Tải bản đầy đủ (.pdf) (227 trang)

Những điểm mới của luật hôn nhân và gia đình 2014 dưới góc độ nhân quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 227 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỘI THẢO KHOA HỌC

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA
LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014

TP. Hồ Chí Minh, Tháng 1 năm 2015


MỤC LỤC
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA CON NGƯỜI TRONG LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT
NAM NĂM 2014 ......................................................................................................................................... 3

Nguyễn Văn Tiến.......................................................................................................................... 3
BÀN VỀ NGUYÊN TẮC HÔN NHÂN MỘT VỢ MỘT CHỒNG TRONG LUẬT HƠN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH NĂM 2014................................................................................................................................ 9

Nguyễn Thị Hoài Trâm ................................................................................................................ 9
BẢO VỆ NGƯỜI YẾU THẾ THEO QUI ĐỊNH CỦA LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM
2014 ............................................................................................................................................................ 20

Lê Vĩnh Châu ............................................................................................................................. 20
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGUYÊN TẮC BẢO VỆ BÀ MẸ VÀ TRẺ EM TRONG LUẬT HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH 2014 ................................................................................................................................. 29

Nguyễn Thị Hồi Trâm .............................................................................................................. 29
NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH VỀ VIỆC ÁP DỤNG
TẬP QUÁN ............................................................................................................................................... 45


Nguyễn Thanh Thư .................................................................................................................... 45
CHẾ TÀI ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ HƠN NHÂN GIA ĐÌNH ................. 52

Lê Thị Mận ................................................................................................................................. 52
NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN KẾT HƠN THEO LUẬT HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH 2014 ................................................................................................................................. 66

Ngơ Thị Anh Vân ....................................................................................................................... 66
ĐỘ TUỔI KẾT HƠN THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM KINH
NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI................................................................... 79

Phan Nguyễn Bảo Ngọc ............................................................................................................. 79
Huỳnh Quang Thuận.................................................................................................................. 79
CÁC TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014 ...................................................................................................................................... 91

Lê Vĩnh Châu ............................................................................................................................. 91
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ GIẢI QUYẾT QUAN HỆ TÀI SẢN, NGHĨA VỤ VÀ HỢP ĐỒNG CỦA
NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN 99

Lê Thị Diễm Phương.................................................................................................................. 99
NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 .............................................................................................. 110

Trần Thị Hương ....................................................................................................................... 110
1


CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN – KINH NGHIỆM TỪ PHÁP LUẬT
ÚC VÀ HOA KỲ .................................................................................................................................... 123


Nguyễn Phương Thảo .............................................................................................................. 123
TRÁCH NHIỆM LIÊN ĐỚI CỦA VỢ, CHỒNG THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM
2014 .......................................................................................................................................................... 131

Đỗ Văn Đại .............................................................................................................................. 131
Nguyễn Nhật Thanh ................................................................................................................. 131
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VỀ TÀI SẢN RIÊNG
CỦA VỢ, CHỒNG ................................................................................................................................. 150

Lê Thị Hồng Vân...................................................................................................................... 150
CHẾ ĐỊNH MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014 .................................................................................................................................... 160

Chế Mỹ Phương Đài ................................................................................................................ 160
MANG THAI HỘ TRONG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI – KINH NGHIỆM CHO VIỆC HOÀN
THIỆN LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014............................................................................... 166

Nguyễn Ngọc Hồng Phượng .................................................................................................... 166
QUAN HỆ CẤP DƯỠNG TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ......................................... 182

Hồng Thị Minh Tâm............................................................................................................... 182
QUAN HỆ KẾT HƠN CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI TRONG LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
NĂM 2014 ............................................................................................................................................... 196

Lường Minh Sơn ...................................................................................................................... 196
Lê Thị Mận ............................................................................................................................... 203
QUYỀN YÊU CẦU TÒA ÁN GIẢI QUYẾT LY HƠN THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
NĂM 2014 ............................................................................................................................................... 217


Đinh Bá Trung ........................................................................................................................ 217

2


QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA CON NGƯỜI TRONG LUẬT HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014
Nguyễn Văn Tiến

Bình đẳng là một quyền quan trọng của con người và là một nội dung của quy định
pháp luật. Con người sinh ra là bình đẳng và có phẩm giá như nhau cũng như được hưởng
các quyền do luật định. Tại Điều 1 Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp
năm 1789, khẳng định: “Mọi người sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các
quyền; mọi phân biệt xã hội chỉ có thể đặt trên cơ sở lợi ích chung”. Ghi nhận về
quyền con người, Tuyên bố Têhêran ngày 13.05.1968 về Hội nghị nhân quyền thế
giới nêu rõ: “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền xác nhận một nhận thức chung
của các dân tộc trên thế giới về các quyền bất di bất dịch và không thể bị xâm
phạm của mọi thành viên trong gia đình nhân loại và thiết lập nghĩa vụ đối với
các thành viên của cộng đồng quốc tế”1. Điều 3 Hiến pháp 2013 khẳng định :
« Nhà nước bảo đảm và phát h
, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển tồn diện”. Cũng trong văn bản pháp luật quan trọng này của Việt
Nam, tại Điều 16 xác định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân
biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Với nền tảng pháp
lý như trên, quyền bình đẳng trong hơn nhân và gia đình được tiếp tục khẳng định trong
Luật Hơn nhân và gia đình 2014 và bổ sung những quyền quan trọng mà công dân được
hưởng so với Luật Hơn nhân và gia đình trước đây.
Quyền bình đẳng của cơng dân trong việc kết hơn. Kết hôn là nhu cầu tự nhiên của
con người, là cơ sở của việc xác lập quan hệ hôn nhân và thực hiện các chức năng xã hội

của gia đình, với chức năng quan trọng là tái sản xuất ra con người, tạo nên thế hệ tương
lai, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, vì vậy mà kết hơn có vai trị đặc biệt
TS, Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Các văn kiện quốc tế về quyền con người (1997), Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, NXB TPHCM, tr 30.
1

3


quan trọng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng và xã hội nói chung. Kết hơn là
sự kiện gắn bó giữa hai chủ thể khác giới dựa trên ý chí tự nguyện của các bên nhằm thiết
lập quan hệ vợ chồng và phải tuân thủ điều kiện kết hôn do luật định. Kết hôn phải được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cơng nhận, quan hệ vợ chồng chỉ phát sinh khi được cơ
quan nhà nước cơng nhận nó thơng qua thủ tục theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật, nam và nữ khi kết hôn phải tuân thủ những điều kiện
do luật định, những điều kiện này được gọi là điều kiện kết hơn. Đó là những u cầu của
pháp luật đặt ra khi kết hôn, nam nữ khi kết hôn bắt buộc phải tuân thủ, chỉ khi đáp ứng
đầy đủ các điều kiện đó thì việc kết hơn mới hợp pháp và được pháp luật công nhận và
bảo vệ. Điều kiện kết hôn theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là những quy
định có tính chất bắt buộc do nhà nước quy định trong các văn bản pháp luật và nam nữ
phải tuân thủ khi kết hôn.
Về bản chất kết hơn là hiện tượng xã hội có tính tự nhiên nhằm mục đích xác lập
quan hệ vợ chồng. Quyền tự do kết hôn là một nội dung của các nhân quyền cơ bản, đó là
quyền của nam và nữ khi đến tuổi kết hơn thì được kết hơn và lập gia đình một cách tự do,
tự nguyện nhưng khi thực hiện quyền này, phải đặt trong khuôn khổ các điều kiện mà
pháp luật đã quy định. Trong các chế độ xã hội khác nhau, thời kỳ, giai đoạn lịch sử, điều
kiện kết hơn được quy định có sự khác nhau, thể hiện sự phát triển và bản chất của xã hội.
Những quy định về điều kiện kết hôn là cần thiết và là cơ sở pháp lý bảo vệ lợi ích cho
các chủ thể của quan hệ này, qua đó bảo vệ lợi ích của gia đình và xã hội.

Trong Luật Hơn nhân và gia đình 2014, Nhà nước tiếp tục khẳng định hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng nhưng điều kiện kết hơn có
những quy định có tính chất cụ thể và mở rộng hơn. Thứ nhất, Nhà nước nghiêm cấm lợi
dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao
động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi2. Quy định này
hướng đến việc xây dựng chế độ hơn nhân bình đẳng, bảo đảm mục đích của hơn nhân
phải được xây dựng trên cơ sở tình yêu thương giữa vợ chồng, loại trừ những hành vi lợi
dụng hôn nhân để mưu cầu các mục đích thấp hèn, vụ lợi hoặc xâm phạm quyền con
người do pháp luật bảo vệ. Nhà nước
2

Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014

4


người, quyền công dân3. Thứ hai, Nhà nước không thừa nhận hơn nhân giữa những người
cùng giới tính. So với pháp luật trước đây, quy định này cởi mở hơn nhiều về việc những
người cùng giới tính có sự sống chung. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
2000, luật cấm những người cùng giới tính kết hơn và không thừa nhận sự sống chung
giữa họ. Nay Luật mới chỉ không thừa nhận hôn nhân giữa họ với nhau chứ khơng cấm sự
chung sống để sẻ chia tình cảm và thực hiện các quyền khác với tư cách là cơng dân.
Quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc ly hôn. Tiếp tục khẳng định quyền tự do
ly hôn của vợ song mức độ điều chỉnh của luật mới mang tính bình đẳng hơn. Ly hơn
khơng chỉ là giải pháp chấm dứt hơn nhân với những người bình thường mà còn là cơ hội
cho những người yếu thế mà trong một tình trạng nào đó họ khơng có điều kiện để tự bảo
vệ mình. Về quyền ly hơn trong luật mới, nhà lập pháp đã bổ sung việc ly hôn giữa người
mất năng lực hành vi dân sự với vợ hoặc chồng. Đây là quy định có ý nghĩa quan trọng
với chủ thể này khi mà họ không tự thực hiện được quyền của mình trong khi đó họ bị
xâm phạm về quyền an tồn tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm mà một cơng dân

bình thường được hưởng. Tại khoản 2 Điều 51 Luật này quy định: “Cha, mẹ, người thân
thích khác có quyền u cầu Tịa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình,
đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”. Theo quy định này, quyền yêu
cầu ly hôn không chỉ của vợ, chồng mà còn bao gồm của chủ thể thứ ba và mục đích của
quyền này là đảm bảo cho vợ hoặc chồng không bị xâm phạm khi họ rơi vào tình trạng
khơng thể tự bảo vệ mình. Tuy những trường hợp này không phổ biến trong xã hội nhưng
vẫn xuất hiện và cần có cơ chế điều chỉnh thích hợp. Khi quy định nội dung này, nhà lập
pháp hướng đến mục tiêu là quyền con người phải được bảo vệ tối đa và tồn diện, cơng
lý đảm bảo cho con người được an tồn về tính mạng, sức khỏe, tinh thần, mọi sự xâm
phạm cần có thiết chế hỗ trợ dù đó là sự vi phạm trong hơn nhân.
Ngồi nội dung trên, bạo lực gia đình cũng được quy định là căn cứ để giải quyết
ly hôn nếu vợ chồng có hành vi vi phạm quyền của phía bên kia. Căn cứ ly hôn này bổ
sung trong luật mới nhằm cảnh tỉnh vợ, chồng trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về
3

Điều 3 Hiến pháp 2013

5


hơn nhân và gia đình và những luật khác khơng được xâm phạm quyền của nhau, tôn
trọng và giúp đỡ vợ, chồng trong việc hưởng quyền cũng như giới hạn sự xử sự không
đúng pháp luật của một hoặc hai phía. Khoản 1 Điều 56 Luật Hơn nhân và gia đình 2014
quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án khơng thành thì Tịa
án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc
vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hơn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt
được”. Có thể nói, đây là quy định tiến bộ, dân chủ, khẳng định quyền tự do hôn nhân của

con người, đề cao phẩm hạnh của vợ chồng, hạn chế bạo hành trong hơn nhân, góp phần
giải phóng con người ra khỏi những quan niệm lạc hậu, phong tục cổ hủ và xây dựng đời
sống hôn nhân lành mạnh, trong sáng.
Quyền bình đẳng của vợ chồng trong chế độ tài sản. Chế độ sở hữu tài sản của vợ
chồng là quy định quan trọng trong pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam. Tài sản của
vợ chồng không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất của gia đình, mà cịn đảm bảo nhu cầu tinh
thần của họ trong q trình xây dựng, duy trì hơn nhân. Chế độ tài sản của vợ chồng bao
gồm tài sản chung và tài sản riêng. Tài sản chung của vợ chồng là yếu tố cơ bản giúp vợ
chồng duy trì cuộc sống hàng ngày của gia đình, tạo ra sự gắn kết giữa các thành viên với
nhau. Tài sản riêng đảm bảo quyền bình đẳng, độc lập, quyền tự do cá nhân của mỗi bên
vợ, chồng trong khn khổ vì hạnh phúc, ổn định, êm ấm, hòa thuận của gia đình. Luật
Hơn nhân và gia đình 2014 trên cơ sở kế thừa các quy định của luật trước đó và mở rộng
hơn nội hàm của quy định này. Thứ nhất, tôn trọng quyền định đoạt của vợ chồng của vợ
chồng với việc thỏa thuận về chế độ tài sản giữa họ. Nhà lập pháp đưa ra hai chế độ tài
sản: Thỏa thuận hoặc pháp định. Tùy thuộc vào ý chí của vợ chồng mà họ lựa chọn chế độ
tài sản giữa họ với nhau. Quy định này tăng tính tự chủ của vợ chồng về chế độ tài sản,
tôn trọng quyền tự quyết của họ về tài sản trước khi xác lập hôn nhân. Điều 47 quy định:
“Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận
này phải được lập trước khi kết hơn, bằng hình thức văn bản có cơng chứng hoặc chứng
thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết
hôn”.

6


Thứ hai, quyền tự do lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng nhưng phải tuân thủ quy
định của pháp luật về nghĩa vụ chung trong gia đình và với lợi ích của người khác. Vợ
chồng được phép chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận nhưng thỏa thuận đó khơng được vi
phạm những nội dung quy định tại Điều 50 của Luật này. Quy định này nhằm đảm bảo
chế độ tài sản của vợ chồng phải xuất phát từ việc đảm bảo lợi ích chung của gia đình và

lợi ích của người thứ ba khi vợ chồng là một bên của giao dịch hoặc quan hệ pháp luật
khác. Đây cũng là cơ hội để vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản giữa họ mà mục tiêu là cơng
khai hóa về quan hệ tài sản để đảm bảo hơn nhân được xây dựng trên nền tảng tình u
thật sự, giải phóng con người khỏi sự lệ thuộc về tài sản làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia
đình và bảo đảm sự an toàn về tài sản cho vợ, chồng có nhiều tài sản trước khi kết hơn.
Chế độ tài sản vợ chồng còn là căn cứ xác định, phân loại tài sản chung, riêng của vợ,
chồng. Khi pháp luật quy định cụ thể, rõ ràng về căn cứ này giúp cho vợ, chồng có cơ sở
xác định được tài sản mà mình đang có và sử dụng chúng một cách hợp lý. Bên cạnh đó,
khi tham gia vào các giao dịch dân sự vợ, chồng hoặc người thứ ba đánh giá được mức độ
rủi ro khi họ tiến hành các giao dịch dân sự với chỉ một bên vợ, chồng. Chế độ tài sản vợ
chồng còn là cơ sở khẳng định quyền tự do của con người về tài sản. Hơn nhân xuất phát
từ tình cảm u thương, gắn bó giữa nam và nữ, nhằm tạo lập và xây dựng gia đình ấm
no, hạnh phúc, khơng được xuất phát từ mục đích kinh tế, trục lợi. Chế độ tài sản vợ
chồng trong Luật mới khẳng định quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng, minh bạch
hóa quan hệ vợ chồng đối với tài sản và mục tiêu xác lập hơn nhân.
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Mang thai hộ là nhu cầu có thực của xã hội
hiện nay và đã được luật hóa. Cùng với việc xã hội ngày một phát triển, tình trạng vợ
chồng hiếm muộn, vô sinh xuất hiện. Thực tế đã xuất hiện tình trạng “đẻ thuê” và những
hệ lụy từ tình trạng trên. Việc luật hóa việc mang thai hộ là giúp cho vợ chồng hiếm muộn
có cơ hội làm cha làm mẹ, hạnh phúc của gia đình tăng lên và đáp ứng mong mỏi của
dòng họ khi mà tập quán ở Việt Nam vẫn còn đề cao sự nối dõi. Tuy nhiên, việc mang
thai hộ không đồng nghĩa với việc vi phạm hoặc bất chấp pháp luật. Mục đích của việc
mang thai hộ phải xuất từ nguyện vọng chính đáng, lành mạnh của vợ chồng và tuân theo
pháp luật. Theo Luật mới, việc mang thai hộ phải xuất phát từ mục đích nhân đạo và đáp
ứng các quy định từ Điều 94 đến Điều 99 của Luật này.
7


Đây là quy định mới và hướng đến quyền bình đẳng của con người. Chức năng xã
hội của gia đình là duy trì nịi giống và tái sản xuất ra con người. Con người là trung tâm

xã hội, chủ thể duy trì đời sống xã hội và cải tạo thế giới. Mơ ước có con là nguyện vọng
chính đáng của mọi gia đình và phải được tơn trọng, giúp đỡ. Việc Luật Hơn nhân và gia
đình 2014 quy định về nội dung này là hiện thực hóa quyền con người, khẳng định sự tiến
bộ, dân chủ của luật, ghi nhận và phản ánh thực trạng nhu cầu xã hội về vấn đề này đặt
trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền và nâng cao quyền con người.
Quyền, nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình. So với Luật trước đây. Thành
viên gia đình và chế độ pháp lý giữa họ đã được bổ sung với nội dung quy định rộng hơn
trong Luật Hơn nhân và gia đình 2014. Khái niệm thành viên gia đình được quy định tại
Điều 3 của Luật này. Về mặt chủ thể, các thành viên được xác định là những người có
mối quan hệ trong gia đình khơng chỉ căn cứ vào quan hệ huyết thống. Về trách nhiệm,
các thành viên gia đình có quyền, nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, tơn trọng nhau.
Quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản của họ được điều chỉnh bởi các luật liên
quan chứ khơng chỉ có Luật Hơn nhân và gia đình. Các thành viên gia đình ngồi việc
quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau cịn phải giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của
gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, dân chủ, hạnh phúc, bền vững.
Trên đây là một số quy định mới của Luật Hơn nhân và gia đ
, quyền bình đẳng của công dân trước pháp
luật. Công dân ngày càng được Nhà nước quan tâm và biểu hiện của sự quan tâm đó là
ghi nhận và bảo vệ các quyền cơ bản của con người bằng pháp luật và cơ chế thi hành
pháp luật. Đây cũng là xu thế chung của xã hội lồi người và Luật Hơn nhân và gia đình
Việt Nam 2014 là một trong các biểu hiện đó.

8


BÀN VỀ NGUYÊN TẮC HÔN NHÂN MỘT VỢ MỘT CHỒNG
TRONG LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
Nguyễn Thị Hồi Trâm

Theo Điều 39 Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thơng qua ngày 28/11/2013 đã

ghi nhận: “Nam, nữ có quyền kết hôn và ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện,
tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ hôn
nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”. Trên cơ sở đó, Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2014 đã khẳng định ngun tắc hơn nhân một vợ, một chồng là
nguyên tắc cơ bản và rất quan trọng, gắn liền với lịch sử phát triển của gia đình Việt Nam.
Ngun tắc này có ý nghĩa vơ cùng to lớn, đó là sự định hướng của Đảng và Nhà
nước cho việc thực hiện những quan hệ hơn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa, phù hợp
với xu thế tất yếu của xã hội loài người. Đó là nguyên tắc hết sức cần thiết, đảm bảo thực
hiện nhiệm vụ của Luật Hơn nhân và gia đình là xóa bỏ chế độ hơn nhân gia đình phong
kiến, xóa bỏ sự đối xử bất bình đẳng đối với phụ nữ, xây dựng chế độ hôn nhân tiến bộ xã
hội. Nguyên tắc này chính là cơ sở đảm bảo sự nhất quán trong việc xây dựng những chế
định, những quy phạm pháp luật hơn nhân và gia đình. Bởi lẽ, để điều chỉnh những quan
hệ hôn nhân và gia đình, nhà nước phải xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể. Các quy
phạm này phải thống nhất với nhau trong một chế định và ngành luật và cơ sở cho sự
thống nhất này đó chính là những ngun tắc cơ bản được quy định trong Luật Hôn nhân
và gia đình. Như vậy, có thể nói ngun tắc này chính là nền tảng của hệ thống pháp luật
hơn nhân và gia đình Việt Nam là cơ sở cho việc giải thích pháp luật, quy phạm pháp luật
và áp dụng pháp luật trong trường hợp có xảy ra tranh chấp.
Trong thực tế cuộc sống hơn nhân và gia đình, nhìn chung nguyên tắc này đã phát
huy được vai trò, tác dụng, đó là cơ sở vững chắc để xóa bỏ tận gốc rễ những tàn dư còn
lại của chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến, đồng thời chống lại những ảnh hưởng tiêu
cực của hơn nhân gia đình tư sản. Pháp luật của nhà nước tư sản cũng quy định hôn nhân
theo nguyên tắc một vợ một chồng nhưng trên thực tế nguyên tắc này đã bị phá vỡ do nạn
Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

9


ngoại tình và mại dâm cơng khai. Do đó xét về bản chất “hôn nhân của giai cấp tư sản là
chế độ cộng thê”. Ngược lại, bản chất hôn nhân xã hội chủ nghĩa là hôn nhân một vợ một

chồng như Ph.Ăngghen đã từng chỉ rõ : “Vì bản chất của tình u là khơng thể chia sẻ cho
nên hơn nhân dựa trên tình yêu của nam và nữ do ngay bản chất của nó là một vợ một
chồng”. Ta có thể thấy,việc thực hiện ngun tắc hơn nhân một vợ, một chồng là hoàn
toàn phù hợp với sự phát triển của kinh tế-xã hội xã hội chủ nghĩa, là cơ sở quan trọng
đảm bảo sự bền vững của hôn nhân. Việc tuân thủ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một
chồng đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức và mọi cá
nhân trong xã hội.
Để bảo vệ cho chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, Điều 5 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 đã quy định: “Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hơn hoặc chung
sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn
hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”. Nguyên tắc này được
thể hiện cụ thể trong những quy định về kết hôn, thực hiện quan hệ vợ chồng, ly hôn…
Nguyên tắc này là nguyên lý chỉ đạo việc điều chỉnh quan hệ hơn nhân giữa vợ chồng
trong gia đình, được quy định trong văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình cụ thể là
tại khoản 1 Điều 2 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014. Nội dung của nguyên tắc hôn
nhân một vợ, một chồng là: chỉ những người chưa có vợ, chưa có chồng hoặc đã có vợ, có
chồng nhưng hơn nhân đó đã chấm dứt mới có quyền kết hơn. Việc kết hơn của họ phải
với người đang khơng có vợ, khơng có chồng. Ngồi ra, để bảo vệ chế độ hôn nhân một
vợ, một chồng, ngun tắc hơn nhân một vợ, một chồng cịn điều chỉnh cả hành vi chung
sống như vợ chồng, chỉ những người đang khơng có vợ, khơng có chồng mới có quyền
chung sống như vợ chồng với những người đang không có vợ, khơng có chồng.
Theo Mục 1 điểm c.1 Nghị quyết số 02/2002/NQ – HĐTP thì “người đang có vợ có
chồng” được hiểu là :
Người đã kết hơn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và
gia đình nhưng chưa li hơn.
Người đang chung sống với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và
đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hơn.

10



Người chung sống với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày
01/01/2001 và đang chung sống như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hơn nhưng khơng
đăng kí kết hơn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày nghị quyết này có hiệu lực cho đến
01/01/2003).
Theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình, chỉ có những người chưa kết hơn
hoặc những người tuy đã kết hôn nhưng vợ hoặc chồng đã chết hoặc hai người đã li hơn
thì mới có quyền kết hơn với người khác. Pháp luật cấm những người đang có vợ có
chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhằm xóa bỏ tận gốc
chế độ đa thê phong kiến đảm bảo hạnh phúc và sự bền vững gia đình.
Tuy nhiên trên thực tế vẫn cịn chế độ một chồng nhiều vợ tồn tại ở Việt Nam và
được nhà nước, pháp luật thừa nhận. Đó là những quan hệ hôn nhân được xác lập trước
Nghị quyết 76 ngày 25/3/1977 của Quốc hội về việc thống nhất hai miền Nam Bắc có
hiệu lực thì pháp luật vẫn cơng nhận một số trường hợp đa thê. Đó là đối với trường hợp
những người là cán bộ Miền Nam tập kết ra Bắc thì theo Thơng tư số 60/TATC ngày
22/2/1978 của TANDTC về việc hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội
trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác vẫn có hiệu lực. Đây được coi là
những tồn tại do thực tế lịch sử và nhà nước vẫn chấp nhận tình trạng đa thê của họ.
Một trường hợp đặc biệt là người bị tòa án tuyên bố đã chết theo Điều 91 Bộ luật
dân sự 2005. Sau khi tuyên bố chết của Tòa án có hiệu lực thì vợ hoặc chồng của người bị
tun bố chết có quyền kết hơn với người khác. Trong trường hợp này nếu người bị tuyên
bố chết trở về, tòa án hủy bỏ tuyên bố chết mà vợ hoặc chồng của người đó đã kết hơn với
người khác thì quan hệ hơn nhân được xác lập sau vẫn có hiệu lực pháp luật; nếu vợ hoặc
chồng chưa kết hơn với người khác thì quan hệ hơn nhân đương nhiên được khôi phục.
Về vấn đề chung sống với nhau như vợ chồng, pháp luật quy định đây là việc coi
nhau như vợ chồng, chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau chăm lo đời
sống chung. Theo TTLT số 01/2001/TTLT – TANDTC – VKSNCTC – BTP ngày
3/1/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng
dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội, được coi là nam và nữ đang
sống chung với nhau như vợ chống, nếu họ có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của

Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau:
11


- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau.
- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp
nhận.
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến.
- Họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau cùng nhau xây dựng gia
đình.
Trên cơ sở nguyên tắc một vợ, một chồng, một loạt các chế định gồm nhiều quy
phạm pháp luật hôn nhân và gia đình đã được thiết kế để áp dụng trong thực tế, như: điều
kiện kết hôn, đăng ký kết hôn, nghĩa vụ và quyền của vợ và chồng… những văn bản quy
phạm khác cũng được ban hành để hướng dẫn áp dụng và quy định cụ thể để thi hành một
số chế định trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Thực chất, đây là sự cụ thể hóa những
nội dung của các nguyên tắc cơ bản đã được quy định trong Luật Hơn nhân và gia đình.
Như vậy, những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam mà trọng
tâm là nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng đã thực hiện được vai trị chỉ đạo, định
hướng cho ngành Luật Hơn nhân và gia đình trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật
hơn nhân và gia đình 1986, ngun tắc hơn nhân một vợ, một chồng đã được quy định cụ
thể và đầy đủ hơn. Nguyên tắc một vợ, một chồng được biểu hiện xuyên suốt trong những
chế định luật. Nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng đã trở thành một nguyên tắc của
cuộc sống được mọi người tôn trọng và tự giác thực hiện đang dần xóa bỏ tư tưởng đa thê
cịn rơi rớt lại. Chế độ hơn nhân một vợ, một chồng được thực hiện làm rõ bản chất của
tình u là “khơng thể chia sẻ được”, là cơ sở duy trì hạnh phúc gia đình, duy trì sự bền
vững của chính quan hệ hơn nhân.
Bên cạnh đó, trong thực tế đời sống hơn nhân và gia đình vẫn cịn khơng ít những
biểu hiện tiêu cực trái ngược với bản chất tốt đẹp của chế độ hôn nhân xã hội chủ nghĩa
mà chúng ta đang xây dựng.Tình trạng kết hôn không đăng ký đang là hiện tượng phổ
biến ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.Thực trạng

này đã gây những khó khăn khơng nhỏ trong việc kiểm sốt của các cơ quan Nhà nước
đối với quan hệ hôn nhân và gia đình. Hơn nhân một vợ một chồng đã được xây dựng
thành một trong những nội dung của nguyên tắc hiến định về hơn nhân và gia đình và
được Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 khẳng định là nguyên tắc cơ bản của chế độ
12


hơn nhân và gia đình. Tuy nhiên trên thực tế, hiện tượng vi phạm nguyên tắc hôn nhân
một vợ một chồng vẫn xảy ra, biểu hiện ở các trường hợp ngoại tình, ở hiện tượng những
người đã có vợ, có chồng chưa ly hôn nhưng đã chung sống với người khác như vợ
chồng. Đặc biệt có những trường hợp một người đàn ông chung sống như vợ chồng với
nhiều người phụ nữ. Việc vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng đã gây ra nhiều
hậu quả nghiêm trọng: làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, con cái bị bỏ mặc, thiếu
sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ, con bị khủng hoảng về tâm lý sinh ra những thói hư,
tật xấu, kinh tế gia đình sa sút nghiêm trọng… nhưng không phải trường hợp vi phạm nào
cũng được xử lý. Những hiện tượng này không phải là hiếm gặp mà ngày càng trở nên
phổ biến ở nhiều địa phương và ngoại tình đã trở thành nguyên nhân chính của nhiều cuộc
li hơn. Trong cơng tác xét xử của Toà Án Nhân Dân thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh
năm 2009 cho thấy số vụ ly hôn vì ngoại tình là 36 vụ trên tổng số 323 vụ ly hơn, chiếm
11%.
Theo số liệu tìm hiểu được, năm 2000 ở Hà Nội có 152 trường hợp vi phạm nguyên
tắc hôn nhân 1 vợ 1 chồng; Kiên Giang là 1.450 trường hợp và ở Thành Phố Hồ Chí Minh
con số này lên tới 4.418 trường hợp. Đặc biệt tại các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số có dân trí thấp thì tình trạng đa thê đa thiếp vẫn cịn tồn tại ở thế kỷ 21.
Điển hình như vụ án đang gây nhiều tranh cãi một ông ba bà. Ông N quê ở xã Tân
Bửu - Bến Lức - Long An cưới người vợ đầu tiên năm 1994 (có đăng ký kết hơn), sau một
thời gian, đường ai nấy đi. Năm 1996, khi chưa ly hôn, ông N đã làm đám cưới rồi chung
sống không hôn thú với bà vợ hai. Một năm sau, họ sinh được một con chung. Rồi do mâu
thuẫn, họ xin ly hôn. Lẽ ra phải xác định đây là hôn nhân trái pháp luật thì năm 1999,
TAND huyện Bến Lức lại cho ông N ly hôn bà vợ hai và giải quyết các yêu cầu về tài sản

chung, quyền nuôi con, cấp dưỡng. Năm 2000, ông N lại tổ chức đám cưới và sống chung
với bà vợ ba, có một con chung, đến năm 2004 thì được chính xã Tân Bửu cho đăng ký
kết hôn.
Theo nội dung của nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, ta có thể thấy những
người vi phạm ngun tắc hơn nhân một vợ một chồng có thể có hai trường hợp sau:
Thứ nhất, người đang có quan hệ hôn nhân hợp pháp vi phạm nguyên tắc hôn nhân
một vợ một chồng.
13


Người đang có quan hệ hơn nhân hợp pháp là người đã kết hôn với người khác theo
đúng quy định của pháp luật về hơn nhân và gia đình và chưa ly hơn. Người đó đang trong
tình trạng là đang có vợ hoặc có chồng nghĩa là hơn nhân của họ chưa bị chấm dứt do ly
hôn hoặc do một trong hai bên chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết. Cơ sở pháp lý để
xác định người đang có vợ, có chồng là dựa vào giấy chứng nhận đăng kí kết hơn do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp vẫn cịn có hiệu lực.
Theo Luật Hơn nhân và gia đình, người đang có quan hệ hơn nhân hợp pháp vi phạm
nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng có thể xảy ra trong hai trường hợp:
- Người đang có vợ, có chồng mà lại kết hơn với người khác.
Việc kết hơn của người đang có vợ, có chồng với người khác mặc dù có đăng ký kết
hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn nhưng đã vi phạm điều kiện kết hôn (Khoản 1 – Điều 8
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014) và thuộc một trong những trường hợp cấm kết hôn
tại Điều 5 Luật Hơn nhân và gia đình. Do đó, việc kết hơn giữa những người đang có vợ
hoặc đang có chồng với người khác là vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.
- Người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ, chồng với người khác.
Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ khơng có đăng kí kết hơn nhưng về
chung sống với nhau như vợ, chồng. Việc chung sống với nhau như vợ chồng với người
đang có vợ, có chồng trong trường hợp này bao gồm: những người đang có vợ, có chồng
cùng chung sống với nhau như vợ, chồng (cả hai bên đều trong tình trạng đang có vợ, có
chồng); người đang có vợ, có chồng, chung sống với người chưa có vợ, có chồng (chỉ một

bên chung sống là người đang có vợ, có chồng). Việc chung sống như vợ chồng với người
đang có vợ hoặc có chồng bất kể là cơng khai hay khơng cơng khai thì đều là vi phạm
ngun tắc hôn nhân một vợ một chồng.
Thứ hai, nam nữ chung sống như vợ chồng, được coi là có quan hệ vợ chồng nhưng
vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.
Việc nam nữ chung sống như vợ chồng được cơng nhận là có quan hệ vợ chồng khi
mà cả hai bên nam, nữ chung sống dựa trên cở sở tình u thương, muốn chăm sóc, giúp
đỡ nhau và thực sự mong muốn thành vợ chồng, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm,
hạnh phúc; đồng thời họ đã chung sống công khai, cùng nhau thực hiện các quyền và

14


nghĩa vụ đối với nhau như vợ chồng và được họ hàng, xã hội xung quanh thừa nhận là vợ
chồng.
Theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình, người đang chung sống như vợ
chồng được coi là có quan hệ vợ chồng vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
khi họ kết hôn hoặc lại chung sống như vợ, chồng với người thứ ba. Bởi vì, trong quan hệ
đầu tiên, giữa nam và nữ chỉ chung sống như vợ chồng và khơng có đăng kí kết hơn
nhưng nó đã thỏa mãn các yếu tố của một cuộc hôn nhân, được pháp luật công nhận và
bảo hộ như các quan hệ vợ chồng hợp pháp khác. Vì thế, giữa nam và nữ chung sống như
vợ chồng cũng nảy sinh quyền và nghĩa vụ đối với nhau nên phải tuân thủ nguyên tắc một
vợ một chồng. Do đó, khi họ kết hơn thì lần kết hơn đó là vi phạm nguyên tắc này và
được coi là trái pháp luật.
Nguyên nhân của các trường hợp vi phạm trên là do trình độ dân trí nói chung và
hiểu biết về pháp luật hơn nhân và gia đình nói riêng trong nhân dân còn ở mức độ thấp.
Thực tế ở nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống,
việc thực hiện quan hệ hôn nhân và gia đình chỉ đơn thuần theo phong tục tập quán, trong
đó có những phong tục, tập quán phù hợp, song cũng có những phong tục tập qn lạc
hậu, khơng phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình. Sự ít hiểu biết

về Luật Hơn nhân và gia đình dẫn đến việc người dân vi phạm những quy định của Luật,
bên cạnh đó họ cũng khơng bảo vệ được những quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Đồng thời, chúng ta cũng khơng phát huy được vai trò hợp tác, giúp đỡ của nhân dân
trong việcphát hiện, tố giác kịp thời những hành vivi phạm các quy định của pháp luật
hơn nhân và gia đình. Nguyên nhân của tình trạng này là do điều kiện sinh hoạt vật chất
thấp kém, cùng với đó là việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số nơi cịn
mang nặng tính hình thức, chỉ tun truyền theo từng đợt hoặc khi có yêu cầu mới tiến
hành, chưa có phương pháp và hình thức tun truyền phù hợp.
Hiện nay, tình trạng nam nữ chung sống với nhau mà khơng có đăng ký kết hơn diễn
ra ngày càng phổ biến. Đặc biệt ở các vùng núi, vùng dân tộc ít người tình trạng nam nữ
chung sống như vợ chồng xuất hiện ngày càng diễn biến phức tạp và khó kiểm sốt. Các
trường hợp vi phạm khơng có chiều hướng giảm mà ngày càng gia tăng, xuất phát từ
nhiều ngun nhân, trong đó một phần là do hồn cảnh xã hội. Tác động từ nền kinh tế thị
15


trường đã hình thành trong xã hội một bộ phận dân cư khá giả, có lối sống tiêu xài, sống
thực dụng, buông thả trong tầng lớp thanh niên làm cho các trường hợp vi phạm nguyên
tắc một vợ một chồng xuất hiện ngày càng phức tạp, với nhiều biến tướng như: góp gạo
thổi cơm chung, chấp nhận làm vợ hờ không thân phận chỉ để được bao ăn ở…
Trong công tác xử lý, những cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật Hơn
nhân và gia đình nhất là vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng còn chưa kịp thời, nghiêm
minh, thậm chí bị coi nhẹ nên không phát huy được tác dụng giáo dục, răn đe và phòng
ngừa. Trên thực tế, những trường hợp vi phạm ngun tắc hơn nhân một vợ một chồng
cịn xảy ra khơng ít, tuy nhiên, con số phản ánh những vụ việc đã được cơ quan có thẩm
quyền giải quyết lại quá khiêm tốn. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao về
xét xử hình sự đối với hành vi xâm phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng năm 2000 ở
cấp huyện là 32, ở cấp tỉnh là 3; năm 2006 ở cấp huyện là 139, ở cấp tỉnh là 86 4. Ta có
thể thấy các vụ việc vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng trên thực tế xảy ra với số
lượng không hề nhỏ, song số vụ được đưa ra xét xử vẫn cịn rất hạn chế, thơng thường

được giải quyết bằng sự thoả thuận giữa các bên hoặc bỏ qua hành vi vi phạm, hai bên
vẫn tiếp tục chung sống. Sở dĩ có tình trạng này là do nhiều ngun nhân trong đó có
nguyên nhân từ các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong thực tế, có những trường hợp vi
phạm chế độ hơn nhân và gia đình vẫn chưa bị xã hội lên án mạnh mẽ, thậm chí là điều
bình thường đối với dư luận xã hội hoặc phù hợp với phong tục tập quán. Do đó, các cơ
quan bảo vệ pháp luật đã coi nhẹ việc xử lý đối với những hành vi vi phạm này.
Một nguyên nhân khác đó là do trình độ đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã và thẩm phán
cịn chưa đồng đều, thậm chí có những cán bộ tư pháp, thẩm phán quá kém về pháp luật
và chuyên môn nghiệp vụ, chưa thực sự đáp ứng được u cầu giải quyết chính xác,
nhanh chóng các yêu cầu của đương sự, thêm vào đó là những tác động của vật chất, của
các mối quan hệ xã hội làm cho một bộ phận không nhỏcán bộ tư pháp, thẩm phán đã
không thực sự khách quan trong giải quyết công việc. Thực tế cho thấy đội ngũ cán bộ tư
pháp cấp xã hầu hết chưa qua đào tạo cử nhân, nên thiếu những kiến thức cơ bản về
chuyên môn.
4

Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2010,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.

16


Nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng bị vi phạm do chính cơ chế của chúng ta
tạo ra. Tình hình đó đặt ra u cầu phải có các biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả điều
chỉnh của nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng:
Một là, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục Luật hơn nhân và gia đình một cách sâu
rộng cho mọi đối tượng.
Nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng chỉ có thể phát huy được hiệu quả điều
chỉnh khi được tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi người dân tuân thủ
một cách nghiêm túc và triệt để. Để đạt được điều đó, việc phổ biến, tuyên truyền, giáo

dục Luật Hơn nhân và gia đình phải được tiến hành trên mọi đối tượng. Luật Hơn nhân và
gia đình cần sớm đưa vào trong chương trình giáo dục ở phổ thơng. Việc giáo dục pháp
luật đối với những đối tượng này phải kết hợp với việc giáo dục đạo đức, truyền thống
trong gia đình, sử dụng những phương pháp giáo dục gần gũi, thiết thực. Việc tuyên
truyền, phổ biến Luật Hôn nhân và gia đình cần được tiến hành song song với việc vận
động nhân dân đấu tranh chống lại những tàn dư của chế độ hơn nhân và gia đình phong
kiến, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu, tự giác chấp hành những quy định của
Luật.
Hai là, cải tiến trong công tác đăng ký hộ tịch và đổi mới về tổ chức và hoạt động
của Tịấn nhân dân trong việc giải quyết các án tranh chấp hôn nhân và gia đình.
Trong cơng tác đăng ký hộ tịch, việc xem xét các yêu cầu của nhân dân trong hôn
nhân và gia đình phải được tiến hành nhanh chóng, chính xác. Đối với hệ thống sổ sách,
biểu mẫu, một số tờ khai đăng ký hộ tịch cần được thay đổi lại cho phù hợp để hạn chế
những sai sót, vướng mắc và những trường hợp vi phạm có thể xảy ra. Trong công tác giải
quyết, xử lý các tranh chấp về hơn nhân và gia đình, nên thành lập Tịa chun trách về
hơn nhân và gia đình. Do quan hệ hơn nhân và gia đình có những đặc thù riêng biệt nên
đòi hỏi những cán bộ giải quyết các tranh chấp về loại này phải có những phẩm chất đạo
đức, năng lực cơng tác, có uy tín, am hiểu về tình hình, về phong tục tập qn và có
những kinh nghiệm cần thiết.
Ba là, việc xử lý những hành vivi phạm nguyên tắc chế độ hôn nhân một vợ một
chồng cần được các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nghiêm túc, kịp thời và đúng pháp
luật để phát huy tác dụng giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật hơn nhân và gia đình.
17


Mục đích của những biện pháp xử lý khơng phải là trừng phạt, bắt người vi phạm
phải chịu chế tài của pháp luật mà nhằm giáo dục đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật để họ khơng tiếp tục vi phạm pháp luật, đồng thời giáo dục những cá nhân khác có ý
thức tơn trọng pháp luật, để từ đó khơng vi phạm pháp luật hơn nhân và gia đình. Bên
cạnh đó, cần tăng cường hồn thiện các quy định của pháp luật trong việc giải quyết các

trường hợp vi phạm, cần sửa đổi các quy định về hình phạt đối với các trường hợp vi
phạm nguyên tắc, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan xét xử áp dụng pháp luật để
giải quyết các trường hợp vi phạm. Có như vậy, pháp luật mới phát huy hết tác dụng và
chức năng của mình đó là giáo dục, phòng ngừa, răn đe, ngăn chặn các hành vivi phạm
nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng trong tương lai. Từ đó nâng cao ý thức của người
dân trong việc tôn trọng và tuân thủ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng.
Bốn là: nâng cao chất lượng cơng tác hịa giải những tranh chấp về hơn nhân gia
đình
Cơng tác hịa giải ở cơ sở làm được tốt sẽ kịp thời giải quyết được những xích mích
trong nội bộ gia đình, giúp cho các thành viên trong gia đình được bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp, và cũng vì thế mà hạn chế được những hành vi vi phạm chế độ hôn nhân
một vợ một chồng. Đồng thời cũng có tác dụng quan trọng trong việc giáo dục ý thức
trách nhiệm đối với các thành viên của gia đình, thơng qua đó Luật Hơn nhân và gia đình
cũng được tuyên truyền trực tiếp tới từng người dân.Cơng tác hịa giải những tranh chấp
về hơn nhân và gia đình phải khách quan, cơng minh, có lý, có tình, tơn trọng quyền và lợi
ích hợp pháp của hai bên.Bên cạnh đó, cán bộ làm cơng tác hịa giải phải hiểu được tâm lý
của những người có mâu thuẫn, thấy rõ cái đúng, cái sai của cả hai bên để có thể thực hiện
thành cơng việc hịa giải.
Năm là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp,
thẩm phán có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu giải quyết kịp thời, chính xác các
tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
Hoạt động của các cán bộ Tư pháp và Thẩm phán là những khâu rất quan trọng
trong việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng. Họ vừa là người
thay mặt Nhà nước kiểm soát việc thực hiện các quan hệ hơn nhân và gia đình trong xã
hội, vừa là người tuân thủ nguyên tắc đó trong q trình kiểm sốt. Trong tình hình hiện
18


nay, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ tư pháp ở cấp xã và
Thẩm phán ở tòa án nhân dân cấp huyện là việc làm cần phải được chú trọng. Cần tập

trung trang bị kiến thức, kỹ năng theo chức danh, vị trí việc làm của cán bộ tư pháp cấp
xã; hướng dẫn chuyển giao các kỹ năng, truyền đạt kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp
luật, giải quyết các vấn đề thực tiễn trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình, các tình huống
cụ thể, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý, nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ. Nội
dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần đảm bảo chất lượng, đúng đối tượng, phù hợp
với từng chức vụ của cán bộ tư pháp, đồng thời bám sát những nhiệm vụ cấp thiết đang
đặt ra hiện nay về vấn đề hơn nhân và gia đình ở các cấp xã, phường, thị trấn. Bên cạnh
đó, cần có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ cho Hội thẩm
nhân dân, bởi họ là người đại diện của nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử tại Tịa án
và có quyền ngang với Thẩm phán.
Hơn nhân một vợ một chồng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Hơn
nhân và gia đình Việt Nam. Ngun tắc này một mặt thể hiện tư tưởng chỉ đạo, định
hướng hoặc trực tiếp điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, mặt khác góp phần
chứng minh rằng Luật Hơn nhân và gia đình là một ngành luật độc lập trong hệ thống
pháp luật Việt Nam, thể hiện bản chất chế độ hơn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa mà
Đảng, nhà nước và nhân dân ta quyết tâm xây dựng. Do đó, chúng ta cần tìm hiểu làm rõ
những vấn đề lý luận về nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng để việc áp dụng, tuyên
truyền nguyên tắc này cho các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi cá nhân được
cụ thể và triệt để hơn.

19


BẢO VỆ NGƯỜI YẾU THẾ THEO QUI ĐỊNH CỦA LUẬT HƠN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
Lê Vĩnh Châu

Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ năm 2014) được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua ngày 19.6.2014, có hiệu lực từ ngày
1.1.2015. Bao gồm 9 chương và 133 điều, thay thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Trên cơ sở kế thừa qui định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 về bảo vệ quyền lợi
người yếu thế trong lĩnh vực Hơn nhân và gia đình, Luật HNGĐ năm 2014 còn sửa đổi,
bổ sung nhiều qui định cho phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội trong giai đoạn
hiện tại. Bài viết này tác giả muốn đề cập đến một số vấn đề như xác định ai là người yếu
thế trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những người yếu thế được bảo vệ như thế nào
trong Luật HNGĐ năm 2014.
1. Khái niệm người yếu thế trong quan hệ hơn nhân và gia đình
Theo giải thích từ ngữ tại điều 3 Luật HNGĐ năm 2014:
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hơn.
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau
theo quy định của Luật này.
Thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ
kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu,
con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ
khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ,
cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cơ, dì, chú, cậu, bác
ruột và cháu ruột.
Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của người khơng sống chung với mình mà có quan hệ hơn nhân,
huyết thống hoặc ni dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người

ThS, Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh

20


đã thành niên mà khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình hoặc
người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.
Theo các khái niệm nêu trên, trong quan hệ hôn nhân và gia đình, chủ thể được

xem là người yếu thế bao gồm:
Một là, người chưa thành niên ở trong gia đình.
Đây là con, em, cháu của các thành viên khác trong gia đình, là những người chưa
thành niên, chưa có được những điều kiện nhất định về sức khỏe, nhận thức, kinh tế để có
thể tự chăm lo, tự bảo vệ cho đời sống của mình, nên trong quan hệ với các thành viên
khác trong gia đình, họ thường là người phụ thuộc, được các thành viên khác trông nom,
chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục.
Hai là, những người đã thành niên nhưng ở vào hồn cảnh khơng thể tự chăm lo
cho bản thân mình được, để duy trì cuộc sống bình thường, cần phải nhờ đến thành viên
khác trong gia đình.
Với những chủ thể này, do điều kiện về sức khỏe, điều kiện về kinh tế cũng như
định kiến xã hội, nên họ cũng rơi vào tình trạng khơng thể tự chăm lo cho bản thân, chẳng
hạn như bị khuyết tật, ốm đau, già yếu. Trong cuộc sống hành ngày, cần phải nhờ đến
thành viên khác trong gia đình chăm sóc, ni dưỡng, cấp dưỡng.
Quan điểm Nhà nước đối với người yếu thế trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
được thể hiện rõ: "Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em,
người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hơn nhân và gia đình; giúp đỡ
các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia
đình"5.
Tóm lại, người yếu thế trong quan hệ hơn nhân và gia đình cần được hiểu: Là
những người do đặc điểm về độ tuổi, sức khỏe, kinh tế, định kiến xã hội nên ở vào tình
thế phải lệ thuộc thành viên khác trong gia đình, bao gồm những người chưa thành niên,
người đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, người không đủ khả năng lao
động và khơng có tài sản để ni sống mình.
Quyền lợi của những người yếu thế được Luật HNGĐ năm 2014 bảo vệ thông qua
các qui phạm pháp luật khác nhau, như: Qui phạm xác định nghĩa vụ và quyền của các
5

Khoản 4, điều 2 Luật HNGĐ 2014


21


thành viên trong gia đình, qui phạm qui định quyền của người yếu thế trong gia đình, qui
phạm xác định nghĩa vụ của các thành viên khác trong gia đình trong quan hệ với những
thành viên yếu thế và các qui phạm mang tính chế tài.
2. Bảo vệ quyền lợi người yếu thế trong các mối quan hệ cụ thể
Bảo vệ quyền lợi người yếu thế trong quan hệ cha, mẹ con.
Một trong những qui định có tính ngun tắc được ghi nhận tại khoản 4, điều 68
Luật HNGĐ năm 2014 là: "Mọi thỏa thuận của cha mẹ, con liên quan đến quan hệ nhân
thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và
khơng có tài sản để tự ni mình, cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả
năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình".
Từ qui định tại các điều: Điều 69, điều 70 - 77, điều 80, 81, 84, 85, 88, 90, 110,
111 Luật HNGĐ năm 2014, có thể rút ra một số nội dung sau:
Thứ nhất: Quyền của người con trong việc xác nhận, xác định cha, mẹ cho mình
Đây là quyền thiêng liêng của mỗi con người, mỗi người sinh ra đều có quyền
được biết nguồn gốc, cội nguồn của mình. Do đó: Những người được sinh ra trong thời kỳ
hơn nhân hoặc do người mẹ có thai trong thời kỳ hôn nhân và sinh ra trong thời hạn 300
ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con chung của hai vợ chồng. Với qui
định này, người sinh ra đứa trẻ được xác định là mẹ của đứa trẻ và người đang có quan hệ
hơn nhân với mẹ đứa trẻ, được xác định là cha của đứa trẻ6. Đối với những người được
sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ
chồng.
Trong trường hợp cha, mẹ khơng thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được
Tòa án xác định.
Đối với những người được sinh ra, nhưng cha, mẹ không được pháp luật thừa nhận
là vợ, chồng, Luật pháp dành cho họ có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xác nhận hoặc xác định mối quan hệ cha, mẹ, con. Theo đó, người con có quyền nhận cha,


6

Tuy nhiên, qui định này bị loại trừ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Vì với các trường hợp
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thì người nhờ mang thai hộ mới là cha, mẹ đứa trẻ, chứ không phải người sinh ra
đứa trẻ đó.

22


mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết; Con đã thành niên nhận cha, không
cần phải có sự đồng ý của mẹ; nhận mẹ, khơng cần phải có sự đồng ý của cha.
Thứ hai: Quyền được thương u, ni dưỡng, cấp dưỡng, chăm sóc, giáo dục: Khi
sống chung với cha mẹ; khi không sống chung với cha, mẹ.
Đối với những người con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực
hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình
trong quan hệ với cha, mẹ, cha, mẹ phải:
- Chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ,
đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, cơng dân có ích cho xã hội; Tạo điều
kiện cho con được sống trong mơi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; Làm gương tốt cho
con về mọi mặt; Phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục
con; Hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con.
- Trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; Đảm
bảo quyền của con được sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, ni dưỡng,
chăm sóc. Trường hợp khơng sống chung với cha, mẹ hoặc sống chung với cha, mẹ
nhưng cha, mẹ vi phạm nghĩa vụ ni dưỡng con, thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
- Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con. Cha mẹ là
người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại

diện theo pháp luật; Cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình; Cha, mẹ có quyền
u cầu Tịa án giải quyết ly hơn để chấm dứt hôn nhân của người con, khi người con bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của người con gây ra làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của con.
- Không được lạm dụng sức lao động của con; không được xúi giục, ép buộc con
làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
- Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự.
23


Thứ ba: Quyền có tài sản riêng; Quyền thể hiện ý chí trong việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản riêng của mình
Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế
riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của
con cũng là tài sản riêng của con.
Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ
quản lý. Trường hợp cha mẹ có quyền định đoạt tài sản riêng của con, khi định đoạt phải
xem xét đến nguyện vọng của con nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên. Con từ đủ 15 tuổi đến dưới
18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản
có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự
đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.
Thứ tư: Quyền thể hiện ý chí trong việc sống chung với cha hoặc mẹ khi cha, mẹ ly
hơn.
Sau khi ly hơn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng,
giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng
có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình.

Cha, mẹ thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau
khi ly hôn đối với con; trường hợp khơng thỏa thuận được thì Tịa án quyết định giao con
cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07
tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ
không đủ điều kiện để trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con hoặc cha
mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Trường hợp tịa án quyết định thay đổi người ni con khi có đơn yêu cầu, phải
xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
Thứ năm: Chế tài đối với cha, mẹ khi xâm phạm quyền lợi của con
Nếu cha, mẹ vi phạm nghĩa vụ hoặc khơng có điều kiện để đảm bảo quyền lợi về
nhân thân và tài sản đối với con, tòa án sẽ ra quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ với
con; Thay đổi người nuôi con.
24


×