Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Phiên tòa phúc thẩm vụ án hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 80 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***-----------

TRẦN THỊ NHƢ QUỲNH
MSSV: 1353801014169

PHIÊN TOÀN PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2013-2017

Người hướng dẫn:
ThS. NGUYỄN HỒNG YẾN

TP.HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


LỜI CẢM ƠN
Thông qua luận văn này, tác giả xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến q
thầy, cơ giảng dạy tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã ln
tạo điều kiện tốt nhất cho sinh viên hồn thành q trình học tập tại mơi
trường đại học. Đặc biệt tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ths.
Nguyễn Hoàng Yến – Giảng viên Khoa Luật Hành chính đã tận tình hướng
dẫn tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu hoàn thiện đề tài. Đồng thời xin
được cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn bên cạnh ủng hộ, động viên để tác
giả thực hiện tốt đề tài này.
Mặc dù luận văn được hoàn thành với sự nỗ lực hết mình của tác giả
nhưng vì khả năng nghiên cứu cũng như thời gian có hạn do đó khơng thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự quan tâm góp ý từ
thầy cô và các bạn.


Trân trọng!


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐXX
TTHC
TAND
VAHC
VKSND

: Hội đồng xét xử
: Tố tụng hành chính
: Tịa án nhân dân
: Vụ án hành chính
: Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ PHIÊN TÒA
PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ...................................................................1
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của phiên tịa phúc thẩm vụ án
hành chính .........................................................................................................1
1.1.1.
Khái niệm phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính ..............................1
1.1.2.
1.1.3.

Đặc điểm của phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính. .......................3
Ý nghĩa của phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính. ..........................7


1.2. Phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính theo quy định của pháp
luật tố tụng hành chính Việt Nam .................................................................10
1.2.1.
Những quy định chung về phiên tòa phúc thẩm vụ án hành chính ...10
1.2.1.1. Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ..............................10
1.2.1.2. Sự có mặt của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng
......................................................................................................11
1.2.1.3. Hoãn phiên tòa, tạm ngừng phiên tòa phúc thẩm vụ án hành chính
......................................................................................................15
1.2.1.4. Tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính ........19
1.2.1.5. Người khởi kiện rút đơn khởi kiện tại phiên tòa phúc thẩm; người
bị kiện sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc
thôi viêc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh, dừng, khắc phục hành vi hành chính bị khởi kiện .............................24
1.2.2.
Diễn biến phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính .............................27
1.2.2.1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm............................................27
1.2.2.2. Tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm ..............................................29
1.2.3.
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm ....................................37
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHIÊN TÒA PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN.............................................................41
2.1. Thực trạng phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính ........................41
2.1.1.
Thực trạng về những quy định chung của phiên tòa phúc thẩm vụ án
hành chính ........................................................................................................41
2.1.2.
Thực trạng diễn biến của phiên tịa xét xử phúc thẩm vụ án hành

chính… ...........................................................................................................48
2.1.2.1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa .............................................................48
2.1.2.2. Tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm ..............................................49


2.1.3.
2.2.

Thực trạng về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm ..............52
Kiến nghị hồn thiện phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính .......59

2.2.1 Các kiến nghị về mặt pháp lý ..................................................................59
2.2.2.Các giải pháp khác ..................................................................................64
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Thủ tục phúc thẩm VAHC trải qua nhiều giai đoạn khác nhau theo quy
định của pháp luật; trong đó, phiên tịa phúc thẩm VAHC có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Tại phiên tịa phúc thẩm, Tịa án sẽ xem xét lại những tình tiết, sự
kiện mà Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng làm căn cứ để ra bản án, quyết định sơ
thẩm. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm cũng kiểm tra lại những căn cứ mặt
pháp lý về vấn đề áp dụng pháp luật nội dung và tuân thủ pháp luật tố tụng mà
bản án, quyết định sơ thẩm đưa ra. Để từ đó, HĐXX phúc thẩm đưa ra quyết
định đúng đắn với bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.
Hơn một năm qua, các phiên tòa phúc thẩm VAHC được tiến hành dựa
trên quy định của Luật TTHC năm 2015 đã khắc phục những lỗ hổng của

Luật TTHC năm 2010, nâng cao hiệu quả xét xử khi nhiều bản án phúc thẩm
được tuyên có hiệu lực pháp luật, khắc phục được những sai lầm, thiếu sót
của Tịa án cấp sơ thẩm, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự và đảm bảo thực thi được công lý. Tuy nhiên, một số quy định của
Luật TTHC năm 2015 về phiên tòa phúc thẩm vẫn cịn bất cập, vướng mắc
gây khó khăn cho q trình giải quyết vụ án tại phiên tịa. Ngồi ra, có nhiều
bản án, quyết định phúc thẩm chưa đúng pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích của các bên liên quan, làm mất lòng tin của người dân vào cơ quan
xét xử VAHC. Với tầm quan trọng như vậy nhưng hiện nay chưa có một đề
tài nào tài nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, để phiên tịa phúc thẩm
VAHC có thể đảm bảo thực hiện tốt vai trị của mình.
Từ những lý do trên mà tác giả chọn đề tài “Phiên tòa phúc thẩm vụ án
hành chính” để thực hiện khóa luận tốt nghiệp với mong muốn nghiên cứu
sâu hơn, toàn diện và đầy đủ hơn về phiên tịa phúc thẩm VAHC để đưa ra cái
nhìn tổng quan nhất nhằm nâng cao chất lượng phiên tòa phúc thẩm VAHC,
góp phần đảm bảo vụ án được xét xử chính xác, khách quan, nhanh chóng.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Phiên tòa phúc thẩm VAHC là thủ tục giữ vị trí quan trọng trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm được ghi nhận trong Luật TTHC năm 2015. Hiện nay,
tuy chưa có đề tài nào nghiên cứu tồn diện về phiên tòa phúc thẩm VAHC


nhưng nhiều tác giả đã thực hiện các đề tài, cơng trình nghiên cứu đề cập đến
vấn đề này ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Đầu tiên phải kể đến là Luận văn thạc sĩ “Giải quyết vụ án hành chính
theo thủ tục phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh” của tác giả Trần Văn
Quán thực hiện năm 2013. Hay Luận văn cử nhân “Thủ tục phúc thẩm vụ án
hành chính - Từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thùy
Linh thực hiện năm 2013. Các luận văn trên không chỉ tập trung vào phiên tòa

phúc thẩm mà thực hiện bao quát giai đoạn phúc thẩm.
Một số cơng trình nghiên cứu trực tiếp hơn về phiên tòa phúc thẩm
VAHC như Luận văn cử nhân “Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hành
chính của Tịa án nhân dân” của tác giả Lê Thị Thảo bảo vệ năm 2015. Hay
các cơng trình được đăng trên các tạp chí khoa học như “Bàn về sự có mặt
của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong vụ án hành chính” của
tác giả Lê Việt Sơn, Tạp chí Kiểm sát số7/2013; “Một số vấn đề về cách thức
xử lý khi đương sự vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án hành chính” của tác
giả Nguyễn Hồng Yến, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2015; “Thẩm
quyền của Tòa án cấp phúc thẩm theo phạm vi kháng cáo, kháng nghị” của
tác giả Mai Thanh Hiếu , Tạp chí luật học số 8/2014; “Vai trị của Kiểm sát
viên tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm vụ án hành
chính” của tác giả Lê Song Lê, Tạp chí kiểm sát 24/2016; “ Nâng cao chất
lượng phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tịa sơ thẩm, phúc thẩm vụ ánh
hành chính” của tác giả Nguyễn Thế Vụ, Tạp chí kiểm sát 5/2015.
Nhìn chung các cơng trình trên đã đề cập đến nhiều nội dung của thủ
tục phúc thẩm nhưng không tiếp cận trực tiếp đến phiên tịa phúc thẩm VAHC
hoặc nếu có thì chỉ tiếp cận ở phạm vi một thủ tục nhỏ trong phiên tịa phúc
thẩm VAHC mà chưa có cơng trình tập trung nghiên cứu một cách cơ bản,
toàn diện và có hệ thống về vấn đề này. Chính vì vậy, trong phạm vi khóa
luận tốt nghiệp của mình, tác giả chọn đề tài một trong những chế định quan
trọng của Luật TTHC với mong muốn cung cấp cho người đọc một cái nhìn
đầy đủ về phiên tịa phúc thẩm VAHC.
3.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm phân tích làm rõ các vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật TTHC về phiên tòa phúc thẩm VAHC. Trên cơ sở đó, đánh


giá về các quy định và việc áp dụng các quy định trên trong thực tiễn xét xử

tại các phiên tòa phúc thẩm VAHC cụ thể và rút ra những hạn chế, vướng
mắc đồng thời nêu lên một số giải pháp khắc phục, từ đó góp phần xây dựng
hệ thống pháp luật hồn thiện, nâng cao chất lượng phiên tịa phúc thẩm trong
thời gian tới.
4.

Đối tƣợng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu
Đề tài hướng đến nghiên cứu về các vấn đề xoay quanh phiên tòa phúc
thẩm VAHC bằng việc nêu lên khái niệm cũng như đặc điểm và ý nghĩa của
phiên tịa. Qua đó phân tích, đánh giá ở cả khía cạnh pháp lý lẫn thực tiễn về
phiên tòa phúc thẩm VAHC nhằm một mặt làm rõ đối tượng nghiên cứu, mặt
khác rút ra những đề xuất mang tính xây dựng hồn thiện.

Phạm vi nghiên cứu
Phiên tịa phúc thẩm VAHC là một nội dung có phạm vi nghiên cứu rất
rộng. Vì vậy, trong khn khổ khóa luận khơng thể xem xét tất cả các nội
dung của vấn đề. Tác giả chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số nội dung cơ
bản của phiên tịa phúc thẩm theo thủ tục thơng thường (khơng nghiên cứu
phiên tịa phúc thẩm VAHC theo thủ tục rút gọn). Khóa luận đi sâu và tập
trung nghiên cứu về cơ sở lý luận cùng các quy định pháp luật cũng như thực
trạng về phiên tòa phúc thẩm VAHC với tư cách là phiên tòa xét xử lại vụ án.
Về mặt pháp lý, một phiên tòa phúc thẩm VAHC cần thực hiện dựa trên các
quy định chung về phiên tòa phúc thẩm, các quy định về diễn biến phiên tòa
và quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm. Về mặt thực tiễn, luận văn
làm sáng tỏ những bất cập cịn tồn tại trong q trình áp dụng quy định pháp
luật tại các phiên tòa phúc thẩm VAHC cụ thể. Thơng qua đó nhìn nhận
ngun nhân của những bất cập trên và đưa ra kiến nghị hoàn thiện ở cả góc

độ lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng phiên tòa phúc thẩm thực
tế.
5.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng đường lối, chủ trương, chính


sách của Đảng và Nhà nước về hệ thống pháp luật nước ta nói chung và pháp
luật TTHC nói riêng.
Việc nghiên cứu đề tài kết hợp giữa lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ
các vấn đề liên quan. Luận văn cũng như vận dụng các phương pháp phân tích
đánh giá tổng hợp, phương pháp logic, phương pháp so sánh… để thực hiện
việc nghiên cứu.
6.
Bố cục của luận văn
Luận văn gồm các phần:
Phần mở đầu
Chương 1 : Những vấn đề lý luận và pháp lý về phiên tòa phúc thẩm vụ
án hành chính
Chương 2 : Thực trạng phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính và một số
kiến nghị hồn thiện
Kết luận


1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ
PHIÊN TỊA PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm vụ

án hành chính
1.1.1. Khái niệm phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính
Nhằm đảm bảo cho q trình giải quyết vụ án được khách quan, đúng
đắn, pháp luật tố tụng nói chung cũng như pháp luật TTHC nói riêng đã có
quy định về thủ tục phúc thẩm. Phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét
xử lại vụ án có bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của Tòa án cấp
dưới bị kháng cáo, kháng nghị. Thơng qua việc xét xử phúc thẩm Tịa án cấp
trên có thể kiểm tra hoạt động xét xử của cấp dưới, sửa chữa được những sai
lầm, khắc phục những thiếu sót có thể có của Tịa án cấp dưới; góp phần bảo
vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Trình tự giải quyết VAHC theo thủ tục phúc thẩm trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau theo quy định của pháp luật, trong đó, phiên tịa phúc thẩm
VAHC có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án sẽ
tiến hành nhiều hoạt động TTHC khác nhau như: xem xét lại những tình tiết,
sự kiện mà Tịa án cấp sơ thẩm sử dụng làm căn cứ để ra bản án, quyết định
sơ thẩm; kiểm tra lại những căn cứ về mặt pháp lý về vấn đề áp dụng pháp
luật nội dung và tuân thủ pháp luật tố tụng mà bản án, quyết định sơ thẩm
được đưa ra. Trên cơ sở đó, Tịa án cấp phúc thẩm mà cụ thể là HĐXX phúc
thẩm đưa ra quyết định đúng đắn với bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị. Với tầm quan trọng như vậy nhưng hiện nay pháp luật
TTHC không quy định thế nào là phiên tịa phúc thẩm VAHC, do đó chúng ta
cần tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau để làm rõ khái niệm phiên tòa phúc
thẩm VAHC:
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Phiên tịa là lần họp để xét xử của Tịa
án”1. Trong khi đó, theo tác giả Nguyễn Duy Lẫm thì phiên tịa là: “Nơi diễn
ra hoạt động xét xử của TAND”2. Như vậy, ta có thể khái quát: Phiên tòa là
nơi diễn ra lần họp để thực hiện hoạt động xét xử của TAND.

1
2


Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà nẵng, Đà Nẵng, tr.779.
Nguyễn Duy Lẫm (1998), Sổ tay thuật ngữ pháp lí thơng dụng, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 270.


2
Bên cạnh đó, cũng theo từ điển Tiếng Việt thì: “Phúc thẩm là việc Tòa
án cấp trên xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã xử sơ thẩm mà có chống án,
xét xử là việc xem xét và xử các vụ án”3. Khái niệm về phúc thẩm theo cách
tiếp cận này dường như còn khá đơn giản và khơng khái qt được hết bản
chất cơng việc của Tịa án khi chỉ nói là lần xét xử lại vụ án. Tác giả Nguyễn
Mạnh Hùng cho rằng phúc thẩm là: “Việc Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án mà
Tòa án cấp dưới trực tiếp đã xét xử sơ thẩm, nhưng bị kháng cáo hoặc kháng
nghị theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự”4. Có tác giả khẳng định:
“Về bản chất, phúc thẩm không phải xét xử lần đầu tiên đối với một vụ án mà
là lần xét xử thứ hai”5. Các cách giải thích trên thể hiện cách nhìn nhận tồn
diện hơn về phiên tịa phúc thẩm VAHC nhưng vẫn chưa thực sự đầy đủ.
Theo từ điển Luật học định nghĩa: “Phúc thẩm là xét xử lại vụ án, quyết định
đã được tòa án cấp dưới sơ thẩm nhưng chưa có hiệu lực pháp luật mà bị
kháng cáo, kháng nghị. Phúc thẩm là một hoạt động tố tụng, trong đó Tịa án
cấp trên tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết
định do Tòa án cấp sơ thẩm xử bị kháng cáo, kháng nghị”6. Trong khi đó
theo giáo trình Luật TTHC Việt Nam của trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh thì: “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại
vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Phúc thẩm không phải là xem xét lại mà
là xét xử lại vụ án”7. Theo giáo trình Luật TTHC Việt Nam của Đại học Luật
Hà Nội thì được hiểu: “Xét xử phúc thẩm VAHC là việc Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm kiểm tra tính hợp

pháp và tính có căn cứ của bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị để đảm bảo cho các bản án và quyết định của Tòa án được khách
quan, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

3

Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà nẵng, Đà Nẵng, tr.791,1148.
Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Thuật ngữ pháp lý, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.351.
5
Đại học luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.303.
6
Bộ tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.626-627.
7
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng
Đức -Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr.334-335.
4


3
và của cơ quan nhà nước”8. Các cách giải thích trên thể hiện cách nhìn nhận
tồn diện hơn về xét xử phúc thẩm VAHC.
Nhìn chung các khái niệm nói trên đã xác định được những đặc trưng
cơ bản của một phiên tịa xét xử phúc thẩm nói chung và phiên tịa phúc thẩm
VAHC nói riêng. Tuy nhiên, các khái niệm này chỉ mới phản ánh một cách
chung chung nhất về phiên tòa phúc thẩm VAHC là nơi diễn ra hoạt động xét
xử lại hoặc xét xử lần hai đối với VAHC mà chưa có một khái niệm cụ thể
nào nói rõ bản chất đầy đủ toàn diện nhất của phiên tòa phúc thẩm VAHC.
Khoa học pháp lý hiện nay vẫn chưa tồn tại chính thức một định nghĩa về
phiên tịa phúc thẩm VAHC. Do đó việc tiếp cận khái niệm này được thực
hiện dưới góc độ thủ tục được quy định tại chương XIII của Luật TTHC năm

2015. Phiên tòa phúc thẩm VAHC là hoạt động trung tâm của thủ tục xét xử
phúc thẩm bởi tại phiên tòa, Tòa án sẽ căn cứ vào những chứng cứ, quy định
của pháp luật để xét xử lại bản án quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm. Từ đó
đưa ra phán quyết chính xác nhất.
Theo Điều 203 Luật TTHC năm 2015 thì ta có thể khẳng định Tịa án
cấp phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai và tính chất của xét xử phúc thẩm là việc
xét xử lại các vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực bị
kháng cáo hoặc kháng nghị.
Như vậy, trên cơ sở tiếp cận khác nhau về khái niệm phiên tòa phúc
thẩm VAHC thì có thể hiểu rằng: “Phiên tịa phúc thẩm VAHC là hình thức
của hoạt động xét xử lại VAHC tại phiên tịa của Tịa án có thẩm quyền xét xử
phúc thẩm nhằm đưa ra phán quyết đối với bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị”.
1.1.2. Đặc điểm của phiên tòa phúc thẩm vụ án hành chính.
Luật TTHC với những quy định cụ thể nhằm đảm bảo cho hoạt động
xét xử được chính xác, khách quan, cơng bằng và dân chủ. Tuy nhiên, thực tế
xét xử khó tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan khác nhau dẫn tới việc Tòa án cấp sơ thẩm có thể ban
hành những bản án, quyết định thiếu căn cứ, không phù hợp với quy định của
pháp luật; mà do đó quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự không
8

Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Lao động - xã
hội, Hà Nội, tr.354.


4
được đảm bảo, hoặc có những vi phạm pháp luật khác cần khắc phục. Chính
vì vậy, Luật tố tụng Việt Nam nói chung và Luật TTHC nói riêng có quy định
về thủ tục phúc thẩm đối với những vụ án đã xét xử sơ thẩm nhưng bản án,

quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Và do đó, phiên tịa phúc thẩm với vai
trị quan trọng của mình trong thủ tục phúc thẩm có những đặc điểm cơ bản
sau:
Thứ nhất, phiên tịa phúc thẩm VAHC là hình thức tiến hành hoạt
động xét xử lại đối với bản án, quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm chƣa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị
Đặc điểm này thể hiện tính chất đặc thù của phúc thẩm VAHC là một
cấp xét xử, và đây cũng là một trong những nguyên tắc về chế độ xét xử của
Tòa án được Hiến pháp 2013 quy định “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
được bảo đảm”9.
Hình thức tiến hành hoạt động xét xử lại được hiểu là cách thức tiến
hành việc xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm nhằm kiểm tra, xem xét tính có
căn cứ, tính hợp pháp của kháng cáo, kháng nghị để đưa ra những phán quyết
phù hợp nhất đối với bản án, quyết định sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Xét xử lại được hiểu là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử một lần nữa
về mặt nội dung cũng như về mặt thủ tục đối với VAHC mà bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Một điều
cần lưu ý là để thực hiện hoạt động xét xử lại thì Tịa án cấp phúc thẩm phải
tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết để làm rõ từng tình tiết của vụ án,
xác minh, xem xét, đối chiếu, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án. Trong trường hợp cần thiết có thể thu thập thêm chứng cứ mới. Tại
phiên tòa phúc thẩm, cần phải đảm bảo cho người đã kháng cáo và Viện kiểm
sát, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bổ sung chứng cứ mới.
Đây chính là điểm đặc biệt quan trọng đối với phúc thẩm, bởi đó khơng phải
là việc kiểm tra xét xét một các hình thức thơng qua tài liệu có trong hồ sơ.
Xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm khác với việc xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm ở chỗ thủ tục phúc thẩm là một cấp xét xử, là cấp xét
9


Điều 6 Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013.


5
xử thứ hai hay cấp xét xử cuối cùng đối với một VAHC mà bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị. Trong khi đó, giám
đốc thẩm, tái thẩm lại là một thủ tục đặc biệt để xem xét lại các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Phiên tịa phúc thẩm được tiến
hành cơng khai với sự tham gia của những người có liên quan đến việc kháng
cáo, kháng nghị và những người tiến hành tố tụng khác, trừ trường hợp
HĐXX phúc thẩm khơng phải mở phiên tịa, không phải triệu tập đương sự
theo Điều 226 Luật TTHC năm 2015. Còn phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
lại là phiên tịa khơng cơng khai và việc triệu tập những người tham gia tố
tụng không phải là bắt buộc. Ngoài quyền bác kháng cáo, kháng nghị và giữ
nguyên bản án; hủy bản án để xét xử lại; hủy bản án và đình chỉ vụ án thì
HĐXX phúc thẩm cịn có quyền sửa bản án sơ thẩm của Tịa án cấp dưới.
Thứ hai, phiên tòa phúc thẩm VAHC đƣợc tiến hành bởi Tịa án có
thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Điều 203 Luật TTHC Việt Nam năm 2015 có quy định: “ Xét xử phúc
thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của
Tịa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị”. Như vậy ta
có thể thấy xét xử phúc thẩm là việc thuộc thẩm quyền của Tịa án cấp phúc
thẩm. Tịa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm là Tòa án cấp trên trực tiếp của
Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Theo Điều 29 Luật Tổ chức TAND năm
2014 thì TAND cấp cao xét xử phúc thẩm những VAHC do các TAND cấp
tỉnh đã xét xử sơ thẩm mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị. Hiện nay, có 03 Tịa cấp cao được thành lập tại Hà
Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh10. TAND cấp tỉnh xét xử phúc
thẩm những VAHC do TAND cấp huyện đã xét xử sơ thẩm mà bản án, quyết

định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị11.
Sở dĩ có quy định về Tịa án có thẩm quyền phúc thẩm như trên là vì
tính chất của phúc thẩm là xét xử lại bản án, quyết định của Tịa án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị với mục đích xem
xét tính có căn cứ khách quan, tính có căn cứ hợp pháp về mặt tố tụng và
cũng như về nội dung của bản án, quyết định sơ thẩm; qua đó, Tịa án cấp
10
11

Nghị quyết 957/NQ-UBTVQH13 ngày 28 tháng 5 năm 2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Điều 37 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24/11/2014.


6
phúc thẩm có nhìn nhận và đánh giá tồn diện nhất về phán quyết đã tuyên
của Tòa án cấp sơ thẩm.
Từ đấy Tịa án cấp phúc thẩm sẽ có quyết định cuối cùng của mình.
Việc đánh giá lại một phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm đương nhiên là một
cơng việc khó khăn, phức tạp và địi hỏi cần thiết phải được một Tòa án cấp
cao hơn Tòa án cấp sơ thẩm xem xét mới đảm bảo sự chính xác và cơng bằng,
cơng minh nhất. Chính vì vậy, Luật TTHC quy định Tòa án cấp trên trực tiếp
của Tòa án cấp sơ thẩm sẽ đảm nhận trọng trách phúc thẩm là hoàn toàn hợp
lý, phù hợp với tinh thần pháp luật hiện nay.
Thứ ba, phiên tòa phúc thẩm VAHC là việc đƣa vụ án ra xét xử
cơng khai
Đây chính là đặc điểm thể hiện nguyên tắc xét xử công khai. Nội dung
của nguyên tắc xét xử công khai xác định trách nhiệm của Tòa án phải tổ
chức các phiên tịa cơng khai để xét xử vụ án, các hành vi tố tụng tiến hành tại
phiên tòa phải diễn ra công khai trước tất cả những người tham dự phiên tịa.
Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tịa mà Tịa án vẫn tiến

hành xét xử thì những lời khai của họ trước đó có trong hồ sơ vụ án phải được
nêu ra công khai cũng như các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án đều
phải được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa để mọi người tham dự phiên
tòa trực tiếp nhìn nhận đầy đủ nội dung vụ án, qua đó họ có thể tự mình đưa
ra những đánh giá, nhận xét về vụ án.
Phiên tòa phúc thẩm VAHC được xét xử cơng khai có nghĩa là việc xét
xử phúc thẩm phải công khai về địa điểm, thời gian, đối tượng tham gia.
Không chỉ những chủ thể tham gia tố tụng mà tất cả mọi người dân đều được
quyền tham dự phiên tịa. Đây cũng chính là một trong những biện pháp hữu
hiệu để Tịa án thực hiện tốt cơng tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật
cho người dân. Không những thế việc áp dụng nguyên tắc xét xử công khai
tạo điều kiện cho nhân dân trực tiếp giám sát, kiểm tra và theo dõi hoạt động
xét xử của Tòa án; đảm bảo cho việc xét xử của Tòa án được tiến hành minh
bạch, đúng pháp luật. Đồng thời khi xét xử phúc thẩm cơng khai, có sự giám
sát của nhân dân đòi hỏi các Thẩm phán thận trọng hơn khi xét xử cũng như
áp dụng các quy định của pháp luật để quá trình nghị án đưa ra được phán
quyết chính xác nhất.


7
Tuy nhiên không phải tất cả các VAHC đều được xét xử phúc thẩm
công khai. Đối với những trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần
phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật
nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân theo yêu cầu chính đáng của
đương sự, Tịa án có thể xét xử kín hoặc trường hợp khơng phải mở phiên tịa,
khơng cần triệu tập đương sự. Đây là một quy định hợp lý và đúng đắn bởi vì
trong những trường hợp này nếu Tịa án đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cơng
khai thì sẽ ảnh hưởng đến bí mật quốc gia, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ
tục của dân tộc hoặc nếu những vụ án đó liên quan đến bí mật nghề nghiệp, bí
mật kinh doanh, bí mật cá nhân hay bảo vệ người chưa thành niên mà lại đưa

ra xét xử công khai sẽ gây khó khăn, lúng túng cho đương sự, các tài liệu sẽ
được xem xét không đầy đủ dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân
khơng đảm bảo.
Mặc dù xét xử kín nhưng HĐXX tun cơng khai phần mở đầu và phần
quyết định của bản án nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
của dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp đương sự. Xét xử công khai VAHC
phúc thẩm nhằm tăng cường trách nhiệm của Tòa án cấp phúc thẩm đối với
nhiệm vụ của mình, đảm bảo tính khách quan trong cơng tác xét xử của Tịa
án. Đồng thời, giúp người dân có thể theo dõi được hoạt động xét xử và áp
dụng pháp luật của Tòa án, mang lại hiệu quả cao trong hoạt động tuyên
truyền, giáo dục pháp luật.
1.1.3. Ý nghĩa của phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính.
Với vai trò trung tâm trong thủ tục phúc thẩm VAHC, phiên tịa phúc
thẩm có những ý nghĩa quan trọng sau:
Thứ nhất, đối với đƣơng sự
Phiên tịa phúc thẩm VAHC góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự một cách hiệu quả nhất. Sở dĩ có ý nghĩa như vậy là vì
đương sự có quyền kháng cáo khi bản án, quyết định sơ thẩm xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo thủ tục phúc thẩm. Tại phiên tòa
phúc thẩm, HĐXX sẽ xét xử lại vụ án trên cơ sở căn cứ vào những tình tiết,
chứng cứ khách quan cũng như các thủ tục trực tiếp tại phiên tòa mà trong
phạm vi thẩm quyền của mình sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng đối với bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. HĐXX phúc thẩm có quyền hủy, sửa bản


8
án hoặc quyết định sơ thẩm nếu bản án hay quyết định đó khơng chính xác,
khơng phù hợp và việc hủy hay sửa bản án hay quyết định sơ thẩm lúc này sẽ
góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi bản án, quyết
định sơ thẩm đã tuyên gây bất lợi cho đương sự. Không chỉ vậy. khi có kháng

nghị của Viện kiểm sát về bản án, quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định
đó có lợi cho đương sự thì cũng tại phiên tịa phúc thẩm, HĐXX có quyền bác
kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm. Như vậy, có thể thấy
thơng qua cơ chế xét xử tại phiên tịa phúc thẩm thì quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự sẽ được HĐXX cân nhắc, xem xét và bảo vệ một cách triệt để,
hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó, phiên tòa phúc thẩm VAHC là một cơ chế thể hiện quyền
tự định đoạt của đương sự. Cụ thể Điều 204 Luật TTHC 2015 có quy định
cho đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng
cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Việc kháng cáo hợp lệ của đương sự
khơng nhất thiết phải có căn cứ hay khơng thì Tịa án cấp phúc thẩm đều phải
tiến hành xét xử lại bản án, quyết định đó. Bên cạnh đó, thì tại phiên tịa xét
xử phúc thẩm, người kháng cáo vẫn có quyền rút kháng cáo, người khởi kiện
vẫn có quyền rút đơn khởi kiện và việc này sẽ được Tịa án chấp nhận nếu nó
được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Mặc khác, tại phiên tòa phúc thẩm VAHC, thơng qua việc trình bày
cũng như tranh luận bình đẳng giữa các đương sự sẽ giúp cho quyền và nghĩa
vụ của các bên được đảm bảo công bằng, đầy đủ nhất. Sau cùng, trên cơ sở
xem xét toàn diện, khách quan, cơng khai về tính xác thực của chứng cứ và
tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm; HĐXX phúc thẩm sẽ đưa ra
phán quyết của mình đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Phán
quyết của HĐXX phúc thẩm được đưa ra sẽ có hiệu lực pháp luật ngay, ảnh
hưởng trực tiếp tới quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và cơ quan
nhà nước. Chính vì những lẽ đó mà phiên tịa phúc thẩm VAHC có ý nghĩa vơ
cùng to lớn đối với đương sự.
Thứ hai, đối với Tòa án
Phiên tịa phúc thẩm có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện chức
năng xét xử của Tòa án. Công việc xét xử lại một bản án, một quyết định chưa



9
có hiệu lực tại phiên tịa phúc thẩm có vai trò thiết yếu trong việc phát hiện ra
những sai lầm có thể có trong những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp
luật của Tịa án. Qua đó, HĐXX phúc thẩm có thể khắc phục được những
thiếu sót, sai phạm của Tịa án cấp sơ thẩm. Cũng thơng qua xét xử phúc thẩm
mà Tịa án cấp phúc thẩm có thể kiểm tra thường xuyên hoạt động xét xử của
Tòa án cấp sơ thẩm cũng như khả năng nhận thức và vận dụng pháp luật của
các Thẩm phán để từ đó uốn nắn những sai sót, lệch lạc trong cơng tác xét xử,
có những hướng dẫn bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Thẩm phán. Bên cạnh đó,
tại phiên tịa phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm có thể tự mình sửa chữa sai lầm,
khắc phục thiếu sót hay đề nghị Tịa án cấp sơ thẩm tự sửa chữa những sai
lầm của mình. Đây chính là một hình thức áp dụng pháp luật có hiệu quả to
lớn giữa Tịa án cấp phúc thẩm và Tịa án cấp sơ thẩm, nhờ đó mà chất lượng
xét xử ngày càng được cải thiện.
Ngồi ra, thơng qua việc xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên tổng kết rút
kinh nghiệm từ thực tiễn xét xử của Tòa án cấp dưới có thực hiện tốt chức
năng nhiệm vụ của mình hay khơng, từng bước nâng cao hiệu quả công tác
giải quyết VAHC.
Thứ ba, đối với hoạt động tố tụng
Trong quá trình giải quyết VAHC do những tác động khác nhau, các
quy định về pháp luật tố tụng còn nhiều điểm hạn chế, chưa có văn bản hướng
dẫn cụ thể. Mặc khác, xét về mặc chủ quan đội ngũ người tiến hành tố tụng
chưa đồng đều về nghiệp vụ dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn nhiều lúng
túng nên khơng tránh khỏi sai sót. Việc quy định giai đoạn xét xử phúc thẩm
và đặc biệt là tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án cấp trên kiểm tra hoạt động
thường xun của Tịa án cấp dưới, có như vậy mới phát huy hết tác dụng của
hoạt động xét xử, mới đảm bảo được việc các nguyên tắc trong quá trình tố
tụng. Tịa án cấp trên cũng phát hiện những thiếu sót, chồng chéo trong các
quy định của pháp luật để đảm bảo các quy định pháp luật luôn phù hợp với

cuộc sống và nền kinh tế, phát huy được tác dụng của pháp luật trong lĩnh vực
hành chính. Bên cạnh đó, đảm bảo mọi hành vi tố tụng của cơ quan nhà nước
và người tiến hành tố tụng phải được thực hiện đúng nội dung và trình tự do
pháp luật quy định, đảm bảo nội dung và hình thức của bản án, quyết định của
Tòa án.


10
Ngoài ra, HĐXX phúc thẩm khắc phục được những sai lầm trong bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm sẽ góp phần tăng niềm tin của cá nhân,
tổ chức vào hoạt động xét xử, tránh trường hợp vụ án bị kéo dài. Thơng qua
hoạt động tại phiên tịa phúc thẩm mà Tịa án cấp sơ thẩm sẽ có cái nhìn tổng
quan nhất về những sai phạm của mình, để từ đó mà hoạt động xét xử các
VAHC ở giai đoạn sơ thẩm về sau được tuân thủ đúng trình tự, thủ tục, tránh
những vi phạm về mặt tố tụng dẫn đến bản án bị hủy để xét xử lại, làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, góp phần
tiết kiệm thời gian, chi phí cho hoạt động xét xử nâng cao chất lượng của bản
án, quyết định sơ thẩm.
1.2. Phiên tịa phúc thẩm vụ án hành chính theo quy định của
pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam
1.2.1. Những quy định chung về phiên tòa phúc thẩm vụ án hành chính
1.2.1.1. Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Trong một phiên tịa, dù là sơ thẩm hay phúc thẩm thì trách nhiệm của
HĐXX đều rất quan trọng. Những thành viên trong HĐXX đều là những
người tiến hành tố tụng mà vai trị của họ mang tính quyết định của vụ án.
HĐXX chịu trách nhiệm điều khiển và đưa ra những quyết định mang tính
chất định đoạt cho vụ án. Do đó, việc xác định các thành viên của HĐXX là
một vấn đề vô cùng cần thiết. Theo quy định tại Điều 222 Luật TTHC năm
2015 thì “ Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán”. Như vậy, thành
phần HĐXX phúc thẩm khác với HĐXX sơ thẩm, đối với phiên tịa xét xử sơ

thẩm thì HĐXX gồm: “Một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trừ trường
hợp xét xử theo thủ tục rút gọn thì HĐXX sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán
và ba Hội thẩm nhân dân”12.
Ta có thể thấy việc quy định về thành phần HĐXX phúc thẩm VAHC
là chỉ bao gồm các Thẩm phán. Sở dĩ có quy định như vậy xuất phát từ tính
chất của phúc thẩm là xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; xét lại tính hợp pháp, tính có căn
cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị chứ không chỉ là xử lý và giải quyết vụ án giống như Tòa án cấp
sơ thẩm. Cơng tác xét xử phúc thẩm địi hỏi u cầu về trình độ pháp lý cũng
12

Điều 154 Luật TTHC năm 2015.


11
như kiến thức thực tiễn của người xét xử phải đạt ở mức cao hơn. Mặc khác,
bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay khi ban hành nên việc xét xử
phúc thẩm là hết sức thận trọng, đòi hỏi HĐXX khi đưa ra bản án phải có độ
chính xác lớn. Do đó, thành phần HĐXX phúc thẩm cần những người có trình
độ hiểu biết và được đào tạo chun mơn sâu về pháp luật mới có thể xem
xét, đánh giá được phán quyết của Tòa án cấp dưới có đảm bảo được sự đúng
đắn, khách quan, cơng bằng; từ đó đưa ra phán quyết chính xác nhất. Hơn
nữa,Thẩm phán là những người có tính chun nghiệp, kiến thức pháp luật và
chuyên môn cao hơn trong việc xem xét, đánh giá các chứng cứ và tình tiết vụ
án cũng như áp dụng pháp luật. Chính vì những lẽ trên mà việc quy định về
thành phần HĐXX phúc thẩm chỉ bao gồm các Thẩm phán là hoàn toàn hợp
lý.
Luật TTHC 2015 cũng có quy định trong trường hợp vụ án có đầy đủ
yếu tố để xét xử theo thủ tục rút gọn thì chỉ có một Thẩm phán được phân

cơng giải quyết vụ án. Việc quy định về thành phần HĐXX phúc thẩm theo
thủ tục rút gọn là việc thể chế hóa quy định của Hiếp pháp 2013, đảm bảo giải
quyết nhanh gọn, kịp thời những vụ án đơn giản, có chứng cứ rõ ràng. Đồng
thời, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tiết kiệm thời
gian và chi phí cho đương sự cũng như cho Nhà nước.
1.2.1.2. Sự có mặt của những người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng
Thứ nhất, sự có mặt của người tiến hành tố tụng
Một là, về sự có mặt của thành viên HĐXX và Thư ký phiên tòa
Điều 223 Luật TTHC năm 2015 quy định phiên tịa phúc thẩm chỉ được
tiến hành khi có đủ thành viên HĐXX và Thư ký phiên tòa.
Phiên tòa xét xử phúc thẩm địi hỏi có mặt đầy đủ thành viên HĐXX
bởi HĐXX có vai trị, vị trí trung tâm trong hoạt động xét xử phúc thẩm. Với
tư cách là chủ thể có thẩm quyền chủ trì và điều khiển phiên tịa, sự có mặt
đầy đủ các thành viên HĐXX phúc thẩm giúp thực hiện đúng nguyên tắc xét
xử theo đa số và việc đưa ra các phán quyết cũng chính xác, khách quan hơn.
Sự vắng mặt bất kì thành viên nào của HĐXX phúc thẩm cũng sẽ gây khó
khăn rất lớn đến việc thực hiện chức năng xét xử lại vụ án của Tịa án và
khơng đảm bảo các thủ tục tố tụng tại phiên tịa. Bên cạnh đó, phiên tòa phúc


12
thẩm cũng địi hỏi sự có mặt của Thư ký phiên tịa vì Thư ký phiên tịa là
người tiến hành tố tụng có nhiệm vụ giúp HĐXX hồn thành tốt vai trị của
mình nên sự có mặt của Thư ký phiên tịa là hết sức cần thiết.
Như vậy việc có mặt của các thành viên HĐXX và Thư ký phiên tòa tại
phiên tòa phúc thẩm là bắt buộc. Nếu thành viên HĐXX phúc thẩm (Thẩm
phán) vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia xét xử vụ án (vì lý do sức
khỏe, ốm đau, bệnh tật...) mà khơng có Thẩm phán dự khuyết tham gia ngay
từ đầu thì phải hỗn phiên tòa. Đồng thời, trường hợp Thư ký phiên tòa vắng

mặt hoặc khơng thể tiếp tục tham gia phiên tịa mà khơng có người thay thế
thì phải hỗn phiên tịa.
Hai là, về sự có mặt của Kiểm sát viên
Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng được VKSND cùng cấp phân
cơng tham gia vào phiên tịa phúc thẩm, nhằm thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTHC. Sự có mặt của Kiểm sát viên
tại phiên tịa phúc thẩm khơng chỉ giúp Viện kiểm sát thực hiện chức năng
của mình, phát hiện các sai phạm tố tụng, kịp thời kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan
mà còn giúp HĐXX ý thức được vai trị, trách nhiệm của mình để vụ án được
diễn ra đúng đắn, hợp pháp.
Điều 224 Luật TTHC 2015 có quy định về sự có mặt của Kiểm sát viên
tại phiên tòa phúc thẩm VAHC: “Trong trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt
khi Viện kiểm sát có kháng nghị thì HĐXX quyết định hỗn phiên tịa và
HĐXX thơng báo cho Viện kiểm sát để cử người thay thế. Trường hợp kiểm
sát viên vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tịa nhưng có Kiểm
sát viên dự khuyết tham gia phiên tịa ngay từ đầu thì người này được thay thế
Kiểm sát viên vắng mặt tham gia phiên tịa xét xử vụ án”. Điều đó có nghĩa là
trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị thì sự có mặt của Kiểm sát
viên là bắt buộc, nếu Kiểm sát viên vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia
phiên tịa mà khơng có Kiểm sát viên dự khuyết thay thế thì HĐXX bắt buộc
hỗn phiên tịa.
Luật TTHC năm 2015 đã có bước tiến mới khi có sự quy định khác biệt
so với Luật TTHC năm 2010 (theo khoản 1 Điều 194 Luật TTHC năm 2010
thì “nếu Kiểm sát viên vắng mặt HĐXX quyết định hỗn phiên tịa”) là không


13
liệt kê trường hợp nếu Viện kiểm sát khơng có kháng nghị mà đương sự có
kháng cáo thì sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát (Kiểm sát viên) được

xác định là bắt buộc. Theo đó, đối với trường hợp này, HĐXX vẫn tiến hành
phiên tòa phúc thẩm mà khơng cần thiết phải hỗn phiên tịa. Quy định mới
này của Luật TTHC năm 2015 là hoàn toàn hợp lý, tránh trường hợp hỗn
phiên tịa dẫn tới vụ án kéo dài, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự. Hơn nữa xét xử phúc thẩm lúc này xuất phát từ bản thân kháng
cáo của đương sự mà khơng có kháng nghị của Viện kiểm sát nên việc HĐXX
vẫn tiến hành phiên tịa là vơ cùng đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Thứ hai, sự có mặt của người tham gia tố tụng
Một là, sự có mặt của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự
Về ngun tắc, khi Tịa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất bắt buộc người
kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng
nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ bắt buộc phải có mặt.
Tuy nhiên trong trường hợp này nếu họ có đơn đề nghị Tịa án xét xử vắng
mặt thì Tịa án tiến hành phiên tịa phúc thẩm vắng mặt họ vì ở đây họ đã tự
nguyện không thực hiện quyền bào chữa, tranh tụng tại tòa.
Khi tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, thì người kháng cáo, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải có mặt tại phiên tịa và sự vắng mặt của
họ chỉ được chấp nhận nếu vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan.
Trong trường hợp này người kháng cáo vắng mặt mà khơng có người đại diện
tham gia phiên tịa thì Tịa án ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm
đối với bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt (trừ khi họ có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt). Điều này xuất phát từ tính chất của xét xử phúc thẩm là một
khi có kháng cáo đúng pháp luật của đương sự hoặc đại diện hợp pháp của
đương sự. Do đó, nếu họ khơng có mặt tại phiên tịa phúc thẩm thì đồng nghĩa
với việc họ từ bỏ việc kháng cáo của mình và Tịa án cũng khơng cần thiết
phải tiến hành hoạt động xét xử. Cịn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự vắng mặt thì Tịa án vấn tiến hành xét xử vắng mặt họ. Bởi vì


14
họ không phải là người kháng cáo, chỉ là người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan và sự vắng mặt họ tại phiên tịa khơng ảnh hưởng đến việc giải quyết
kháng cáo.
Theo khoản 13 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 thì trở ngại khách quan là
những trở ngại do hồn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền,
nghĩa vụ khơng thể biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc
khơng thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ của mình. Đây là quy định
hồn tồn mới được đề cập trong luật TTHC năm 2015. Có thể thấy đây là
một sự bổ sung vô cùng tiến bộ và cần thiết, phù hợp với tình hình thực tế.
Theo khoản 14 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 thì sự kiện bất khả kháng là sự
kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể
khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho
phép.
Hai là, sự có mặt của người làm chứng, người giám định, người phiên
dịch
Sự có mặt của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch
trong phiên tòa phúc thẩm được thực hiện giống các quy định tại phiên tòa sơ
thẩm tại các Điều 159, 160, 161 Luật TTHC năm 2015. Những người tham
gia tố tụng này phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa nhưng vai trò của họ
tại phiên tòa là khác nhau. Người làm chứng là người biết được các tình tiết
của vụ án và được triệu tập tham gia phiên tịa để trình bày tình tiết vụ án mà
họ biết, giúp cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án. Trường hợp
người làm chứng vắng mặt thì tùy trường hợp mà HĐXX quyết định vẫn tiến
hành xét xử hay hỗn phiên tịa. Nếu người làm chứng về các vấn đề khơng
quan trọng trong khi có các bằng chứng trực tiếp khác về tình tiết cần được
làm chứng vắng mặt hoặc người làm chứng về các vấn đề quan trọng vắng

mặt nhưng có lời khai đầy đủ, rõ ràng, ổn định trước đó hay về tình tiết làm
chứng đã có người khác làm chứng và người đó có mặt tại phiên tịa thì
HĐXX vẫn tiến hành xét xử và cơng bố lời khai đó. Nếu người làm chứng về
những vấn đề quan trọng nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng và việc
vắng mặt họ gây trở ngại cho việc xét xử thì có thể bị dẫn giải đến phiên tòa
theo quyết định của HĐXX.


15
Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy
định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định13. Người giám định
thường được Tòa án triệu tập để làm rõ những vấn đề liên quan đến giám định
và kết luận giám định. Do đó, nếu người giám định vắng mặt thì tùy trường
hợp mà HĐXX vấn tiến hành xét xử hoặc quyết định hỗn phiên tịa. HĐXX
thường quyết định hỗn phiên tịa trong trường hợp kết luận giám định về các
tình tiết có ý nghĩa quan trọng cho việc giải quyết những vụ án chưa rõ ràng
hoặc mâu thuẫn với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà khơng thể
khắc phục được nếu khơng có mặt của người giám định để làm rõ, hoặc đại
diện Viện kiểm sát hoặc người tham gia tố tụng khác đồng ý hay không ý với
kết luận giám định.
Người phiên dịch là người tham gia tố tụng dịch ngôn ngữ khác ra
Tiếng Việt và ngược lại. Người phiên dịch tham gia tố tụng theo yêu cầu của
các bên đương sự hay có giấy triệu tập của Tịa án. Họ có vai trị quan trọng
trong việc đảm bảo tính xác thực và hợp pháp của các chứng cứ. Nếu người
phiên dịch cố tình hay vơ ý phiên dịch không đầy đủ, không đúng với nội
dung thông tin của những người có ngơn ngữ khác ra Tiếng việt sẽ gây ảnh
hưởng khơng nhỏ đến tính chính xác của thơng tin. Với vai trị, ý nghĩa quan
trọng của mình trong việc giải quyết vụ án, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự mà khi vắng mặt người phiên dịch HĐXX phúc thẩm ra
quyết định hỗn phiên tịa.

1.2.1.3. Hỗn phiên tịa, tạm ngừng phiên tịa phúc thẩm vụ án hành
chính
Thứ nhất, hỗn phiên tịa phúc thẩm
Về ngun tắc thì phiên tịa phúc thẩm sẽ được tiến hành với sự tham
gia của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo đúng thời
gian, địa điểm trong quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên có
những trường hợp vì lý do khác nhau dẫn đến phiên tịa phúc thẩm VAHC
khơng thể diễn ra theo đúng thời gian đã định. Chính vì vậy, Luật TTHC đã
có quy định về hỗn phiên tịa phúc thẩm nhằm giải quyết các trường hợp
này. “Hỗn phiên tòa là việc chuyển thời điểm tiến hành phiên tòa xét xử đã

13

Khoản 1 Điều 63 Luật TTHC năm 2015.


16
định sang một thời điểm khác muộn hơn”14. Hoãn phiên tịa phúc thẩm với
mục đích khắc phục những lý do Luật định về căn cứ hỗn phiên tịa nhằm
đảm bảo phiên tịa được diễn ra một cách dân chủ, cơng bằng và quyền, lợi
ích của các chủ thể liên quan được bảo đảm một cách hiệu quả nhất.
Điều 232 Luật TTHC năm 2015 đã quy định về việc Tòa án hỗn
phiên tịa xét xử phúc thẩm VAHC trong các trường hợp sau:
Người phiên dịch vắng mặt mà khơng có người khác thay thế;
thành viên HĐXX phúc thẩm vắng mặt hoặc khơng thể tiếp tục tham gia
phiên tịa mà khơng có Thẩm phán dự khuyết thay thế; Thư ký phiên tòa vắng
mặt hoặc khơng thể tiếp tục tham gia phiên tịa mà khơng có người khác thay
thế; Tịa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất nhưng người kháng cáo, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ vắng mặt mà khơng có đơn đề nghị xét xử

vắng mặt. Đây là những tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng có vai trị
quan trọng và sự có mặt của họ là vơ cùng cần thiết nên khi vắng mặt họ trong
trường hợp này HĐXX phải hỗn phiên tịa;
- Thành viên của HĐXX, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa, người phiên
dịch bị thay đổi mà khơng có người thay thế;
- Người giám định bị thay đổi;
- Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà không thể
thực hiện ngay tại phiên tòa;
- Vắng mặt người làm chứng, người giám định.
Đối với trường hợp vắng mặt người làm chứng, người giám định thì tùy
từng vụ án cụ thể mà HĐXX sẽ quyết định có hỗn phiên tịa hay tiếp tục; cịn
khi rơi vào tất cả các trường hợp còn lại nêu trên, HĐXX phúc thẩm bắt buộc
phải hỗn phiên tịa. Lý do là vì khơng thể khắc phục được những trường hợp
đó ngay tại phiên tịa và sự có mặt của những người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng trên có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc giải quyết
VAHC. Nếu khơng có mặt họ mà vẫn tiến hành xét xử sẽ khơng đảm bảo
được tính khách quan, cơng bằng và chính xác của việc xét xử. Người làm
chứng và người giám định thì từng vụ án cụ thể mà sự có mặt họ có mức độ ý
14

Vũ Thư - Lê Thương Huyền (2015), Bình luật khoa học Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Nxb. Hồng
Đức, Hà Nội, tr.180.


×