Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội Dịch vụ công tác xã hội trong hỗ trợ người cao tuổi cô đơn tại xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.87 KB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI

ĐỖ THỊ THU TRANG

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ NGƯỜI
CAO TUỔI CÔ ĐƠN TẠI XÃ LIÊN HIỆP, HUYỆN PHÚC
THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI

ĐỖ THỊ THU TRANG

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ NGƯỜI
CAO TUỔI CÔ ĐƠN TẠI XÃ LIÊN HIỆP, HUYỆN PHÚC
THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã ngành: 8760101


LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ THỊ VÂN ANH

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Đỗ Thị Vân Anh. Các số liệu, những kết
luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hồn tồn trung thực.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 12 năm 2018
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Thu Trang


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường và các thầy giáo,
cô giáo trong Trường Đại học Lao động - Xã hội, đặc biệt là PGS.TS. Đỗ Thị
Vân Anh - người hướng dẫn khoa học đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi
trong q trình thực hiện luận văn. \ Tơi cũng xin chân thành cảm ơn của tập
thể cán bộ chính quyền và người cao tuổi cô đơn hiện đang sinh sống tại địa
bàn xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội đã giúp tơi rất nhiều
để tơi hồn thiện luận văn này.
Trong phạm vi của cơng trình nghiên cứu này, Mặc dù đã có nhiều cố
gắng nghiên cứu, khai thác tài liệu, học hỏi cũng như bản thân tác giả cịn hạn
hẹp về kinh nghiệm. Vì vậy, nghiên cứu khơng tránh khỏi những thiếu sót, tơi
mong nhận được sự chia sẻ, góp ý của q thầy cơ cùng tồn thể bạn đọc.
Chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Tác giả

Đỗ Thị Thu Trang


5

MỤC LỤC


6

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NCT
BTXH
LĐ-TB&XH
CSSK
TDTT
CTXH
CLB

: Người cao tuổi
: Bảo trợ xã hội
: Lao động - Thương binh và Xã hội

: Chăm sóc sức khỏe
: Thể dục thể thao
: Cơng tác xã hội
: Câu lạc bộ


7

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ


8

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ai trong cuộc sống này cũng muốn có một cuộc sống no đủ, hạnh phúc.
Nhưng thực tế thì có một bộ phận những người yếu thế trong xã hội đang có
một cuộc sống rất khó khăn, họ thiếu hụt cả những nhu cầu cơ bản của con
người như ăn, mặc, nhu cầu có một chỗ ngủ, nhu cầu an toàn … và khi xã hội
càng phát triển thì đằng sau nó bộ phận những người yếu thế càng lớn dần lên
đòi hỏi cộng đồng và xã hội cần phải có những sự trợ giúp cho họ. Đặc biệt
vai trị của Nhân viên cơng tác xã hội nhất là vai trò cung cấp dịch vụ giữ một
vị trí quan trọng giúp họ đáp ứng được những nhu cầu cơ bản, nâng cao năng
lực, giải quyết vấn đề để đáp ứng những nhu cầu cấp cao trong cuộc sống.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam đã trải qua gần ba thập kỷ. Để đất
nước thực sự phát triển bền vững trong những tiêu chí cần đạt được, phải có
một nền an sinh vững chắc để mọi người trong xã hội được sống an toàn,
được nâng đỡ, bảo vệ, che chở và hạnh phúc. Theo thống kê, hiện nay số
người cần trợ giúp của các dịch vụ công tác xã hội ở nước ta chiếm khoảng
28% dân số, trong đó có 7,5 triệu người cao tuổi, 6,4 triệu người khuyết tật,

1,4 triệu trẻ em có hồn cảnh đặc biệt, hơn 180.000 người nhiễm HIV đươc
phát hiện, gần 170.000 người nghiện ma túy, hơn 15.000 người bán dâm [27].
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa rất nhanh trên thế
giới. Tỷ lệ NCT năm 2012 là 10,2%, năm 2013 là 10,3%, năm 2014 là 10,5%
và sẽ tang gấp đôi lên 23% vào năm 2040 (UNFPA, 2014) [48]. Tốc độ già
hóa nhanh đã đặt ra những thách thức chính sách cho NCT khi thu nhập bình
quân đầu người chưa cao và hệ thống an sinh xã hội còn hạn chế, đặt ra nhiều
thách thức trong chăm sóc và đảm bảo an sinh cho NCT.
Theo kết quả Điều tra quốc gia về người cao tuổi năm 2011, tới năm
2014, cả nước có hơn 9,5 triệu người NCT, tỷ lệ nữ cao hơn nam (xu hướng


9

tang cao ở nhóm từ 80 tuổi trở lên cùng tình trạng đơn thân). Dù kinh tế xã
hội phát triển nhưng đời sống của nhiều NCT còn hạn hẹp. Gần 1/5 NCT sống
dưới ngưỡng nghèo, hơn 1/3 trong số họ vẫn đang phải làm việc, chủ yếu
trong lĩnh vực nông nghiệp và phí chính thức, với thu nhập thấp và khơng ổn
định. Gần 70% NCT khơng có tích lũy vật chất, 27,6% cho rằng kinh tế đang
kém đi. Khoảng 18% NCT sống trong hộ nghèo, hơn 30% không biết chia sẻ
buồn vui cùng ai, 22% thất rất cô đơn (VNAS, 2012). Nguồn sống chính thức
của NCT từ con cháu chu cấp (41,2%), từ lương hưu và trợ cấp (25,5%) và từ
lao động của họ (29,4%). Tính đến tháng 6/2015, lương hưu, trợ cấp xã hội có
tỷ lệ bao phủ đối với NCT là 37,4%, giảm hơn 1,24% tử năm 2012 đến nay.
NCT tuổi càng cao thì sự lệ thuộc vào chu cấp của con cháu càng lớn (tang từ
25,6% ở nhóm 60-69 lên 41,7% ở nhóm 70-79 và 68,3% ở nhóm 80+). Nguồn
sống từ của cải tích lũy từ trước và các nguồn khác 3,9% (UNFPA-GAIPrudential, 2015).
Trong số đó có một bộ phận người cao tuổi với các hoàn cảnh kém may
mắn như khơng chồng (vợ), khơng có con cái, hoặc có con nhưng con đã chết
vì bệnh tật, tai nạn … Nhiều người khơng có nhà cửa phải chung sống dựa

vào nhà anh, em họ hàng, nhiều người không có thu nhập ni sống bản thân,
có hồn cảnh đặc biệt khó khăn phải dựa vào hàng xóm láng giềng, các nhà
hảo tâm trong cộng đồng, nhiều người phải đi tha phương cầu thực, làm thuê,
nhặt rác, lang thang đầu đường xó chợ, màn trời chiếu đất.
Xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội là địa phương đi
đầu trong các phong trào của các hội đoàn thể của huyện Phúc Thọ. Theo
thống kê đến cuối năm 2017, xã Liên Hiệp có tổng số 1.062 NCT, số NCT
nghèo có 35 người, NCT cận nghèo có 39 người, NCT cơ đơn có 59 người.
Chính quyền địa phương đã quan tâm, chăm sóc, trợ giúp NCT đặc biệt là
người cao tuổi cơ đơn, cụ thể các cơ quan đồn thể như: Hội NCT, Cán bộ


10

chính sách xã hội, Mặt trận tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đồn Thanh niên, Hội Cựu
chiến binh, Hội Nơng dân, cán bộ y tế xã, tình nguyện viên trợ giúp NCT tại
cộng đồng… Đặc biệt chính quyền địa phương ln quan tâm, hỗ trợ cung
cấp dịch vụ xã hội cho người cao tuổi cô đơn. Hầu hết tất cả người cao tuổi cô
đơn tại xã đều được quan tâm và đảm bảo về đời sống vật chất, tinh thần và
sức khỏe và được hưởng đầy đủ các chính sách xã hội nếu có. Xã Liên Hiệp
từ nhiều năm qua ln phát huy truyền thống tốt đẹp, gia đình và cộng đồng
cùng chung tay chăm sóc và phát huy vai trị NCT nói chung đặc biệt là người
cao tuổi cơ đơn.
Cùng với xu hướng già hóa dân số nhanh và nhiều vấn đề nảy sinh từ
phía NCT cơ đơn, rất cần được cung cấp các dịch vụ công tác xã hội trong
việc hỗ trợ NCT cô đơn hiện đang sinh sống tại cộng đồng nhằm bảo đảm
những quyền, lợi ích hợp pháp đáp ứng nhu cầu về mọi mặt cho NCT cô đơn.
Dịch vụ công tác xã hội tại cộng đồng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu,
nguyện vọng của số đông NCT cô đơn và nguyện vọng của xã hội, có những
tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống cho NCT cơ đơn nói riêng

cũng như NCT nói chung trên địa bàn huyện và Thủ đơ, trong đó có NCT cơ
đơn tại địa bàn nghiên cứu thuộc xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, Thành phố
Hà Nội.
Vì những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Dịch vụ Công tác xã hội
trong hỗ trợ người cao tuổi cô đơn tại xã Liên Hiệp - huyện Phúc Thọ Thành phố Hà Nội”. Luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng dịch vụ
CTXH trong hỗ trợ người cao tuổi cơ đơn tại địa bàn nghiên cứu, qua đó đề
xuất giải phát phát triển dịch vụ công tác xã hội tại xã để thực hiện tốt hơn
trong việc hỗ trợ người cao tuổi cô đơn tại đây.


11

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Trước tình hình già hóa dân số diễn ra mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên
thế giới, đã có nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu các cơng trình nghiên cứu
về NCT với các mặt của đời sống xã hội để từ đó đưa ra các đề xuất, giải pháp
là các mơ hình chăm sóc, trợ giúp NCT phù hợp với bối cảnh hiện nay.
Trong Nghiên cứu “Barriers to Health Care Access Among the Elderly
and Who Prerceives Them” [40] (Những rào cản trong chăm sóc sức khỏe
NCT và nhận thức về chúng” của Anntte L.Fitzpatrick, Neil R. Powe, Lawton
S. Cooper, Diane G. Ives và John A. Robbins (Đại học Washington, Đại học
John Hopkins, Đại học Pittsburgh, Đại học California - Davis và Đại học
Wake Forest). Nghiên cứu này được tiến hành từ năm 1993 - 1994 tại Viện
Nghiên cứu sức khỏe tim mạch bằng phương pháp nghiên cứu định lượng bao
gồm 5.888 người đàn ông và phụ nữ từ 65 tuổi trở lên được chọn ngẫu nhiên
từ danh sách đủ điều kiện chăm sóc y tế ở 4 cộng đồng: quận Forsyth, quận
Sacramento, quận Washington và quận Alleghny. Kết quả nghiên cứu trong
hai năm cho thấy, các rào cản chủ yếu trong chăm sóc sức khỏe như nhu cầu
chăm sóc của các bệnh nhân lớn hơn những đáp ứng của các bác sỹ; tình trạng

bệnh nhân khơng có bảo hiểm y tế; rào cản ở bản thân bệnh nhân như tâm lý,
thể chất ... chính những rào cản đó đã ảnh hưởng đến cơng tác chăm sóc sức
khỏe cho người đàn ơng và phụ nữ từ 65 tuổi ở đây. Nghiên cứu này không
chỉ là rào cản riêng ở nước Mỹ mà là thực trạng chung, phổ biến ở mọi nơi
ngay cả ở đất nước nhỏ bé phía Đơng Nam Á của chúng ta.
Trong Báo cáo “Report prepared for the Asian Population Conference
- Pacific Fifth” [44], Bangkok - Thái Lan (11-14/12/2002) của tác giả
M.Nizamuddin, báo cáo đã đề cập tới vấn đề già hóa dân số và đề xuất những
giải pháp cho tình hình già hóa dân số tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương,


12

thực trạng quá độ nhân khẩu học đưa đến già hóa dân số, một hậu quả khơng
thể tránh khỏi của giảm sinh nhanh và duy trì cải thiện mức tử vong là già hoá
dân số được nghiên cứu khá sâu cùng với đó là những tác động về mặt kinh tế
- xã hội... đối với già hóa dân số; Từ đó đưa ra các chính sách, chương trình,
và các mơ hình chăm sóc, trợ giúp NCT, nhấn mạnh với vai trị của gia đình,
xã hội hố trong chăm sóc NCT ở cộng đồng để cùng ứng phó với vấn đề già
hóa. Tuy nhiên, do cấu trúc gia đình đang chuyển dần từ gia đình đa thế hệ
thành gia đình hạt nhân vì vậy việc người thân và NCT cùng chung sống đang
ngày càng trở thành vấn đề khó khăn. Để giải quyết tình trạng đang diễn ra
này trong cấu trúc gia đình, giải pháp mà nhiều nước đã đưa ra là xây dựng
nhà ở và các chương trình dựa trên cơ sở cộng đồng cho NCT.
Tại Hội nghị thế giới lần thứ 2 về già hóa [11] được tổ chức tại Madrid,
Tây Ban Nha (do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc triệu tập) năm 2002, Đây là
hội nghị tham gia của nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra tun bố chính trị
bao gồm 19 điều, trong đó điều 14 đã khẳng định vai trò của NCT trong đời
sống, tầm quan trọng của cộng đồng, các cơ quan và tổ chức trong việc chăm
sóc, hỗ trợ NCT; giúp NCT được tiếp cận các quyền bình đẳng trong chăm

sóc sức khỏe, chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần; Hội nghị đưa ra sự cần
thiết phải có các chính sách và bổ sung chính sách về chăm sóc, điều trị và trợ
giúp NCT về mọi mặt. Cùng với đó là đưa ra những chiến lược hành động cụ
thể, thiết thực mang tính tồn cầu trong việc can thiệp, trợ giúp và chăm sóc
NCT nói chung, trong đó có NCT cô đơn. Điều này sẽ được vận dụng phù
hợp vào từng điều kiện cụ thể và tình hình đời sống của NCT ở từng quốc gia
khác nhau.
Tại một nghiên cứu “Đánh giá một dự án nghiên cứu có sự tham gia
của cộng đồng về chăm sóc sức khỏe tâm thần cho người cao tuổi nông thôn
Mỹ” (2008) của Dean Blevins, Bridget Morton và Ren MCGovern [42].


13

Nghiên cứu này đánh giá sự tham gia của của các bên trong cộng đồng về
chăm sóc sức khỏe tâm thần cho người cao tuổi ở nông thôn. Kết quả của
nghiên cứu cho thấy đa số mọi người đều hài lịng với vai trị của họ và mức
độ thành cơng của chương trình. Từ đó tác giả của nghiên cứu cũng đề xuất
những giải pháp để cải thiện hơn nữa các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần
tại cộng đồng của Hoa Kỳ. Nghiên cứu này góp phần đánh giá thực trạng sức
khỏe tâm thần của NCT cô đơn mà chúng ta đang quan tâm.
Theo một nghiên cứu mới của Đại học California - San Francisco, Mỹ
nghiên cứu đã tiến hành trên 1.600 người cao tuổi (độ tuổi trung bình là 71)
với thời gian trong vịng 6 năm, nội dung đánh giá sự cơ đơn, tình trạng suy
giảm chức năng và nguy cơ tử vong trong suốt thời gian nghiên cứu. Kết quả
cho thấy, 23% những người già sống neo đơn đã qua đời trong 6 năm, nhưng
chỉ có 14% người già sống bên người thân, bạn bè qua đời trong khoảng thời
gian này. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có đến 43% người già trên
60 tuổi cảm thấy họ bị cô đơn. Theo kết quả nghiên cứu này thì vấn đề cơ đơn
mà NCT cơ đơn đang phải đối mặt là rất lớn và rất nghiệm trọng; tác giả cũng

nhận thấy vai trò quan trọng của người thân, bạn bè, cộng đồng trong việc hỗ
trợ NCT cô đơn là rất cần thiết. Nghiên cứu này giúp tác giả hiểu về thực
trạng cuộc sống của NCT cô đơn và đi sâu làm rõ thêm trong nghiên cứu của
tác giả.
Trong chương Lão hóa và người lớn tuổi của tác phẩm Sociology
(2004) [43] của tác giả John J.Macionis, cho biết kết quả nghiên cứu từ Viện
Nghiên cứu Pháp (INED), thực hiện tại các nước thành viên Châu âu (EU)
bao gồm Bồ Đào Nha, Cộng Hòa Séc, Hà Lan, Đức, Italia,… nghiên cứu đã
chỉ ra tình hình NCT ở phía nam EU thì thích sống với những người thân
trong gia đình. Các nước phía bắc EU thì tình trạng NCT sống tại các trung
tâm dưỡng lão đang có xu hướng ngày càng tăng. Cụ thể nghiên cứu đã chỉ ra


14

ở Hà Lan, chỉ có 8% số NCT trên 75 tuổi đã ly hơn, góa bụa, hoặc độc thân
sống chung với các thành viên khác trong gia đình, số cịn lại sống trong cơ sở
xã hội. Cộng hòa Séc và Bồ Đào Nha có đến 50% NCT sống chung với người
thân. Đức và Hà Lan rất nhiều người sống một mình trong nhà của họ vì các
dịch vụ tạo điều kiện chăm sóc tại nhà tương đối phát triển. Sự khác biệt trong
cách chọn nhà của NCT ở nước EU là do chuẩn mực về văn hóa, lý do về
kinh tế, chính sách xã hội của từng quốc gia là khác nhau. Đối với nước ta, sự
khác biệt về văn hóa sẽ ảnh hưởng đến cách chọn nhà của NCT, hiện nay họ
có xu hướng ở cộng đồng nhiều hơn là nhà ở xã hội.
Trong nghiên cứu của United Nations World Population Prospects
(2007): The 2006 Revision Highlights [46] Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã
đưa ra những phân tích cảnh báo cho biết, trong giai đoạn từ năm 2000 đến
2050 trên quy mơ tồn cầu, số người già sẽ nhiều hơn số trẻ em dưới 14 tuổi.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, già hoá dân số sẽ trở thành một vấn đề lớn ở các
nước đang phát triển, nơi mà dân số sẽ bị già hố nhanh chóng trong nửa đầu

của thế kỷ XXI. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh, các nước đang phát triển sẽ là
nơi có tỉ lệ NCT tăng cao nhất và nhanh nhất, theo dự báo số NCT ở khu vực
này sẽ tăng gấp 4 lần trong vòng 50 năm tới. Tỷ lệ NCT theo dự báo sẽ tăng
từ 8% lên 19% vào năm 2025, trong khi đó tỷ lệ trẻ em sẽ giảm từ 33% xuống
22%. Hơn một nửa dân số tuổi 80+ sống ở những nước đang phát triển, dự
báo sẽ tăng lên 71% vào năm 2050. Nghiên cứu này cho thấychỉ 50 năm nữa
thôi là hầu hết những nước đang phát triển phải giải quyết thực trạng dân số
già, việc đề ra những giải pháp là vô cùng cần thiết.
Nghiên cứu “Developing Model of Health Care management for the
Elderly by Community Participation in Isan” [41] (Xây dựng mơ hình quản
lý CSSK cho NCT có sự tham gia của cộng đồng tại Isan) của Chanitta
Soommaht, Songkoon Chantachon và Paiboon Boonchai. Nghiên cứu này


15

được tiến hành từ tháng 2 đến tháng 8 năm 2008 tại 7 tỉnh Đông Bắc Thái Lan
là Mahasarakham, Roiet, Sakon Nakhon, Nakhon Ratchasima, Bruriram,
Surin và Khon kaen bằng phương pháp nghiên cứu định tính. Nghiên cứu đã
phân tích và chỉ ra các vấn đề trong quản lý CSSK người cao tuổi tại các cộng
đồng ở Isan cả về thể chất lẫn tinh thần. Đồng thời các tác giả cũng tiến hành
phân tích sự phát triển của việc CSSK cho NCT là do các tổ chức cộng đồng
Isan đảm nhiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc quản lý các tổ chức cộng
đồng trong việc CSSK người cao tuổi là phương pháp hiệu quả nhất. Tất cả
công dân cao tuổi trong cộng đồng đều đồng ý rằng, việc chăm sóc y tế được
cung cấp bởi các tổ chức cộng đồng giúp họ thoải mái và ấm áp hơn, đây cũn
là một trong những phát hiện lớn của nghiên cứu này. Tuy nhiên, đối với NCT
có sức khỏe quả yếu thì mơ hình quản lý CSSK tại cộng đồng có vẻ mang lại
những khó khăn, trong nghiên cứu về dịch vụ CTXH này tác giả đi sâu về tìm
hiểu các dịch vụ hỗ trợ NCT tại địa bàn nghiên cứu trong đó có dịch vụ hỗ trợ

CSSK đối với NCT cơ đơn.
Trong phiên họp toàn thể ngày 18/12/2014, Liên Hợp Quốc đã thông
qua Nghị quyết GA/RES/69/146 về công tác người cao tuổi [12], trong đó
Nghị quyết đã đưa ra 52 điều cần thực hiện. Nghị quyết đã đánh giá cao hiệu
quả của nhóm cơng tác mở của Liên Hợp Quốc về NCT (OEWG) được thành
lập từ 2010, trong đó có dự thảo Cơng ước về Quyền của NCT để đệ trình tại
phiên họp lần thứ 70 của Đại hội đồng Liên hợp quốc; nội dung Nghị quyết
cũng kêu gọi các quốc gia thành viên đóng góp ý kiến, đề xuất biện pháp cụ
thể trong việc đề xuất chiến lược chăm sóc, trợ giúp NCT; vấn đề đáng chú ý
là Nghị quyết đã đồng ý tổ chức các phiên họp định kỳ để lấy ý kiến của các
quốc gia thành viên và của các tổ chức phi chính phủ vào ngày 14 đến
16/07/2015 tại trụ sở của Liên hợp quốc tại New York, Hoa Kỳ về hoạt động
chăm sóc, trợ giúp NCT.


16

Hầu hết các nghiên cứu đi từ việc tìm hiểu thực trạng đời sống của
NCT, những vấn đề họ đang gặp phải trong cuộc sống, những rào cản trong
việc tiếp cận các dịch vụ, các mơ hình chăm sóc cũng như việc xây dựng
những mơ hình, chương trình trợ giúp cho NCT phù hợp với điều kiện của
mỗi quốc gia. Có thể nói vấn đề NCT đang là vấn đề được các nước quan tâm,
đặc biệt là các nước phát triển khi mà dân số già đang diễn ra.
Như vậy, có thể thấy chủ đề NCT và mơ hình chăm sóc, trợ giúp NCT
nhận được rất nhiều sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức, các nhà nghiên
cứu trên thế giới. Quan điểm và cách tiếp cận trong nghiên cứu các vấn đề về
NCT và mơ hình chăm sóc, trợ giúp NCT cũng rất phong phú: từ góc độ gia
đình, xã hội; từ góc độ văn hóa, y tế cho đến góc độ dân số, kinh tế, quản lý…
Điều này cho thấy vai trò, vị thế của NCT tại các nước trên thế giới rất được
quan tâm, đề cao. Tuy nhiên các nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội trong

hỗ trợ NCT cơ đơn vẫn cịn chưa được nhiều và chưa được quan tâm cao.
2.2. Một số nghiên cứu về người cao tuổi cô đơn ở Việt Nam
Tại Việt Nam các nghiên cứu về NCT đã được quan tâm nghiên cứu rất
nhiều, từ các giai đoạn trước đó. Các nghiên cứu được tiến hành, các đề tài
nghiên cứu xoay quanh các vấn đề như: Chăm sóc sức khỏe, chăm sóc đời
sống vật chất - tinh thần; các mơ hình chăm sóc - trợ giúp NCT; An sinh xã
hội cho NCT; tạo việc làm cho NCT; những nghiên cứu mang tính can thiệp
về các vấn đề tâm sinh lý, bệnh tật ở NCT...
Trong nghiên cứu “Cơ sở thực tiễn và lý luận xây dựng chính sách xã
hội với người già ở Việt Nam” [35] của Vụ Các vấn đề xã hội của Quốc hội
(2000). Nghiên cứu đã góp phần giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Pháp lệnh Người cao tuổi năm 2000 đặt nền móng cho những những chính
sách lớn về NCT ra đời, hướng tới giúp đỡ NCT cải thiện đời sống của họ về
mọi mặt.


17

Nghiên cứu về “Đời sống người cao tuổi” [34] của Vụ các vấn đề xã
hội, Văn phòng Quốc hội, thực hiện năm 2000, nghiên cứu đã mang lại kết
quả như sau: về đời sống vật chất NCT: Trên 60% số cụ cho là khó khăn, 37%
coi là trung bình, 1,0% dư dật. Hơn nữa, nghiên cứu còn cho thấy, đời sống
vật chất ở địa bàn Hà Nội cao hơn ở Thanh Hóa nhưng tỉ lệ NCT cảm thấy
khơng thoải mái lại cao gấp 5 lần ở Thanh Hóa. Ngược lại, ở Thanh Hóa lại
có tỉ lệ NCT cảm thấy có cuộc sống thoải mái cao gấp hơn 3 lần Hà Nội. Điều
đó làm rõ bức tranh đời sống của NCT về sức khỏe, vật chất và tinh thần cùng
những khó khăn của NCT ở mỗi địa phương, mỗi khu vực là khác nhau.
Năm 2001 Tổ chức Hỗ trợ Quốc tế Người cao tuổi (HAI) đã có cuộc
nghiên cứu về “Hồn cảnh của người cao tuổi nghèo Việt Nam” [25] tại 5
điểm là khu ổ chuột TP. Hồ Chí Minh, một làng người H’mong tại tỉnh Lào

Cai, một làng người Kh’me ở tỉnh Sóc Trăng, một làng người Chăm ở tỉnh
Ninh Thuận và một làng người Kinh ở tỉnh Phú Yên. Nghiên cứu này đã
mang lại bức tranh góc khuất là hồn cảnh của NCT nghèo, về những đóng
góp chưa được biết đến của họ và những mối quan tâm của họ và họ bị phân
biệt. Điều mới mẻ là nghiên cứu đã sử dụng phương pháp có sự tham gia để
khuyến khích người dân nơng thơn nghèo, học vấn thấp có thể trao đổi cởi mở
bằng ngơn ngữ và nhận thức của chính họ. Nghiên cứu này đã góp phần cho
bức tranh về cuộc sống của NCT cô đơn thêm sinh động và dưới góc nhìn
CTXH, cần có những phương pháp hỗ trợ kịp thời và hiệu quả.
Nghiên cứu: “Thực trạng người cao tuổi tại Hà Tây” [32], của Ủy ban
Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Hà Tây, năm 2003. Nghiên cứu này được
triển khai tại 3 xã, phường, đó là: xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, đại diện
cho khu vực nông nghiệp; xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên, đại diện cho khu
vực làng nghề; phường Nguyễn Trãi, thị xã Hà Đông đại diện cho khu vực
thành thị. Kết quả nghiên cứu làm rõ bức tranh đời sống người cao tuổi tại Hà


18

Tây. Những nhu cầu, nguyện vọng của NCT ở nơi đây... Nghiên cứu đã đưa ra
những giải pháp, giúp NCT nâng cao chất lượng cuộc sống tại địa phương.
Năm 2004, TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành điều tra
“Thực trạng đời sống và tham gia Hội Phụ nữ của phụ nữ cao tuổi Việt
Nam” [9] ở 7 tỉnh thành trên các vùng miền của cả nước với 557 phụ nữ từ 50
tuổi trở lên. Thơng qua hình thức phỏng vấn về các thông tin liên quan đến
nhu cầu của phụ nữ cao tuổi và nhận thức của các cấp Hội phụ nữ về các vấn
đề liên quan đến NCT trong cộng đồng. Từ đó đưa ra các giải pháp đề xuất để
phát triển đáp ứng nhu cầu tham gia của Hội viên Hội phụ nữ.
Nghiên cứu về thực trạng bạo lực gia đình đối với NCT, Tác giả đã tiến
hành nghiên cứu tại 3 tỉnh Quảng Trị, Phú Yên và Đắk Lắk của Viện nghiên

cứu Người cao tuổi Việt Nam được xuất bản thành sách “Người cao tuổi và
Bạo lực gia đình” [18] do tác giả Nguyễn Thế Huệ chủ biên, nghiên cứu đã
chỉ ra thực trạng bạo lực gia đình đối với NCT, từ đó đã đề xuất những cơ chế
pháp lý trong việc xử phạt hành vi bạo hành đối với NCT, đề xuất giải pháp
hỗ trợ NCT bị bạo hành. Đây là nghiên cứu giúp tác giả thêm kiến thức về
cuộc sống của NCT hiện nay.
Trong “Nghiên cứu, điều tra thực trạng thu nhập và mức sống của NCT
Việt Nam” [28] năm 2004 của Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Người cao
tuổi (Trung ương Hội NCT Việt Nam). Từ nghiên cứu đã chỉ ra đời sống của
NCT cịn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đời sống của hơn 70% NCT đang
sống ở nơng thơn khơng hưởng chính sách xã hội hoặc có lương hưu. Kết quả
nghiên cứu là cơ sở để Nhà nước ban hành chính sách trợ giúp xã hội đối với
nhóm người cao tuổi này giúp NCT cải thiện thu nhập và mức sống. Cũng về
điều tra mức thu nhập và mức sống của NCT trong “Điều tra thực trạng thu
nhập và mức sống của NCT Việt Nam” [30] được Trung tâm Nghiên cứu và
Hỗ trợ Người cao tuổi (Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam) triển khai


19

thực hiện năm 2005, phạm vi điều tra tại 5 tỉnh, bao gồm: Sơn La, Thanh Hóa,
Kon Tum, Quảng Nam, TP. HCM với tổng số 1.000 phiếu điều tra, dự án đã
đi sâu phân tích và làm rõ thực trạng thu nhập và mức sống của NCT ở nước
ta hiện nay, từ nghiên cứu này đánh giá được tình trạng sống, chất lượng sống
của NCT. Từ đó có những giải pháp, đề xuất trong trợ giúp NCT.
Trong nghiên cứu: “Thực trạng người cao tuổi tại Hải Dương, Quảng
Bình và Đăk Lăk” [29] năm 2005 của Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Người
cao tuổi (Trung ương Hội NCT Việt Nam), nghiên cứu tại 12 xã, phường của
3 tỉnh về chăm sóc sức khỏe, về đời sống vật chất và tinh thần cho NCT tại
địa phương. Kết quả cho thấy: các hoạt động trợ giúp, hỗ trợ NCT về các mặt

của đới sống là hầu như chưa có. Từ đó đề ra các giải pháp hỗ trợ NCT ở 3
tỉnh này.
Điều tra năm 2007 của Ủy ban Quốc gia về Người cao tuổi Việt Nam
[33], khảo sát đời sống NCT tại 72 xã thuộc 8 tỉnh, thành phố với 2.878 NCT,
trong điều tra này đã đưa ra các kết quả rõ nét về tình hình sức khỏe, đời sống
vật chất, tinh thần, việc làm của người cao tuổi, qua đó tìm hiẻu cơng tác phát
huy vai trị NCT tại 8 tỉnh, thành phố. Điều tra đã góp phần phản ánh khá sâu
sắc về đời sống mọi mặt của NCT Việt Nam.
Trung tâm Nghiên cứu, Thông tin và Dữ liệu (Tổng cục DS-KHHGĐ)
thực hiện: “Nghiên cứu một số đặc trưng của người cao tuổi và đánh giá mơ
hình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đang áp dụng” của năm 2005 [31].
Nghiên cứu đã đưa ra những đánh giá liên quan đến chăm sóc sức khỏe NCT
trên một số địa bàn điều tra như: Yên Bái, Hải Dương, Thái Bình, Quảng
Bình, Đắc Lăk, TP. HCM, Sóc Trăng… qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả cơng tác chăm sóc sức khỏe NCT. Nghiên cứu đã đưa ra
hướng mới là tạo điều kiện để các cá nhân tổ chức và trung tâm trong việc
chăm sóc NCT để giảm gánh nặng cho Nhà nước.


20

Nghiên cứu về “Thực trạng và các giải pháp nâng cao chất lượng cuộc
sống của phụ nữ cao tuổi” [9], của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện
năm 2005. Nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng cuộc sống phụ nữ cao tuổi rất khó
khăn, đặc biệt là ở những vùng cao khó khăn. Và nghiên cứu đã đề xuất
những kiến nghị đối với Đảng, Nhà nước cần có những chính sách quan tâm
hơn đến đời sống của phụ nữ cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ cao tuổi đơn thân,
phụ nữ cao tuổi những vùng khó khăn.
Trong bài viết “Xu hướng già hóa dân số thế giới và đặc trưng người
cao tuổi Việt nam” [5] đăng trên Tạp chí Gia đình và Trẻ em, số 11 năm 2006,

tác giả Nguyễn Đình Cử đã phân tích khá rõ về tình hình già hóa dân số thế
giới và đưa ra những nhận định rằng nước ta đang bước vào ngưỡng già hóa
dân số; hiện tượng nữ hóa trong nhóm dân số cao tuổi đang có xu hướng
tăng, phần lớn NCT ở nước ta chủ yếu sống ở khu vực nông thôn, là
nông dân và làm nông nghiệp, cứ 4 NCT thì có 1 người đang hoạt động
kinh tế, ở nước ta NCT chủ yếu sống với con và nhờ con; Chính vì vậy, nhu
cầu của NCT là cần được chăm sóc, trợ giúp về mọi mặt của cuộc sống, kể
cả việc làm đối với những NCT còn khả năng làm việc.
Trong bài viết “Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Hà Nội, từng bước
nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp xã hội tại cộng đồng” của tác giả
Nguyễn Ngọc Minh (Giám đốc trung tâm cung cấp dịch vụ Công tác xã hội
Hà Nội) đăng trên Tạp chí Lao động Xã hội năm 2016 [36]. Bài viết đã đưa
ra thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH Hà Nội, bên cạnh đó cũng đưa ra khó
khăn như chưa hình thành đưcọ mạng lưới đội ngũ cộng tác viên tại xã
phường nên việc cung cấp các dịch vụ CTXH tại cộng đồng cịn hạn chế. Từ
đó đưa ra các đề xt, khuyến nghị để trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Hà
Nội ngày càng phát triển. Tác giả đã học hỏi rất nhiều từ bài viết này trong bài
nghiên cứu của mình.


21

Trong nghiên cứu về “Thực trạng đời sống của NCT từ 80 trở lên”
[37], thực hiện trong năm 2008 - 2009 của Viện nghiên cứu NCT Việt Nam,
đã chỉ ra đời sống của NCT từ 80 tuổi trở lên còn q khó khăn, cần có chính
sách riêng cho họ. Nghiên cứu đã đề xuất hạ độ tuổi hưởng lương hưu xã hội
cho NCT từ 85 xuống 80 tuổi.
Trong bài viết của tác giả Như Ngọc (2013) “Trung tâm cung cấp dịch
vụ công tác xã hội Thừa Thiên Huế: từng bước ổn định và phát triển” [17].
tác giả đã đưa ra thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH, quy trình làm việc của

Trung tâm trong việc tiếp nhận đối tượng. Từ đó đưa ra các giải pháp của
Giám đốc trung tâm. Bài viết có điểm mới là đã đưa ra quy trình trong tiếp
nhận đối tượng xã hội, tuy nhiên phạm vi nghiên cứu tại trung tâm cung cấp
dịch vụ cấp tỉnh.
Theo bài viết của Tiến sĩ Hoàng Mộc Lan (Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân Văn) “Đời sống tinh thần của người cao tuổi ở Việt Nam hiện
nay” [3]. Bài viết đã khai thác góc độ đời sống tinh thần của người cao tuổi
một cách sâu sắc, giúp hoàn thiện thực trạng bức tranh cuộc sống của người
cao tuổi.
Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng phân tích về thu nhập của NCT neo
đơn không nơi nương tựa cùng với nghiên cứu sức khởe, mối quan hệ ... của
NCT. Từ đó đưa ra các giải pháp . Bài viết là cơ sở bổ sung kiến thức về mặt
lý luận cho tác giả.
Tại nghiên cứu“Thực trạng sức khỏe và bệnh tật của NCT Việt Nam”
[38] thực hiện trong năm 2008- 2009 của Viện Nghiên cứu NCT Việt Nam, đã
chỉ ra NCT có rất nhiều bệnh tật, trung bình một NCT có khoảng 3 loại bệnh
mạn tính, và sự ảnh hưởng của nó đến cơng tác chăm sóc sức khỏe cho NCT,
nghiên cứu đã góp phần thiết kế điều 11 và 12 Luật NCT.
Theo tác giả Đặng Vũ Cảnh Linh (2009), trong cuốn sách “Người cao


22

tuổi và các mơ hình chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam” [8] một cơng trình
nghiên cứu phối hợp giữa Ủy ban dân số, Gia đình và Trẻ em với Viện nghiên
cứu Truyền thống và Phát triển năm 2008 - 2009. Đây là tập hợp nghiên cứu
được thực hiện ở 3 thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh,
với các nhóm đối tượng như: nhóm người cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT,
người sử dụng dịch vụ chăm sóc NCT, cán bộ địa phương và cộng đồng. Theo
các tác giả của cơng trình nghiên cứu, NCT khơng cịn là một vấn đề mới, tuy

nhiên trong bối cảnh tồn cầu hóa và mở rộng giao lưu văn hóa thì quan tâm
và nghiên cứu NCT là một nhu cầu không thể thiếu. Đặc biệt trong những
năm gần đây nhiều loại hình, mơ hình dịch vụ chăm sóc NCT được hình thành
và hoạt động, đặc biệt là các mơ hình tư nhân, liên kết, mơ hình cộng đồng...
đang phát triển khá mạnh tuy nhiên cịn chưa có đầu tư hoặc chưa có sự quan
tâm của các cấp.
Trong báo cáo tổng quan về “Chính sách chăm sóc người già thích ứng
với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam” [22] năm 2009, do tác giả Phạm Thắng
(Viện Lão khoa Trung ương, Bộ Y tế) thực hiện, nghiên cứu đã chỉ ra nhu cầu
chăm sóc y tế và xã hội của NCT Việt Nam là rất lớn trong khi những điều
kiện tự thân của NCT Việt Nam có những đặc trưng rất hạn chế. Cụ thể như:
Tỷ lệ NCT sống độc thân tương đối cao ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam
(14,2%) dẫn đến hạn chế cả về hỗ trợ kinh tế, tinh thần từ phía gia đình, người
thân và khơng có người trợ giúp trong sinh hoạt hàng ngày. Về tình trạng kinh
tế, thu nhập của NCT cịn rất thấp, hầu như khơng có nguồn tiết kiệm tích lũy
từ lúc cịn trẻ khỏe hơn. Tình hình đặc biệt khó khăn ở các vùng nông thôn và
miền núi.
Năm 2011, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp cùng
Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam, Viện nghiên cứu Y - Xã hội học và
Công ty Nghiên cứu và Tư vấn Đông Dương tổ chức “Điều tra quốc gia về


23

người cao tuổi Việt Nam” (VNAS) [10], đây là một phần của dự án “Tăng
cường các quyền của người cao tuổi thiệt thòi tại Việt Nam” được triển khai
bởi Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Kết quả Điều tra quốc gia về NCT Việt
Nam lần đầu tiên được công bố là một cơ sở quan trọng cho các hoạt động
nghiên cứu và vận động chính sách đối với NCT Việt Nam. VNAS thu thập số
liệu từ tháng 10 - 12/2011 tại 12 tỉnh, thành phố đại điện cho 6 vùng sinh thái

của Việt Nam (bao gồm Thái Nguyên, Hưng Yên, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam
Định, Huế, Đắk Lắk, Đồng Nai, Sóc Trăng, Tiền Giang và TP. Hồ Chí Minh).
Hơn 4.000 người đại diện cho nhóm dân số cận cao tuổi và cao tuổi (từ 50
tuổi trở lên) đã được phỏng vấn trong cuộc điều tra này. Số liệu điều tra mơ tả
các đặc điểm kinh tế, xã hội, tình hình sức khỏe, xu hướng bệnh tật, đời sống
vật chất, tinh thần, nhu cầu chăm sóc và được chăm sóc cũng như việc tiếp
cận các mơ hình trợ giúp, đến việc tiếp cận các chế độ an sinh xã hội và dịch
vụ y tế của NCT Việt Nam.
Trong cuốn sách “50 năm chính sách giảm sinh ở Việt Nam (19612011): Thành tựu, tác động và bài học kinh nghiệm” [6] xuất bản năm 2011
của tác giả Nguyễn Đình Cử (Viện Dân số và các vấn đề xã hội) trong phần 2
về tác động của giảm sinh đến sự phát triển: thời cơ và thách thức, tác giả đã
phân tích và luận giải khá rõ việc giảm sinh nhanh khiến nước ta hình thành
cơ cấu dân số “vàng” một cách nhanh chóng; mức sinh giảm đã đưa đến thực
trạng của già hóa dân số, cũng từ những cơ sở này tác giả đã phân tích khá rõ
về những đặc trưng nổi bật của NCT Việt Nam và đề xuất những hình thức
chăm sóc, trợ giúp NCT một cách phù hợp để ứng phó với sự gia tăng của
nhóm dân số cao tuổi.
Tác giả Phạm Vũ Hoàng (Tổng cục DS-KHHGĐ) trong bài viết “Đời
sống vật chất người cao tuổi Việt Nam - Thực trạng và khuyến nghị” [21]
đăng trên Tạp chí Dân số và Phát triển, số tháng 10/2011, bài viết đã nêu lên


24

được thực trạng đời sống vật chất của NCT Việt Nam phụ thuộc vào các yếu
tố như: nguồn sống chính, mức sống hộ gia đình NCT, điều kiện sống của
NCT, hoạt động kinh tế của NCT. Từ đó, nghiên cứu đã nêu lên được thực
trạng chăm sóc đời sống vật chất của NCT và đưa ra những khuyến nghị về
chính sách nhằm chăm sóc tốt đời sống vật chất cho NCT. Tuy nhiên, nghiên
cứu của tác giả còn chưa đưa ra được những lý giải, phân tích sâu về những

khó khăn trong đời sống vật chất của NCT, mà tác giả mới chỉ dừng lại mô tả
chung về thực trạng mức sống chung ở NCT.
Bài viết “Mơ hình hỗ trợ chăm sóc Người cao tuổi ở Việt Nam - Nền
tảng triết lý và những bài học rút ra” [16] đăng trên Tạp chí Người cao tuổi
số tháng 9/2012 của tác giả Mai Thị Kim Thanh, trong bài viết này tác giả đã
giới thiệu khái qt về các mơ hình chăm sóc, trợ giúp NCT tại Việt Nam
như: Mơ hình chăm sóc tập trung tại các cơ sở Bảo trợ xã hội, tại cộng đồng
thông qua các CLB, nhà dưỡng lão, nhà xã hội; các mơ hình này có tác động
khơng nhỏ tới chất lượng và hoạt động chăm sóc và đời sống của NCT. Từ
những mơ hình đó tác giả đã chỉ ra nền tảng triết lý trong việc vận hành, tổ
chức của các mơ hình và đề xuất những bài học kinh nghiệm trong việc xây
dựng, thiết kế các mơ hình chăm sóc, trợ giúp NCT, nhằm nâng cao đời sống
cho NCT.
Tác giả Nguyễn Quốc Anh (Trung tâm Nghiên cứu, Thông tin và Dữ
liệu - Tổng cục DS-KHHGĐ) trong bài “Phân tích thực trạng già hóa dân số
ở Việt Nam hiện nay” [1] đăng trên Tạp chí Người cao tuổi, số tháng 11/2013,
bài viết của tác giả phân tích khá sâu về tình hình NCT ở nước ta và các chỉ số
gia tăng dân số cao tuổi ở nước ta qua các thời kỳ; tác giả đã đề cập được
những thơng tin mang tính khái qt về thực trạng nhóm dân số cao tuổi qua
các cuộc điều tra, các giai đoạn, nghiên cứu của Tổng cục Thống kê, các cuộc
Tổng điều tra dân số và nhà ở 1979, 1989, 1999, 2009; Điều tra biến động


25

DS-KHHGĐ 2012... từ đó phân tích những yếu tố tác động tới tình hình già
hóa dân số ở Việt Nam và đưa ra được những đánh giá, nhận định về già hóa
dân số và những nhu cầu cơ bản của NCT trong xã hội.
Trong dự án điều tra cơ bản về dịch vụ “Chăm sóc người cao tuổi dựa
vào cộng đồng” [26] được Tổ chức Hỗ trợ Người cao tuổi Quốc tế (HAI) thực

hiện tháng 4/2013, tại 12 xã của huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, tiến hành
điều tra NCT đang được chăm sóc, trợ giúp trong mơ hình CLB liên thế hệ tự
giúp nhau. Điều tra này đã làm rõ được thực trạng chăm sóc - trợ giúp NCT
trong mơ hình CLB liên thế hệ tự giúp nhau, những NCT gặp khó khăn trong
cuộc sống hàng ngày cần được giúp đỡ do mắc các bệnh mãn tính. Kết quả
khảo sát đã nêu lên được thực trạng hoạt động chăm sóc - trợ giúp của mơ
hình đối với NCT, đưa ra được những khuyến nghị nhằm chăm sóc và trợ
giúp NCT một cách hiệu quả hơn.
Các nghiên cứu trên đã chỉ ra những hạn chế cần khắc phục, đề xuất
những giải pháp để hồn thiện chính sách dành cho NCT trong đó có người
cao tuổi cơ đơn, góp phần cải thiện cuộc sống cho NCT ngày càng tốt hơn.
Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ các hoạt động chăm sóc, trợ giúp
NCT, góp phần cung cấp những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây
dựng chính sách xã hội đối với NCT.
Như vậy, qua tổng kết về các nghiên cứu thực nghiệm về NCT và mơ
hình chăm sóc, trợ giúp NCT nêu trên; có thể thấy NCT và mơ hình chăm sóc,
trợ giúp NCT là một chủ đề rất được quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam. Tuy
nhiên, các nghiên cứu về NCT và mơ hình chăm sóc, trợ giúp NCT mới dừng
lại ở chỗ mơ tả thực trạng, lý giải nguyên nhân và nêu lên những thơng tin
mang tính khái qt, chưa đi vào chiều sâu; những nghiên cứu mơ hình chăm
sóc, trợ giúp NCT dựa vào cộng đồng, các dịch vụ công tác xã hội trong việc
hỗ trợ người cao tuổi đặc biệt là người cao tuổi cơ đơn cịn rất ít. Chỉ có một


×