịu hậu quả nặng nề hơn mà đáng lẽ đã có thể giảm thiểu được nếu hủy bỏ hợp đồng.
Điều này có thể làm cho cơ quan giải quyết tranh chấp không chấp nhận yêu cầu bồi

thường của bên bị vi phạm tương ứng với khoản tổn thất đáng lẽ có thể được hạn chế.
Về chế tài yêu cầu bồi thường thiệt hại, dù không đề cập trực tiếp bên bị vi
phạm được quyền áp dụng chế tài này trong Điều 71 đến Điều 73, nhưng bên bị vi
phạm vẫn có quyền buộc bên vi phạm phải bồi thường cho những tổn thất mà hành
vi vi phạm hợp đồng (trước thời hạn) gây ra. Bởi VPHĐTTH được xem là một vi
phạm hợp đồng, như vậy, người bán hoặc người mua có thể áp dụng yêu cầu bồi
thường thiệt hại là một quyền được quy định tại CISG (điểm b khoản 1, khoản 2 Điều
45 và điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 61) đồng thời khi sử dụng các biện pháp bảo hộ
pháp lý khác. Điều này là hoàn toàn phù hợp, hợp lý theo nguyên tắc bên gây ra thiệt
hại phải bồi thường, đảm bảo sự công bằng, nghiêm túc trong giao thương.
Đối với chế tài phạt vi phạm được quy định trong một số hệ thống pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế, CISG không ghi nhận chế tài này. Tuy vậy, theo một
số tác giả, các bên hồn tồn có thể thỏa thuận điều khoản phạt vi phạm trong hợp
đồng và CISG không phủ nhận giá trị pháp lý của điều khoản này. Theo Điều 6 CISG,
các bên có thể loại trừ bất kỳ điều khoản nào hoặc sửa đổi hiệu lực của các điều khoản
đó. Ngun tắc tơn trọng thỏa thuận của các bên được CISG thừa nhận. Như vậy,
khơng có lý do gì để CISG bác bỏ hiệu lực của điều khoản phạt vi phạm được các
bên đồng ý, vốn được sinh ra là để khuyến khích sự tơn trọng nghĩa vụ của các bên.
Hơn nữa, bản thân CISG cũng không điều chỉnh vấn đề hiệu lực của hợp đồng hay
của bất cứ điều khoản nào (điểm a Điều 4), nên điều khoản phạt vi phạm được áp
dụng hay không sẽ phụ thuộc vào quy định của pháp luật quốc gia (được các bên lựa
chọn hay được dẫn chiếu tới theo quy tắc tư pháp quốc tế) hoặc của các điều ước quốc
tế khác.15
1.2.2. Lịch sử hình thành học thuyết vi phạm hợp đồng trước thời hạn
Dù không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, thiết nghĩ những vấn đề
cốt lõi của học thuyết VPHĐTTH như nguồn gốc hình thành, những vấn đề pháp lý
xung quanh và nguyên tắc chung trong các hệ thống luật cũng cần được điểm qua để
làm rõ bản chất của VPHĐTTH. Từ đó, làm nền tảng để nghiên cứu, phân tích nguồn
Điều 77 CISG: “Bên nào viện dẫn sự vi phạm hợp đồng của bên kia thì phải áp dụng những biện pháp hợp
lý căn cứ vào các tình huống cụ thể để hạn chế tổn thất (...)”

15
Nguyễn Minh Hằng (chủ nhiệm đề tài), “Phạt vi phạm và CISG”, truy cập ngày 12/3/2020
14

13


gốc hình thành, mục đích và cách áp dụng những quy định pháp lý của VPHĐTTH
trong CISG.
Học thuyết VPHĐTTH (the doctrine of anticipatory breach of contract) xuất
phát từ một án lệ nổi tiếng của nước Anh là Hochster v. De La Tour năm 1853. Trong
vụ án này, ông De La Tour và ông Hochster ký kết một thỏa thuận lao động, theo đó
ơng Hochster sẽ là người tùy tùng và di chuyển cùng với ông De La Tour tại Châu
Âu vào ngày 01/6/1852. Tuy nhiên, ngày 11/5/1852, ông De La Tour đã gửi thông
báo cho ông Hochster chấm dứt hợp đồng. Ngày 22/5/1852, ơng Hochster khởi kiện
địi bồi thường thiệt hại vì vi phạm hợp đồng trước hạn. Ơng De La Tour cho rằng
không thể khởi kiện khi chưa đến thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng. Hai vấn
đề mà Tịa án cần làm rõ đó là: (i) liệu rằng việc một bên từ chối thực hiện hợp đồng
trước thời hạn phải thực hiện có làm phát sinh quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
của bên còn lại hay khơng; và (ii) liệu vi phạm này có đủ để một bên khởi kiện trước
ngày phải thực hiện nghĩa vụ hay khơng.
Sau khi xem xét, Tịa án đưa ra phán quyết rằng khi hợp đồng đưa ra một cam
kết thực hiện công việc trong tương lai, bên từ bỏ cam kết sẽ chịu trách nhiệm vì vi
phạm hợp đồng. Hơn nữa, cam kết thực hiện công việc trong tương lai tạo nên cam
kết ngầm định rằng không bên nào sẽ làm tổn hại đến khả năng thực hiện cam kết
trong hợp đồng. Từ cơ sở đó, Tịa án bác bỏ lập luận của Bị đơn rằng việc tuyên bố
từ bỏ chỉ tương đương một đề nghị chấm dứt hợp đồng, và rằng nếu bên Nguyên đồng
ý với đề nghị trên thì bên Ngun sẽ khơng có quyền khởi kiện, cịn nếu bên Ngun
khơng đồng ý thì bên Ngun phải sẵn sàng thực hiện hợp đồng, hay nói cách khác,
đợi cho đến hết thời hạn hợp đồng mới được khởi kiện. Việc chối bỏ nghĩa vụ hợp

đồng trước thời hạn bởi một bên ngay lập tức làm mất hiệu lực nghĩa vụ của bên cịn
lại, và “khơng có lý do gì để yêu cầu bên còn lại phải đợi cho đến khi thời hạn nghĩa
vụ đến mới được áp dụng các biện pháp khắc phục”. Vì vậy, bên tuyên bố từ bỏ hợp
đồng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đưa ra bởi bên bị vi phạm. Trên
những lập luận đó, Tịa án tun bố ơng Hochster thắng kiện.16
Án lệ trên đã vấp phải một số sự phản đối đến từ các học giả. Tiêu biểu trong
số đó là ba luận điểm sau: một là, sẽ không logic khi cho rằng vi phạm cam kết đã
xảy ra khi chưa có sự vi phạm thời hạn thực hiện trong hợp đồng; hai là, sẽ không
công bằng cho Bị đơn khi buộc anh ta phải chịu bồi thường cho việc vi phạm cam kết
mà anh ta chưa từng làm; và ba là, việc cho phép khởi kiện vào thời điểm trước thời
hạn thỏa thuận trong hợp đồng sẽ làm việc tính tốn thiệt hại khó khăn hơn.17

16
17

truy cập ngày 20/3/2020
David W. Robert (1959), The doctrine of anticipatory breach of contract, 20 La. L. Rev., tr. 120, 121

14


Đối với luận điểm phản đối thứ nhất và thứ hai, một số học giả cho rằng: “luật
pháp là một công cụ để thực thi công lý, chứ không phải một sản phẩm của logic
thiếu linh hoạt”.18 Có một sự khác biệt giữa cam kết được thể hiện trong hợp đồng và
những nghĩa vụ (ngầm định) phát sinh từ cam kết đó. Khi các bên thỏa thuận cam kết,
thì họ cũng có nghĩa vụ đảm bảo rằng lợi ích của đối tác không bị tổn hại, và đảm
bảo niềm tin của đối tác về hiệu lực của hợp đồng được tồn tại một cách đầy đủ cho
đến hết thời hạn nghĩa vụ. Vì vậy, khi một hành động có thể dẫn đến cam kết khơng
được thực hiện, thì niềm tin của bên còn lại vào hiệu lực của hợp đồng và việc thực
hiện cam kết khơng cịn hoặc khơng được bảo đảm, tức là quyền (lợi ích) của họ đã

bị ảnh hưởng.19 Vi phạm ở đây là vi phạm những nghĩa vụ phát sinh từ cam kết, chứ
không phải vi phạm cam kết thỏa thuận bởi các bên. Từ cơ sở đó, việc khởi kiện địi
bồi thường với những trường hợp như trên khơng phải bởi vì bên cịn lại đã vi phạm
nghĩa vụ cam kết, mà bởi vi phạm nghĩa vụ bảo đảm niềm tin của đối tác vào hợp
đồng.20
Đối với luận điểm phản đối thứ ba, một học giả đã đưa ra hai quan điểm để
làm rõ vấn đề trên.21 Đầu tiên, trong hầu hết các trường hợp, mặc dù việc khởi kiện
được thực hiện trước thời điểm đến hạn hợp đồng, phán quyết sẽ được tuyên vào sau
thời điểm đến hạn, xuất phát từ tiến trình chậm, kéo dài của trình tự tố tụng. Thứ hai,
những vụ việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng yêu cầu phải tính tốn thiệt
hại mà bên bị thiệt hại phải gánh chịu trong tương lai, và khơng có cơ sở để cho rằng
việc tính tốn thiệt hại trong những trường hợp vi phạm hợp đồng trước hạn sẽ khó
khăn hơn so với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng.
Trải qua q trình xem xét và phản biện, học thuyết VPHĐTTH đã bắt đầu
xây dựng được chỗ đứng cho nó trong lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật. Một số
vấn đề pháp lý đã được thống nhất cách hiểu, tuy nhiên một số vấn đề cịn lại vẫn cịn
đang bị vướng mắc và có những cách tiếp cận khác nhau. Chẳng hạn, đối với hình
thức biểu thị của VPHĐTTH, nguyên tắc chung là bất kỳ sự biểu thị rõ ràng nào, dù
là minh thị hay ngầm định, hoặc thiếu khả năng thực hiện hợp đồng, hoặc việc một
bên làm cho việc thực hiện hợp đồng là khơng thể, đều đủ để cấu thành nên
VPHĐTTH.22 Ngồi ra, tại các hệ thống Thông luật (Common law) như Anh và Mỹ,
tồn tại hai nguyên tắc được xem như những nguyên tắc cơ bản của học thuyết
VPHĐTTH. Thứ nhất, bên bị vi phạm được quyền khởi kiện ngay lập tức khi một
Corbin (1951), Contracts, tr. 961, xem thêm tại David W. Robert (1959), tlđd (17), tr. 121
Henry Winthrop Ballantine (1924), Anticipatory breach and the Enforcement of Contractual Duties,
Michigan Law Review 22, số 4, tr. 330, 331
20
David W. Robert (1959), tlđd (17), tr. 121
21
Corbin (1951), Contracts, tr. 961, xem thêm tại David W. Robert (1959), tlđd (17), tr. 121

22
David W. Robert (1959), tlđd (17), tr. 124
18
19

15


bên VPHĐTTH, dù thời điểm khởi kiện là trước khi đến hạn hợp đồng. Điều này đã
được lý giải bởi những lập luận đã nêu ở trên, sẽ là không cần thiết khi bắt một bên
phải chờ cho đến khi hết hạn hợp đồng khi mà lợi ích của họ rõ ràng đã bị vi phạm.
Không những thế, việc chờ cho đến khi hết hạn hợp đồng có thể gây ra những thiệt
hại phát sinh cho cả bên vi phạm và bên bị vi phạm, vi phạm nguyên tắc hạn chế tổn
thất. Thứ hai, bên bị vi phạm có thể hủy hợp đồng hoặc ngừng ngay lập tức những
công việc chuẩn bị cho việc thực hiện hợp đồng và không cần tiếp tục thực hiện nghĩa
vụ, mà không ảnh hưởng đến quyền đối kháng với bên vi phạm, hoặc có thể lựa chọn
cách phớt lờ sự vi phạm đó cho đến hạn của hợp đồng (phụ thuộc vào việc nguyên
tắc hạn chế tổn thất có được áp dụng hay khơng). Việc thể hiện rõ không thực hiện
(hoặc không thể thực hiện) nghĩa vụ hợp đồng khi đến hạn sẽ giải phóng bên cịn lại
khỏi những nghĩa vụ hợp đồng. Sẽ là vơ ích và khơng hợp lý khi pháp luật buộc bên
còn lại vẫn phải chuẩn bị và sẵn sàng thực hiện hợp đồng như trường hợp khơng có
vi phạm trước thời hạn xảy ra.23
Tuy nhiên, những vấn đề khác như học thuyết này có được áp dụng cho hợp
đồng đơn phương khơng (là hợp đồng chỉ một bên có cam kết cần thực hiện), bên vi
phạm có quyền thu hồi lại tuyên bố từ bỏ nghĩa vụ hợp đồng hay khơng, hay phương
pháp tính thiệt hại như thế nào... vẫn đang là những vấn đề pháp lý còn gây tranh cãi
và khác biệt ở những hệ thống pháp luật khác nhau, cần những nghiên cứu chuyên
sâu để đi đến sự thống nhất.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Việc Việt Nam tham gia vào CISG đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của

Việt Nam tham gia vào nền kinh tế thương mại thế giới. VPHĐTTH là một chế định
nằm trong CISG và còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Việc hiểu rõ đặc điểm chung của
chế định và lịch sử hình thành học thuyết VPHĐTTH sẽ là nền tảng giúp cho việc
nắm bắt những vấn đề pháp lý chuyên sâu tại Chương 2 và Chương 3 dễ dàng hơn.

23

Keith A. Rowley (2001), A brief history of Anticipatory Repudiation in American Contract Law, 69 U. Cin.
L. Rev. 565, tr. 568

16


CHƯƠNG 2: TẠM NGỪNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DO VI PHẠM HỢP
ĐỒNG TRƯỚC THỜI HẠN THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980
2.1.

Mục đích áp dụng
Khi tiến hành soạn thảo CISG, các nhà soạn thảo đã dựa vào Uniform Law on

the International Sale of Goods (1964) (ULIS) để làm nguồn luật cơ sở cho CISG.
Điều 71 CISG về tạm ngừng thực hiện hợp đồng do VPHĐTTH lấy cảm hứng từ
Điều 73 ULIS. Như đã đề cập, hai mục đích chính của CISG là thúc đẩy sự thiện chí,
trung thực và nghiêm túc trong giao thương quốc tế, cũng như hạn chế tối đa tranh
tụng không cần thiết.24 Việc thừa nhận quyền tạm ngừng (cũng như hủy bỏ hợp đồng)
khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng có vẻ như đã đi ngược lại hai mục
đích trên. Tuy nhiên, các chuyên gia quốc tế cho rằng cần thiết phải có quy định điều
chỉnh trong trường hợp có khả năng cao một bên của hợp đồng sẽ không thực hiện
một phần đáng kể nghĩa vụ của họ, và “sẽ không phù hợp khi bên còn lại bị buộc phải
tiếp tục nghĩa vụ của họ theo hợp đồng, khi mà điều này có thể làm phát sinh những

tổn thất không thể thu hồi”.25 Nhưng tất cả các quốc gia cũng nhận thấy rằng cho
phép các bên áp dụng những chế tài một cách tùy tiện bất cứ khi nào họ nghi ngờ
rằng bên cịn lại có thể vi phạm hợp đồng trong tương lai (dù là không đáng kể) cũng
sẽ tạo ra sự không công bằng và không hợp lý trong quan hệ hợp đồng. Vì vậy, vấn
đề gây tranh cãi và cần sự thảo luận khơng phải là có đưa điều khoản này vào CISG
hay không, mà là làm sao để vừa đảm bảo một bên được bảo vệ trước vi phạm (trước
thời hạn) của bên kia, nhưng không tạo ra sự lạm dụng quyền quá mức. Nên nguyên
tắc chính khi tiến hành thảo luận sửa đổi, bổ sung điều khoản trên chính là phải cân
bằng được sự đối lập đó, và căn cứ để một bên được quyền áp dụng các biện pháp
khắc phục phải “khách quan hết mức có thể”.26 Nhưng các chuyên gia cũng nhận thức
một cách rõ ràng rằng điều khoản này được tạo ra để điều chỉnh cho một VPHĐTTH,
tức là một vi phạm có khả năng xảy ra trong tương lai dựa trên căn cứ của hiện tại,
nên chắc chắn việc áp dụng điều khoản cũng sẽ khơng tránh khỏi những đánh giá
mang tính chủ quan của bên tạm ngừng hợp đồng, và điều luật sẽ khơng hồn tồn
loại bỏ yếu tố này bởi nếu khơng điều khoản sẽ không thể thực thi được trên thực tế.27
Điều kiện áp dụng
Khoản 1 Điều 71 CISG đặt ra ba (03) điều kiện chung nhất phải đáp ứng để
một bên có thể áp dụng biện pháp tạm ngừng thực hiện hợp đồng khi bên kia
VPHĐTTH, đó là: (i) Mức độ chắc chắn của vi phạm hợp đồng trước hạn; (ii) Mức
2.2.

24

Xem mục 1.1
Trevor Bennett (1987), Comment on Article 71, Bianca-Bonell Commentary on the International Sales –
The 1980 Vienna Sales Convention, Dott. A Giuffrè Editore, tr. 517
26
Trevor Bennett (1987), tlđd (26), tr. 513 và Yearbook, V (1974), tr. 38
27
Trevor Bennett (1987), tlđd (26), tr. 513

25

17


độ/ tính chất của vi phạm; và (iii) Những dấu hiệu (cụ thể) cho thấy có khả năng vi
phạm. Phần trình bày dưới đây sẽ phân tích cụ thể từng điều kiện chung và bổ sung
thêm những điều kiện riêng đối với các trường hợp cụ thể được CISG quy định.
2.2.1. Mức độ chắc chắn của vi phạm trước thời hạn
Khi đề cập đến mức độ chắc chắn của vi phạm trước thời hạn, tức tác giả đang
muốn nhấn mạnh khả năng từ những căn cứ có được để một bên có thể đi đến kết
luận vi phạm hợp đồng sẽ xảy ra. Khoản 1 Điều 71 CISG yêu cầu bên tạm ngừng hợp
đồng phải cho thấy “có dấu hiệu” (it becomes apparent) rằng một vi phạm hợp đồng
sẽ xảy ra. Vấn đề đầu tiên đặt ra ở đây là liệu đánh giá mang tính chủ quan của một
bên về căn cứ họ có được có được chấp nhận hay khơng? Hay nói cách khác, Tịa án
có dựa vào đánh giá chủ quan của bên tạm ngừng để cho rằng điều kiện thứ nhất này
đã được đáp ứng hay không? Lý luận và thực tiễn xét xử đều thống nhất rằng đánh
giá chủ quan của một bên sẽ không đủ để chứng minh có dấu hiệu cho thấy vi phạm
sẽ xảy ra.
Trong vụ Malaysia Dairy Industries v. Dairex Holland được giải quyết bởi
Tòa án Netherlands,28 Nguyên đơn (Malaysia Dairy Indistries – Singapore) và Bị đơn
(Dairex Holland – Hà Lan) ký kết tổng cộng 7 hợp đồng với tổng trị giá hơn 2 triệu
Đô-la Mỹ từ tháng 10/1994 đến tháng 04/1995. Trong đó, Bị đơn (bên bán) có nghĩa
vụ cung cấp bột sữa với hàm lượng phóng xạ tối đa bằng 10 BQ cho Nguyên đơn tại
Singapore. Trước đó, năm 1986, Bộ Môi trường Singapore ban hành lệnh cấm nhập
khẩu những thực phẩm bị nhiễm một số chất phóng xạ Iodine 131, Caesium 134,
Caesium 137 và Strontium 90, nhưng khơng có giải thích cụ thể (Đoạn 2(a), 2(b) và
2(c)). Nguyên đơn đã nhiều lần đốc thúc Bị đơn phải giao hàng như đúng thỏa thuận,
nhưng Bị đơn đã khơng hồn thành nghĩa vụ của mình và viện dẫn Điều 71.1(b) CISG
để cho rằng mình có quyền tạm ngừng do lo ngại bên phía Singapore sẽ khơng thể

nhận hàng. Tuy nhiên, Tịa án đã bác bỏ lập luận của Bị đơn, cho rằng Điều 71.1(b)
chỉ được áp dụng khi Bị đơn chứng minh được rằng Nguyên đơn không thể thực hiện
một phần đáng kể nghĩa vụ của mình. Theo Tịa án, “khơng có căn cứ nào cho rằng
nhà chức trách Singapore sẽ từ chối nhập khẩu bột sữa với mức phóng xạ 10 BQ/kg”,
và rằng “bên mua đã chuẩn bị sẵn sàng nhận giao bột sữa tại Singapore, [...] bên
mua đã đề xuất nhận bột tại Khu vực Thương mại Tự do sau khi bên bán thơng báo
sự lo ngại của mình về khả năng hư hại của bột” (Đoạn 4.12). Tức là, Nguyên đơn
đã thực hiện các biện pháp cần thiết để Bị đơn có thể giao hàng. Như vậy, “khơng có

Malaysia Dairy Industries v. Dairex Holland, Case no. 9981/HAZA 95-2299, District Court’s –
Hertogenbosch, Decision dated 02/10/1998, truy cập ngày
10/4/2020
28

18


×