Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ theo pháp luật phá sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.36 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------  --------

PHẠM THỊ MINH TÂM

VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA CHỦ NỢ THEO PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH – 2008
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------  --------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA CHỦ NỢ THEO PHÁP
LUẬT
PHÁ SẢN
SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHẠM THỊ MINH
TÂM
MSSV


: 2920173
NIÊN KHÓA : 2004 - 2008
GVHD
: TS. NGUYỄN THÀNH ĐỨC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008

2


MỤC LỤC
----------------  ---------------Trang

LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA CÁC CHỦ NỢ ...................................................................... 5
1.1 Khái quát về chủ nợ ........................................................................................ 5
1.1.1 Khái niệm, bản chất của chủ nợ .................................................................... 5
1.1.2 Phân loại chủ nợ .......................................................................................... 7
1.2 Khái niệm về quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ ........................................ 12
1.2.1 Khái niệm về quyền của chủ nợ.................................................................... 12
1.2.2 Khái niệm về lợi ích của chủ nợ ................................................................... 13
1.3 Các nguyên tắc cơ bản đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong q
trình giải quyết phá sản ở nước ta.......................................................................... 14
1.4 Sự cần thiết của pháp luật phá sản nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
nợ. ........................................................................................................................ 21
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN LIÊN QUAN ĐẾN
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CHỦ NỢ VÀ TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH ĐĨ .................................................................. 24
2.1


Quy định về quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong giai đoạn nộp và thụ lý

đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ............................................................................ 24
2.1.1 Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ............................... 24
2.1.2 Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản .................................................................................... 28
2.1.3 Quyền khiếu nại của các chủ nợ về quyết định không mở thủ tục phá sản ... 32
2.1.4 Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ sau khi có quyết định mở thủ tục phá
sản ........................................................................................................................ 32
2.2

Quy định về quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong giai đoạn phục hồi

doanh nghiệp, hợp tác xã....................................................................................... 41
3


2.2.1

Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ khi tham gia Hội nghị

chủ nợ ................................................................................................................... 42
2.2.2 Quyền của chủ nợ trong quá trình doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện phương
án phục hồi hoạt động kinh doanh......................................................................... 46
2.3 Quy định về quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong giai đoạn thanh lý doanh
nghiệp, hợp tác xã ................................................................................................ 48
2.3.1 Căn cứ để Tòa án ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản ......................... 49
2.3.2 Căn cứ xác định nghĩa vụ về tài sản và phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã bị phá sản.................................................................................................... 51

2.4 Quy định về quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong giai đoạn tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã ................................................................................ 56
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH HỢP PHÁP CỦA CHỦ NỢ ....................................................................... 59
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật phá sản nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ ................................................................... 59
3.2 Định hướng hoàn thiện pháp luật phá sản ...................................................... 60
3.3 Một số giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ nợ của pháp luật phá sản ..................................................... 62
3.3.1 Giai đoạn nộp đơn yêu cầu và ra quyết định mở thủ tục phá sản ................. 63
3.3.2 Giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản .................................................................................................. 68
3.3.3 Giai đoạn thanh lý tài sản ........................................................................... 71
3.3.4 Giai đoạn tuyên bố phá sản......................................................................... 74
KẾT LUẬN CHUNG ......................................................................................... 78

4


LỜI NĨI ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nền kinh tế nước ta đang từng bước phát triển nhanh chóng. Sự thay đổi đó thể
hiện ở sự ra đời và phát triển của nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã. Các doanh nghiệp
của Việt Nam ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình khơng chỉ trong thị trường
nội địa mà cịn phát triển ra các quốc gia khác trên thế giới. Bên cạnh sự ra đời, phát
triển của các doanh nghiệp, hợp tác xã thì cũng có một bộ phận các doanh nghiệp,
hợp tác xã vì những lí do khách quan hoặc chủ quan mà đã lâm vào tình trạng khó
khăn, thất bại, dẫn đến hậu quả là bị phá sản. Đây cũng là hiện tượng hết sức bình
thường trong nền kinh tế thị trường.

Sự đào thải những doanh nghiệp, hợp tác xã làm ăn yếu kém góp phần làm cho
nền kinh tế có một mơi trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy tình hình đầu tư, kinh
doanh phát triển. Mặt khác, nó cũng thể hiện một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị
trường. Đây là nền kinh tế vận hành theo cơ chế tự điều tiết của quá trình sản xuất và
lưu thơng hàng hố. Nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan vốn có
của nó. Đó là các quy luật cung cầu, quy luật giá trị và đặc biệt là quy luật cạnh tranh.
Trong nền kinh tế này, sản xuất sản phẩm nào, sản xuất như thế nào và sản xuất cho
đối tượng nào... đều được quyết định thông qua thị trường. Quy luật cạnh tranh tác
động rất tích cực đến nền kinh tế vĩ mơ. Nó góp phần tăng năng suất, nâng cao chất
lượng sản phẩm, đa dạng hóa các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, hạ giá
thành sản phẩm… Tuy nhiên, cũng chính vì quy luật này mà khiến cho nhiều doanh
nghiệp, hợp tác xã yếu kém, gặp khó khăn sẽ khơng trụ vững trên thương trường. Họ
sẽ bị loại ra khỏi vòng chơi mà nhường chỗ cho các doanh nghiệp, hợp tác xã mới.
Một khi đã tham gia vào nền kinh tế thị trường thì mỗi doanh nghiệp đều phải thừa
nhận hiện tượng phá sản như là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế tự do và đầy
cạnh tranh, thử thách.
Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng đặt ra đó là một doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp, hợp tác xã đó mà nó cịn ảnh hưởng
đặc biệt nghiêm trọng đến các chủ nợ. Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ có
nguy cơ khơng được đảm bảo. Họ có thể trở thành kẻ bị phá sản tiếp theo nếu doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ khơng thanh tốn các khoản nợ cho họ. Hiện tượng phá sản
dây chuyền hồn tồn có thể xảy ra, đặc biệt là trong những ngành mà mối liên hệ
giữa các chủ thể kinh doanh rất chặt chẽ và tỉ lệ rủi ro cao như ngân hàng, bảo hiểm,
bất động sản… Từ đó, nền kinh tế - xã hội của một quốc gia sẽ bị ảnh hưởng là điều
không thể tránh khỏi.
Xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế thị trường địi hỏi phải có một hệ thống
5


các quy định của pháp luật đầy đủ và phù hợp để điều chỉnh những quan hệ xã hội

phát sinh trong lĩnh vực phá sản. Pháp luật phá sản chính là công cụ pháp lý ra đời
nhằm điều chỉnh hiện tượng phá sản, một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế tự do
cạnh tranh. Mục tiêu quan trọng và xuyên suốt nhất của pháp luật phá sản chính là
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Thơng qua mục tiêu này Nhà
nước, trong đó đại diện là Tòa án đã thực hiện nhiệm vụ quản lý kinh tế, đảm bảo trật
tự, kỉ cương xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển…
Thế nhưng, xem xét tình hình thực hiện pháp luật phá sản trong thời gian vừa
qua thì chúng ta có thể thấy rằng pháp luật phá sản chưa thực sự có hiệu quả, vẫn
chưa đảm bảo được quyền và lợi ích của các chủ nợ. Nó vẫn chưa thực sự đi vào đời
sống các chủ thể kinh doanh, mặc dù kể từ khi Luật Phá sản năm 2004 ra đời thay thế
cho Luật Phá sản năm 1993 đã có nhiều quy định đổi mới, tiến bộ hơn.
Trong khi đó, tình hình kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay có nhiều thay đổi
theo những chiều hướng khác nhau, số lượng doanh nghiệp, hợp tác xã được thành
lập ngày càng tăng lên, nền kinh tế phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây,
đặc biệt là khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO vào cuối năm
2006... Sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức WTO là một sự kiện được mong đợi, tuy
nhiên phải nhìn nhận một cách khách quan những thử thách, khó khăn mà các doanh
nghiêp, hợp tác xã của nước ta gặp phải từ khi Việt Nam đã trở thành thành viên của
tổ chức này. Theo ý kiến đánh giá của ông Jan Noether, trưởng đại diện Phịng thương
mại và cơng nghiệp Đức tại Việt Nam thì “vào WTO đồng nghĩa với những vụ phá
sản hàng loạt và thất nghiệp trong giai đoạn đầu”. Quả thật, khi Việt Nam gia nhập
WTO thì cuộc chiến cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở
phạm vi trong nước mà nó đã mở rộng phạm vi ra các nước trên thế giới. Và hiện
tượng phá sản sẽ xảy ra phổ biến hơn trước khi gia nhập WTO đối với các doanh
nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ là điều tất yếu. Nhìn vào tình hình kinh tế nước ta
hiện nay đã và đang gặp rất nhiều khó khăn, giá cả tiêu dùng tăng cao, tốc độ lạm
phát tăng mạnh…thì chúng ta phải thừa nhận rằng nguy cơ phá sản hàng loạt doanh
nghiệp, hợp tác xã là rất lớn. Hiện tại, những thị trường có ảnh hưởng lớn đến nền
kinh tế chung như thị trường chứng khoán, bất động sản hay ngân hàng…đều đang
rơi vào tình trạng đóng băng. Hầu hết các chủ thể kinh doanh đều bị ảnh hưởng bởi

tình hình khó khăn chung.
Xuất phát từ tình hình thực hiện pháp luật phá sản ở nước ta trong những năm
vừa qua chưa thực sự phát huy được hiệu quả trong mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ nợ cũng như địi hỏi khách quan của tình hình kinh tế của nước ta
hiện nay mà tác giả đã lựa chọn đề tài: “Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
6


chủ nợ theo pháp luật phá sản” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp với mong muốn
thơng qua q trình nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích các quy định của pháp luật phá
sản liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ cũng như tình hình
thực hiện các quy định này trên thực tế, để từ đó đề ra một số kiến nghị nhằm tăng
cường hiệu quả bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ trong quan hệ pháp
luật phá sản, đồng thời góp phần bảo vệ doanh nghiệp mắc nợ, đảm bảo trật tự, kỉ
cương xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tác giả hi vọng kết quả của đề tài nghiên cứu sẽ là một công trình có tính đóng
góp đối với việc sửa đổi, bổ sung một số quy định cũng như góp phần làm tăng hiệu
quả của việc thực thi pháp luật phá sản trong thực tế nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi
ích của các chủ nợ. Đây cịn là một tài liệu tham khảo cho các sinh viên luật và những
độc giả quan tâm đến vấn đề này.
2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp này được tiến hành theo phương pháp chung của một
cơng trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học pháp lý. Về phương pháp lý luận, đề
tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa duy
vật biện chứng, về lí luận Nhà nước và pháp luật và quan điểm của Đảng - Nhà nước
về nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về phương pháp nghiên
cứu cụ thể thì đề tài được tiến hành theo các phương pháp phân tích, tổng hợp các quy
định của pháp luật phá sản liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ, đồng
thời kết hợp với phương pháp so sánh, đối chiếu với tình hình thực hiện pháp luật phá
sản thông qua việc thu thập thông tin từ các cơ quan hữu quan, sách, báo, tạp chí, các

trang báo điện tử…Từ đó đánh giá tính hiệu quả, những bất cập cịn tồn tại trong q
trình thực thi pháp luật phá sản liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích của chủ nợ.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nhằm tạo mối liên hệ gắn bó chặt chẽ giữa tên đề tài và nội dung của đề tài
nên phạm vi của khóa luận chỉ tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề lí luận chung
về chủ nợ, những quy định của pháp luật phá sản cũng như tình hình thực hiện các
quy định đó liên quan đến mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ
trong thực tế.
4. Tình hình nghiên cứu
Qua quá trình tìm hiểu, tác giả nhận thấy số lượng đề tài nghiên cứu về vấn đề
phá sản tương đối nhiều, có lẽ do đây là một lĩnh vực còn mới mẻ ở nước ta. Các
cơng trình nghiên cứu ở các cấp độ, phạm vi khác nhau. Đó là chưa kể rất nhiều bài
báo, tham luận của các tác giả khác nhau. Có những cơng trình nghiên cứu tồn bộ

7


phạm vi của pháp luật phá sản và cũng có những cơng trình chỉ nghiên cứu một hoặc
một số nội sung của pháp luật phá sản. Có thể kể ra một số cơng trình nghiên cứu sau:
Luận văn thạc sỹ năm 2000 của tác giả Bùi Xuân Hải với tên đề tài là: “Hoàn thiện
pháp luật phá sản doanh nghiệp”, Kỷ yếu Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Một số
định hướng hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp” năm 2004 của tập thể tác giả,
Đại học Luật TP. HCM...
Còn cụ thể về đề tài mà tác giả đang tiến hành nghiên cứu, theo tìm hiểu thì
trước đây đã có hai cơng trình nghiên cứu về đề tài này. Cơng trình thứ nhất là khóa
luận tốt nghiệp năm 2002 của tác giả Châu Quốc An do Thạc sĩ Bùi Thị Khuyên,
giảng viên trường Đại Học Luật TP.HCM hướng dẫn. Và cơng trình thứ hai đó là luận
văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Thị Đào do Tiến sỹ Nguyễn Thành Đức hướng dẫn
(năm 2006). Điểm mới của cơng trình này so với đề tài thứ nhất là nội dung nghiên
cứu được dựa trên các quy định của Luật phá sản năm 2004 và so với đề tài nghiên

cứu thứ hai là tiếp cận một cách tổng quát hơn theo một trình tự thủ tục thống nhất
của pháp luật phá sản chứ không nghiên cứu riêng lẽ theo từng loại quyền lợi. Đồng
thời, cách tiếp cận cũng gắn với tình hình kinh tế nước ta hiện nay khi mà Việt Nam
đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức WTO và đang phải đối mặt một tình
hình kinh tế hết sức khó khăn.
6. Kết cấu của khóa luận:
Nội dung của đề tài nghiên cứu bao gồm các phần sau:
Lời mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung về quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ.
Chương 2: Quy định của pháp luật phá sản liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ nợ và tình hình thực hiện các quy định đó.
Chương 3: Một số kiến nghị giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật phá sản góp phần
nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ.
Kết luận chung
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

8


CHƯƠNG 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG

VỀ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CHỦ NỢ

Trước khi đi sâu vào quá trình nghiên cứu nội dung cụ thể của đề tài thì trước
hết địi hỏi phải tìm hiểu như thế nào là chủ nợ, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ
là gì, hay sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ bằng pháp
luật cũng như một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật phá sản liên quan đến bảo vệ

quyền lợi của chủ nợ… Chính vì vậy, nội dung chính của chương này là thực hiện
nhiệm vụ giải thích một số thuật ngữ có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ nợ cũng như làm rõ một số vấn đề như đã nêu ở trên, nhằm mục đích hiểu đúng
bản chất của vấn đề cần nghiên cứu, góp phần định hướng đúng nội dung, hướng đi
của đề tài đang được nghiên cứu. Bước đầu cần phải tìm hiểu như thế nào là chủ nợ.
1.1.

KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NỢ

1.1.1 Khái niệm, bản chất của chủ nợ:
Việc hiểu như thế nào là chủ nợ đóng vai trị rất quan trọng trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Bởi lẽ, nó sẽ góp phần xác
định những đối tượng nào là chủ nợ, những đối tượng nào không phải là chủ nợ mà
chỉ là bên cho thuê, cho mượn tài sản hoặc chủ thể khác…Từ đó xác định chính xác
quyền và lợi ích của mỗi chủ thể. Nếu là chủ nợ, họ có quyền địi nợ, quyền có tên
trong danh sách chủ nợ… Cịn các chủ thể khác thì họ khơng có quyền lợi như chủ nợ
mà lại có các quyền và lợi ích khác.
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thơng, khái niệm chủ nợ được hiểu là: “người
cho vay nợ hoặc bán chịu hàng trong quan hệ với con nợ”.1 Như vậy, về bản chất thì
chủ nợ là một trong hai chủ thể của mối quan hệ:
Bên cho vay (Chủ nợ)

Hợp đồng vay

Bên vay (Con nợ)

Như vậy, tư cách pháp lý của chủ nợ có thể được thiết lập trên cơ sở hợp đồng
vay tài sản. Theo Bộ Luật Dân Sự năm 2005, hợp đồng vay tài sản được hiểu là sự
thỏa thuận giữa các bên theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay và khi đến hạn
thanh tốn, bên vay phải hồn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số

lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi khi có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định
(Điều 471). Tài sản ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm một số tiền, một
khối lượng kim khí quý như vàng bạc, hoặc cũng có thể những tài sản thơng thường
như thóc lúa, hàng hóa, hay các quyền tài sản khác… Khi hợp đồng vay được thiết lập
1

Viện ngôn ngữ học (2002), “Từ điển Tiếng Việt phổ thông”, NXB TP. HCM, Tr. 161.

9


thì bên vay trở thành chủ sở hữu đối với tài sản vay kể từ thời điểm nhận được tài sản
vay. Hợp đồng vay có thể là vay có lãi hoặc khơng có lãi tùy theo từng trường hợp cụ
thể.
Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ cịn có thể được xác lập dựa
trên hợp đồng mua bán, khi mà bên bán giao hàng cho bên mua nhưng bên mua vì
một lí do nào đó vẫn chưa thanh tốn tiền hàng thì lúc này bên bán cũng trở thành chủ
nợ đối với số tiền hàng chưa được thanh toán. Mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ
trong hợp đồng mua bán xảy ra phổ biến trong thực tế. Bởi vì, trong hoạt động kinh
doanh thì việc các doanh nghiệp chiếm dụng vốn của nhau trong một thời gian là điều
bình thường. Trong hợp đồng mua bán, bên bán cũng chuyển giao quyền sở hữu đối
với tài sản đã bán cho bên mua. Như vậy, trong trường hợp bên mua chưa trả tiền
hàng cho bên bán thì lúc này cũng làm phát sinh mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ
đối với số tiền hàng mà bên mua chưa thanh toán.
Tuy nhiên, cho dù được thiết lập dựa trên cơ sở hợp đồng mua bán (trường hợp
bên bán bán chịu hàng) hay dựa trên cơ sở hợp đồng vay tài sản thì đều có một điểm
chung đó là bên vay hay bên mua tài sản đều trở thành chủ sở hữu đối với tài sản đã
vay hay đã mua và đồng thời cũng là con nợ đối với bên kia. Chính điểm khác biệt
này mà giúp chúng ta phân biệt hai mối quan hệ này với các mối quan hệ giữa các bên
trong hợp đồng thuê tài sản hay hợp đồng mượn tài sản. Hợp đồng thuê hay mượn tài

sản đều có sự chuyển giao tài sản trong một thời gian nhất định và bên thuê phải trả
cho bên cho thuê một khoản tiền thuê, cịn bên mượn thì khơng phải trả tiền. Mặc dù
đều có sự chuyển giao tài sản giữa các bên nhưng hợp đồng thuê hay mượn tài sản
không làm phát sinh mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ như trong hợp đồng mua bán
hay hợp đồng vay tài sản. Bởi lẽ, trong hợp đồng thuê, mượn tài sản không có sự
chuyển giao quyền sở hữu tài sản như trong hợp đồng mua bán hay hợp đồng vay tài
sản mà chỉ có sự chuyển giao quyền sử dụng tài sản thuê hoặc mượn. Và sau một thời
hạn nhất định thì bên thuê, bên mượn phải trả lại chính tài sản đã thuê hay đã mượn.
Còn trong hợp đồng vay tài sản thì các bên chỉ phải trả lại tài sản cùng loại. Chính
những nét khác biệt này đã giải thích tại sao trong hợp đồng thuê, hợp đồng mượn tài
sản có những nét tương tự như trong hợp đồng vay tài sản (đều có sự chuyển giao tài
sản) nhưng khơng làm phát sinh mối quan hệ chủ nợ và con nợ. Việc phân biệt tư
cách chủ thể giữa các loại hợp đồng với nhau là rất quan trọng. Nó giúp chúng ta hiểu
một cách đúng đắn, rõ ràng về bản chất của chủ nợ, tránh trường hợp nhầm lẫn để rồi
dẫn đến sai lầm là xác định sai tư cách chủ nợ.

10


Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam2 cũng đưa ra khái niệm về chủ nợ, theo đó
chủ nợ được hiểu là “người cho vay (gọi là chủ nợ) cho người khác vay một món nợ
(gọi là con nợ) bằng tiền hay hiện vật. Khi đến kỳ hạn chủ nợ có quyền (gọi là quyền
đòi nợ) bắt buộc người đi vay phải hoàn trả một số tiền hay một tài sản nhất định hoặc
một dịch vụ nhất định…”. Theo khái niệm này thì mối quan hệ của chủ nợ và con nợ
được hiểu là chỉ phát sinh dựa trên hợp đồng vay tài sản (tiền hoặc hiện vật) mà
khơng hình thành trong trường hợp bán chịu hàng của hợp đồng mua bán. Nếu hiểu
theo nghĩa này thì khái niệm chủ nợ vẫn chưa thực sự đầy đủ so với khái niệm mà Từ
điển Tiếng Việt phổ thông đã đưa ra. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể ngầm hiểu rằng
trong khái niệm này đã bao hàm trường hợp bán chịu hàng trong hợp đồng mua bán.
Một điều đáng tiếc là trong Luật phá sản năm 2004 đã không đưa ra khái niệm

như thế nào là chủ nợ mà chỉ giải thích thế nào là chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ khơng
có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần. Thiết nghĩ đây là một thiếu sót của Luật
phá sản, bởi vì việc xác định thế nào là chủ nợ đóng vai trị rất quan trọng, ảnh hưởng
đến quyền lợi của các chủ thể khác nhau.
Tóm lại, tư cách chủ nợ được hình thành trên hai mối quan hệ chủ yếu, đó là
dựa trên hợp đồng vay tài sản hay hợp đồng mua bán tài sản. Một yêu cầu đặt ra đó là
cần có một khái niệm thống nhất như thế nào là chủ nợ ngay trong luật phá sản để
tránh tình trạng khơng thống nhất trong cách xác định tư cách chủ nợ.
1.1.2 Phân loại chủ nợ:
Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thì khơng chỉ có một loại
chủ nợ nhất định mà có rất nhiều loại chủ nợ khác nhau, mỗi chủ nợ có quyền và lợi
ích hợp pháp khác nhau. Vì vậy, địi hỏi phải có sự nghiên cứu về các loại chủ nợ, từ
đó xác định rõ quyền và nghĩa vụ của họ trong thủ tục phá sản như thế nào. Tùy thuộc
vào những tiêu chí khác nhau mà có các loại chủ nợ khác nhau:
- Dựa trên tiêu chí số lượng thì có thể chia chủ nợ thành hai loại chủ nợ là cá
nhân và tập thể (doanh nghiệp, hợp tác xã, tập thể người lao động…).
- Dựa trên tư cách chủ thể thì có thể chia chủ nợ thành các loại sau: Chủ nợ là
người lao động của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, chủ nợ là
Nhà nước và chủ nợ là cá nhân, tổ chức khác.
- Nếu căn cứ vào nguồn gốc hình thành mối quan hệ chủ nợ thì chủ nợ được
chia làm có hai loại, đó là chủ nợ là bên cho vay tài sản và chủ nợ là bên bán chịu
hàng.

2

Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), “Từ điển Bách khoa Việt Nam” (Quyển 1),
Hà Nội, Tr.519.

11



- Cịn nếu dựa vào tính chất của khoản nợ thì có hai loại chủ nợ là chủ nợ kinh
doanh và chủ nợ dân sự.
Như vậy, tùy thuộc vào những cách phân chia khác nhau mà có những loại chủ
nợ khác nhau. Tuy nhiên, cách phân chia chủ nợ phổ biến hiện nay đó là dựa trên tiêu
chí mức độ bảo đảm khoản vay bằng tài sản của con nợ hoặc của người thứ ba. Dựa
trên tiêu chí này, Luật Phá sản năm 2004 đã chia chủ nợ thành ba loại cơ bản. Đó là
chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ khơng có bảo bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần.
Vậy thế nào là chủ nợ không có bảo đảm? Theo Khoản 3 Điều 6 Luật Phá sản
năm 2004 thì chủ nợ khơng có bảo đảm được giải thích là: “Chủ nợ có khoản nợ
khơng được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ
ba”.
Cịn chủ nợ có bảo đảm thì theo Khoản 1 Điều 6 Luật Phá sản được hiểu là
“Chủ nợ có khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc
của người thứ ba”. Như vậy, khái niệm chủ nợ có bảo đảm và khơng có bảo đảm là
hai khái niệm hồn tồn đối lập nhau.
Luật Phá sản cũng giải thích thế nào là chủ nợ có bảo đảm một phần, đó là
“chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc
của người thứ ba mà giá trị bảo đảm ít hơn khoản nợ đó” (Khoản 2 Điều 6).
Việc xác định một chủ nợ thuộc loại chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ khơng có bảo
đảm hay là chủ nợ bảo đảm một phần đóng vai trị hết sức quan trọng trong q trình
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Bởi điều này góp phần quyết định mức độ quyền
lợi khác nhau của những chủ nợ khác nhau.
 Về chủ nợ có bảo đảm:
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam3 thì cụm từ “có bảo đảm” là một thuật ngữ
kinh tế có nghĩa là: “việc bắt buộc khi cho một thể nhân hay pháp nhân được quyền
sử dụng một vật hay một khoản tín dụng. Ví dụ như trường hợp ngân hàng cho vay có
thể nhận của người vay một tài sản thế chấp, cầm cố hoặc một chứng thư làm tin hoặc
có thể nhận sự bảo đảm của người thứ ba (gọi là người bảo lãnh). Nếu người vay nợ
không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết thì ngân hàng có thể quyền sử

dụng các bảo đảm đã nhận của người mắc nợ hoặc người thứ ba...”. Còn theo định
nghĩa đơn giản của Từ điển Tiếng Việt phổ thông thì “bảo đảm” có nghĩa là: “làm cho
chắc chắn thực hiện được hoặc giữ gìn được”.
Như vậy, “bảo đảm” là một thuật ngữ thể hiện biện pháp làm cho bên có nghĩa
vụ phải thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền. Nếu khơng thực hiện được
3

Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tài liệu đã dẫn, Tr. 148.

12


thì bên có quyền được phép xử lý tài sản đảm bảo của bên có nghĩa vụ hoặc của bên
thứ ba.
Mặc dù trong Luật Phá sản năm 2004 đã đưa ra khái niệm về chủ nợ có bảo
đảm nhưng một câu hỏi đặt ra là chủ nợ bao gồm những đối tượng nào. Khi tìm hiểu
trong Luật Phá sản thì khơng thấy có một quy định cụ thể đề cập đến tất cả các loại
chủ nợ có bảo đảm mà câu trả lời cho câu hỏi trên nằm rải rác trong các điều luật khác
nhau của Luật. Cụ thể, chủ nợ có bảo đảm bao gồm các loại sau:
+ Thứ nhất là chủ nợ có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của doanh
nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba (Điều 35).
+ Thứ hai, chủ nợ có bảo đảm bằng tài sản ký quỹ của doanh nghiệp, hợp tác
xã hoặc của người thứ ba.
+ Thứ ba, chủ sở hữu tài sản đã cho doanh nghiệp, hợp tác xã thuê hoặc mượn
trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bị Tịa án áp
dụng thủ tục thanh lý tài sản chuyển nhượng tài sản đó cho người khác (Khoản 3
Điều 40).
Ngồi ra, người được thi hành án dân sự về tài sản mà bản án, quyết định của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật kê biên tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã để đảm
bảo thi hành án cũng được coi như một chủ nợ có bảo đảm (Khoản 1 Điều 57 Luật

Phá sản).
Trong các loại chủ nợ có bảo đảm như đã liệt kê ở trên thì chủ nợ được bảo
đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố là loại chủ nợ có bảo đảm phổ biến nhất. Để hình
thành tư cách pháp lý của chủ nợ có bảo đảm thì giữa chủ nợ và con nợ thiết lập một
hoặc nhiều hợp đồng bảo đảm bên cạnh hợp đồng vay tài sản hay hợp đồng mua bán
tài sản. Tuy nhiên, không phải tất cả các biện pháp bảo đảm (quy định trong Bộ Luật
Dân Sự) đều làm phát sinh quan hệ chủ nợ có bảo đảm và con nợ mà tùy thuộc vào
tính chất của biện pháp bảo đảm mà chỉ có biện pháp thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, ký
quỹ mới làm phát sinh mối quan hệ trên. Các biện pháp bảo đảm khác như ký cược,
đặt cọc hay tín chấp đều khơng làm phát sinh tư cách chủ nợ có bảo đảm trong pháp
luật phá sản.
Cả ba biện pháp thế chấp, cầm cố hay ký quỹ đều là những biện pháp bảo đảm
để bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình. Nghĩa vụ dân sự trong
pháp luật phá sản được hiểu là nghĩa vụ phải thanh toán khoản nợ mà bên vay đã vay.
Theo quy định của Bộ Luật Dân Sự năm 2005, khi đến thời hạn phải thanh toán nợ
theo thỏa thuận nhưng con nợ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chủ nợ thì chủ nợ
có bảo đảm đồng thời cũng là bên nhận cầm cố, thế chấp… có quyền xử lý tài sản thế

13


chấp, cầm cố. Còn đối với trường hợp ký quỹ thì chủ nợ có quyền được ngân hàng
(nơi thực hiện việc ký quỹ) thanh toán, bồi thường thiệt hại do con nợ gây ra (nếu có)
sau khi đã trừ đi chi phí dịch vụ của ngân hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp con nợ
là doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì chủ nợ có bảo đảm khơng
có quyền tự xử lý tài sản bảo đảm mà chỉ được ưu tiên thanh toán số nợ mà doanh
nghiệp, hợp tác xã đã vay bằng chính tài sản đã bảo đảm bằng biện pháp thế chấp,
cầm cố hay ký quỹ nếu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bị mở thủ
tục thanh lý tài sản.
Ngồi các biện pháp trên thì biện pháp bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba

cho doanh nghiệp, hợp tác xã cũng làm phát sinh tư cách chủ nợ có bảo đảm theo
pháp luật phá sản. Đây là quy định hoàn toàn mới của Luật Phá sản năm 2004 so với
Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Trước đây, trong Luật Phá sản doanh nghiệp
năm 1993 chưa quy định chủ nợ có bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba.
Còn đối với các biện pháp bảo đảm khác như đặt cọc, ký cược hay tín chấp đều
khơng làm phát sinh tư cách chủ nợ có bảo đảm. Đối với trường hợp đặt cọc quy định
tại Điều 358 Bộ Luật Dân Sự 2005 thì đây là một biện pháp để đảm bảo việc giao kết
hoặc thực hiện hợp đồng dân sự. Sau khi giao kết hợp đồng dân sự được giao kết hoặc
thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện
nghĩa vụ trả tiền. Như vậy, bản chất của biện pháp đặt cọc không làm phát sinh mối
quan hệ giữa chủ nợ có bảo đảm và con nợ. Bởi vì, khi hợp đồng dân sự được giao kết
hay thực hiện thì việc đặt cọc coi như chấm dứt. Còn đối với biện pháp ký cược được
quy định tại Điều 359 Bộ Luật Dân Sự 2005 cũng không làm phát sinh tư cách của
chủ nợ có bảo đảm. Bởi lẽ đây chỉ là biện pháp đảm bảo việc bên thuê trả lại tài sản
thuê. Mà trong hợp đồng thuê, mượn tài sản như đã phân tích ở phần khái niệm chủ
nợ thì khơng làm phát sinh quan hệ chủ nợ - con nợ. Chính vì vậy, ký cược cũng
khơng phải là biện pháp bảo đảm tạo nên tư cách chủ nợ có bảo đảm. Trường hợp tín
chấp cũng tương tự như biện pháp đặt cọc, ký cược vì đây là quan hệ được xác lập
trên uy tín của tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở để bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình
nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hay một tổ chức tín dụng khác. Điểm mấu
chốt ở đây là tổ chức chính trị - xã hội khi bảo đảm bằng tín chấp khơng có nghĩa vụ
trả nợ thay cho bên vay tiền trong trường hợp bên vay không trả được nợ, việc quyết
định cho vay hay không dựa trên cơ sở tự nguyện sau khi xem xét tình hình kinh tế,
điều kiện trả nợ của bên đề nghị vay. Chính vì vậy, đối với biện pháp bảo đảm bằng
tín chấp thì ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay cũng khơng trở thành chủ nợ có bảo
đảm theo pháp luật phá sản. Và tổ chức chính trị - xã hội bảo lãnh cũng không phải là
bên bảo lãnh cho đối tượng vay trong trường hợp bên vay không trả được nợ.

14



 Về chủ nợ khơng có bảo đảm:
Qua xem xét thì địa vị pháp lý của chủ nợ khơng có đảm bảo hồn tồn đối lập
với chủ nợ có bảo đảm. Họ là chủ nợ mà khoản nợ của họ không được đảm bảo bằng
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
Ngồi ra, họ cịn có thể là người bảo lãnh cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản sau khi đã trả nợ cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó (Khoản 2
Điều 62 Luật Phá sản 2004). Theo quy định tại Điều 361 của Bộ Luật Dân Sự năm
2006 thì sau khi bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, họ
có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi
cam kết bảo lãnh. Như vậy, nếu bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho
bên được bảo lãnh bằng tiền của mình hay bằng chính tài sản đã bảo đảm thì bên bảo
lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh trả lại số tiền hay giá trị tài sản mà họ đã
thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay. Trong trường hợp bên được bảo lãnh là doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì theo quy định của Luật Phá sản bên bảo lãnh
sau khi thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho doanh nghiệp, hợp tác xã đó sẽ trở thành
chủ nợ khơng có bảo đảm và được quyền tham gia Hội nghị chủ nợ như các chủ nợ
khác.
Chủ nợ khơng có bảo đảm cịn có thể là người được thi hành án dân sự về tài sản
theo quy định Khoản 1 Điều 57 Luật Phá sản. Họ có quyền nộp đơn cho Tịa án u
cầu thanh tốn trong khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
 Về chủ nợ có bảo đảm một phần:
Chủ nợ có bảo đảm một phần là một loại chủ nợ có tư cách chủ thể đặc biệt.
Đây là chủ nợ có sự kết hợp của cả hai loại chủ nợ khơng có bảo đảm và có bảo đảm.
Một câu hỏi đặt ra là xác định tư cách của chủ nợ có bảo đảm một phần phải căn cứ
vào thời điểm nào, tại thời điểm các bên xác lập mối quan hệ bảo đảm hay tại thời
điểm Tổ quản lý, thanh lý thực hiện kiểm kê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản.
Thiết nghĩ, việc xác định tư cách chủ nợ có bảo đảm một phần nói riêng hay
các loại chủ nợ khác nói chung đều phải dựa vào thời điểm các bên giao kết với nhau.

Tư cách của chủ nợ có bảo đảm một phần sẽ được xác lập dựa trên ý chí của các bên.
Nếu các bên có thỏa thuận là nghĩa vụ thanh tốn sẽ được đảm bảo một phần bằng tài
sản của bên có nghĩa vụ hoặc của người thứ ba thì lúc đó bên nhận bảo đảm sẽ trở
thành chủ nợ có bảo đảm một phần. Việc xác định như vậy sẽ phù hợp với nguyên tắc
tự nguyện trong giao kết hợp đồng giữa các bên, đảm bảo được sự công bằng cho các
bên, tránh trường hợp mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên. Đồng thời, tạo điều kiện
cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản dễ dàng hơn trong việc xác định chủ nợ đó thuộc loại
15


chủ nợ nào. Còn nếu xác định tư cách chủ nợ khơng có đảm bảo dựa vào thời điểm Tổ
quản lý, thanh lý tài sản xác định giá trị tài sản thì sẽ khơng thể hiện được ý chí của
các bên tại thời điểm xác lập quan hệ. Mặt khác, việc xác định giá trị tài sản đảm bảo
để xác định tư cách chủ nợ là một điều rất khó khăn cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản,
các chủ nợ và các chủ thể khác. Bởi vì, giá trị của tài sản là do tình hình thị trường
quyết định, mà thị trường thì ln ln biến động lên xuống thất thường. Như vậy, sẽ
kéo theo sự thay đổi liên tục quyền lợi cũng như địa vị các chủ nợ, từ có bảo bảo sang
bảo đảm một phần hoặc ngược lại…Việc xác định tư cách chủ nợ như vậy là khơng
hợp lý, khơng những khơng phù hợp với ý chí của các bên tại thời điểm giao kết hợp
đồng mà cịn gây khó khăn rất lớn cho q trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Tìm hiểu Luật Phá sản ngoài định nghĩa như thế nào là chủ nợ có bảo đảm một
phần thì luật vẫn chưa có quy định về cách xác định tư cách chủ nợ có bảo đảm bằng
cách nào, tại thời điểm nào.
Trên đây là toàn bộ phần nghiên cứu về khái niệm, bản chất cũng như phân
loại chủ nợ. Một nội dung không kém phần quan trọng của chương này đó là tìm hiểu
thế nào về quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ. Phần tiếp theo sẽ là phần trình bày
về vấn đề này.
1.2

Khái niệm về quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ:


1.2.1 Khái niệm về quyền của chủ nợ:
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thơng có giải thích thì quyền có nghĩa là “điều
mà pháp luật hoặc xã hội cơng nhận hoặc cho được hưởng, được làm, được địi hỏi.”4
Từ điển Luật học5 cũng có định nghĩa về quyền của chủ thể, theo đó quyền là
những việc mà một người được phép thực hiện mà không bị ai ngăn cản, hạn chế.
Phân loại quyền gồm có:
+ Thứ nhất: Quyền đương nhiên như quyền được sống, quyền được tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc…
+ Thứ hai: Quyền do luật pháp cho phép làm hoặc luật pháp không cấm làm
(gọi là quyền pháp lý).
+ Thứ ba: Quyền do điều lệ của tổ chức chính trị - xã hội, một tổ chức quần
chúng cho phép hội viên được làm.
+ Thứ tư: Quyền do người khác uỷ quyền.
Quyền của chủ thể không phải là quyền vô hạn mà phải trong khuôn khổ của
Hiến pháp và pháp luật. Nếu vượt ra khỏi phạm vi của quy định trong Hiến pháp và
4

5

Viện ngôn ngữ học (2002), Tài liệu đã dẫn, Tr. 743.
“Từ điển Luật học” (1995), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, Tr. 92.

16


pháp luật thì quyền đó khơng được cơng nhận. Nếu muốn được cơng nhận thì quyền
đó phải hợp pháp. Các quyền hợp pháp của công dân được xã hội, Nhà nước tạo điều
kiện thực thi bằng các biện pháp chính trị - xã hội, pháp luật và bảo đảm bằng các chế
tài chính như kỉ luật, dân sự, hình sự, kinh tế.

Quyền ở đây có thể là quyền pháp lý được các quy phạm pháp luật điều chỉnh
hoặc là các quyền khác do các quan hệ xã hội khác điều chỉnh. Xét dưới góc độ pháp
lý thì quyền chủ thể là cách thức xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể được tiến hành
khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Đó là khả năng của chủ thể có thể tự do lựa chọn
việc hành động hoặc không hành động theo một cách thức nhất định. Khả năng này
do Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Trong quan hệ pháp luật, quyền của chủ thể được
pháp luật cho phép hay đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Quyền chủ thể
bao gồm ba thuộc tính như sau:
Thứ nhất là khả năng của chủ thể xử sự theo một cách thức nhất định mà pháp
luật cho phép.
Thứ hai là khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành động cản trở
họ thực hiện quyền và nghĩa vụ hoặc yêu cầu các chủ thể khác tôn trọng các nghĩa vụ
tương ứng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ này.
Thứ ba là khả năng chủ thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo
vệ quyền và lợi ích của mình.
Các thuộc tính trên của quyền chủ thể luôn thống nhất, không tách rời nhau.
Chủ nợ với tư cách là một chủ thể độc lập và đóng vai trị quan trọng trong quan hệ
pháp luật phá sản nên quyền của chủ nợ cũng đảm bảo những thuộc tính trên. Quyền
của chủ nợ cũng được hiểu là khả năng xử sự theo một cách thức nhất định được pháp
luật phá sản nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung cho phép tiến hành và được
đảm bảo bằng quyền lực nhà nước. Cụ thể là các quyền cơ bản sau: Quyền tự định
đoạt các khoản nợ của mình, quyền u cầu con nợ thanh tốn đúng thời hạn, quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, quyền bình đẳng trước pháp luật… Cơ sở pháp lý của các quyền này là toàn bộ
các quy phạm pháp luật mà Nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho chủ nợ thực
hiện các hành vi để đảm bảo quyền lợi của mình.
1.2.2 Khái niệm về lợi ích hợp pháp của chủ nợ:
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thơng thì lợi ích là: “cái có tác dụng tốt đáp ứng
một nhu cầu của con người, điều có lợi cho một tập thể hay một cá nhân…”.
Còn theo Từ điển Triết học thì lợi ích nói lên đặc điểm của cái có ý nghĩa

khách quan, cần thiết cho cá nhân, gia đình, tập thể, giai cấp, dân tộc, xã hội.
17


Theo nghĩa pháp lý thì lợi ích hợp pháp là “những lợi ích vật chất hoặc tinh
thần phù hợp với quy định của pháp luật”.6
Từ những tra cứu trên thì có thể hiểu lợi ích hợp pháp của chủ nợ là những cái
cụ thể mang ý nghĩa vật chất hoặc tinh thần, cịn quyền được hiểu là khả năng mang
tính chất vơ hình. Lợi ích hợp pháp của chủ nợ được phát sinh từ quyền mà pháp luật
quy định. Xét trong quan hệ pháp luật phá sản thì lợi ích hợp pháp của chủ nợ được
hiểu là tất cả những yếu tố phát sinh từ quyền của chủ nợ do pháp luật phá sản quy
định. Hay nói một cách khác, lợi ích hợp pháp của chủ nợ là những yếu tố có lợi đối
với chủ nợ mà pháp luật cho phép họ được hưởng. Đó là giá trị các khoản nợ mà chủ
nợ có thể nhận lại một cách tối đa từ tài sản của chủ thể mắc nợ (nhưng không trái với
quy định của pháp luật).
Việc thực hiện quyền của chủ nợ là để nhằm đảm bảo những lợi ích của họ.
Tuy nhiên, không phải lợi ích nào của chủ nợ cũng được cơng nhận mà chỉ những lợi
ích hợp pháp của chủ nợ được pháp luật quy định, đồng thời cũng không trái với đạo
đức xã hội mới được cơng nhận và bảo vệ. Những lợi ích đó phải là những lợi ích hợp
pháp.
Nói tóm lại, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ là những khả năng, những
điều có lợi cho chủ nợ mà pháp luật cho phép chủ nợ được thực hiện, được hưởng.
Quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ là hai phạm trù pháp lý có mối quan hệ gắn bó
mật thiết với nhau. Một khi quyền của chủ nợ được bảo đảm và thực hiện thì lợi ích
của chủ nợ cũng được bảo đảm. Pháp luật phá sản là một bộ phận của hệ thống pháp
luật Việt Nam. Nó là cơng cụ đòi nợ đặc biệt đảm bảo quyền cũng như lợi ích hợp
pháp của chủ nợ.
1.3

Các nguyên tắc cơ bản đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ


trong quá trình giải quyết phá sản ở nước ta.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì nguyên tắc được hiểu là “những quy định, phép
tắc làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc”.7 Như vậy, nguyên tắc được hiểu như là
một khái niệm chung làm nền tảng cho những vấn đề, nội dung liên quan đến nó. Hệ
nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa có vai trị rất quan trọng trong việc chỉ đạo,
định hướng việc ban hành các văn bản pháp luật cũng như quá trình thực thi pháp luật
trong thực tế. Nó là cơ sở để ban hành và thực hiện nội dung quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong mối quan hệ pháp luật. Đồng thời, hệ ngun tắc cịn có ý nghĩa như
6

Bộ Tư pháp (1996), “Một số chuyên đề về Bộ Luật Dân Sự”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Trang
263.
7
Viện ngôn ngữ học (2002), Tài liệu đã dẫn, Tr. 630.

18


là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá chế độ pháp chế xã hội chủ nghĩa, xác định
tính hợp pháp trong xử sự của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật.
Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật
phá sản bao gồm các quy phạm pháp luật chứa đựng những quy tắc xử sự của các chủ
thể do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Để đảm bảo tốt quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể, đặc biệt chú trọng đến chủ nợ trong quan hệ pháp luật phá sản thì yêu
cầu trước hết là phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật
nói chung. Đồng thời, cũng đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ một số nguyên tắc đặc
thù của pháp luật phá sản.
1.3.1 Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Đây là nguyên tắc mang tính nền tảng nhất của hệ thống pháp luật nước ta.
Mọi ngành luật đều yêu cầu phải thực hiện đúng nguyên tắc này. Bởi pháp luật là
công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội, mà muốn quản lý tốt các quan hệ xã
hội đó thì địi hỏi đầu tiên là phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế. Nguyên tắc này là
một nguyên tắc hiến định. Ngay trong Điều 12 Hiến pháp năm 1992 cũng đã có ghi
nhận: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa”. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống
chính trị - xã hội, trong đó các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, nhân viên
nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để và chính xác. Qua đó cho thấy ngun tắc pháp chế khơng chỉ đặt ra
yêu cầu cho một hay một số chủ thể mà nó áp dụng cho tất cả mọi chủ thể khi tham
gia quan hệ pháp luật.
Việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong pháp luật phá sản có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Nó là cơ sở, nền tảng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ
và các chủ thể khác, đảm bảo cơng bằng, bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ
pháp luật phá sản. Ngồi ra, nó cịn có ý nghĩa là tránh được tình trạng xử lý tùy tiện
của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản. Nguyên tắc
này cũng góp phần đảm bảo trật tự, kỉ cương của xã hội, tăng cường tính hiệu quả của
việc điều chỉnh bằng pháp luật trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi nước ta đã một hệ
thống các quy định của pháp luật phá sản đồng bộ, thống nhất và hợp lý đủ để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi giải quyết thủ tục phá sản, tạo điều kiện thuận
lợi cho các chủ thể có liên quan có thể áp dụng một cách dễ dàng. Nhằm thực hiện tốt
nguyên tắc này trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật phá sản thì địi hỏi phải
đảm bảo các u cầu sau:
19


+ Thứ nhất, pháp luật phải được nghiêm chỉnh chấp hành trong quá trình giải quyết
thủ tục phá sản.

+ Thứ hai, phải xây dựng và củng cố, hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật
của pháp luật phá sản.
+ Thứ ba, phải tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho
các chủ thể có liên quan và nhân dân.
Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng góp phần thực hiện tốt nguyên tắc cơ
bản này. Nếu thực hiện tốt những yêu cầu đó thì tin chắc rằng nguyên tắc pháp chế sẽ
được đảm bảo, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ sẽ được bảo vệ tốt hơn.
Tóm lại, nguyên tắc pháp chế là một nguyên tắc rất quan trọng trong hệ thống
pháp luật nói chung và trong pháp luật phá sản nói riêng. Việc thực hiện tốt ngun
tắc này thì sẽ tạo điều kiện thực hiện tốt các nguyên tắc khác có liên quan, trong đó có
ngun tắc bình đẳng giữa các chủ nợ.
1.3.2 Nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ nợ:
Nguyên tắc bình đẳng là nguyên tắc đã được quy định trong Hiến pháp. Tại
Điều 52 Hiến pháp 1992 có nêu rõ: “Mọi cơng dân đều có quyền bình đẳng trước
pháp luật”.
Như vậy, nguyên tắc bình đẳng là một nguyên tắc chung của pháp luật, theo đó
thừa nhận quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trước pháp luật.
Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong từng ngành luật, đặc biệt các ngành luật tư.
Pháp luật phá sản là một trong những ngành luật đặc thù thuộc lĩnh vực kinh tế, vì thế
nó cũng thể hiện ngun tắc bình đẳng ở những góc độ khác nhau. Trong đó, nguyên
tắc này được thể hiện rõ nét nhất trong mối quan hệ giữa các chủ nợ, đặc biệt là các
chủ nợ cùng loại. Sự bình đẳng giữa các chủ nợ, đặc biệt là các chủ nợ cùng loại thể
hiện ở hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là bình đẳng về quyền và lợi ích hợp pháp và
khía cạnh thứ hai là bình đẳng về nghĩa vụ.
Về quyền và lợi ích hợp pháp: Đối với những chủ nợ cùng loại (có bảo đảm,
khơng bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần) thì đều có các quyền giống nhau, khơng
phân biệt số nợ, quy mơ, tình trạng tài sản, thành phần kinh tế, địa bàn kinh tế…Tùy
theo tư cách chủ thể, địa vị pháp lý của từng loại chủ nợ mà họ các quyền lợi khác
nhau nhưng trong mỗi loại chủ nợ cụ thể đều được quy định bình đẳng với nhau về
quyền và lợi ích. Bên cạnh những quyền và lợi ích riêng biệt mà chỉ những chủ nợ

cùng loại được hưởng giống nhau thì các chủ nợ nói chung đều có một số quyền lợi
giống nhau như quyền được đòi nợ, quyền khiếu nại quyết định của Tịa án, quyền
được thanh tốn nợ…
20


Khơng chỉ bình đẳng với nhau về quyền lợi mà các chủ nợ cùng loại cịn bình
đẳng với nhau về nghĩa vụ. Nếu một chủ nợ có bảo đảm này có nghĩa vụ nào thì các
chủ nợ có bảo đảm khác cũng có nghĩa vụ tương tự. Tuy nhiên, nhìn chung thì các
loại chủ nợ đều có một nghĩa vụ chung, đó là nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp
luật phá sản nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung. Bất kỳ chủ nợ nào vi phạm
pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật mà khơng có sự phân biệt
chủ nợ này và chủ nợ khác.
Sự bình đẳng giữa các chủ nợ phải được hiểu là không phải mọi trường hợp
đều giống nhau mà tùy tư cách chủ thể thì sẽ có những quy định khác biệt, mang tính
linh hoạt. Chẳng hạn như giữa chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ khơng có bảo đảm thì
khơng thể mọi quyền và nghĩa vụ đều giống nhau hồn tồn. Bởi vì, xét về tư cách
chủ thể, địa vị pháp lý của hai chủ thể này vốn dĩ đã khác nhau, chủ nợ có bảo đảm
bao giờ cũng có ưu thế hơn chủ nợ khơng có bảo đảm. Hay trường hợp chủ nợ là
người lao động thì điều kiện kinh tế, xã hội cũng như địa vị pháp lý của họ mang tính
chất đặc biệt, họ vừa là một bộ phận quan trọng của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản vừa là chủ nợ khơng có bảo đảm. Quyền lợi của họ gắn liền với số
phận của doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Chính vì vậy, bên cạnh u cầu đảm bảo
nguyên tắc bình đẳng thì đối với người lao động thì vẫn có những ưu tiên so với các
chủ nợ thơng thường khác. Đó là quy định trong q trình phân chia tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thì người lao động được ưu tiên thanh tốn
trước rồi sau đó mới đến các khoản nợ khơng đảm bảo. Quy định này khơng hề có sự
vi phạm ngun tắc bình đẳng mà nó thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong áp dụng
pháp luật, phù hợp với đời sống thực tế.
Nói tóm lại, nguyên tắc bình đẳng giữa chủ nợ là một nguyên tắc quan trọng,

thể hiện được bản chất của pháp luật phá sản. Phải thực hiện tốt nguyên tắc này thì
quyền và lợi ích của các chủ nợ mới được đảm bảo.
1.3.3 Nguyên tắc cơng khai:
Mục đích của pháp luật phá sản là đảm bảo một cách cơng bằng, bình đẳng
giữa các chủ thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ cũng như các chủ thể
khác trong quan hệ pháp luật phá sản. Để đảm bảo mục đích này thì địi hỏi trong q
trình giải quyết u cầu tun bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, các hoạt động,
trình tự, thủ tục giải quyết đều phải cơng khai, phải đảm bảo cho các chủ thể có liên
quan thực hiện tốt nghĩa vụ của mình cũng như tự bảo vệ quyền lợi ích của mình. Các
chủ thể đó phải được cung cấp thơng tin một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời. Mọi
hành vi cố tình che giấu, lén lút đều bị coi là hành vi vi phạm pháp luật.
Nguyên tắc công khai được thể hiện qua một số nội dung của Luật Phá sản
21


năm 2004 như quy định về thông báo về mở thủ tục phá sản, quy định về niêm yết
công khai danh sách chủ nợ hay quy định về gửi giấy triệu tập Hội nghị chủ nợ cho
những người có quyền hoặc có nghĩa vụ tham gia Hội nghị…Việc quy định các nội
dung phải được công khai nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể, tạo điều kiện
để các chủ thể trong đó có chủ nợ có thể thực hiện quyền của mình (chẳng hạn như
trong trường hợp nếu thấy danh sách chủ nợ khơng hợp lý thì các chủ nợ, doanh
nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản có thể khiếu nại với Tịa án).
Việc thực hiện tốt nguyên tắc này góp phần đảm bảo cho quá trình giải quyết
thủ tục phá sản được khách quan, cơng bằng, tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích của
các chủ thể, đặc biệt là các chủ nợ. Tuy nhiên, để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi
phải mở rộng các quy định về công khai trong nội dung của pháp luật phá sản, cũng
như việc thực hiện nghiêm túc nội dung nguyên tắc này trong thực tiễn. Trong đó,
Tịa án mà cụ thể Thẩm phán giải quyết vụ việc phá sản đóng vai trị hết sức quan
trọng.
1.3.4 Nguyên tắc tập thể

Nguyên tắc tập thể trong pháp luật phá sản là nguyên tắc đặc trưng, thể hiện
những nét tương đồng cũng như nét khác biệt so với nội dung của nguyên tắc này
trong các lĩnh vực pháp luật khác.
Nét tương đồng của nguyên tắc tập thể thể hiện ở chỗ trong quá trình giải
quyết vụ việc phá sản đối với các vấn đề, nội dung cần giải quyết thì các chủ thể có
liên quan có quyền thảo luận, biểu quyết tập thể và quyết định được thông qua dựa
trên đa số chủ thể đồng ý. Điều này được thể hiện thông qua hoạt đông của Hội nghị
chủ nợ, Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng như thông qua tập thể Thẩm phán giải quyết
vụ việc (trong trường hợp việc tiến hành thủ tục phá sản do Tổ thẩm phán phụ trách).
Nét đặc trưng của nguyên tắc này trong pháp luật phá sản thể hiện ở tính chất
đặc biệt của quá trình giải quyết vụ việc phá sản. Đây là một thủ tục thanh toán nợ
đặc biệt, quá trình địi nợ trong thủ tục phá sản là một q trình địi nợ tập thể. Trong
q trình giải quyết thủ tục phá sản, hầu hết các giao dịch liên quan đến thanh toán nợ
riêng lẻ đều bị cấm hoặc bị hạn chế. Việc thanh toán nợ cho các chủ nợ chỉ diễn ra
cùng lúc khi có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng quá sản.
Nguyên tắc tập thể thể hiện rõ nét, đầy đủ nhất ở Hội nghị chủ nợ, đây là một
hình thức đại diện cho tập thể các chủ nợ. Mục đích của sự ra đời của Hội nghị chủ nợ
là nhằm đảm bảo được tính dân chủ, bình đẳng giữa các chủ nợ với nhau trong quá
trình giải quyết vụ việc phá sản. Hội nghị chủ nợ là hình thức thể hiện ý chí của các
chủ nợ, tại đây mỗi thành viên tham gia thực sự quan trọng, góp phần quyết định số
22


phận của doanh nghiệp mắc nợ. Thông qua Hội nghị chủ nợ nguyên tắc tập thể cũng
thể hiện sự bình đẳng giữa các chủ nợ. Thành phần của Hội nghị chủ nợ bao gồm chủ
nợ có đảm bảo, khơng có đảm bảo và chủ nợ có bảo đảm một phần, đại diện người lao
động, người được chủ nợ ủy quyền tham gia Hội nghị chủ nợ…
Tính tập thể cịn thể hiện thông qua hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
Thành phần của tổ chức này bao gồm: một chấp hành viên của cơ quan thi hành án

cùng cấp với Tịa án có thẩm quyền thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản làm tổ
trưởng, một cán bộ của Tịa án nhân dân có thẩm quyền thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản, một đại diện của chủ nợ là tổ chức, cá nhân có số nợ lớn nhất, một đại diện
hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản. Ngồi ra, có thể có đại
diện cơng đồn hoặc đại diện người lao động…(Điều 15 Nghị định 67/2006/NĐ-CP).
Ngoài các cơ quan trên, trong trường hợp vụ việc phá sản được giải quyết
thơng qua Tổ thẩm phán thì ngun tắc tập thể cũng được thể hiện trong các quy định
của pháp luật phá sản. Theo Điều 2 Quyết định của Tịa án nhân dân tối cao số
01/2005/QĐ-TANDTC thì đối với các vấn đề như kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp để xem xét việc khởi tố về hình sự (Khoản 3 Điều 8 Luật Phá sản năm
2004), xác định giá trị của nghĩa vụ không phải là tiền (Điều 38), giải quyết yêu cầu
tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều 43), quy định về đình chỉ hợp đồng đang có hiệu lực
(Điều 45)… sẽ được giải quyết bởi tập thể. Những quyết định được Tổ thẩm phán giải
quyết tập thể và quyết định theo đa số thông thường là những quyết định quan trọng
hoặc về những vấn đề phức tạp. Việc biểu quyết các vấn đề của Tổ thẩm phán thể
hiện rõ nguyên tắc tập thể, nhằm đảm bảo tính hiệu quả, khách quan, đúng đắn trong
q trình giải quyết vụ việc phá sản.
Tóm lại, nguyên tắc tập thể giữ vai trị quan trọng trong q trình giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản. Nguyên tắc này là cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện những
quy định của pháp luật phá sản được tiến hành nghiêm túc, chính xác, bảo vệ tối đa
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể chủ nợ cũng như các chủ thể khác. Tính tập thể
phải được thực hiện xuyên suốt trong q trình giải quyết vụ việc, nếu khơng thì
quyền lợi của các chủ nợ không được đảm bảo, không tạo được bình đẳng dân chủ
giữa các chủ thể.
1.3.5 Nguyên tắc hịa giải:
Theo nghĩa chung nhất thì hịa giải trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản
được hiểu là sự thỏa thuận một cách tự nguyện giữa các chủ thể dưới sự giúp đỡ của
Tòa án nhằm đảm bảo sự thỏa thuận đó phù hợp với pháp luật và ý chí của các bên.
Ngun tắc hịa giải là ngun tắc được ghi nhận trong phần lớn các văn bản tố tụng,
đặc biệt trong lĩnh vực dân sự và kinh tế. Nguyên tắc này thể hiện sự tự định đoạt

23


trong mối quan hệ tố tụng giữa các chủ thể.
Trong pháp luật phá sản, vấn đề hòa giải được đặt ra trong mối quan hệ chủ nợ
và con nợ. Nguyên tắc này xuất phát từ quyền tự do hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các bên, họ có thể thỏa thuận những vấn đề liên quan đến lợi ích hợp pháp của họ
nhưng phải phù hợp với pháp luật.
Mục đích của nguyên tắc này là đạt được sự thống nhất giữa hai bên (chủ nợ
và con nợ) trong việc tìm ra phương án tối ưu nhằm phục hồi sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, từ đó vực dậy doanh nghiệp,
hợp xã đó làm phát sinh lợi nhuận. Và khi doanh nghiệp, hợp tác xã có thể thanh tốn
được những khoản nợ cho các chủ nợ cũng là lúc doanh nghiệp, hợp tác xã đó tránh
được hậu quả bị tuyên bố phá sản. Như vậy, nếu phương án hịa giải thành cơng thì cả
chủ nợ và con nợ đều có lợi, bởi việc phá sản là kết quả mà cả hai bên đều không
mong đợi. Mặt khác, khi phá sản xảy ra sẽ gây ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh
chung và đến các chủ thể có liên quan. Vì vậy, chỉ khi nào khơng cịn sự lựa chọn nào
khác tốt hơn thì mới bắt buộc phải tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Còn
nếu doanh nghiệp, hợp tác xã cịn có khả năng phục hồi được thì hịa giải là phương
thức hữu hiệu nhằm tránh khỏi sự thiệt hại cho các bên. Và Hội nghị chủ nợ là nơi thể
hiện ý chí của các bên, tại đây các chủ nợ và con nợ cùng ngồi lại bàn bạc, thảo luận,
cùng tìm ra phương án có lợi cho các bên nhất. Các bên càng tỏ ra có thiện chí với
mục tiêu chung, có sự quyết tâm, thống nhất chung thì càng có cơ hội vực dậy doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy, mục đích của hịa giải sẽ đạt
được. Tuy nhiên, kết quả hịa giải thành hay khơng tùy thuộc vào ý chí của các bên.
Trong một số trường hợp thì việc quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá
sản sớm cũng nhằm tránh lãng phí thời gian, tiền bạc của các bên, đồng thời thể hiện
quyền tự định đoạt của các chủ nợ.
Ngun tắc hịa giải trong q trình giải quyết tuyên bố phá sản là một nguyên
tắc phù hợp với nguyện vọng của các bên, có ý nghĩa giúp các bên đạt được thỏa

thuận một phương án tối ưu nhất có lợi cho các bên. Việc ghi nhận nguyên tắc này là
một giải pháp để các doanh nghiệp, hợp tác xã tự cứu mình nếu khơng muốn bị tun
bố phá sản, chấm dứt hoạt động. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có ý nghĩa khơng
nhỏ đối với các chủ nợ, bởi họ cũng có lợi nếu phương án phục hồi sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã có hiệu quả. Việc ghi nhận nguyên tắc này trong
quá trình giải quyết vụ việc phá sản là một địi hỏi tất yếu.
Qua phân tích cho thấy điểm chung nhất của các nguyên tắc này là đều hướng
đến mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ nói riêng và các chủ thể khác nói
chung trong quan hệ pháp luật phá sản. Việc thực hiện tốt những nguyên tắc này sẽ
24


đảm bảo được sự bình đẳng, khách quan, hợp lý trong quá trình giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ
1.4 Sự cần thiết của pháp luật phá sản nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ nợ trong nền kinh tế thị trường.
Hiện tượng phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Bởi
vì, đây là một mơi trường cạnh tranh khốc liệt giữa các chủ thể kinh doanh với nhau,
nó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế như quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh, quy luật giá trị v.v. Nó tác động đến sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động
đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các chủ thể, trật tự an toàn xã hội nói chung cũng
như ảnh hưởng cụ thể đến những chủ thể có liên quan. Trong đó, chủ nợ là chủ thể bị
ảnh hưởng lớn nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ sẽ có nguy cơ không được
đảm bảo một khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, một con nợ mà
có quá nhiều chủ nợ trong khi số tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã thường
là rất nhỏ so với số nợ phải thanh tốn…Việc con nợ khơng thanh tốn được số nợ thì
chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đó có thể sẽ lâm vào
tình trạng khó khăn, thậm chí có khả năng bị phá sản theo dây chuyền (như hiệu ứng
quân bài “Domino”). Chính sự tồn tại tất yếu của hiện tượng phá sản đã dẫn đến sự
tồn tại tất yếu của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường.

Pháp luật là công cụ quan trọng nhất giúp nhà nước quản lý xã hội. Một xã hội
sẽ khó mà được ổn định nếu khơng được đảm bảo bằng một hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh. Một quan hệ xã hội mà khơng được pháp luật điều chỉnh thì sẽ không đảm bảo
được quyền lợi của các chủ thể liên quan. Pháp luật phá sản ra đời chính là biện pháp
mà nhà nước can thiệp vào việc đòi nợ của các chủ nợ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ, từ đó góp phần bảo đảm trật tự, an tồn xã hội, lành mạnh hóa mơi
trường kinh doanh của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Thủ tục phá sản chính là cơng cụ pháp lý có khả năng giúp nhà nước đưa ra
được nhiều cơ chế để thực hiện việc thanh tốn nợ một cơng bằng giữa các chủ nợ.
Đây là một thủ tục đòi nợ đặc biệt, bên cạnh con đường khởi kiện con nợ ra Tòa dân
sự, Tòa kinh tế thông qua thủ tục tố tụng dân sự, các biện pháp khác nhiều khi không
thể giải quyết một cách thỏa đáng quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ mà cịn tốn
thời gian, chi phí lại khơng đảm bảo được công bằng giữa các chủ nợ khác.
Như vậy, có thể thấy pháp luật phá sản có vai trò rất quan trọng trong đời sống
kinh tế, xã hội của một quốc gia. Trong đó, mục tiêu đầu tiên và xuyên suốt của pháp
luật phá sản đó là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ. Đây là mục tiêu
quan trọng nhất từ khi pháp luật phá sản ra đời đến nay và cả trong tương lai. Bởi vì,
khi một chủ thể kinh doanh khi bị phá sản thì chủ nợ chính là người bị ảnh hưởng đầu
25


×