Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Nguyên tắc đối xử quốc gia và bảo hộ trá hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.18 KB, 77 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH HỐ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

NGUYÊN TẮC ĐỐI XỬ QUỐC GIA VÀ
BẢO HỘ TRÁ HÌNH

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS.LÊ TẤN PHÁT
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ HỒNG THƠ.
KHOÁ: 35 MSSV:1055050266

TP. HỒ CHÍ MINH, [2014]


2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thị Hồng Thơ – sinh viên Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh, Khoa Luật Quốc tế, khóa 35 (2010 – 2014), là tác giả của khóa luận tốt
nghiệp Cử nhân Luật – Chuyên ngành Luật Quốc Tế – Đề tài: “nguyên tắc đối xử
quốc gia và bảo hộ trá hình” được trình bày trong tài liệu này (sau đây gọi là
“khóa luận”).
Tôi xin cam đoan tất cả nội dung trong khóa luận này hoàn toàn được hình thành
và phát triển từ những quan điểm cá nhân của tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
Ths.Lê Tấn Phát – Giảng viên khoa Luật Quốc Tế, Trường Đại học Luật Tp. Hồ
Chí Minh.
Trong khóa luận có trích dẫn, sử dụng một số ý kiến, quan điểm khoa học của
một số tác giả. Sự trích dẫn này được thể hiện cụ thể trong danh mục tài liệu tham


khảo và tuân thủ các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Các số liệu và kết
quả có được trong khóa luận này hoàn toàn là trung thực.

Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Hồng Thơ


3

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT:
TÊN VIẾT TẮT

TÊN ĐẦY ĐỦ

WTO

TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI

ITO

TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

NT

NGUYÊN TẮC ĐỐI XỬ QUỐC GIA

MFN

NGUYÊN TẮC ĐỐI XỬ TỐI HUỆ QUỐC


EU

LIÊN MINH CHÂU ÂU

EC

CỘNG ĐỒNG CHÂU ÂU

GATT

HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN THƯƠNG MẠI


4

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................6
1. Lí do chọn đề tài. ............................................................................................6
2. Mục tiêu nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của khóa luận. ................8
3. Tình hình nghiên cứu: ....................................................................................8
4. Phạm vi nghiên cứu khóa luận. ....................................................................9
5. Phương pháp nghiên cứu khóa luận. .........................................................10
6. Ý nghóa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài .....................................10
7. Cấu trúc đề tài..............................................................................................11
CHƯƠNG I: MỤC ĐÍCH CHỐNG BẢO HỘ - BẢO HỘ TRÁ HÌNH CỦA
NGUYÊN TẮC NT. ................................................................................................12
1.1.

Bảo hộ - bảo hộ trá hình. ...................................................................... 12


1.2.

Nguyên tắc đối xử quốc gia đặt ra để chống bảo hộ - bảo hộ trá hình.16

CHƯƠNG II: BIỆN PHÁP VI PHẠM NGUYÊN TẮC ĐỐI XỬ QUỐC GIAHÀNH VI BẢO HỘ TRÁ HÌNH ĐỐI VỚI SẢN PHẨM TƯƠNG TỰ.............33
2.1.

Vi phạm de facto nguyên tắc NT đối với sản phẩm tương tự. ........... 36

2.1.1.

Sản phẩm tương tự. ......................................................................... 36

2.1.2.

Các hành vi phân biệt đối xử. ........................................................ 43

2.1.2.1.

Hành vi thu một khoản thu hay một khoản thuế vượt mức. . 43

2.1.2.2.

Hành vi đối xử kém thuận lợi làm ảnh hưởng đến việc mua bán,

phân phối, sử dụng sản phẩm tương tự. .................................................. 47
2.2.

Mối tương quan giữa hành vi vi phạm de facto nguyên tắc NT đối với


sản phẩm tương tự và mục đích bảo hộ - bảo hộ trá hình............................ 51


5

CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP VI PHẠM NGUYÊN TẮC ĐỐI XỬ QUỐC GIAHÀNH VI BẢO HỘ TRÁ HÌNH ĐỐI VỚI SẢN PHẨM CẠNH TRANH TRỰC
TIẾP HOẶC CÓ THỂ THAY THẾ. ....................................................................54
3.1.

Vi phạm de facto nguyên tắc NT đối với sản phẩm cạnh tranh trực tiếp

hoặc có thể thay thế. ....................................................................................... 60
3.1.1.

Sản phẩm cạnh tranh trực tiếp hoặc có thể thay thế. ................. 60

3.1.2.

Hành vi phân biệt đối xử. ............................................................... 65

3.2.

Mối tương quan giữa hành vi vi phạm de facto nguyên tăc NT sản phẩm

cạnh tranh trực tiếp hoặc có thể thay thế với mục đích bảo hộ - bảo hộ trá
hình. 69
KẾT LUẬN .............................................................................................................74



6

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, thương mại quốc tế đóng vai trò ngày càng
quan trọng. Hàng loạt các tổ chức đã ra đời để mở rộng hoạt động thương mại quốc
tế, trong đó, tổ chức lớn nhất trong lónh vực này là WTO (World Trade
Organization); Việt Nam cũng là quốc gia chính thức gia nhập WTO trong thời gian
gần đây và cũng đã có những bước tiến mới kể từ khi gia nhập. Thực vậy, WTO - tổ
chức thương mại thế giới đã giúp cho nền kinh tế thế giới được mở của một cách
thông thoáng, hàng hóa được giao lưu một cách thuận lợi, tạo điều kiện để thực
hiện được một phần mục tiêu được nêu trong lời mở đầu của hiệp định GATT1994
là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, tạo công ăn việc làm,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của
thế giới. Cùng với những thành quả đã đạt được của WTO kể từ khi thành lập tới
nay thì vẫn còn một số tồn trong cơ bản trong nền kinh tế thế giới, trong đó nổi lên
nhất có thể nói là việc bảo hộ trá hình. Bảo hộ trá hình diễn ra ngày càng nhiều và
ngày càng tinh vi và khó phát hiện để bảo hộ cho hàng hóa trong nước của mình.
Một trong những đóng góp trong quá trình hoàn thành mục tiêu của WTO là
nguyên tắc của nó. Nguyên tắc của WTO đã và đang hướng dẫn, định hướng cho tất
cả các nước trong WTO theo một hướng đúng đắn và được nêu rõ trong điều III của
GATT1994. Nó đã cho thấy rõ rằng mục tiêu lớn nhất của nguyên tắc này là để tạo
ra sự bình đẳng giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa trong nước, đảm bảo rằng
những hàng hóa đó cũng được hưởng những ưu thế nhất định như hàng hóa trong


7

nước. Qua đó kích thích các nước khác xuất khẩu hàng hóa, làm cho dòng chảy
thương mại quốc tế được thông thoáng hơn. Với vai trò như vậy, nguyên tăùc đối xử

quốc gia đã và đang góp phần triệt tiêu chủ nghóa bảo hộ trá hình- một trong những
rào cản làm hạn chế dòng chảy thương mại quốc tế. Hàng loạt các trường hợp vi
phạm nguyên tắc đối xử quốc gia nhằm bảo hộ cho hàng hóa trong nước diễn ra
trên khắp thế giới và ngày càng khó phát hiện. Các nước đều nhận thấy được rằng
hành vi của mình vi phạm nhưng vẫn vì những lí do nhất định mà vẫn tiếp tục bảo
hộ cho hàng hóa trong nước bằng cách phân biệt đối xử trá hình.. Mặc dù WTO vẫn
đang nỗ lực hướng dẫn các quốc gia thực hiện đúng nguyên tắc nhưng vẫn chưa thể
xóa bỏ được thực trạng ấy. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của nguyên tắc
đối xử quốc gia cũng như những tồn trong của chủ nghóa bảo hộ trá hình. Biết được
rằng nếu còn bảo hộ trá hình thì tổ chức thương mại thế giới vẫn chưa đạt được mục
tiêu hướng tới của mình và thương mại quốc tế vẫn chưa như mong muốn của WTO.
Đồng thời cũng nhận thấy được mối quan hệ giữa nguyên tắc đối xử quốc gia và
bảo hộ trá hình, biết được rằng nếu đảm bảo nguyên tắc đó sẽ dẫn tới giảm thiểu
và tiến tới xóa bỏ bảo hộ trá hình.
Trước thực trạng về bảo hộ trá hình trong thương mại quốc tế, phân tích những
hành vi bảo hộ trá hình và mối liên hệ của nó với nguyên tắc đối xử quốc gia để
tìm ra được những hình thức mà một số nước đang sử dụng là màn che cho hành vi
bảo hộ vi phạm nguyên tắc đối xủa quốc gia của mình. Do tính cấp thiết cần phải
có một cách nhìn cụ thể hơn về nguyên tắc đối xử quốc gia và bảo hộ trá hình. Hi
vọng sẽ góp phần quan trọng vào việc phát hiện hành vi bảo hộ trá hình trên thực
tế và phục vụ cho Việt Nam trong một số vấn đề liên quan đến nguyên tắc đối xử


8

quốc gia. Chúng tôi đã chọn “nguyên tắc đối xử quốc gia và bảo hộ trá hình” là m
đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của khóa luận.
Mục tiêu nghiên cứu: Chúng tôi thực hiện khóa luận này với mong muốn cung
cấp một cách cụ thể và có hệ thống về một vấn đề mà chưa có một bài nghiên cứu

nào nghiên cứu một cách cụ thể, hi vọng sẽ truyền tải một cách cơ bản, khoa học
các vấn đề pháp lý liên quan đến mảng kiến thức trên. Khóa luận sẽ có thể trở
thành tài liệu thiết thực và có ý nghóa để những người nghiên cứu sau này, là tài
liệu tham khảo để phát hiện những hành vi vi phạm trên thực tế, làm rõ điều
nguyên tắc đối xử quốc gia để phục vụ cho Việt Nam trong việc thực hiện nghóa vụ
và khởi kiện sau này (nếu có) về nguyên tắc.
Đối tượng nghiên cứu: mối quan hệ giữa “nguyên tắc đối xử quốc gia” và các
biện pháp “ bảo hộ trá hình”.
3. Tình hình nghiên cứu:
Hiện nay các tranh chấp về vi phạm các quy định của WTO nói chung và các
nguyên tắc thương mại quốc tế nói riêng, đặc biệt là nguyên tắc đối xử quốc gia
vẫn đang được quan tâm, bảo hộ trá hình vẫn đang diễn ra ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới, làm sao để khắc phục hành vi bảo hộ này, làm sao để giảm thiểu các
vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia. Đã có rất nhiều bài báo, tạp chí chỉ đưa ra
được các thông tin khái quát, chung chung về tình hình trên,cũng có rất nhiều bài
nghiên cứu khoa học về tranh chấp thương mại, giải quyết tranh chấp nhưng vẫn
chưa có bài viết, bài nghiên cứu nào để cho ra những nghiên cứu cụ thể về những


9

hành vi vi phạm trên và đưa ra những đặc điểm cụ thể của bảo hộ trá hình để góp
phần vào chống lại hành vi bảo hộ này.
Một số tác phẩm tiêu biểu như: Giáo trình thương mại quốc tế của Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Luật Hà Nội; sách Viện Thông tin Khoa
học xã hội – WTO những nguyên tắc cơ bản – NXB Khoa học xã hội năm 2003;
Sách “Tổ chức thương mại thế giới (WTO)”, của Bộ Ngoại giao, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia (2000) mới chỉ khái quát ở mức chung nhất về nguyên tắc này.
Cũng có một số tác phẩm như Luật tổ chức thương mại thế giới, tóm tắt và bình
luận vụ việc “Luật Tổ chức Thương mại thế giới, Tóm tắt và bình luận án”; của

PGS.TS Mai Hồng Quỳ và TS Lê Thị Ánh Nguyệt, NXB Hồng Đức ;Raj Bhala –
Luật thương mại quốc tế: Những vấn đề lý luận và thực tiễn – NXB Tư pháp; Sách
“Hệ thống thương mại thế giới – Luật và chính sách về các quan hệ kinh tế quốc
tế” của John H. Jackson, Bản dịch của Phạm Viêm Phương, Huỳnh Văn Thanh, Nhà
xuất bản Thanh niên (2001), tuy nhiên chúng tôi sẽ nghiên cứu vấn đề một cách cụ
thể nhất để hiểu rõ bản chất của nguyên tắc đối xử quốc gia trong thương mại hàng
hóa quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu khóa luận.
Với đối tượng nghiên cứu trên,chúng tôi nghiên cứu về những phạm vi sau:
Thứ nhất là khái quát chung về nguyên tắc đối xử quốc gia và bảo hộ trá hình.
Ở phần này, nghiên cứu về những vẫn đề cơ bản nhất, cô đọng nhất để tìm ra mục
đích cũng như mối liên hệ giữa hai đối tượng naøy.


10

Thứ hai, chúng tôi nghiên cứu về thực tế vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia
và chủ nghóa bảo hộ trá hình. Ở phần này, tập trung nghiên và phân tích những
trường hợp cụ thể để thấy những hình thức, cách thức vi phạm chủ yếu và thường
xuyên trên thực tế.
5. Phương pháp nghiên cứu khóa luận.
Trong mỗi chương, khi phạm vi nghiên cứu khác nhau, chúng tôi dùng các
phương pháp khác nhau cho phù hợp.
Ở chương thứ nhất, chủ yếu nghiên cứu trên phương diện lí luận, chúng tôi đã
sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng hợp các tài liệu sẵn có nhằm làm rõ vấn đề.
Sau đó chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích để phân tích những tài liệu đã có,
đưa ra những vẫn đề cụ thể nhất. Với những vẫn đề còn nhiều quan điểm trái chiều,
chúng tôi dùng phương pháp liệt kê, so sánh và rồi tổng hợp lại để đưa ra những
quan điểm riêng của bản thân.
Trong chương thứ hai và thứ ba, để tìm hiểu thực tế cũng như những trường

hợp cụ thể, sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp liệt kê các trường hợp vi
phạm và phân tích các trường hợp vi phạm ấy. Sau đó chúng tôi sử dụng phương
pháp so sánh đề làm rõ vấn đề. So sánh các trường hợp để đưa ra những kết luận
cuối cùng.
6. Ý nghóa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với những phân tích, chúng tôi hi vọng sẽ đưa đến cái nhìn toàn cảnh về
nguyên tắc đối xử quốc gia và bảo hộ trá hình, chúng tôi cũng mong muốn rằng,
trên cơ sở nền tảng lý luận cơ bản, cùng với những trường hợp, hành vi cụ thể được


11

nêu trong khóa luận, liên hệ với thực tế tìm ra được mối liên hệ giữa nguyên tắc đối
xử quốc gia và chủ nghóa bảo hộ trá hình một cách cụ thể nhất.
7. Cấu trúc đề tài.
Ngoài các phần như lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảm và kết luận.
khóa luận được chia làm 3 chương như sau:
Chương I: Nghiên cứu về mục đích chống bảo hộ và bảo hộ trá hình của
nguyên tắc đối xử quốc gia thông qua vụ việc Canada - một số biện pháp ảnh
hưởng đến ngành công nghiệp ô tô, Trung Quốc - các biện pháp ảnh hưởng đến
việc nhập khẩu trang thiết bị, phụ tùng ô tô, xe gắn máy.
Chương II: Nghiên cứu về hành vi vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia với sản
phẩm tương tự, mối quan hệ của hành vi với bảo hộ trá hình. Chúng tôi phân tích vụ
kiện Trung Quốc - các biện pháp ảnh hưởng đến việc nhập khẩu trang thiết bị, phụ
tùng ô tô, xe gắn máy để làm rõ vấn đề về sản phẩm tương tự và khoản thu vượt
mức cũng như hành vi đối xử kém thuận lợi làm ảnh hưởng đến việc mua bán, phân
phối và sử dụng sản phẩm nhập khẩu.
Chương III: Chúng tôi phân tích hành vi vi phạm nguyên tắc NT đối với sản
phẩm cạnh tranh trực tiếp hoặc có thể thay thế mang mục đích bảo hộ trá hình.
Phân tích hai vụ việc về đồ uống có cồn là vụ kiện của Nhật Bản và Hàn Quốc đề

làm rõ vấn đề về sản phẩm tương tự và hành vi không được đánh thuế tương tự,
cùng với nghóa vụ chứng minh mục đích bảo hộ tồn tại trong hành vi của bên đi
kiện.


12

CHƯƠNG I: MỤC ĐÍCH CHỐNG BẢO HỘ - BẢO HỘ TRÁ HÌNH CỦA
NGUYÊN TẮC NT.
1.1.

Bảo hộ - bảo hộ trá hình.

Với những điều kiện địa lý khác nhau, nền kinh tế khác nhau, hàng hóa sản
xuất ra là khác nhau, nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, để đáp ứng nhu
cầu này, thương mại hàng hóa đã ra đời. Ban đầu, buôn bán nội địa phát triển bởi vì
nhiều lý do, ngăn cách địa lý trong khi giao thông chưa phát triển, điều kiện kinh tế
của con người thay đổi, mong muốn được sống trong môi trường đầy đủ tiện nghi
càng cao, giao thông thuận tiện hơn. Việc trao đổi hàng hóa lúc bấy giờ không chỉ
bị giới hạn ở phạm vi trong nước mà đã kéo dài ra quy mô thế giới - thương mại
quốc tế hình thành.
Cùng với sự ra đời của thương mại quốc tế, bảo hộ đã hình thành từ rất lâu
trong lịch sử và có thể nói là trước khi có luật thương mại quốc tế đã xuất hiện bảo
hộ. Bảo hộ là mối đe dọa cho tự do thương mại ở không chỉ các nước có nền kinh tế
phát triển mà còn ở hầu hết tất cả các nước. Khi tự do thương mại càng phát triển,
hàng hóa nhập khẩu ngày càng đa dạng, không chỉ đem lại cho người tiêu dùng cơ
hội chọn lựa được những hàng hóa có chất lượng tốt mà còn cả giá thành sản phẩm
phù hợp. Chính vì điều này đã đem lại bất lợi cho ngành sản xuất trong nước, các
ngành sản xuất trong nước phải lợi dụng chính phủ mình để bảo hộ cho hàng hóa
của ngành - một rào cản thương mại vào cùng lớn được hình thành, làm cản trở

dòng chảy của tự do hóa thương mại.
Thương mại tự do phát triển, và hầu hết trong chúng ta đều nhận thấy lợi ích
của thương mại thế giới. Đứng về phía người tiêu dùng, thương mại quốc tế tạo điều
kiện cho người tiêu dùng được sử dụng những hàng hóa mà mình mong muốn, với


13

chất lượng và giá cả phù hợp. Đứng về phía nhà sản xuất ở khía cạnh vó mô, cạnh
tranh thúc đẩy sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm,
đồng thời, mức chuyên môn hóa được nâng lên, phân công lao động càng lớn, năng
suất tăng kéo theo đó là lợi nhuận sẽ tăng. Đó là lợi ích của mậu dịch tự do mang
tính vó mô, nhưng về mặt chính sách của nhà nước thì thương mại tự do có mâu
thuẫn mà có thể nói là “trầm trọng”. Mâu thuẫn này là những cạnh tranh giữa hàng
hóa nhập khẩu và hàng hóa nội địa. Đôi lúc làm hạn chế lượng khách hàng sử dụng
hàng hóa nội địa… dẫn đến nhiều mặt trái, có thể đó là sự phá sản của các công ty,
ảnh hưởng đến nhiều mặt trong chính sách phát triển của nhà nước. Vì vậy, chính
phủ của các quốc gia muốn dành sự ưu đãi của mình hơn cho các doanh nghiệp nội
địa để tạo ưu thế hơn cho các doanh nghiệp trong nước của mình.
Theo chúng tôi, bảo hộ trong thương mại quốc tế được hiểu như là “bảo hộ
mậu dịch”. Bảo hộ trong thương mại là thuật ngữ trong kinh tế học quốc tế chỉ
việc áp dụng nâng cao một số tiêu chuẩn thuộc các lónh vực như chất lượng, vệ
sinh, an toàn, lao động, môi trường, xuất xứ, v.v... Hay việc áp đặt thuế xuất nhập
khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu nào đó để bảo vệ ngành sản xuất các
mặt hàng tương tự (hay dịch vụ) trong một quốc gia nào đó.
Ở tầm vó mô bảo hộ làm cản trở hàng hóa được tự do lưu thông. Người sử dụng
bị hạn chế về quyền lựa chọn sử dụng đa dạng mặt hàng với giá cả hợp lý hay điều
kiện sử dụng dễ dàng. Đồng thời, với những doanh nghiệp có lợi thế do bảo hộ đem
lại làm thị trường mất đi tính cạnh tranh tự nhiên, về lâu dài là nên kinh tế sẽ giảm
sút. Nhưng các nước vẫn chọn hình thức bảo hộ cho những mặt hàng của mình, các

nước muốn đem lại lợi thế cho hàng hóa nội địa, người tiêu dùng trong nước sẽ öu


14

tiên dùng hàng nội địa hơn là việc dùng hàng xuất khẩu, như vậy sẽ kích thích sản
xuất trong nước, bảo đảm các chính sách của chính phủ được thực hiện, giảm các
nguy cơ doanh nghiệp phá sản, công nhân thất nghiệp...
Như vậy, về khái quát bảo hộ trong thương mại hàng hóa quốc tế là thuật ngữ
chỉ hành vi của một quốc gia. Bằng các biện pháp cụ thể đa dạng đã bảo vệ ngành
sản xuất các mặt hàng nội địa của mình trước sự cạnh tranh quyết liệt từ các mặt
hàng nhập khẩu. Trong chừng mực nhất định, hành vi bảo hộ này đem lại lợi ích
nhỏ cho quốc gia bảo hộ, nhưng về thực chất, nó đã đi ngược lại với nguyên tắc của
WTO và đem lại tác hại lâu dài. Bảo hộ đã có từ rất lâu và có rất nhiều cách để
bảo hộ như trợ cấp sử dụng hàng nội địa, hạn ngạch nhập khẩu, thủ tục hải quan…
mỗi hành vi bảo hộ mang lại ưu điểm và nhược điểm khác nhau, một số hành vi bảo
hộ được thể hiện một cách công khai, rõ ràng ra bên ngoài, nhưng cũng có những
hành vi bảo hộ mà chỉ khi xem xét kó bản chất mới có thể nhận ra điều này, nó
không được thể hiện một cách công khai ra. Hiện nay đây là cách thức phổ biến mà
các quốc gia thường áp dụng. Trong đó, vi phạm nguyên tắc NT là một trong những
cách thức thường xuyên được các nước áp dụng, và hành vi đó được gọi là hành vi
vi phạm nguyên tắc NT với mục đích bảo hộ trá hình.
“Trá hình” nếu đứng ở mặt từ ngữ trong tiếng Việt với chức năng tính từ, nó
chỉ tính chất gian dối, phản ánh không đúng bản chất của sự vật, hiện tượng. Nếu là
động từ, trá hình là từ chỉ một hành động không thức tế, để che giấu cho một sự thật
sai trái. Theo từ điển tiếng Việt, “trá hình” có nghóa là “là một hình thức giả để che
giấu cho hình thức thật”. Với bảo hộ thương mại, bảo hộ trá hình cũng mang những
ý nghóa tương tự. Chúng tôi cho rằng khi một quốc gia bảo hộ hàng hóa nội địa của



15

mình không hợp với các quy tắc và điều ước quốc tế rồi sau đó lấy hành vi khác để
che đậy cho hành vi trên của mình thì gọi là bảo hộ trá hình. Về hình thức bên
ngoài có thể không thể hiện rõ ra hành vi trái quy tắc đó, nhưng về bản chất và trên
thực tế, hành vi đó là hành vi bảo hộ cho các hàng hóa nội địa.
“Bảo hộ trá hình” là một trong những phương thức của bảo hộ và bảo hộ trá
hình cũng là một trong những hành vi mà luật quốc tế không cho phép. Hành vi bảo
hộ trá hình này có thể vi phạm nguyên tắc MFN, NT, hay hiệp định chống trợ cấp…
tùy vào cách thức thể hiện của hành vi. Các hành vi bảo hộ trá hình thường gặp khi
các bên lợi dụng những quy định của các điều ước quốc tế. Sự quy định chưa rõ
ràng của chúng để dựng nên bức tường bảo hộ như trong rất nhiều vụ việc về hàng
hóa tương tự Nhật Bản - thuế áp dụng trên đồ uống có cồn… Nhưng trong khuôn khổ
của bài khóa luận này, chúng tôi chỉ nhắc tới hành vi bảo hộ trá hình có mối liên hệ
với nguyên tắc NT - một hành vi vi phạm nguyên tắc NT để bảo hộ hàng hóa trong
nước một cách trá hình về hệ quả vẫn đem lại lợi ích, sự bảo hộ cho hàng hóa trong
nước mà các quốc gia bị thiệt hại bởi hành vi bảo hộ này rất khó phát hiện ra. Hành
vi đó sẽ được diễn ra trong thời gian kéo dài, mà về mặt pháp lý nó được xem như
một hành vi hợp pháp, không bị ngăn cản. Theo đó có thể hiểu như đây là một sự
“kì thị ngầm”1.
Hai hình thức thể hiện của hành vi bảo hộ là hình thức trên pháp lý và vi phạm
trên thực tế. Một hành vi vi phạm nguyên tắc NT chắc chắn là hành vi bảo hộ

1

Jonh H. Jackson, “The world Tranding System”. Law anh Policy of International Economic Relations, 1997.
Phạm Việt Phương- Huỳnh Văn Thanh dịch, NXB Thanh Nieân, tr 297.


16


nhưng bảo hộ trá hình thì khác. Chỉ có vi phạm trên thực tế (de facto2) nguyên tắc
NT mới là bảo hộ trá hình.
1.2.

Nguyên tắc đối xử quốc gia đặt ra để chống bảo hộ - bảo hộ trá

hình.
Trong phần 1.1 đã thấy được rằng, tác hại của hành vi bảo hộ nói chung và
bảo hộ trá hình nói riêng, thấy được rằng, bảo hộ trá hình là kẻ thù số một của
thương mại tự do. Mục đích hướng đến của WTO là tạo ra một môi trường thương
mại tự do thì điều cần thiết là chống lại bảo hộ trá hình - kẻ thù của thương mại tự
do, GATT đã xây dựng hàng loại các quy định tác động vào hàng rào thuế và các
biện pháp phi thuế. Nguyên tắc đối xử quốc gia là một trong những biện pháp
chống lại hành vi bảo hộ đó. Nguyên tắc được hiểu là những quy tắc, định hướng tư
tưởng chỉ đạo mà trong tất cả các hoạt động đều phải tuân theo. Hay nói cách khác,
nguyên tắc là những quy tắc mà hướng dẫn các bên khi tham gia trong thương mại
quốc tế phải thực hiện một cách nghiêm túc. Việc thực hiện nguyên tắc này sẽ đảm
bảo rằng dòng chảy thương mại quốc tế được lưu thông tốt hơn. Hệ thống nguyên
tắc của của WTO gồm có các nguyên tắc sau: Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc;
Nguyên tắc đối xử quốc gia; Nguyên tắc cấm áp dụng hạn chế định lượng; Nguyên
tắc chỉ bảo hộ bằng thuế3.

2

Giáo trình Luật thương mại quốc tế phần I, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức - Hội luật
gia Việt Nam,2013, tr133 .
3
PGS.TS Mai Hồng Quỳ -TS- Lê Thị Ánh Nguyệt; Luật tổ chức thương mại thế giới; NXB Hồng Đức - Hội
luật gia Việt Nam; tr 21.



17

Nguyên tắc không phân biệt đối xử4: là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt của
pháp luật thương mại quốc tế hiện đại nói chung và hệ thống thương mại đa phương
GATT/WTO nói riêng. Nguyên tắc này thiết lập nhằm mục đích chống lại sự phân
biệt đối xử giữa các hàng hóa, dịch vụ trong nước với hàng hóa, dịch vụ nước ngoài
với hàng hóa dịch vụ của các nước khác. Như chúng tôi đã phân tích bên trên,
nguyên tắc này gồm có nguyên tắc MFN và nguyên tắc NT. Trong khi nguyên tắc
MFN tạo ra sự bình đẳng giữa hàng hóa của các nước thành viên với nhau thì
nguyên tắc NT lại đòi hỏi sự bình đẳng của hàng hóa trong nước và hàng hóa nhập
khẩu. Như vậy, trong hai nguyên tắc này, NT đặt ra mục đính chống bảo hộ sản
xuất trong nước. Nguyên tắc NT là một nguyên tắc xương sống không thể thay đổi.
Trong một số các tài liệu khác cũng cho thấy rằng, nguyên tắc NT là một trong
những trụ cột trong hệ thống quy tắc của thương mại quốc tế.
Nguyên tắc NT được hiểu là một nguyên tắc mà theo nguyên tắc này, bất kì
một nước thành viên nào cũng phải đối xử với hàng hóa của nước thành viên xuất
khẩu không kém ưu tiên hơn hàng hóa nội địa của mình, qua đó xóa bỏ sự phân biệt
đối xử giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa trong nước. Điều này có nghóa là hàng
hóa nhập khẩu cũng được đối xử công bằng bình đẳng với hàng hóa nội địa, tạo
điều kiện thuận lợi cho các nước xuất khẩu, thúc đẩy dòng chảy của tự do hóa
thương mại. Điều 3 của hiệp định GATT quy định như sau:
1. Các bên ký kết thừa nhận rằng khoản thuế và phí khác, và pháp luật, quy
định và yêu cầu ảnh hưởng đến việc bán hàng, chào bán, mua, vận tải, phân phối

4

Giáo trình Luật thương mại quốc tế phần I, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức - Hội luật
gia Việt Nam,2013, tr100.



18

hoặc sử dụng các sản phẩm và các quy định định lượng trong nước yêu cầu hỗn hợp,
chế biến, sử dụng các sản phẩm với số lượng hoặc tỷ lệ quy định, không nên được áp
dụng cho các sản phẩm nhập khẩu hoặc trong nước để bảo hộ sản xuất trong nước. *
2. Các sản phẩm của lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết hợp đồng nhập khẩu vào
lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết khác không thuộc phạm vi, trực tiếp hay gián tiếp, với
các loại thuế hoặc phí nội bộ khác của bất kỳ loại vượt quá những áp dụng, trực tiếp
hoặc gián tiếp, như sản phẩm nội địa tương tự. Hơn nữa, không có bên giao khoán
nếu không áp dụng thuế hoặc phí nội bộ khác với các sản phẩm nhập khẩu hoặc
trong nước một cách trái với các nguyên tắc quy định trong khoản 1. *
3. Đối với bất kỳ thuế nội bộ hiện trong là không phù hợp với quy định trong
khoản 2, nhưng được cho phép cụ thể theo một thỏa thuận thương mại, có hiệu lực
vào ngày 10 tháng 4 năm 1947, trong đó thuế nhập khẩu các sản phẩm bị đánh thuế
là ràng buộc đối với tăng , các bên ký kết áp đặt thuế sẽ được tự do để trì hoãn việc
áp dụng các quy định trong khoản 2 đến thuế như vậy cho đến khi nó có thể được
phát hành từ các nghóa vụ của Hiệp định thương mại như vậy để cho phép sự gia tăng
thuế đó trong phạm vi cần thiết để bù đắp cho việc loại bỏ các yếu tố bảo vệ của
thuế.
4. Các sản phẩm của lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết hợp đồng nhập khẩu vào
lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết khác sẽ được đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối
xử dành cho hàng xuất xứ quốc gia đối với tất cả các luật, quy định và yêu cầu ảnh
hưởng đến việc bán hàng, chào bán, mua, vận tải, phân phối hoặc sử dụng. Các quy
định của khoản này sẽ không ngăn cản việc áp dụng phí vận chuyển nội bộ khác biệt


19


mà là dựa hoàn toàn vào các hoạt động kinh tế của các phương tiện vận tải và không
phải trên quốc tịch của sản phẩm.
Để ra đời nguyên tắc đối xử quốc gia, nó đã trải qua một quá trình lâu dài.
Cùng với các phân tích về lợi nhuận của tự do hóa thương mại, sự tác động của nó
đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và chứng minh được rằng tự do hóa thương mại đã
đóng góp không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế đó. Hàng loạt các học thuyết ra
đời nhưng đến khi học thuyết kinh điển về tăng trưởng kinh tế mới ra đời người ta
mới cho rằng, tự do thương mại ảnh hưởng đến kinh tế thông qua tăng hiệu quả sử
dụng công nghệ. Tuy vậy, mãi đến khi học thuyết trọng thương ra đời thì người ta
mới phân tích được những lợi ích vi mô cũng như vó mô của tự do hóa thương mại
và học thuyết này cũng đề cập đến sự bảo hộ. Các học thuyết có vai trò to lớn, nó
tác động đến hệ tư tưởng của nhiều quốc gia. Chính vì điều này cho nên hầu hết tất
cả các nước đã đánh giá được tầm quan trọng của sự tự do hóa thương mại và ủng
hộ nó. Nhưng ủng hộ như thế nào và đến mức nào còn tùy thuộc vào chính sách của
các nước. Để chống chủ nghóa bảo hộ, người ta nghó ra nhiều cách thức khác nhau
như khuyến khích vào hệ tư tưởng, tuyên truyền, kí kết, nhượng bộ cho nhau để hai
bên cùng có lợi. Điều cần thiết hơn cả là sự tự giác của các quốc gia. Các quốc gia
đều có chủ quyền, không bên nào có thể xâm phạm. Nhưng một quốc gia không thể
tồn trong một cách độc lập, tách biệt khỏi các quốc gia khác. Thấy được điều này,
những bên sáng lập ra tổ chức thương mại thế giới đã dành ra không ít các quy định
trong các điều ước quốc tế để nói về những cách thức chống bảo hộ.
Cũng như nguyên tắc MFN (đãi ngộ tối huệ quốc - most favoured nation
treatment), nguyên tắc NT (đối xử quốc gia - national treatment) đã được các nước


20

áp dụng từ rất lâu nhưng trước GATT 1947, không một Hiệp ước đa phương nào có
quy định về NT. Sau khi được đưa vào Điều III GATT 1947, NT đã trở thành
nguyên tắc phổ biến trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương.

Theo Điều III của GATT, NT đối với hàng hoá hướng đến đảm bảo sự bình đẳng về
cơ hội cạnh tranh. Ta có thể gặp một nghóa vụ đãi ngộ quốc gia trong nhiều điều
ước, kể cả những thỏa thuận ra đời từ thế kỉ trước. Quy mô của những thỏa thuận
này không giống nhau, có thể mở rộng hay thu hẹp tùy thuộc vào mỗi quốc gia,
nhưng ban đầu nó được áp dụng cho nhiều hoạt động chứ không chỉ trong lónh vực
hàng hóa. Thí dụ như đãi ngộ quốc gia về thủ tục hình sự đối với các công dân của
một quốc gia phạm tội trên một quốc gia khác, hay là vấn đề thành lập doanh
nghiệp, mở chi nhánh, văn phòng đại hiện ở nước ngoài... Nghóa vụ đãi ngộ quốc
gia thường là nguyên nhân làm phát sinh các vụ kiện giữa các quốc gia. Ước muốn
của các nhà làm luật và các quan chức chính quyền trong việc đặt ra các biện pháp
thuế khóa và điều tiết nhằm ưu đãi sản phẩm nội địa dường như rất lớn và những đề
nghị thực hiện điều này vẫn thường xuyên được nêu lên 5. Các cuộc đàm phám diễn
ra thường xuyên, với những nội dung được tăng thêm, sửa đổi, và bỏ bớt để phù hợp
hơn với hoàn cảnh, trình độ phát trên chung của thế giới .Qua hàng loạt các vòng
đàm phán như vòng Kennedy, vòng Tokyo GATT đã dần hoàn thiện. Trong vòng
Uruguay, điều khoản đãi ngộ quốc gia là điều quan trọng nhất được đưa ra thảo
luận. Từ GATT 1947 đến 1994 nhiều điều khoản hơn ra đời để hoàn thiện hệ thống
pháp luật điều chỉnh thương mại quốc tế. Sự thêm bớt, bổ sung thay đổi của điều
ước này, nguyên tắc đối xử quốc gia vẫn là một nguyên tắc xương sống cho nền
5

Jonh H. Jackson, “The world Tranding System”. Law anh Policy of International Economic Relations, 1997.
Phaïm Việt Phương- Huỳnh Văn Thanh dịch, NXB Thanh Niên, tr 294.


21

thương mại tự do và thậm chí nguyên tắc này còn được dần hoàn thiện và phát
triển. Điều này chứng tỏ nguyên tắc NT là một nguyên tắc quan trọng không thể
thiếu trong thương mại quốc tế.Cho dù điều kiện nào đi nữa bảo hộ vẫn còn tồn

trong thì đồng nghóa rằng chống bảo hộ vẫn đang diễn ra. Khi WTO thành lập là
một bước ngoặt quan trọng trong việc mở rộng phạm vi áp dụng của nguyên tắc
NT, một điều khoản liên quan đến đối xử quốc gia đã được ghi nhận chính thức
trong một điều ước đa phương của một tổ chức quốc tế. (Điều XVII Hiệp định
chung về thương mại và dịch vụ-GATS), từ đây, đưa đến cho NT một địa vị mới, là
một quy định thành văn bắt buộc trong hiệp định đa phương, nguyên tắc trụ cột
trong hệ thống các nguyên tắc tổ chức thương mại thế giới.
Như đã biết, GATT ra đời để điều chỉnh dòng chảy thương mại quốc tế, để cho
dòng chảy đó lưu thông từ nước này qua nước khác. Hàng hóa từ một nước này tới
tay người tiêu dùng nước khác thì vấp phải những hàng rào thuế và các biện pháp
phi thuế. Một số hàng rào các biện pháp phi thuế thấy được như hạn ngạch, thủ tục
hải quan... Lợi dụng hàng rào các biện pháp phi thuế này, một số nước đã bảo hộ
một cách trá hình cho hàng hóa của mình. Một số ví dụ cụ thể là hàng rào các biện
pháp phi thuế xuất hiện khi quy định tiêu chuẩn hàng hóa trong hải quan trong vụ
xăng của Hoa Kì, vụ Trung Quốc - một số biện pháp ảnh hưởng đến nhập khẩu phụ
tùng ô tô, xe gắn máy6. Hàng rào các biện pháp phi thuế này sẽ gián tiếp tác động
đến sự mua bán, phân phối và sử dụng sản phẩm, làm ảnh hưởng đến hàng xuất
khẩu nhằm mục đích bảo hộ cho hàng hóa trong nước.

6

Sẽ được phân tích ở những phần sau.


22

Một trong những thành công thực sự của GATT là nó đã tạo ra được một sự
ảnh hưởng quan trong đối với thuế trong suốt khoảng thời gian tồn trong của nó.
Các biện pháp thuế này đã góp phần không nhỏ vào mục đích chống bảo hộ. Tuy
nhiên không chỉ có thuế, có thể nói đến một trong các khoản để giảm thiểu hành vi

bảo hộ trá hình các biện pháp phi thuế được nhắc đến ngay trong khoản 4 Điều III
là một trong các điều khoản tác động vào việc điều chỉnh, phân phối và sử dụng
sản phẩm nhập khẩu. Trong quy định về các loại thuế có hai loại là thuế và thuế
nội địa. Thuế là loại thuế tác động vào hàng hóa trong cửa khẩu, trong việc xuất
nhập khẩu và là nghóa vụ thanh toán “thuế thông thường” đánh vào hàng hóa trong
thời điểm hàng hóa được nhập khẩu vào lãnh thổ thuế của một thành viên nào đó 7.
Thuế nội địa là thuế đánh vào hàng hóa khi đã vào trong lãnh thổ nước nhập khẩu.
Với khoản thuế nội địa này thì cả hàng hóa nhập khẩu và nội địa đều phải chịu.
Khoản thu trong nước là nghóa vụ thanh toán các khoản thu nội địa không xuất hiện
bởi vì việc nhập khẩu hàng hóa trong thời điểm hàng hóa được đưa vào lãnh thổ
thuế của một thành viên khác. Nghóa vụ này được xuất hiện bởi các hành vi giao
dịch nội địa (bởi vì bán lại hàng hóa ở phạm vi trong nước hoặc bởi vì được sử dụng
trong phạm vi nội địa) hành vi này xuất hiện khi hàng hóa đã được nhập khẩu vào
lãnh thổ các thành viên khác8.

7

Báo cáo của Ban hội thẩm trong vụ Canada – một số biện pháp ảnh hưởng đến ngành công nghiệp ô tô,
WT/DS339/R.
8
Báo cáo của Ban hội thẩm vụ Canada-một số biện pháp ảnh hưởng đến ngành công nghiệp ô tô,
WT/DS339/R.


23

Trong vụ Trung Quốc - một số biện pháp tác động đến việc nhập khẩu phụ
tùng xe ô tô và xe gắn máy9. Cụ thể như sau: Trung Quốc cho rằng đây không phải
là khoản thu nội địa được ghi nhận trong Điều III như khiếu nại của nguyên đơn mà
là “thuế thông thường” theo Điều II.1(b) câu đầu tiên của GATT1994 10 và do đó

Trung Quốc không vi phạm các khoản do nguyên đơn đưa ra. Nếu có thì khoản này
được xây dựng với trường hợp ngoại lệ được xây dựng phù hợp với Điều XX của
GATT1994. Hành vi vi phạm Điều III GATT 1994 có bắt buộc phải là một khoản
thuế nội địa hay không? Từ đó xác định Trung Quốc có vi phạm nguyên tắc NT hay
không?
Để xác định đó có phải là thuế nội địa không Ban hội thẩm phải làm rõ các
vấn đề sau: Nghóa vụ thanh toán khoản thu được thực hiện trong lãnh thổ Trung
Quốc sau khi linh kiện nhập khẩu được nhập khẩu vào lãnh thổ hải quan của Trung
Quốc và được lắp ráp thành phương tiện ô tô; Khoản thu được này được áp dụng đối
với doanh nghiệp sản xuất chứ không phải là nhà nhập khẩu nói chung; Khoản thu
được thu căn cứ vào việc linh kiện sẽ được sử dụng như thế nào sau đó; Các linh
kiện nhập khẩu vào cùng một thời điểm cùng một cotainer hoặc chuyến tàu nhưng
cũng có thể bị áp dụng các mức thuế khác nhau phụ thuộc vào linh kiện này được
lắp ráp vào phương tiện gì11? Trong trường hợp này, khoản thu được áp dụng đối
với nhà sản xuất ô tô chứ không phải nhà nhập khẩu nói chung và khoản thu này
không căn cứ vào các linh kiện trong thời điểm linh kiện được nhập khẩu vào lãnh
9

Trung Quốc- một số biện pháp ảnh hưởng đến việc nhập khẩu phụ tùng, trang thiết bị ô tô xe gắn
máyWT/DS340/AB/R tóm tắt vụ việc này được cụ thể trong chương II.
10
Báo cáo của Ban hội thẩm trong vụ Trung Quốc- một số biện pháp ảnh hưởng đến việc nhập khẩu phụ
tùng, trang thiết bị ô tô xe gắn máyWT/DS340/AB/R.
11
Báo cáo của Ban hội thẩm Trung Quốc- một số biện pháp ảnh hưởng đến việc nhập khẩu phụ tùng, trang
thiết bị ô tô xe gắn máyWT/DS340/AB/R.


24


thổ thuế của Trung Quốc mà căn cứ vào linh kiện khác từ các quốc gia khác hoặc
nhà nhập khẩu khác được sử dụng để lắp ráp thành thành phẩm và những linh kiện
giống hệt nhau được nhập khẩu cùng một chuyến tàu cũng có thể bị áp dụng mức
thuế khác nhau tùy thuộc vào linh kiện này được lắp ráp vào bộ phận nào sau đó 12.
Ban hội thẩm đã đưa ra kết luận như sau để làm rõ sự khác biệt giữa Điều II
và Điều III “ nghóa vụ thanh toán các khoản thu trong nước không được thực hiện vì
việc nhập khẩu vào thời điểm mà sản phẩm đó được đưa vào lãnh thổ nước thành
viên nào đó mà bởi vì các yếu tố nội địa (chẳng hạn sản phẩm được bán lại trong
nước hoặc bởi sản phẩm được sử dụng trong nước). Điều này xuất hiện khi một sản
phẩm đó đã được nhập khẩu vào lãnh thổ của một thành viên khác”. Ban hội thẩm
cũng cho rằng: “việc phân biệt giữa thuế thông thường và các khoản thu nội địa có
thể bị xóa nhòa nếu nghóa vụ thành toán thuế thông thường có thể thực hiện căn cứ
vào tình trạng của nó trong thời điểm nhập khẩu và khi sản phẩm đã hoàn thành thủ
tục nhập khẩu trong lãnh thổ thuế trong một nước thành viên thì không thể là đối
tượng của các khoản thuế hoặc là các khoản thu trong nước vượt quá mức được áp
dụng đối với sản phẩm trong nước theo quy định trong Điều II.1.(b).” 13 Và “nghóa
vụ thanh toán các khoản thu không phát sinh trong thời điểm nhập khẩu hàng hóa
thì không thể nào là thuế thông thường theo Điều II:1 mà thay vào đó phải là khoản
thu nội địa theo Điều III.2 GATT1994. Do đó Ban hội thẩm kết luận rằng khoản thu
trên của Trung Quốc tuy được thu trong hải quan nhưng không phải là thuế xuất
nhập khẩu mà là thuế nội địa.
12

Báo cáo của Ban hội thẩm Trung Quốc- một số biện pháp ảnh hưởng đến việc nhập khẩu phụ tùng, trang
thiết bị ô tô xe gắn máyWT/DS340/AB/R.
13
Báo cáo của Ban hội thẩm Trung Quốc- một số biện pháp ảnh hưởng đến việc nhập khẩu phụ tùng, trang
thiết bị ô tô xe gắn máyWT/DS340/AB/R.



25

Chúng tôi cho rằng cách tiếp cận cũng như đánh giá của Ban hội thẩm là hoàn
toàn hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh. Cho nên khi Trung Quốc kháng cáo lên cơ
quan phúc thẩm Cơ quan phúc thẩm vẫn giữ nguyên kết quả của Ban hội thẩm rằng
khoản thu của Trung Quốc áp dụng là khoản thu nội địa theo quy định trong Điều
III.2 GATT1994 câu đầu tiên. Một khoản thuế hay một quy định được xem là có
tính nội địa ngay cả khi nó được áp dụng trong thời điểm hàng hóa trong biên giới
quốc gia nhập khẩu. Nếu như một loại hàng hóa nội địa tương tự hoặc có khả năng
cạnh tranh trực tiếp cũng phải chịu khoản này. Vì vậy việc thu khoản thuế này ở
đâu không quan trọng, mà quan trọng là khoản thuế ấy tác động vào điều gì và
nhằm mục đích gì. “Lưu ý rằng các khoản thuế và khoản thu khi xuất nhập không
thuộc phạm vi Điều chỉnh trong khoản 2, Điều III.2 cũng không nhắm vào các loại
thuế (đánh trên thu nhập của người bán hoặc sản xuất hàng hóa) mà chỉ đánh vào
các loại thuế gián thu”14.
Một trong những vấn đề khái niệm khó lý giải hơn về các quy tắc của GATT
là có liên quan đến việc áp dụng đãi ngộ quốc gia, trong trường hợp một luật lệ hay
sắc thuế của nước đó bề ngoài có vẻ như không kì thị nhưng do nhiều tình huống
trong thị trường hoặc các nước khác đã có tắc dụng nghiêng các cân bất lợi về phía
hàng nhập khẩu. Luật lệ càng chặt chẽ thì vi phạm càng tinh vi. Khi các quan chức
quốc gia càng nắm rõ về các quy tắc GATT thì dường như số lượng “kì thị ngầm”
cũng tăng lên15. Một hành vi được cho là vi phạm NT khi đã thể hiện rõ ràng trong
cả luật và nó được thực thi trong thực tiễn thì gọi là hành vi vi phạm de jure nguyên
14

Giáo trình Luật thương mại quốc tế phần I, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức - Hội luật
gia Việt Nam,2013, tr129.
15
Jonh H. Jackson, “The world Tranding System”. Law anh Policy of International Economic Relations, 1997.
Phạm Việt Phương- Huỳnh Văn Thanh dịch, NXB Thanh Niên, tr 297.



×