Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Luận văn xuất khẩu hàng dệt may việt nam vào thị trường EU giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.22 MB, 48 trang )

LUẬN VĂN:

Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào

thị trường EU giai đoạn hiện nay


1. Tính cấp thiết của đề tài
Đây mạnh xuất khâu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
là một trong những biện pháp quan trọng để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần

giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng u cầu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, muốn đây mạnh xuất khẩu thì việc lựa chọn mặt hàng

và thị trường xuất khâu là hết sức quan trọng.
Ngành đệt may có vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, vừa cung cấp
hàng hóa tiêu dùng trong nước vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút
nhiều lao động và là một trong những ngành thu được lượng ngoại tệ lớn thông qua xuất

khẩu. Xuất khâu hàng dệt may của nước ta trong hơn thập kỷ qua đã thu được kết quả đáng
kể, kim ngạch xuất khâu hàng năm ngày càng tăng, chủng loại hàng xuất đa dạng, phong
phú, thị trường được mở rộng, đặc biệt là những thị trường có tiềm năng lớn và vị trí quan
trọng trong nền kinh tế thế giới như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU).
Liên minh châu âu là một tổ chức khu vực lớn nhất thế giới hiện nay, là một trong

ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới (Mỹ, Nhật Bản, EU), với việc kết nạp 10 thành viên
mới vào tháng 5/2004, hiện nay EU có 25 nước thành viên và trong tương lai sẽ còn tiếp
tục mở rộng.

Kể từ khi Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng đồng châu
âu ngày 22/10/1990, quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU không ngừng phát



triển. Chính phủ Việt Nam xác định EU là thị trường lớn và có nhiều triển vọng đối với
hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị
trường EU. Kế từ khi hai bên ký Hiệp định thương mại ngày 15/12/1992, kim ngạch xuất

khẩu hàng năm hàng dệt may nước ta sang EU tăng với tốc độ cao. Ngày 3/12/2004, Việt
Nam và EU đã ký thỏa thuận về việc tạo điều kiện cho hàng dệt may Việt Nam được xuất

khẩu tự do vào thị trường EU kể từ 1/1/2005. Thỏa thuận này sẽ tạo cho hàng đệt may Việt
Nam có được cơ hội bình đẳng với các nước thành viên WTO khi tiếp cận thị trường EU,

ngành dệt may Việt Nam có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển, nâng cao khả năng xuất


khẩu hàng hóa sang thị trường rộng lớn này.
Mặc dù không bị hạn chế bởi hạn ngạch, nhưng hàng đệt may xuất khẩu của Việt
Nam vào thị trường EU phải cạnh tranh gay gắt với hàng của những nước khác như Trung

Quốc, ấn Độ... Mặt khác, EU là một thị trường rộng lớn nhưng hết sức khắt khe, khó tính,
địi hỏi hàng xuất khâu nước ta nói chung, hàng dệt may nói riêng phải đáp ứng được
những tiêu chuẩn rất cao mới có thể thâm nhập và đứng vững trên thị trường này. Trước
tình hình đó, việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất các giải pháp
nhằm đây mạnh xuất khâu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU trong giai đoạn hiện

nay là hết sức cần thiết. Đó cũng là lý do để tác giả chọn vấn đề " Xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn hiện nay "" làm đề tài luận văn thạc sĩ của

mình.
2. Tình hình nghiên cứu

ở nước ta những năm gần đây đã có một số cơng trình, bài viết xung quanh vấn đề
này, tiêu biểu như: PGS.TS. Vũ Chí Lộc: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam sang thị trường châu âu, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004; Bộ Thương mại:

Thị


trường
khả

năng

xuất

hàng
khẩu

của

đột,
Việt

Nam,

ĐỀ

may
tài

nghiên


thé
cứu

khoa

giới
học,



số

98-78-006; TS. Nguyễn Xuân Thắng: Thị trường EU và một số vấn đề đặt ra đối với chiến

lược xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, Kỷ yêu Hội thảo khoa học: "Thị trường EU và các
yêu cầu của thị trường EU đối với xuất khẩu của Việt Nam", Trường Đại học Ngoại
thương, Hà Nội, 11/2001; ThS. Nguyễn Thu Thủy: Ngành dệt may - xuất khẩu Việt Nam
với các thách thức mới, Tạp chí Những vẫn đề kinh tế thế giới, số 3(65), 2000; TSKH.
Trần Nguyễn Tuyên: Thực frạng và triển vọng phát triển quan hệ kinh tế EU - Việt Nam,

Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6(98), 2004; Từ Thanh Thủy: Mười năm quan hệ
thương mại Việt Nam - EU, Tạp chí Những vẫn đề kinh tế thế giới, số 2(64), 2000...
Các cơng trình, bài viết nói trên đã tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về
mặt lý luận và thực tiễn hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói chung, xuất khẩu hàng dệt may

nói riêng. Song cho đến nay, chưa có cơng trình nghiên cứu nào về xuất khâu hàng dệt
may Việt Nam vào thị trường EU dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị để đưa ra những



giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực xuất khâu hàng dệt may của Việt Nam vào thị

trường EU, đặc biệt trong điều kiện hàng đệt may Việt Nam được tự do xuất khẩu vào thị

trường EU kế từ 1/1/2005. Vì thế, đề tài luận văn này khơng trùng lặp với các cơng trình,
bài viết đã cơng bố và vẫn cần thiết, có tính thời sự cấp bách.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích của đề tài
Tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận và phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt

may của Việt Nam vào thị trường EU, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm đây mạnh
xuất khâu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ của đề tài
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận - thực tiễn của việc xuất khẩu hàng đệt may vào
thị trường EU;

+ Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khâu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường
EU trong thời gian qua;
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đây mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt

Nam vào thị trường EU đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động xuất khẩu hàng đệt may của Việt Nam vào thị trường EU được nghiên

cứu ở giác độ khoa học kinh tế chính trị, đo đó luận văn khơng đi sâu nghiên cứu những
vân đề thuộc về kỹ thuật, công nghệ của ngành dệt may và những vấn đề thuộc về nghiệp
vụ xuất nhập khâu. Luận văn xuất phát từ những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật để nghiên cứu


quan hệ kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển ngành đệt may, làm rõ các quan hệ lợi
ích kinh tế trong hoạt động xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU.
- Phạm vỉ nghiên cứu
+ Về nội dung: Hàng dệt may có nhiều chủng loại. Luận văn tập trung làm rõ việc
xuất khâu một số chủng loại hàng may mặc có kim ngạch xuất khẩu lớn vào thị trường EU.


+ Về thời gian: Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng đệt may Việt Nam sang thị
trường EU từ giai đoạn hai bên bình thường hóa quan hệ ngoại giao (1992) đến nay và đề
xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đây mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào

thị trường EU đến năm 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận trong nghiên cứu đề tài của luận văn là phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin. Trong quá trình thực hiện, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp: điều tra khảo sát, thu thập số liệu, tiến hành phân tích,
đánh giá để rút ra các kết luận cần thiết làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.

6. Giá trị thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có đóng góp nhất định cho việc nghiên cứu,
hoạch định chính sách xuất nhập khâu và phát triển ngành đệt may Việt Nam trong điều

kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Kết quả nghiên cứu cũng có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo ở phạm vi nhất định cho việc giảng dạy môn khoa học chuyên ngành.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


Chương 1

cơ sở lý luận - thực tiễn của việc đây mạnh xuất khấu hàng dệt may Việt Nam vào thị
trường EU

1.1. phát triển hàng dệt may và vai trò của xuất khẩu hàng dệt may đối với sự

phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam
1.1.1. Đặc điểm của phát triển hàng dệt may

Các sản phẩm dệt may gắn liền với nhu cầu tiêu dùng cá nhân, tiêu dùng xã hội,
tiêu ding sản xuất. Trong đó tiêu dùng cá nhân - mặc là một trong những nhu cầu vật chat
thiết yếu nhất của con người, chiếm tỷ trọng cao nhất và quyết định sự phát triển ngành đệt
may. Sản phẩm của ngành đệt may là một trong những hàng hóa đầu tiên tham gia vào
mậu dịch quốc tế. Sự tồn tại và phát triển của ngành dệt may gắn liền với sự phát triển của

xã hội loài người. Xã hội càng phát triển, đời sống con người càng được cải thiện, nhu cầu
tiêu dùng hàng hóa nói chung, sản phẩm đệt may nói riêng, ngày càng tăng lên. Mặt khác,

tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn tới khả năng đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu
phong phú, đa dạng của con người cả về số lượng, chất lượng và mẫu mã thời trang.
Ngành dệt may trên thế giới đã trải qua quá trình phát triển lâu dài- từ sản xuất thủ
công đơn chiếc đến sản xuất công nghiệp hàng loạt; từ chỗ chỉ sử dụng nguyên liệu thô sơ
là sản phẩm của nông nghiệp tới việc sử dụng nhiều nguồn ngun liệu mới có tính năng
kỹ thuật cao. Ngày nay, phần lớn sản phâm dệt may trên thế giới được sản xuất theo dây
chuyền công nghiệp dựa trên nguồn nguyên liệu phong phú, đồi đào.
Sản xuất và buôn bán hàng đệt, may trên thế giới hiện nay có một số đặc điểm sau

đây:
Thứ nhất: Ngành dệt may khơng địi hỏi cơng nghệ sản xuất q phức tạp, vốn đâu
tư không lớn, thu hồi nhanh và thu hút được nhiều lao động.


So với các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là các ngành cơng nghiệp nặng thì
cơng nghiệp dệt may có suất đầu tư thấp hơn nhiều lần, chỉ bang 1/10 so với ngành cơ khí,
1/15 so với ngành điện, 1/20 so với ngành luyện kim. Chỉ phí đầu tư để tạo ra một chỗ làm


việc mới của ngành dệt may thấp hơn nhiều với với các ngành công nghiệp sản xuất hàng

tiêu dùng khác. Để tạo ra một chỗ làm việc mới, công nghiệp dệt (từ khâu sợi, dệt đến
nhuộm, hoàn tất) cần đầu tư khoảng 15.000 USD, công nghiệp may cần đầu tư khoảng

1.000 USD, trong khi con số này ở ngành giấy là 30.000 USD [24, tr. 59].
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, ngày nay công nghệ được ứng
dụng trong ngành dệt may đã có những bước phát triển to lớn so với những năm đầu thế kỷ
XX, nhiều công nghệ mới đã xuất hiện như kéo sợi không cọc, dệt không thoi, thiết kế, tạo

sơ đồ trên máy vi tính, nhiều cơng đoạn trong cơng nghiệp đệt may được thực hiện tự động
hóa. ở giai đoạn đệt, các loại máy dệt áp dụng công nghệ không thoi như máy dệt kiếm,

máy đệt hơi nước, máy dệt thơi khí... ngày càng được sử dụng nhiều. Sự tiến bộ về khoa
học công nghệ đã tạo ra những sản phẩm mới, với nhiều loại vải có những tính năng rất

đặc biệt đang được nhiều công ty dệt may lớn của thế giới nghiên cứu đề tung ra thị trường
nhu quan áo được tráng nano với tính năng giảm thiểu các chất bẩn và khả năng ky chất

lỏng rất tốt hay những chất liệu vải có mùi thơm từ hương hoa, trái cây, các chất liệu vải
có khả năng chống cháy tốt...[1]. Tuy nhiên, nhìn chung cơng nghệ sản xuất truyền thống
của ngành dệt may là loại công nghệ không q phức tạp, khơng địi hỏi trình độ kỹ thuật
q cao như những ngành điện tử, tin học, vũ trụ, sinh học. Sản phẩm dệt may có nhiều

chủng loại sản phẩm với phâm cấp, chất lượng rất khác nhau đề đáp ứng nhu cầu đa dạng,

phong phú của người tiêu dùng. Do vậy, bên cạnh các máy móc, thiết bị sử dụng cơng
nghệ hiện đại thì trong một số khâu của ngành dệt may vẫn có thể kết hợp sử dụng các
cơng nghệ trung bình trong sản xuất. Đây là đặc điểm quan trọng giúp các nước đang phát
triển có cơ hội đầu tư cho ngành công nghiệp đệt may trong điều kiện cịn nhiều hạn chế
về vốn, cơng nghệ, trình độ quản lý...
Ngành đệt may là ngành cơng nghiệp thu hút được nhiều lao động và lao động của

ngành dệt may đa phần thuộc loại lao động phổ thông, dé đào tạo. Do vậy, các nước có
nguồn lao động dồi dào với giá nhân cơng rẻ có thể phát huy được lợi thế của mình trong
phát triển cơng nghiệp dệt may. Thực tiễn phát triển ngành công nghiệp đệt may ở nhiều
nước cho thấy tầm quan trọng của ngành này trong việc thu hút lao động. Theo tác giả
Dương Đình Giám [10, tr. 19-20], lao động trong ngành dệt may của Trung Quốc lên tới
15 triệu người, của Banglades xấp xỉ 10 triệu lao động. Ngay cả ở khu vực EU - một trong


những khu vực kinh tế phát triển nhất thế giới thì ngành dệt may vẫn thu hút một lượng
đáng kể lao động. Lao động trong ngành dệt may tại EU sau khi kết nạp thêm 10 thành
viên mới vào năm 2004 là khoảng 2,7 triệu người. Phần lớn lao động trong ngành dệt may

khơng địi hỏi trình độ hiểu biết cao, chỉ cần sự tinh xảo, khéo léo ở mức độ cần thiết, do
đó cũng phải được đào tạo ở một mức độ nhất định mới có thể đáp ứng được yêu cầu sản
xuất công nghiệp, nhất là trong việc điều khiển các máy móc, thiết bị hiện đại. Một bộ

phận của lao động trong ngành đệt may, tuy không cần số lượng đơng nhưng địi hỏi trình
độ chun mơn cao về khoa học công nghệ, về thiết kế mẫu mã, về quản lý. Đội ngũ này
đóng vai trị hết sức quan trọng đối với sự phát triển hàng đệt may xuất khâu. Cùng với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, ngành đệt may trong tương lai sẽ chịu tác động
của những bước đột phá công nghệ cho phép giảm sự phụ thuộc vào chi phí nhân cơng của
lao động phơ thơng. Tuy nhiên, dù có được hiện đại hóa đến mức nào, thì trước mắt và lâu
đài, ngành đệt may vẫn tồn tại những công đoạn cần tới lao động thủ công của con người.

Thứ hai: Trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế, dưới tác động của cách mạng khoa

học cơng nghệ, khơng có một quốc gia nào khép kín phát triển ngành dệt may để đáp ứng
nhu cầu äa dạng trong nước và quốc tế.
Sản phẩm đệt may là loại sản phẩm có yêu cầu rất phong phú, đa dạng tùy thuộc
vào đối tượng tiêu dùng. Người tiêu dùng khác nhau về văn hóa, phong tục tập quán, tôn
giáo, khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu, về giới tính, tuổi tác... sẽ có nhu cầu rất khác
nhau về trang phục. Nhà sản xuất phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dang, màu sắc,
chất liệu để đáp ứng được tâm lý thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu
dùng. Chính nhu cầu đa dạng, phong phú về sản phẩm đệt may và khả năng lan tỏa nhanh
chóng của thời trang là nhân tố quan trọng thúc đây mạnh mẽ q trình sản xuất và bn
bán hàng dệt may trên phạm vi quốc tế.
Ngành cơng nghiệp dệt may có mối quan hệ mật thiết và phụ thuộc vào sự phát
triển của nhiều ngành kinh tế-kỹ thuật. Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nghề trồng bông,
trồng đâu nuôi tằm và ngành cơng nghiệp hóa chất là những ngành chủ yếu cung cấp
nguồn nguyên liệu cho ngành dệt. Máy móc, thiết bị của ngành dệt may là sản phẩm của
ngành cơ khí, chế tạo. Ngành sản xuất các loại phụ liệu như chỉ, khuy, mex, tấm lót áo,
khóa, nhãn mác, bao bì; sản phẩm của ngành dệt... phát triển là điều kiện để phát triển


ngành may tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, hình thức đẹp. Cơng nghiệp dệt may
là tổ hợp của hai ngành chun mơn hóa hẹp, có quan hệ hết sức khăng khít, chặt chẽ là
cơng nghiệp dệt và công nghiệp may, sản phẩm của công nghiệp dệt là nguồn nguyên liệu

chủ yếu của công nghiệp may. Công nghiệp dệt nếu khơng gắn bó với cơng nghiệp may thì
sản phẩm của nó sẽ khơng đáp ứng được mục tiêu đáp ứng nhu cầu mặc của con người.
Khi công nghiệp đệt phát triển với những chủng loại sản phẩm phong phú sẽ giúp cho
ngành may thuận lợi hơn trong lựa chọn nguồn nguyên liệu đầu vào, ngược lại, khi công
nghiệp may phát triển, mẫu mã, thời trang đa dạng sẽ làm kích thích nhu cầu tiêu dùng và
tạo điều kiện để ngành đệt giải quyết tốt sản phẩm đầu ra của mình. Để ngành may phát


triển ồn định, lâu dai thì phải chủ động được nguyên liệu đầu vào-là thành phẩm của ngành
dệt, tức là phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa ngành may với ngành dệt và các ngành khác
trong sản xuất ra các phụ liệu cho ngành may. Ngành công nghiệp dệt may được nhiều
nước đang phát triển trên thế giới chọn là ngành mũi nhọn để tập trung đầu tư phát triển.
Quốc gia nào có đủ điều kiện tự nhiên để trồng bông (hoặc phát triển được ngành trồng
dâu nuôi tằm) với chất lượng sản phẩm cao, sẽ chủ động nguồn nguyên liệu và khi kết hợp
được các nguồn lực khác như vốn, lao động, công nghệ, thì sẽ có nhiều lợi thế trong việc

hạ giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may của nước đó, từ đó
làm cho ngành dệt may phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, ngày nay không quốc gia nào chọn hình thức khép kín, phát triển tất cả
các công đoạn của ngành đệt may cũng như các ngành có mối quan hệ mật thiết, có ảnh
hưởng quan trọng đến phát triển ngành đệt may. Trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế hiện

nay, dưới tác động của cách mạng khoa học cơng nghệ, hàng hóa và dịch vụ của mỗi nước

có cơ hội mạnh mẽ để phát triển trên thị trường tiêu thụ quốc tế, điều đó làm kích thích
tính chun mơn hóa trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Xu thế chung hiện nay là các
nước phát triển tập trung vào việc sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm dệt may có hàm lượng

kỹ thuật cao, các mặt hàng cao cấp với mẫu mã, thời trang mới và các sản phẩm phục vụ
cho công nghiệp dệt may trong các ngành hóa chất, chế tạo máy móc, thiết bị với cơng
nghệ hiện đại. Cịn các nước đang phát triển tập trung sản xuất, xuất khâu các sản phẩm

dệt may giá rẻ, cần nhiều nhân công. Các quốc gia đều chú trọng đến việc xuất khâu các
sản phâm ở các công đoạn của ngành đệt may mà mình có lợi thé tuyệt đối và tương đối


trên thị trường quốc tế.

Thứ ba: Sản phẩm dệt may có tính nhạy cảm cao trong thương mại quốc tế.
Các sản phâm dệt may lâu nay thường được các nước trên thế giới bảo hộ chặt chẽ

bằng những chính sách, thê chế đặc biệt. Việc bảo hộ đối với sản phẩm dệt may không chỉ
xuất hiện ở những nước đang phát triển tham gia xuất khẩu hàng dệt may, thường muốn
bảo hộ sản xuất trong nước, mà các nước phát triển-đóng vai trị là các nước nhập khẩu

lớn, cũng đặt ra nhiều rào cản đề hạn chế việc gia tăng nhập khẩu sản phẩm dệt may từ các
nước đang phát triển. Cùng với hàng rào thuế quan, từng nước còn đề ra những điều kiện
riêng về kỹ thuật, môi trường, lao động... đối với hàng dệt may nhập khâu. Những rào cản
đó đã gây nên những căng thăng trong thương mại quốc tế và ảnh hưởng lớn đến đến việc

sản xuất và buôn bán hàng đệt may trên thế giới. Thực chất của việc đặt ra các rào cản
chính là do các nước phát triển muốn khống chế và chỉ phối các nước đang phát triển
thông qua việc hạn chế lợi thế so sánh của các nước này.
Hiệp định đa sợi (MEA) được thỏa thuận giữa hơn 40 nước thành vién cua GATT
có hiệu lực chung từ năm 1974 quy định, các nước nhập khẩu có thể đơn phương thiết lập
hạn ngạch nhập khẩu hàng đệt may đối với từng nước xuất khâu nếu hai bên không đạt
được thỏa thuận song phương. Trong nhiều trường hợp, các nước phát triển đã sử dụng
triệt để các quy định của MFA để hạn chế số lượng nhập khâu hàng dệt may giá thấp từ
các nước xuất khâu hoặc sử dụng vấn đề hạn ngạch dệt may để tạo các sức ép trong quan
hệ về kinh tế, chính trị với các nước xuất khẩu.
Vòng đàm phán urugoay của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đánh dấu một
mốc quan trọng trong sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới. Hiệp định về hàng dệt

may (ATC) ra đời, thay thế cho Hiệp định đa sợi. Các quy định về sản xuất, buôn bán hàng
dệt may đã thơng thống hơn nhiều và theo quy định của ATC, đến 1/1/2005 các nước là
thành viên của WTO không bị khống chế bởi hạn ngạch khi xuất khẩu hàng đệt may sang
các nước thành viên khác. Tuy nhiên, các hình thức bảo hộ ngành dệt may của các nước


phát triển vẫn tiếp tục diễn ra với nhiều rào cản về kỹ thuật, môi trường... đối với các sản
phẩm dệt may nhập khâu. Thậm chí, ngay trong năm 2005, khi EU, Mỹ cho rằng ngành dệt
may của mình bị đe đọa nghiêm trọng bởi hàng dệt may xuất khẩu giá rẻ của Trung Quốc


thì các nước này đã đề ra các biện pháp hạn chế hàng dệt may xuất khẩu của Trung Quốc,

trong đó có cả biện pháp về áp dụng trở lại chế độ hạn ngạch đối với một số mặt hàng dệt
may của Trung Quốc.

1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hàng dệt may ở Việt Nam
1.1.2.1. Các nhân tổ quốc tế

- Tác động của q trình tồn cầu hóa kinh tế
Bối cảnh chính trị quốc tế hiện nay đang có xu thế chung là hướng tới hợp tác và
liên kết giữa các quốc gia, các khu vực nhằm phát triển kinh tế. Tồn cầu hóa kinh tế hiện
nay là một xu thế chủ đạo và khách quan của kinh tế thế giới. Tồn cầu hóa có ảnh hưởng
đến nền kinh tế mỗi nước với phạm vi, mức độ khác nhau và góp phần làm sâu sắc thêm
q trình phân công và hợp tác quốc tế trên cơ sở đan xen về lợi ích giữa các quốc gia.
Cơng nghiệp đệt may là ngành chịu ảnh hưởng nhiều của sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trên phạm vi quốc tế, đặc biệt trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế hiện nay. Sự

phát triển mạnh mẽ về khoa học, kỹ thuật đã làm thay đổi về cơ cầu sản xuất của các nước.
Cơng nghiệp dệt may thường đóng vai trị quan trọng đối với các nước đang trong giai
đoạn công nghiệp hóa. Khi một nước trở thành nước cơng nghiệp phát triển có trình độ

cơng nghệ cao, giá nhân cơng cao thì nước đó thường tập trung đầu tư vào những ngành
cơng nghiệp khác có hàm lượng kỹ thuật cao hơn, tốn ít lao động và mang lại lợi nhuận

cao. Khi đó, cơng nghiệp dệt may lại phát huy vai trị của mình ở các nước khác kém phát


triển hơn. Từ cuối thế kỷ XVIII, ngành dệt may đã phát triển mạnh mẽ ở nước Anh, sau đó
đã có sự chuyển dịch sản xuất hàng dệt may từ nước Anh sang các nước châu âu khác và
khu vực Bắc Mỹ vào giữa thế kỷ XIX. Chuyển dịch sản xuất lần thứ hai của ngành đệt

may thế giới là chuyên dịch từ châu âu sang Nhật Bản vào những năm 40, thế kỷ XX. Sau
đó cơng nghiệp dệt may lại được chuyền dịch từ Nhật Bản sang các nền kinh tế mới ở châu
á như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và vào những năm 80 thế kỷ XX, khi các nền kinh
tế mới ở châu á có sự chuyên dịch cơ cấu sản xuất, tập trung đầu tư cho các ngành có cơng
nghệ và kỹ thuật sản xuất cao như điện tử, ơ tơ thì cơng nghiệp đệt may lại được chuyên
dịch sang các nước kém phát triển hơn như Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia, Maylayxia,
Bangladesh, Việt Nam... Trong tương lai, ngành dệt may sẽ còn tiếp tục dịch chuyển tới


các nước kém phát triển hơn.
Tồn cầu hóa kinh tế có tác động mạnh mẽ đến q trình phân cơng chun mơn
hóa và hợp tác trên phạm vi quốc tế đối với phát triển ngành công nghiệp dệt may. Trong
quá trình tồn cầu hóa kinh tế hiện nay, ngành đệt may Việt Nam có nhiều cơ hội tận dụng

các nguồn tài chính từ bên ngồi dưới nhiều hình thức như vay vốn, kêu gọi đầu tư trực
tiếp, gián tiếp, hợp tác kinh doanh... Việc tranh thủ được nguồn vốn từ bên ngoài là yếu tố
rất quan trọng để ngành dệt may Việt Nam có thể tập trung đầu tư đổi mới trang thiết bị,
mở rộng sản xuất trong điều kiện nguồn vốn tích luỹ từ trong nước cịn nhiều hạn chế.
Dưới con mắt của nhiều nhà đầu tư nước ngoài thì ngành dệt may nước ta hiện nay cịn
nhiều tiềm năng phát triển và có thể mang lại những nguồn lợi lớn hơn ở những quốc gia
khác. Do vậy, thời gian tới dệt may vẫn tiếp tục là lĩnh vực có thể thu hút nhiều nhà đầu tư
nước ngồi. Bên cạnh yếu tố về vốn, ngành dệt may nước ta có điều kiện để tiếp cận trực
tiếp các cơng nghệ, kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý từ các nước có trình độ phát
triển hơn. Đó là những điều kiện thuận lợi mà Việt Nam cần nắm lấy và có chiến lược kết


hợp hợp lý giữa các yếu tố trong nước với các yếu tố ngoài nước để xây dựng ngành dệt
may theo hướng hiện đại, hướng về xuất khâu, phục vụ cho q trình cơng nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước.
- Cạnh tranh hàng dệt may trên thị trường thế giới ngày càng trở nên gay gắt
Toàn cầu hóa kinh tế, một mặt thúc đẩy q trình phân công và hiệp tác quốc tế,
mặt khác làm cho sự cạnh tranh trên thị trường hàng dệt may thế giới ngày càng trở nên

gay gắt và điều đó có tác động trực tiếp đến sự phát triển của ngành đệt may nước ta.
Sản phẩm đệt may là một trong những hàng hóa có mức độ trao đơi lớn giữa các quốc
gia, các khu vực trên thế giới. Nhìn chung, hầu như nước nào, khu vực nào cũng có xuất khâu

và nhập khâu hàng dệt may nhằm đa dạng hóa mặt hàng và để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước. Thị trường buôn bán hang dét may thế giới có nhiều cấp độ sản phẩm. Mặc đù đã
diễn ra nhiều lần chuyển dịch sản xuất giữa các nước, các khu vực trên thế giới, nhưng như
vậy khơng có nghĩa là sản xuất đệt may khơng cịn tồn tại ở các nước phát triển mà ở những
nước này, ngành dệt may đã tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia
tăng cao, nhất là các sản phẩm thời trang hoặc các sản phâm sử dụng chất liệu mới. Các nước


cơng nghiệp phát triển là những nước có thế mạnh ở khâu thiết kế, thường xuyên tung ra thị
trường các mẫu mã thời trang và đi đầu trong ứng dụng khoa học công nghệ đề sản xuất ra các
chất liệu vải có nhiều tính năng, tác dụng mới để phục vụ đời sống con người. Đối với các
nước đang phát triển có giá cả nhân cơng rẻ, nguồn lao động dồi dào là lợi thế so sánh lớn nhất
khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế nói chung, thị trường dệt may thế giới nói
riêng. Hàng dệt may xuất khẩu của các nước đang phát triên chủ yếu phục vụ cho tầng lớp
người tiêu dùng có thu nhập trung bình và thấp. Cùng với q trình tồn cầu hóa kinh tế, ngày
càng có nhiều quốc gia đang phát triển đổi mới công nghệ, sản xuất nhiều loại sản phẩm
dệt may xuất khâu có chất lượng cao tạo ra sự cạnh tranh ngày càng tăng với sản phâm dệt


may ở các nước phát triển.
Tính chất gay gắt trong cạnh tranh hàng dệt may xuất khâu ngày nay chủ yếu là
giữa các nước đang phát triển. Với việc xóa bỏ hạn ngạch hàng dệt may giữa các nước
thành viên của WTO vào ngày 1/1/2005, các chuyên gia kinh tế trên thế giới dự đốn sẽ có
sự gia tăng to lớn về lượng hàng xuất khâu may mặc sang các thị trường nhập khẩu lớn

như Mỹ, EU, Nhật Bản, giá cả hàng dệt may sẽ giảm và nhiều nước xuất khâu hàng đệt
may sẽ khó đứng vững trong cuộc cạnh tranh mang tính chất tồn cầu này. Nhiều nước sẽ
phải đương đầu với sức ép cạnh tranh vô cùng lớn từ những nước có tiềm lực mạnh về

phát triển hàng may mặc xuất khẩu giá rẻ, điển hình là Trung Quốc. Nghiên cứu của Ngân
hàng thế giới dự đoán rằng thị phần của Trung Quốc trong sản xuất hàng may mặc trên thế
giới sẽ tăng lên trên 50% vào năm 2010. Sau Trung Quốc thì ấn Độ, Bănglades, Pakistan
cũng được đánh giá là những nước có khả năng nâng cao vị thế của mình trong thị trường
dệt may thế giới.
Để duy trì và phát triển hàng dệt may xuất khâu, địi hỏi các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam phải nhanh chóng đề ra các chiến lược, chính sách và biện pháp
thích hợp về sản xuất, cơng nghệ, marketing... nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng đệt may nước mình trên thị trường thế giới.

1.1.2.2. Các nhân tố của Việt Nam
- Đối mới kinh tế, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế quốc tế và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tô đầu tiên để phát triển công nghiệp dệt may Việt


Nam theo hướng hiện đại

Đường lối đổi mới kinh tế được Dang ta đề ra và lãnh đạo đất nước thực hiện gần 20
năm qua đã đem lại những kết quả hết sức to lớn. Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương đa
phương hóa, đa đạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc

tế được thực hiện sâu rộng, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nhiều ngành kinh tế,

trong đó có ngành dệt may.
Trong xu thế tồn cầu hóa kinh tế, ngành công nghiệp dệt may ở các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam đều hướng mạnh về xuất khẩu. Thị trường nước ngồi có một vị
trí rất quan trọng trong phát triển ngành dệt may Việt Nam. Do vậy, quan hệ đối ngoại giữa
Việt Nam với các nước, các khu vực trên thế giới có tác động to lớn đến phát triển kinh tế
quốc đân nói chung, ngành đệt may nói riêng. Nếu quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các
nước, các khu vực trên thế giới khơng được mở rộng thì Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn
cả trong việc tìm kiếm thị trường đầu vào (vốn, nguyên liệu, công nghệ) và thị trường đầu ra
- xuất khâu hàng hóa nói chung, hàng đệt may nói riêng. Trong lịch sử ngành cơng nghiệp

dệt may nước ta, đã có thời kỳ hàng đệt may xuất khẩu chủ yếu theo kế hoạch của các nước

thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế (thập kỷ 70, 80 thế kỷ XX). Các doanh nghiệp sản xuất
hàng đệt may không được tiếp cận thị trường thế giới, ngành đệt may khơng có điều kiện
phát triển mạnh mẽ.
Khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ kinh tế đối ngoại thì ngành cơng nghiệp dệt may có nhiều cơ hội tiếp nhận các
nguồn lực từ bên ngoài như vốn, cơng nghệ, trình độ quản lý. Việc kết hợp giữa nguồn nội

lực- đóng vai trị quyết định - với các nguồn ngoại lực, là nhân tố quan trọng để ngành
công nghiệp đệt may phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại, hội nhập với kinh tế quốc

tế. Quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam với các nước được mở rộng tạo điều kiện để
các doanh nghiệp sản xuất hàng đệt may có cơ hội tiếp cận mọi thị trường để tìm kiếm

nguồn cung cấp hợp lý về công nghệ, nguyên liệu, phụ liệu và các yếu tố đầu vào khác
phục vụ cho sản xuất. Đồng thời, các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may có điều kiện tìm
kiếm và mở rộng quan hệ với các đối tác trên thị trường đầu ra, nâng cao khả năng xuất


khẩu, thu ngoại tệ để nhập khẩu trở lại những yếu tô cần thiết phục vụ cho sự phát triển
của bản thân ngành dệt may cũng như nền kinh tế đất nước. Việt Nam hiện nay là thành


viên của ASEAN, APEC và đang trong tiến trình đàm phán để gia nhập WTO trong thời
gian tới, Việt Nam cũng đã ký kết các Hiệp định quan trọng với các đối tác lớn trên thế
giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, tham gia vào diễn đàn á - Âu (ASEM). Việt Nam đang
trở thành đối tác tin cậy với các nước. Đó là những điều kiện quan trọng để mở rộng xuất
khẩu hàng hóa Việt Nam nói chung, hàng dệt may nói riêng tới các nước, các khu vực trên

thế giới.
- Những nhân tố nội sinh đề Việt Nam phát triển hàng dệt may.

+ Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý:
Việt Nam

là một nước có nhiều lợi thế tự nhiên để phát triển nguồn nguyên liệu

cho ngành dệt may. Quỹ đất phù hợp cho cây bông ở nước ta vào khoảng 200 nghìn ha,
diện tích dâu tằm của Việt Nam hiện nay vào khoảng 25.000 ha (đứng thứ hai trên thế giới
- chỉ sau Trung Quốc), nhiều địa phương có truyền thống trồng bơng và trồng dâu ni

tằm. Tuy nhiên, thời gian qua, do đầu tư không đồng bộ nên những lợi thế về tài nguyên đó
chưa được khai thác tốt. Hàng năm, nước ta phải chỉ khoảng 100 triệu USD cho nhập khẩu

nguyên liệu bông và vẫn phải nhập tơ sống từ Trung Quốc để xe tơ và dét lụa với số lượng
lên đến trên 200 tắn/năm. Nghịch lý này còn cho thấy chúng ta chưa thực hiện tốt việc
phân công, hiệp tác giữa các ngành đề phát triển ngành dệt may. Ngành trồng bông, trồng
dâu chưa được chú trọng đầu tư đúng mức về vốn, về công nghệ, đời sống người lao động

trong các ngành này chưa được đảm bảo. Trong những năm qua, việc chủ động trong
nguyên phụ liệu nước ta là chưa cao, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của
ngành dệt may nước ta.

Nước ta cũng có điều kiện thuận lợi về mặt địa lý để phát triển ngành dệt may.
Nằm ở phía đơng bán đảo Đơng Dương, gần trung tâm Đông Nam á, Việt Nam ở trong
khu vực châu á - Thái Bình Dương

là khu vực năng động của thế giới. Với diện tích

330.363 km’ dat liền và phần biển rộng lớn chạy suốt theo chiều dai biên giới 3.260 km đã
tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may trong vận chuyển hàng hóa xuất
khâu bằng đường biển, giúp giảm chỉ phí vận chuyền, tao lợi thế trong cạnh tranh về giá
với sản phẩm dệt may các nước khác.
+ Đội ngũ lao động:


Sự đồi dào về nguồn lao động và mức tiền lương thấp ở các nước đang phát triển
là điều kiện quan trọng để các nước này đi vào phát triển ngành cơng nghiệp dệt may. Việt

Nam là nước có dân số đông và trẻ trong khu vực và trên thế giới. Dân số Việt Nam hiện
nay có trên 80 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động khoảng 45 triệu người.
Trong hơn thập kỷ qua, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta đã có những chuyền biến
tích cực, được minh chứng rõ nét qua sự tăng lên về sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ
chun môn kỹ thuật. Lực lượng lao động đồi dào và được đánh giá là khéo tay, nhanh
nhẹn, thích hợp với những cơng việc tỷ mỷ, đó là lợi thế lớn của Việt Nam trong phát triển
ngành đệt may. Tuy nhiên, dé phát triển ngành công nghiệp dệt may theo hướng hiện đại,
địi hỏi phải có chính sách đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực này một cách hợp lý và có hiệu

quả. Chú trọng đúng mức đến việc tổ chức, giáo dục, đào tạo đưới nhiều hình thức dé nâng

cao trình độ, tay nghề của đội ngũ lao động trong ngành đệt may, kế cả lao động phổ thông
và lao động ở những cơng đoạn địi hỏi khả năng sáng tạo như thiết kế, tạo mẫu; xây dựng
đội ngũ chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý kinh tế.
+ Về công nghệ:
Giống như các ngành sản xuất cơng nghiệp khác, trình độ cơng nghệ có ảnh
hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và tốc độ phát triển của ngành đệt may. Việc chú
trọng đầu tư đổi mới cơng nghệ có ảnh hưởng lớn đến việc tạo ra các sản phẩm có sức
cạnh tranh cao trên thị trường đệt may thế giới. ở tất cả các nước, muốn đây mạnh sự phát

triển ngành công nghiệp dệt may thì nhất thiết phải chú trọng đầu tư, đổi mới công nghệ để
nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động.
Công nghệ của ngành công nghiệp dệt may ở nước ta chủ yếu dựa vào nhập khẩu,
chuyển giao từ nước ngồi. Q trình chuyển giao và du nhập này lại chậm hơn và công
nghệ thấp hơn so với xu hướng chung của thế giới và các nước trong khu vực. Đặc biệt,
công nghệ trong ngành đệt nước ta hiện nay còn rất lạc hậu, thiếu sự đồng bộ và chưa
tương xứng với trang thiết bị của ngành may. Theo một kết quả nghiên cứu có sự hỗ trợ
của các chuyên gia Nhật Bản, do công nghệ dệt nước ta lạc hậu hàng chục năm so với thế
giới, nên khi sử dụng phải dùng nhiều hóa chất độc hai và độ tiêu hao nguyên liệu lớn, chất
lượng lại không đảm bảo...Do vậy để ngành dệt may Việt Nam phát triển vững chắc thì

trong thời gian tới, việc đầu tư cho đổi mới công nghệ là một yêu cầu tất yếu, có tầm quan


trọng hàng đầu.
+ Khả năng về vốn:

So với một số ngành công nghiệp khác như ngành điện, ngành luyện kim, ngành
giấy... thì đầu tư tạo chỗ làm việc trong cơng nghiệp dệt may nhỏ hơn, nên nhiều nước

đang phát triển trên thế giới ưu tiên đầu tư phát triển ngành dệt may của nước mình nhiều

hơn so với đầu tư vào các ngành công nghiệp khác để thu hút lực lượng lao động phô thông
đồi đào. Tuy vậy, để xây dung va phát triển ngành công nghiệp dệt may hiện đại thì lượng vốn
đầu tư cũng khơng phải là nhỏ, đặc biệt là đối với các nước đang trong giai đoạn cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước với cơ sở vật chất còn rất lạc hậu như Việt Nam hiện nay.

Khơng những chỉ có các nước đang phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu mới
chú trọng đến việc đầu tư vốn để nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh hàng dệt may
mà việc đầu tư vốn cho phát triển công nghiệp dệt may cũng là vấn đề được quan tâm ở
nhiều nước đã có ngành công nghiệp dệt may phát triển. Trong năm

1995, Hàn Quốc đã

đầu tư cho ngành đệt 3 tỷ USD, tăng 58,1% so với năm 1994. Để nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm hàng đệt may trên thị trường thế giới, Hiệp hội các nhà may mặc Thổ

Nhĩ Kỳ ước tính phải đầu tư 6 tỷ USD để hiện đại hóa máy móc và đổi mới cơng nghệ
trong giai đoạn 2000-2005 [10, tr. 33].
Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam

hiện nay xác định mục tiêu đến

năm 2010 xuất khẩu hàng dệt may đạt kim ngạch 8 tỷ đến 9 tỷ USD, tỷ lệ giá trị nguyên

phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khâu đạt trên 70% đến năm 2010... Để đạt
được mục tiêu, Chiến lược cũng xác định tổng vốn đầu tư phát triển ngành đệt may Việt
Nam cho giai đoạn 2001-2005 vào khoảng 35.000 tỷ đồng: tổng vốn đầu tư cho giai đoạn

2006-2010 khoảng 30.000 tỷ đồng. Đây là khoản vốn rất lớn trong điều kiện nước ta hiện
nay, đòi hỏi phải huy động từ nhiều nguồn mới có thể đáp ứng được yêu cầu.
- Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với phát triển công nghiệp đệt may

Đề ngành công nghiệp đệt may phát triển cần rất nhiều nhân tố tác động cả từ bên
trong và bên ngoài nền kinh tế. Giao lưu quốc tế mở rộng tác động mạnh mẽ đến nhu cầu
tiêu đùng các sản phẩm đệt may, dẫn đến kích thích sản xuất phát triển. Trình độ phát triển
kinh tế và các lợi thế so sánh của một nước, bao gồm trình độ cơng nghệ, nguồn nhân lực,


khả năng cung ứng nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu là những nhân tố quan trọng chỉ phối vị

trí của công nghiệp dệt may trong nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, vị trí của các ngành
cơng nghiệp nói chung, ngành dệt may nói riêng khơng phải là bất di bất dịch trong nền

kinh tế quốc dân của mỗi nước, mà nó phải phù hợp với điều kiện và chủ trương phát triển
kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn. Một ngành kinh tế có thể từ vị trí mũi nhọn trở
thành một ngành kém phát triển hơn các ngành khác, và ngược lại nếu có những cơ chế,

chính sách hỗ trợ kịp thời, hữu hiệu của nhà nước thì một ngành ở vị trí thứ yếu lại có thể
trở thành một ngành rất quan trọng trong nền kinh tế quốc gia.

Từ khi nước ta thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, ngành dệt may có điều kiện
phát triển mạnh mẽ, phù hợp với định hướng ưu tiên trong chiến lược đầu tư của Nhà nước
đối với sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khâu. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần và việc mở rộng quyền xuất khâu trực tiếp cho các doanh nghiệp đã tao ra môi trường

sản xuất, kinh doanh thuận lợi đối với ngành dệt may, thu hút được nhiều doanh nghiệp
trong và ngồi nước đầu tư vào phát triển cơng nghiệp dệt may và các ngành phụ trợ. Bên
cạnh việc khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đầu tư phát triển sản xuất, thì việc đổi mới, sắp xếp lại tổ chức đối với các doanh
nghiệp dệt may Nhà nước thời gian qua là bước đi quan trọng trong việc xóa bỏ tình trạng
phân tán, manh mún của ngành dệt may. Quyết định số 253/TTg ngày 29/4/1995 của Thủ
tướng Chính phủ thành lập Tổng công ty Dệt May Việt Nam tạo điều kiện tăng cường tính

liên kết, tập trung sức mạnh của các doanh nghiệp dệt may nhà nước trong việc đầu tư, đổi
mới thiết bị, công nghệ, cơ cấu lại sản xuất nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản

phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. Mặt khác, bằng việc củng cô và phát triển
các quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước, các khu vực trên thế giới, Đảng và Nhà nước
đã tạo tiền đề quan trọng để mở rộng thị trường xuất khâu cho hàng dệt may Việt Nam,
gop phan thúc đây ngành dệt may đổi mới và phát triển.
Trong định hướng phát triển kinh tế đất nước hiện nay, công nghiệp dệt may tiếp tục

được Đảng và Nhà nước ta xác định là một trong những ngành trọng điểm trong cơ cấu
ngành công nghiệp và có vai trị quan trọng trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-1010 xác


định định hướng phát triển các ngành, trong đó nêu rõ: "Phá¿ triển nhanh các ngành cơng
nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy
mạnh xuất khẩu, như chế biến nông, lâm, thủy sản, may mặc, da -giày, điện tử, tin học, một

số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng..." [§, tr. 173]. Từ chủ trương đó, Chiến lược phát

triển ngành đệt may Việt Nam đến năm 2010 được xây dựng và Thủ tướng Chính phủ đã
phê duyệt.

1.1.3. Vai trị của xuất khẩu hàng dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta
Hiện nay, ngành dệt may đã trở thành một trong những ngành có tốc độ phát triển
cao, dệt may là ngành xuất khâu chủ lực của Việt Nam với kim ngạch xuất khâu hàng năm


hiện đứng thứ hai (sau dầu thô). Xuất khâu hàng dệt may có vai trị to lớn đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta, thể hiện ở những điểm sau:
- Phát triển xuất khẩu hàng dệt may có tác động trực tiếp đến cơng nghiệp dệt may
Việt Nam
Từ nhiều thập kỷ qua, ngành công nghiệp dệt may ln có một vị trí quan trọng

trong nền kinh tế Việt Nam. Đó là ngành cơng nghiệp tạo nhiều việc làm cho người lao
động và đảm bảo nhu cầu may mặc tối thiểu cho nhân dân. Từ khi Đảng và Nhà nước ta
tiến hành công cuộc cải cách kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh

tế quốc dân, nhưng đã có sự thay đổi sâu sắc và nhanh chóng trong mục tiêu và định
hướng phát triển. Cũng như các nước đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế, ngành dệt may nước ta hiện nay là ngành kinh tế hướng về xuất khẩu, lấy việc
xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường nước ngồi là yếu tố sống cịn. Do vậy, mặc dù sản
phẩm của ngành dệt may vẫn rất cần thiết cho việc phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước
nhưng yếu tố trực tiếp quyết định đến khả năng phát triển ngành cơng nghiệp dệt may
nước ta hiện nay chính là việc đẩy mạnh hoạt động xuất khâu hàng dệt may.
Xuất khẩu hàng dệt may được đây mạnh giúp tạo nhiều công ăn việc làm, cải thiện
đời sống cho người lao động trong ngành dệt may và các ngành phụ trợ. Ngành đệt may ở

nước ta hiện nay là một ngành sử dụng nhiều lao động, phần lớn là lao động phổ thông.


Hiện nay, có khoảng 2 triệu lao động làm việc trong ngành công nghiệp dệt may, chưa kế
lực lượng lao động tham gia trong các lĩnh vực phát triển cây bơng và trồng dâu ni tằm
(ước tính hiện nay khoảng 70.000 người). Theo chiến lược tăng tốc phát triển ngành đệt
may, đến năm 2010 ngành dệt may phải đáp ứng được nhiệm vụ là tạo công ăn việc làm

cho khoảng 4 triệu người (chiếm 5% dân số Việt Nam). Đề đạt được mục tiêu đó thì ngành

dệt may phải thực hiện tốt nhiệm vụ đầu tư phát triển sản xuất hợp lý và đây mạnh hoạt

động xuất khẩu. Khi sản xuất và xuất khẩu hàng đệt may phát triển sẽ giải quyết phần nào
tình trạng thất nghiệp, nâng cao thu nhập cho người lao động, thơng qua đó góp phần làm

ơn định chính trị xã hội và phát triển kinh tế đất nước.
Đây mạnh xuất khâu hàng dệt may giúp các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may
có điều kiện tích lũy vốn để đầu tư mở rộng sản xuất. Thông qua hoạt động xuất khẩu hàng
dệt may, các doanh nghiệp thu được nguồn ngoại tệ để nhập khâu trở lại các yếu tổ đầu
vào phục vụ cho sản xuất hàng dét may mà nước ta còn hạn chế như sợi, vải, hóa chất

nhuộm... Đồng thời, các doanh nghiệp có điều kiện để nhập khâu máy móc, thiết bị, cơng
nghệ phục vụ cho q trình hiện đại hóa ngành dệt may.

- Phát triển xuất khẩu hàng dệt may có tác động liên ngành trong nên kinh tế và
góp phân quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội Việt Nam
Ngành dệt may là một bộ phận quan trọng của nền cơng nghiệp Việt Nam và có
vai trị to lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Khi xuất khâu hàng dệt may được đây mạnh
sẽ tạo điều kiện thúc đây các ngành kinh tế, kỹ thuật khác phát triển như cơng nghiệp hóa

chất, cơ khí, nơng nghiệp. Ngành cơng nghiệp hóa chất là một trong những ngành chủ
yếu cung cấp nguyên, vật liệu cho ngành công nghiệp đệt may. Phần lớn các loại nguyên
liệu chủ yếu của các sản phẩm dệt may như xơ, sợi tổng hợp, các loại hóa chất, thuốc

nhuộm, các loại phụ gia... đều là sản phẩm của cơng nghiệp hóa chất. Do vậy, khi cơng
nghiệp hóa chất phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành đệt may phát triển. Ngược

lại, khi ngành dệt may phát triển sẽ có nhu cầu lớn đối với nguồn nguyên liệu và đó là
một trong những điều kiện để ngành cơng nghiệp hóa chất phát triển, đặc biệt trong xu


thế phải tăng cường tỷ lệ nội địa hóa đối với nguyên phụ liệu hàng dét may dé nang cao
hiệu quả xuất khâu hàng dệt may nước ta hiện nay. Xuất khâu hàng đệt may phát triển

cũng đem lại những cơ hội to lớn cho ngành cơng nghiệp cơ khí, chế tạo để sản xuất ra



×