Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Tội chống người thi hành công vụ dưới góc độ pháp lý hình sự lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

ĐẶNG THỊ DƢƠNG
MÃ SỐ SINH VIÊN: 0955030010

TỘI CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ DƢỚI GĨC ĐỘ PHÁP LÝ
HÌNH SỰ - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2009 – 2013

Giảng viên hƣớng dẫn: Th.sỹ CAO VĂN HÀO
Giảng viên khoa Luật Hình sự

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình học tập cũng như hồn thành khóa luận, em đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình từ tất cả mọi người. Trước tiên, em xin
được gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Cao Văn hào, thầy đã giúp đỡ em
rất nhiều trong suốt thời gian em thực hiện khóa luận này. Mặc dù thầy
bận rất nhiều công việc nhưng luôn dành thời gian quý báu của mình để
quan tâm và giúp đỡ em, cũng nhờ sự động viên và hướng dẫn tận tình của
thầy đã giúp em thêm động lực và tự tin để hồn thành tốt nhiệm vụ của
mình.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy, cô đang giảng dạy tại
trường Đại học Luật tp. Hồ Chí Minh đã giúp em hồn thành tốt chương
trình học tập tại trường.


Cảm ơn tất cả các thành viên trong lớp Hình sự 34A, chính nhờ được
học tập trong mơi trường đồn kết và u thương của tập thể lớp, mình mới
hoàn thành tốt 4 năm học tại giảng đường đại học với nhiều thành quả và
niềm vui. Cảm ơn sự ủng hộ của các bạn trong quá trình mình thực hiện
khóa luận này.
Kết quả đạt được của khóa luận này, con xin gửi đến Bố, Mẹ và gia
đình. Bố mẹ đã vất vả và lo lắng cho con rất nhiều trong suốt 4 năm con
rời xa gia đình để học tập tại trường. Nhất là trong thời gian con hoàn
thành khóa luận này, Bố mẹ và gia đình đã ln động viên tình thần cho
con, trong cả những lúc con khó khăn nhất.

Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 4
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ 8
1.1 Một số khái niệm liên quan đến tội chống ngƣời thi hành cơng vụ ....................... 8
1.2 Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội chống ngƣời thi hành công vụ. ........... 8
1.2.1 Tội chống ngƣời thi hành công vụ trong pháp luật Hình sự Việt Nam trƣớc năm
1985. ......................................................................................................................... 8
1.2.2 Tội chống ngƣời thi hành công vụ sau khi có Bộ luật Hình sự 1985 đến trƣớc
khi có BLHS 1999 .................................................................................................... 9
1.2.3 Tội chống ngƣời thi hành công vụ từ khi có Bộ luật hình sự 1999 ............... 10
1.3 Ý nghĩa các quy định về tội chống ngƣời thi hành công vụ ................................ 20
CHƢƠNG II. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ TỘI
CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ ................................................................... 14
2.1 Dấu hiệu pháp lý của tội chống ngƣời thi hành công vụ ..................................... 14
2.1.1 Chủ thể của tội chống ngƣời thi hành công vụ .............................................. 14
2.1.2 Khách thể của tội chống ngƣời thi hành công vụ .......................................... 15

2.1.3 Mặt khách quan của tội chống ngƣời thi hành công vụ ................................. 17
2.1.4 Mặt chủ quan của tội chống ngƣời thi hành công vụ..................................... 30
2.2 Dấu hiệu định khung hình phạt của tội chống ngƣời thi hành công vụ. .............. 31
2.2.1 Phạm tội chống ngƣời thi hành cơng vụ khơng có các tình tiết định khung tăng
nặng. ........................................................................................................................ 31
2.2.2 Phạm tội thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 2 Điều 257 Bộ luật Hình sự
1999. ....................................................................................................................... 23
2.3 Phân biệt tội chống ngƣời thi hành công vụ và các tội phạm có tình tiết để chống
ngƣời thi hành cơng vụ hoặc vì lý do cơng vụ của nạn nhân ..................................... 41
2.3.1 Khái lƣợc các tội phạm có dấu hiệu chống ngƣời thi hành cơng vụ trong Bộ luật
Hình sự hiện hành. .................................................................................................. 41


2.3.2 Phân biệt tội chống ngƣời thi hành công vụ và các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm quy định tại chƣơng XII BLHS ................................... 32
2.4 Phân biệt giữa tội chống ngƣời thi hành công vụ với tội ép buộc nhân viên tƣ pháp
làm trái pháp luật Điều 297 BLHS ............................................................................. 35
CHƢƠNG III. MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ CÁC GIẢI
PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH, PHÒNG
CHỐNG TỘI CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ. ........................................... 38
3.1. Thực trạng áp dụng các quy định về tội chống ngƣời thi hành công vụ ............. 38
3.2 Những tồn tại và bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định về tội chống ngƣời
thi hành công vụ. ........................................................................................................ 43
3.2.1 Tồn tại các hạn chế trong việc định tội danh đối với hành vi dùng vũ lực chống
ngƣời thi hành công vụ ở nơi công cộng. ............................................................... 43
3.2.2 Khiếm khuyết trong các quy định về cơ sở pháp lý của tội chống ngƣời thi hành
cơng vụ Điều 257 BLHS ......................................................................................... 47
3.2.3. Có sự không thống nhất trong việc xác định đối tƣợng tác động và hành vi
khách quan của tội chống ngƣời thi hành cơng vụ ................................................. 51
3.2.4 Bình luận về định hƣớng xét xử trong vụ án liên quan đến việc cƣỡng chế thu

hồi đất tại huyện Tiên Lãng, Hải Phòng ................................................................. 53
3.3. Các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cƣờng hiệu quả đấu tranh phòng chống tội
chống ngƣời thi hành công vụ .................................................................................... 56
3.3.1 Kiến nghị và giải pháp liên quan đến lĩnh vực lập pháp của tội chống ngƣời thi
hành công vụ. .......................................................................................................... 56
3.3.2 Các giải pháp nhằm nâng cao cơng tác tun truyền, phịng chống tội chống
ngƣời thi hành công vụ trong thực tế. ..................................................................... 70
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 3


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong những năm gần đây, các hành vi chống lại ngƣời thi hành công vụ (mà phổ
biến là cảnh sát giao thông, nhân viên thuế vụ, kiểm lâm,…) có chiều hƣớng ngày càng
gia tăng cả về cƣờng độ lẫn mức độ. Các hành vi này thực tế đang xâm phạm đến các
điều kiện cần của việc đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, trực tiếp gây ảnh hƣởng đến hoạt
động bình thƣờng và hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nƣớc. Việc phòng ngừa và đấu
tranh với các hành vi chống ngƣời thi hành công vụ trong giai đoạn hiện nay đang là một
trong những vấn đề cấp bách của toàn xã hội. Mặc dù về mặt lập pháp, song song với
việc áp dụng các biện pháp chế tài hành chính, Nhà nƣớc ta cũng đã dự liệu các biện pháp
hình sự để đấu tranh với loại hành vi này, tuy nhiên kết quả thực tế vẫn còn hết sức
khiêm tốn.
Thực vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 (sau đây viết tắt là BLHS 1999) đã dành toàn bộ
chƣơng XX của mình để quy định các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Trong đó
tội chống ngƣời thi hành công vụ đƣợc quy định trong điều đầu tiên của chƣơng này –
Điều 257. Những quy định của BLHS 1999 ban hành đã phần nào đáp ứng đƣợc những
đòi hỏi của thực tiễn phòng, chống tội chống ngƣời thi hành công vụ. Tuy nhiên, thực
tiễn áp dụng cho thấy các quy định về tội chống ngƣời thi hành công vụ trong BLHS
1999, bên cạnh những ƣu điểm đã bộc lộ một số điểm chƣa bao quát đƣợc các vấn đề

phát sinh trên thực tế.
Quy định về tội chống ngƣời thi hành cơng vụ trong BLHS 1999 có nhiều tiến bộ hơn
so với quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 (sau đây viết tắt là BLHS 1985), nhƣng
thực tiễn áp dụng còn gặp nhiều vƣớng mắc, nhiều vấn đề phát sinh chƣa đƣợc giải quyết
do thiếu những văn bản hƣớng dẫn chi tiết và rõ ràng. Đây là vấn đề mà những ngƣời tìm
hiểu và nghiên cứu pháp luật không thể bỏ qua. Mặt khác, nƣớc ta đang xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên việc thực thi pháp luật đòi hỏi phải bảo đảm
nguyên tắc pháp chế. Điều đó có nghĩa là bên cạnh việc tăng cƣờng hoàn thiện pháp luật
cần phải đảm bảo cho pháp luật ấy đi vào cuộc sống, đảm bảo cho bản án, quyết định của
Tịa án có thể đƣợc thực thi trên thực tế.


Qua nghiên cứu các quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng, tác giả nhận thấy, việc
tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện về mặt lập pháp cũng nhƣ hƣớng dẫn áp dụng các qui
định về tội chống ngƣời thi hành cơng vụ là một đề tài mang tính cấp thiết. Mặc dù đã có
khơng ít cơng trình nghiên cứu về các mặt của tội danh này, song chƣa có sản phẩm nào
có thể giải đáp đầy đủ và chính xác những câu hỏi và các vấn đề từ thực tiễn áp dụng quy
định tại Điều 257 BLHS 1999. Với kỳ vọng có thể góp một phần cơng sức nhằm tạo ra
một tài liệu nghiên cứu hằng đáp ứng các yêu cầu trên nên tác giả đã chọn đề tài “Tội
chống ngƣời thi hành cơng vụ dƣới góc độ pháp lý hình sự- lý luận và thực tiễn” để làm
khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật.
2. Tình hình nghiên cứu.
Thời gian gần đây, trong khoa học pháp lý hình sự đã xuất hiện một số cơng trình
nghiên cứu về hành vi chống ngƣời thi hành công vụ dƣới nhiều góc độ khác nhau, tiêu
biểu nhƣ: tác giả Nguyễn Trung Thái với đề tài luận văn thạc sĩ: “Phòng ngừa tội chống
người thi hành công vụ đối với lực lượng Cảnh sát nhân dân trên địa bản tỉnh Tây Ninh”;
luận văn thạc sĩ Luật học “Đấu tranh phòng chống tội chống người thi hành cơng vụ
trong lĩnh vực giải phóng mặt bằng của lực lượng Cảnh sát nhân dân trên địa bàn tỉnh
Hải Dương” năm 1994 của tác giả Trần Anh Ngọc (2005); Tác giả Lê Thế Tiệm với đề
tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân: “Đấu tranh phịng chống tội phạm chống người thi

hành công vụ” và một số đề tài khác.
Các bài viết đáng chú ý đƣợc đăng tải trên các tạp chí về luật học, bao gồm: Bài viết:
Vấn đề thi hành công vụ và chế định phịng vệ chính đáng trong luật hình sự Việt Nam
[18-tr25] có nội dung đề cập đến mối liên hệ giữa chế định phịng vệ chính đáng và tội
chống ngƣời thi hành cơng vụ trong luật hình sự Việt Nam. Bài viết Xử lý đối với hành vi
dùng vũ lực chống người thi hành công vụ ở nơi công cộng [17-tr25] đề cập đến việc
định tội danh trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội có hành vi dùng vũ lực chống ngƣời thi
hành công vụ ở nơi công cộng..v.v.
Tuy nhiên, trong các tài liệu nói trên, tội chống ngƣời thi hành cơng vụ hầu nhƣ chỉ
mới đƣợc đề cập tới ở góc độ tội phạm học mà ít đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống
và chi tiết trên bình diện pháp lý hình sự. Vì vậy, với đề tài khóa luận của mình, tác giả


mong muốn sẽ góp phần hệ thống lại tồn bộ những vấn đề lý luận nhằm giải quyết đƣợc
phần nào các sai sót và vƣớng mắc trong cách tiếp cận loại tội phạm này.
3. Mục đích nghiên cứu:
Về mặt lý luận đề tài hƣớng tới việc xây dựng một cách có hệ thống các vấn đề về tội
chống ngƣời thi hành cơng vụ dƣới góc độ pháp lý hình sự, đồng thời chỉ ra một số sai
lầm trong nhận thức liên quan đến tội danh này. Từ đó, nêu rõ những bất cập và hạn chế
trong quá trình nghiên cứu và áp dụng tội phạm này trên thực tế.
Về mặt thực tiễn, đề tài nhằm đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật về tội
chống ngƣời thi hành cơng vụ trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đóng góp ý kiến mang
tính tham luận góp phần vào việc hoàn thiện các quy định về tội chống ngƣời thi hành
công vụ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
a. Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật hình sự về tội
chống ngƣời thi hành công vụ hoặc các quy định có liên quan; đánh giá lại cách tiếp cận
và đề xuất một số giải pháp khắc phục những hạn chế từ thực tiễn áp dụng các quy định
về tội danh này.

b. Phạm vi nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài này đƣợc xác định trong phạm vi các quy phạm pháp luật hình
sự về Tội chống ngƣời thi hành cơng vụ ở Việt Nam. Nhƣng đặc biệt tập trung nghiên
cứu các quy phạm trong BLHS 1999 và các quy định liên quan trong một số Luật và văn
bản hƣớng dẫn thi hành tƣơng ứng.
Đề tài không giới hạn phạm vi nghiên cứu trong một tỉnh thành hay lĩnh vực cụ thể
nào, mà xem xét hành vi chống ngƣời thi hành công vụ trong phạm vi cả nƣớc, trên cơ sở
phân tích các số liệu thống kê và các vụ án điển hình, từ đó làm căn cứ cho tác giả đƣa ra
các bất cập và giải pháp đấu tranh, phòng chống tội chống ngƣời thi hành công vụ trong
thực tiễn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:


Để đạt đƣợc hiệu quả cao và tối ƣu, đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là
phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, cùng với sự kết hợp nhiều phƣơng pháp nhƣ:
phân tích, so sánh, quan sát, điều tra,… Ngồi ra, có sự kết hợp các phƣơng pháp hệ
thống hóa, tổng hợp và phƣơng pháp giả thiết.
Cơ cấu của đề tài:
Cơ cấu của đề tài đƣợc quyết định bởi mục đích và phạm vi nghiên cứu. Ngồi lời
nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung sẽ đƣợc trình bày trong 3
chƣơng:
Chƣơng I: Lý luận chung về tội chống ngƣời thi hành công vụ.
Chƣơng II: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội chống ngƣời thi hành
công vụ.
Chƣơng III: Một số tồn tại và bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự năm 1999 và các giải pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả đấu tranh
phòng chống tội chống ngƣời thi hành công vụ.


CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG

VỤ
1.1 Một số khái niệm liên quan đến tội chống ngƣời thi hành công vụ theo Điều
257 BLHS
Để làm sáng tỏ các vấn đề pháp lý hình sự liên quan đến tội chống ngƣời thi hành
công vụ theo Điều 257 BLHS, trƣớc hết cần phải hiểu đúng khái niệm “pháp lý hình sự”,
bởi thuật ngữ này là tiền đề quan trọng để tác giả có đƣợc sự định hƣớng và đƣa ra những
lập luận chính xác trong q trình nghiên cứu. Giữa hai thuật ngữ “pháp luật” và “pháp
lý” thƣờng có sự nhầm lẫn. Thuật ngữ “pháp luật” đƣợc hiểu là tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội do Nhà nƣớc ban hành, thể hiện ý chí của giai
cấp cầm quyền và đƣợc thực hiện bằng các biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc. Còn
“pháp lý” đƣợc định nghĩa là lý luận về mặt pháp luật [22-tr789]. Có thể hiểu một cách
khái quát nhƣ sau, “pháp luật” đƣợc thể hiện bằng các quy phạm pháp luật do Nhà Nƣớc
ban hành, còn “pháp lý” đƣợc hiểu là lý luận về các quy phạm pháp luật đó. Nhƣ vậy,
nghiên cứu tội chống ngƣời thi hành cơng vụ dƣới góc độ pháp lý hình sự thực chất là
giải quyết thỏa đáng về mặt cơ sở lý luận những quy phạm pháp luật liên quan đến tội
chống ngƣời thi hành cơng vụ trong pháp luật hình sự hiện hành.
Kế tiếp, cần xác định rõ hai khái niệm “công vụ” và “ngƣời thi hành công vụ”
Thuật ngữ “công vụ” đã từng đƣợc phân tích và hiểu ở nhiều góc độ khác nhau. Về
nguồn gốc, “cơng vụ” là khái niệm có nguồn gốc từ chữ Hán- Việt, và “cơng vụ” đƣợc
hiểu là chức việc của nhà quan [13-tr123]. Có nghĩa là những chức năng và việc thực thi
các nhiệm vụ đƣợc nhà nƣớc giao phó cho các quan lại ngày xƣa.
Hiện nay, trong giới nghiên cứu khoa học về pháp luật ở nƣớc ta, cụm từ “công vụ”
đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau. Mặc dù đã có văn bản quy phạm pháp luật chính
thức quy định về hoạt động công vụ nhƣng khái niệm “công vụ” vẫn chƣa đƣợc hiểu
thống nhất. Cụ thể, tại Điều 2 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Hoạt động
công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công
chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan”. Với quy định nhƣ

1



vậy thì khái niệm “cơng vụ” chƣa đƣợc làm rõ và vì thế mà vẫn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau của các tác giả. Sau đây là một số cách hiểu về công vụ:
-

Công vụ là hoạt động của viên chức, công chức nhà nước để thực

hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước hoặc hoạt động của các công dân
được cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội huy động để đảm nhiệm
hoặc thực hiện một phần công việc nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ
chức năng của nhà nước trong thời hạn nhất định[31].
-

Công vụ nhà nước là một chế định pháp luật hành chính, xác lập và

điều chỉnh quan hệ của nhà nước với viên chức nhà nước, mà nghề nghiệp của
các viên chức này là thực hiện các chức năng quản lý nhà nước hoặc các chức
năng khác theo sự uỷ nhiệm của nhà nước và thay mặt nhà nước [20-tr176].
-

Cơng vụ là một loại lao động mang tính quyền lực và pháp lý được

thực thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chính sách của nhà nước
trong q trình quản lý tồn diện các mặt của đời sống xã hội [15]
-

Cơng vụ là hoạt động mang tính nhà nước nhằm thực hiện các chức

năng của Nhà nước vì lợi ích xã hội, lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của
các tổ chức và cá nhân[16-tr210].

Các cách hiểu này tuy cũng có những điểm chung, nhƣng vẫn còn nhiều điểm khác
biệt. Để xem xét các điểm khác biệt, có thể nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên
quan về vấn đề này. Theo Luật trách nhiệm bồi thƣờng của nhà nƣớc năm 2009- văn bản
pháp lý có giá trị cao nhất có nội dung xác định lại khái niệm “ngƣời thi hành công vụ” khái niệm “cơng vụ” có thể đƣợc hiểu là hoạt động theo đúng pháp luật của các chủ thể
đƣợc nhà nƣớc giao nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc bao gồm cả quản lý hành chính, tố tụng
và thi hành án. Điểm quan trọng nhất của “cơng vụ” là tính đúng pháp luật. Muốn đƣợc
coi là “cơng vụ” thì hoạt động đó phải đúng pháp luật và phải tuân thủ hiến pháp và pháp
luật. Hoạt động không đúng pháp luật phải đƣợc coi là trái công vụ và không phải là
“công vụ”. Tính đúng pháp luật ở đây phải đƣợc hiểu là đúng cả về mặt nội dung hoạt
động, cả thủ tục, trình tự thực hiện, và ngƣời thực hiện phải đúng thẩm quyền theo quy
định của pháp luật.
2


Theo quan điểm của tác giả thì khi đề cập đến cụm từ “công vụ” cần hiểu rõ bốn yếu
tố cơ bản để cấu thành một khái niệm đầy đủ về “cơng vụ” đó là:
(i) Đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nƣớc;
(ii) Pháp luật, các chế độ chính sách quy định quyền, nghĩa vụ và hoạt động của công
chức;
(iii) Hệ thống quản lý công chức và hoạt động công vụ;
(iv) Công sở, tổ chức bộ máy làm việc.
Nhƣ vậy nội dung của “cơng vụ” là tồn bộ hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc
thông qua đội ngũ cán bộ công chức thực hiện 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
(i) Quản lý nhà nƣớc trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng,
an ninh nhằm tạo nên sự ổn định, phát triển của toàn xã hội;
(ii) Thi hành pháp luật, đƣa pháp luật vào đời sống xã hội, đảm bảo trật tự xã hội,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân theo luật định, góp phần xây dựng nền
pháp quyền vững chắc và ổn định.
(iii) Quản lý tài sản công và ngân sách nhà nƣớc, xây dựng nền tài chính vững mạnh,
hiệu quả. Chống lại các hành vi tham nhũng, gây thiệt hại cho nền kinh tế, làm suy thoái

đạo đức của cán bộ, cơng chức Nhà nƣớc.
Tóm lại, “cơng vụ” là một phạm trù thuộc về hành pháp, có nhiệm vụ thực thi quyền
hành pháp, gắn liền và dựa vào quyền lực cơng, quyền lực nhà nƣớc, thể hiện vai trị của
nhân dân.
Trƣớc đây Pháp lệnh Cán bộ, Công chức chƣa giải thích rõ các khái niệm nhƣ “cán
bộ”, “cơng chức”, “viên chức”. Đến Luật Cán bộ công chức năm 2008 đã phân định đƣợc
thế nào là cán bộ và công chức. Riêng khái niệm “viên chức” phải đến Luật Viên chức
năm 2010 mới đƣợc định nghĩa một cách rõ ràng, làm cơ sở để phân biệt với cán bộ và
công chức. Điều 2 của luật khẳng định “Viên chức” là công dân Việt Nam đƣợc tuyển
dụng theo vị trí việc làm; làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp
đồng làm việc; hƣởng lƣơng từ quỹ lƣơng của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định
của pháp luật nhƣ cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức là cá nhân làm việc trong các cơ
quan của Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội, tức là các cơ quan mang tính chất
3


“công”, nhân danh quyền lực nhà nƣớc thực hiện công việc của mình, trong khi đó viên
chức lại hoạt động thuần t mang tính chun mơn, nghiệp vụ. Điều 4 của luật nêu rõ:
“Hoạt động nghề nghiệp của viên chức là việc thực hiện cơng việc hoặc nhiệm vụ có u
cầu về trình độ, năng lực, kỹ năng chun mơn, nghiệp vụ trong đơn vị sư nghiệp công
lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Với
việc quy định cụ thể nhƣ thế này, tác giả cho rằng chủ thể thực hiện cơng vụ chỉ có cơng
chức mà khơng bao gồm viên chức.
Ngồi ra, ngƣời thực thi cơng vụ bao gồm cả những ngƣời đƣợc bổ nhiệm, bầu, làm
việc trong các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính trị xã hội đƣợc nhà nƣớc thừa nhận và cả
những ngƣời đƣợc nhà nƣớc huy động làm những cơng việc có tính chất tạm thời, cấp
bách phục vụ quyền lực công và thực hiện chức năng của nhà nƣớc. Hoạt động công vụ là
hoạt động thƣờng xun liên tục có quy mơ, tính chất rộng lớn, phức tạp đƣợc quy định
trong các văn bản pháp luật, nhƣng cũng có thể là các hoạt động phát sinh cụ thể, tức thời
không quy định trong các văn bản của ngƣời hoặc cơ quan có thẩm quyền trao cho bộ

phận nhân lực nhằm thực hiện chức năng, thẩm quyền đƣợc giao.
Từ những phân tích trên, khái niệm “cơng vụ” có thể đƣợc hiểu một cách đầy đủ nhƣ
sau: Công vụ là hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của nhà nước hoặc hoạt động của các công dân được nhà nước, các tổ chức chính trị,
xã hội huy động để đảm nhiệm hoặc thực hiện một phần công việc, nhằm thực hiện
những chức năng của nhà nước trong những giai đoạn nhất định, và hoạt động đó phải
đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật.
Khái niệm người thi hành công vụ.
Từ khái niệm công vụ nêu trên, tác giả cho rằng ngƣời thi hành công vụ trƣớc hết
phải là ngƣời thực hiện các công vụ của nhà nƣớc, và việc thực thi cơng vụ đó phải là
hoạt động tuân theo pháp luật. Theo Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986 hƣớng dẫn áp
dụng một số điều của Bộ luật hình sự năm 1985: “người thi hành công vụ là người có
chức vụ quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội thực hiện chức năng
nhiệm vụ của mình và cũng có thể là những cơng dân được huy động làm nhiệm vụ (như

4


tuần tra, canh gác, …) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung
của nhà nước và xã hội”.
Khoản 1 Điều 3 Luật trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc năm 2009 có quy định cụ
thể hơn: “người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ
nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính,
tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực
hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án”.
Các tài liệu nghiên cứu hoặc đƣợc sử dụng nhằm phục vụ học tập nhƣ giáo trình luật
hình sự Việt Nam của Đại học Huế, Nxb CAND, 2001, trang 80; Bình luận khoa học Bộ
luật Hình sự Việt Nam năm 1999 của Viện khoa học pháp lý Bộ tƣ pháp, Nxb CTQG,
năm 2003, trang 66;… cũng trích lại nội dung giải thích của Nghị quyết 04/HĐTP về vấn
đề ngƣời thi hành công vụ nhƣ trên. Thứ nhất về chủ thể, ngƣời thi hành công vụ phải là

cán bộ, công chức của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội hoặc cũng có thể là một cơng dân bất
kỳ đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền huy động, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ. Thứ hai
về phạm vi nhiệm vụ thực hiện, chỉ có thể đƣợc coi là thi hành cơng vụ khi công việc mà
họ làm phải là thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức
nhằm phục vụ lợi ích chung của nhà nƣớc, của xã hội.
Từ đó, khái niệm ngƣời thi hành cơng vụ đƣợc hiểu: là người có chức vụ quyền hạn
trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, hoặc
tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình trong đó
bao gồm cả những cơng dân được huy động làm nhiệm vụ (như tuần tra, canh gác, giữ
gìn an ninh trật tự,…) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, thực hiện nhiệm vụ có
liên quan đến hoạt động quản lý hành chính nhà nước bao gồm cả hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, tố tụng, thi hành án và nhằm phục vụ lợi ích chung của nhà nước
và của xã hội.
Khái niệm tội chống người thi hành công vụ
Tội chống ngƣời thi hành công vụ đƣợc quy định tại Điều 257 BLHS 1999, thuộc
chƣơng XX “Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính”.
5


Theo từ điển Bách khoa Công an Nhân dân, khái niệm “chống ngƣời thi hành công
vụ” đƣợc hiểu là: “hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở
người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện một hành vi
trái pháp luật khác. Người thi hành công vụ là nhân viên cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội hay bất kỳ một công dân nào đang thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật giao cho họ hay
được cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội giao cho họ vì lợi ích chung, việc thi
hành công vụ không phụ thuộc vào thời gian và không gian. Người thi hành công vụ phải
là người đang thi hành cơng vụ”.
Trong giải thích này, tác giả cuốn từ điển đã có sự nhầm lẫn về dấu hiệu hành vi
trong mặt khách quan của tội chống ngƣời thi hành cơng vụ. Căn cứ vào quy định Điều

257 BLHS thì việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn khác chỉ là
phƣơng thức (thủ đoạn) để ngƣời phạm tội thực hiện một trong hai hành vi là cản trở
ngƣời thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc để ép buộc ngƣời thi hành công vụ
thực hiện một hành vi trái pháp luật. Cách hiểu sai lầm nhƣ vậy hiện rất đƣợc phổ biến
trong nhiều tài liệu nghiên cứu, trong một số giáo trình và trong thực tiễn xét xử.
Cụ thể, BLHS 1999 quy định về tội chống ngƣời thi hành công vụ nhƣ sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở
người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái
pháp luật thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến
ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm:
a. Có tổ chức;
b. Phạm tội nhiều lần;
c. Xúi giục, lơi kéo, kích động người khác phạm tội;
d. Gây hậu quả nghiêm trọng;
e. Tái phạm nguy hiểm”.
Từ quy định tại khoản 1 Điều 257 BLHS, tội chống ngƣời thi hành công vụ đƣợc
hiểu là hành vi xâm phạm trật tự quản lý hành chính, đƣợc thực hiện bằng một trong hai
6


hình thức: (1) hoặc là cản trở ngƣời thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ, làm cho
họ khơng hồn thành đƣợc nhiệm vụ hoặc gây khó khăn trở ngại cho họ trong khi thi
hành công vụ; (2) hoặc là cƣỡng ép ngƣời thi hành công vụ phải thực hiện một hành vi
trái pháp luật. Hai hình thức này đều đƣợc thực hiện dƣới các thủ đoạn: dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực để tác động lên thân thể, đồ vật, phƣơng tiện của ngƣời thi hành công vụ
hoặc các thủ đoạn khác nhằm uy hiếp về tinh thần, tổn hại về danh dự, nhân phẩm, đƣa
ngƣời thi hành cơng vụ vào tình trạng khơng kháng cự đƣợc. Phân tích, đối chiếu một
cách tỉ mỉ về nội dung các qui định trong khoản 1 Điều 93; Điều 104… và khoản 1 Điều

257 BLHS 1999 tác giả nhận thấy “vũ lực”; “đe dọa sử dụng vũ lực” và “thủ đoạn khác”
mà chủ thể của tội phạm sử dụng với tính chất là phƣơng thức để “cản trở” hoặc “ép
buộc” nạn nhân có tính chất là chƣa nguy hiểm tới tính mạng, sức khỏe của nạn nhân
hoặc ít ra thì chủ thể cũng khơng tỏ rõ (bằng hành vi) ý định xâm hại đến một trong hai
khách thể quan trọng này. Theo Điều 93 và 104 BLHS thì chỉ cần chủ thể có ý định xâm
hại tính mạng hoặc sức khỏe nạn nhân, thì dù hành vi dù chƣa gây ra hậu quả chết ngƣời
hoặc chỉ mới gây thƣơng tích ở mức chƣa đáng kể (dƣới 11% tỷ lệ thƣơng tật) – ngƣời
phạm tội cũng đã bị khép vào các tội tƣơng ứng (hoặc tội giết ngƣời hoặc tội cố ý gây
thƣơng tích), vốn là những tội phạm có tính nguy hiểm cao hơn tội chống ngƣời thi hành
cơng vụ. Mặt khác, trong trƣờng hợp chủ thể tuy không mong muốn gây ra các hậu quả
nguy hiểm nhƣng chỉ cần có căn cứ cho rằng họ cố ý bỏ mặc cho hậu quả (chết ngƣời,
thƣơng tích) xảy ra thì họ vẫn bị truy cứu TNHS theo hoặc Điều 93 hoặc Điều 104 BLHS
mà nhất định không phải là theo Điều 257 BLHS 1999. Điều này lý giải vì sao tội chống
ngƣời thi hành công vụ đƣợc quy định tại chƣơng XX BLHS 1999 các tội xâm phạm hoạt
động quản lý hành chính.
Tính nguy hiểm của cả hai hành vi nói trên thể hiện ở hậu quả: vừa làm cho hoạt
động cơng vụ bị đình trệ khơng đƣợc thực hiện hoặc thực hiện bị sai phạm, vừa xâm
phạm trật tự quản lý hành chính của nhà nƣớc, làm cho hiệu lực quản lý của nhà nƣớc bị
suy giảm.
Các hành vi đƣợc thực hiện một cách cố ý, ngƣời thực hiện hành vi có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự, biết đƣợc ngƣời mà họ chống lại là ngƣời đang thi hành công vụ. Họ
7


nhận thức đƣợc hành vi của mình là gây trở ngại cho việc thi hành công vụ hoặc ép buộc
ngƣời thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật khác. Điều luật quy định tội phạm
là tội ít nghiêm trọng (trong cấu thành cơ bản) và tội nghiêm trọng (trong cấu thành tăng
nặng) nên ngƣời thực hiện hành vi là ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực nhận thức
và điều khiển hành vi của mình.
Tổng hợp các phân tích trên, theo tác giả, khái niệm tội chống ngƣời thi hành công vụ

đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Tội chống người thi hành công vụ là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được thực hiện dưới hai hình thức hoặc cản trở người thi hành cơng vụ thực hiện
nhiệm vụ của mình hoặc ép người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật, hai
hành vi được thực hiện với những phương thức, thủ đoạn như dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực hoặc các thủ đoạn khác tác động vào người thi hành công vụ, hành vi này xâm
phạm đến trật tự quản lý hành chính và hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị- xã hội, do người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện với lỗi cố ý và được quy định tại Điều 257 Bộ luật hình sự.
1.2 Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội chống ngƣời thi hành công vụ.
1.2.1 Tội chống ngƣời thi hành cơng vụ trong pháp luật hình sự Việt Nam trƣớc
năm 1985.
Về mặt khoa học, có thể chia lịch sử phát triển luật hình sự Việt Nam từ năm 1945
đến năm 1985 thành hai giai đoạn: từ năm 1945 đến năm 1959 và từ năm 1959 đến năm
1985. Năm 1959 là năm nhà nƣớc ta ban hành Hiến pháp 1959, tạo một bƣớc ngoặt lớn
trong việc hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nƣớc nói chung, trong đó có bộ máy các cơ
quan tƣ pháp Việt Nam nói riêng. Mặt khác, từ năm 1959, theo Chỉ thị số 772-TANDTC
ngày 10/07/1959, các cơ quan tƣ pháp Việt Nam khơng cịn áp dụng pháp luật của chế độ
cũ. Quy định này chấm dứt một giai đoạn phát triển sơ kỳ của nguồn luật hình sự Việt
Nam hiện đại, mở ra một giai đoạn phát triển mới – giai đoạn nguồn luật hình sự Việt
Nam là hình thức phản ánh pháp luật hình sự duy nhất, pháp luật do chính quyền cách
mạng ban hành. Một điểm đáng lƣu ý, nếu nhƣ trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm
1959, Sắc lệnh là hình thức văn bản pháp luật hình sự phổ biến thì đến giai đoạn 1959-

8


1985, các Pháp lệnh và Sắc luật lại giữ vai trò quan trọng hơn trong việc điều chỉnh quan
hệ pháp luật hình sự.
Trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử, hành vi chống ngƣời thi hành công vụ cũng
tồn tại, vì sẽ có những ngƣời vì lợi ích riêng của mình mà đi ngƣợc lại với lợi ích chung

của tồn xã hội. Trƣớc năm 1985, khơng có một văn bản nào quy định về tội phạm cụ thể
hoặc đích danh cho hành vi chống ngƣời thi hành công vụ, dấu hiệu cản trở hoặc ép buộc
ngƣời thi hành công vụ chỉ nằm rải rác trong các văn bản quy định về một nhóm tội nào
đó. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 hành vi chống ngƣời thi hành công vụ đƣợc thể
hiện trong các quy định của các văn bản nhƣ Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/02/1946 trừng trị
tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 27-SL ngày 28/02/1946 trừng trị các tội bắt cóc, tống
tiền và ám sát; Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội xâm phạm an
ninh đối nội và an toàn đối ngoại của Nhà nƣớc; Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/04/1953
trừng trị địa chủ chống pháp luật; Thông tƣ số 442-TTg ngày 19/01/1955 về tổng kết án
lệ một số tội phạm thông thƣờng…
Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1985 hành vi chống ngƣời thi hành công vụ đƣợc thể
hiện trong các quy định của các văn bản nhƣ Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng
ngày 30/10/1967 tại khoản 2 Điều 10 quy định “kẻ nào vì mục đích phản cách mạng mà
đánh đập, gây thương tích, bắt giữ cán bộ, nhân viên nhà nước, bộ đội, công an hay là
nhân dân thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm” hay tại khoản 1 Điều 14 quy định “Kẻ
nào vì mục đích phản cách mạng mà kích động, lôi kéo, tụ tập nhiều người nhằm phá rối
trật tự, an ninh, ngăn trở cán bộ, nhân viên nhà nước, bộ đội, cơng an thi hành nhiệm vụ
thì bị phạt tù từ 5 năm đến 12 năm”. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội
chủ nghĩa; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày
21/10/1970, Sắc luật số 03-SL/76 quy định về tội phạm và hình phạt ngày 15/03/1976.
1.2.2 Tội chống ngƣời thi hành công vụ trong pháp luật Hình sự Việt Nam sau khi
có Bộ luật Hình sự 1985 đến trƣớc khi có Bộ luật Hình sự 1999
Luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1985-1999, cũng nhƣ giai đoạn trƣớc, đƣợc xây
dựng trên nền tảng các quy định của Hiến pháp Việt Nam. Điểm đáng chú ý ở đây là, vào
những thời điểm trƣớc và sau khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 - Bộ luật hình sự đầu
9


tiên của nhà nƣớc ta, có sự xuất hiện lần lƣợt của hai bản Hiến pháp (Hiến pháp 1980 và
Hiến pháp 1992) mà nội dung của hai bản Hiến pháp này có nhiều điểm khác biệt cơ bản.

BLHS 1985 đƣợc xác định là sự kế thừa và phát triển của Luật hình sự Việt Nam từ Cách
mạng tháng Tám đến thời điểm đƣợc ban hành, ngày 27/6/1985, đồng thời có dự kiến
tình hình tội phạm ở Việt Nam, mà theo đánh giá của những nhà soạn luật, ít nhất là cũng
trong khoảng thời gian từ 15 đến 20 năm tiếp đó, là nguồn cơ bản của luật hình sự trong
giai đoạn 1985-1999. Với sự tin tƣởng vào tính hồn thiện của bộ luật, các nhà lập pháp
Việt Nam đƣa ra hai quyết sách quan trọng làm thay đổi căn bản sự phát triển nguồn luật
hình sự nƣớc nhà. Quyết sách thứ nhất, từ năm 1985 không quy định các vấn đề tội phạm,
hình phạt trong các văn bản pháp luật đơn hành mà thống nhất vào trong một văn bản duy
nhất là Bộ luật hình sự. Quyết sách thứ hai, loại trừ hoàn toàn việc áp dụng nguyên tắc
tƣơng tự trong lĩnh vực luật hình sự qua việc tuyên bố: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự…” trong Điều 8 BLHS 1985 - điều luật
phản ánh quan điểm chính thức của nhà nƣớc Việt Nam về vấn đề tội phạm.
Vì vậy, trong giai đoạn từ khi BLHS 1985 có hiệu lực đến trƣớc khi có BLHS 1999,
tội “chống ngƣời thi hành công vụ” đã đƣợc nhà làm luật quy định cụ thể tại Điều 205
Mục C “Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính” Chƣơng VIII “Các tội xâm phạm
an tồn, trật tự cơng cộng và trật tự quản lý hành chính” của BLHS 1985. Đồng thời đƣợc
cụ thể hóa trong Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của
BLHS 1985. Qua đó cho thấy mức độ nguy hiểm của hành vi chống ngƣời thi hành công
vụ đối với xã hội là cần phải báo động và ngăn chặn kịp thời.
1.2.3 Tội chống ngƣời thi hành công vụ từ khi có Bộ luật hình sự 1999
Cũng nhƣ giai đoạn trƣớc, nguồn cơ bản và chủ yếu của luật hình sự Việt Nam hiện
hành là BLHS 1999 và Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự 1999.
BLHS năm 1999 có những điểm tiến bộ, và hồn thiện hơn so với Bộ luật Hình sự 1985.
Thể hiện ở ngun tắc phân hố trách nhiệm hình sự và hình phạt đã đƣợc quy định rõ
ràng hơn, có sự phân biệt giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác thông qua việc

10



quy định mức độ nguy hiểm hoặc định lƣợng hậu quả của hành vi trên thực tế, nhiều quy
định của BLHS 1999 mang tính chất nhân đạo hơn so với BLHS 1985.
Tuy nhiên các văn bản hƣớng dẫn thi hành BLHS 1999 đƣợc ban hành tƣơng đối
chậm và chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu hƣớng dẫn, giải thích pháp luật trong thực tiễn. Mặc
dù BLHS 1999 đƣợc Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999 và có hiệu lực từ ngày
01/7/2000 nhƣng trong vịng hơn mƣời năm sau đó vẫn cịn q ít văn bản hƣớng dẫn thi
hành các chƣơng, điều của Bộ luật. Trong số các văn bản đó đã ban hành lại khơng có
văn bản nào quy định rõ về tội chống ngƣời thi hành công vụ. Nhiệm vụ này dƣờng nhƣ
vẫn do Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS 1985
đảm nhận.
Tội chống ngƣời thi hành công vụ (Điều 257 BLHS 1999) là tội phạm điển hình
trong các tội xâm phạm hoạt động quản lý hành chính và đƣợc pháp luật hình sự quy định
thành một tội phạm riêng có dấu hiệu cấu thành tội phạm đặc trƣng. So với BLHS 1985,
BLHS 1999 đã đƣa vào thêm một số tình tiết định khung tăng nặng, quy định thêm một
số hành vi khách quan của tội phạm và đánh dấu sự hoàn thiện của pháp luật trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời thi hành công vụ, trừng trị và giáo dục kịp
thời những hành vi phạm tội. Đây cũng là những cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan
chức năng thực hiện việc xét xử tội phạm này, đặc biệt là trong tình hình tội phạm chống
ngƣời thi hành cơng vụ đang xảy ra ngày càng nhiều, các hành vi đa dạng, phức tạp với
nhiều thủ đoạn tinh vi.
1.3 Ý nghĩa các quy định về tội chống ngƣời thi hành công vụ
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, thực hiện Nghị quyết của Đại hội, đất nƣớc ta bƣớc
sang nền kinh tế thị trƣờng và có những bƣớc tiến trên con đƣờng, đời sống nhân dân
từng bƣớc đƣợc nâng cao, văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, tình hình kinh tế - chính trị xã hội tƣơng đối ổn định, an ninh quốc phòng đƣợc tăng cƣờng, quan hệ đối ngoại không
ngừng đƣợc mở rộng, hợp tác quốc tế đƣợc tiến hành chủ động và đạt kết quả tốt. Tuy
nhiên, quy luật chung của hiện tƣợng xã hội, bất cứ vấn đề gì cũng có tính hai mặt. Bên
cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc, chúng ta cũng phải gánh chịu những ảnh hƣởng không
11



nhỏ do mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng đem lại, cộng với sự thiếu kinh nghiệm trong
quản lý kinh tế xã hội đã làm cho đời sống xã hội có nhiều biến động phức tạp; sự xuống
cấp về mặt đạo đức và lối sống, tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp gia tăng, sự phân
hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc,…
Đặc biệt, trong những năm trở lại đây, hành vi chống ngƣời thi hành công vụ đã trở
thành một hiện tƣợng tiêu cực của xã hội, gây hậu quả khơng nhỏ cho q trình thực hiện
đƣờng lối chính sách của nhà nƣớc. Hành vi chống ngƣời thi hành cơng vụ mang tính
nguy hiểm cao cho xã hội vì nó biểu hiện sự coi thƣờng pháp luật, gây mất trật tự công
cộng, làm giảm hiệu lực quản lý của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức Chính trị, Chính trị - xã
hội hay hoạt động bình thƣờng của các cơ quan nhà nƣớc.
Việc quy định tội chống ngƣời thi hành công vụ trong BLHS 1985, cũng nhƣ trong
BLHS 1999 và các văn bản quy phạm pháp luật có những ý nghĩa quan trọng:
Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các hành vi chống
ngƣời thi hành cơng vụ.
Bộ luật hình sự giữ vị trí quan trọng trong đấu tranh phịng, chống tội phạm nói
chung, tội chống ngƣời thi hành cơng vụ nói riêng, chỉ có BLHS mới có quyền quy định
hành vi nào là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với ngƣời đã gây ra hành vi đó.
Việc nhà nƣớc quy định tội chống ngƣời thi hành công vụ và hình phạt đƣợc áp dụng đối
với ngƣời phạm tội là sự thể hiện ý chí Nhà nƣớc đối với các hành vi phạm tội. Quy
phạm pháp luật hình sự về tội chống ngƣời thi hành cơng vụ vừa có tính chất cấm chỉ,
vừa có tính chất bắt buộc. Quy phạm này, một mặt cấm mỗi cá nhân không đƣợc thực
hiện hành vi phạm tội, thể hiện bằng việc áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội, mặt
khác cũng buộc các cơ quan có trách nhiệm khi phát hiện có dấu hiệu phạm tội, thì phải
điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh, đƣa ngƣời phạm tội ra trƣớc pháp luật.
Thứ hai, thể hiện sự quan tâm của Nhà nƣớc đối với việc bảo vệ các quan hệ phát
sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc, duy trì trật tự an tồn xã hội và bảo
đảm hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc, tổ chức Chính trị, Chính trị - xã hội,..
Bên cạnh các quy định của pháp luật hành chính, pháp luật hình sự đƣợc xây dựng
trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, thuyết phục và cƣỡng chế để đảm bảo cho mọi

12


hành vi xâm phạm đƣợc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, giúp cho cơng tác
phịng chống và đấu tranh với loại tội phạm này có hiệu quả hơn. Quy định tội chống
ngƣời thi hành công vụ trong pháp luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố
gây cản trở cho tiến trình cải cách hành chính, đổi mới đất nƣớc, cho sự nghiệp cơng
nghiệp hố - hiện đại hố của đất nƣớc; góp phần đắc lực vào việc bảo vệ lợi ích của Nhà
nƣớc, quyền lợi hợp pháp của cơng dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an tồn xã hội,
trật tự quản lý kinh tế, đảm bảo cho mọi ngƣời đƣợc sống trong một mơi trƣờng xã hội
lành mạnh.
Thứ ba, góp phần tích cực vào nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc pháp
luật hình sự hiện hành quy định tội chống ngƣời thi hành cơng vụ góp phần quan trọng
trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa địi
hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật hình
sự về tội phạm nói chung, tội chống ngƣời thi hành cơng vụ nói riêng trong tất cả các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc áp dụng những quy định của pháp luật một cách
tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng,
làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan công quyền. Do
vậy, việc quy định một cách chặt chẽ tội chống ngƣời thi hành cơng vụ trong pháp luật
hình sự và việc áp dụng đúng đắn nó trong thực tiễn, thể hiện sự quan tâm của Nhà nƣớc
ta đối với vấn đề này, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử về tội chống ngƣời thi hành công vụ.
Việc quy định tội chống ngƣời thi hành cơng vụ trong pháp luật hình sự hiện hành,
ngồi ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự, cịn có ý nghĩa nâng cao nhận thức của nhân dân
nói chung, cán bộ các cơ quan pháp luật nói riêng về vấn đề chống ngƣời thi hành cơng
vụ. Giúp các cơ quan pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý của tội phạm, từ đó
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội chống ngƣời thi hành công vụ, động viên
quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh này.


13


CHƢƠNG II. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ
TỘI CHỐNG NGƢỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
2.1 Dấu hiệu pháp lý của tội chống ngƣời thi hành công vụ
2.1.1 Chủ thể của tội chống ngƣời thi hành công vụ
Chủ thể của tội phạm là ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội đƣợc quy định trong Bộ
luật hình sự. Bộ luật hình sự Việt nam quy định chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá
nhân mà khơng phải là pháp nhân. Vì chỉ có những con ngƣời cụ thể mới có khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi nên từ đó mới tiếp nhận sự trừng trị, cải tạo giáo dục của
pháp luật hình sự, đảm bảo hiệu quả của hình phạt. Pháp nhân là tổ chức đƣợc thành lập
trên cở sở của pháp luật, hoạt động của pháp nhân đƣợc thực hiện thông qua ngƣời đại
diện, do đó tự bản thân pháp nhân không thể nhận thức và điều khiển hành vi nên khơng
có lỗi. Các hành vi vi phạm chỉ có thể đƣợc thực hiện bởi những ngƣời nhân danh pháp
nhân và tự họ phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về hành vi của mình. Vì vậy chủ thể
của tội chống ngƣời thi hành công vụ là con ngƣời, cá nhân cụ thể.
Ngƣời có thể trở thành chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn hai đặc điểm: có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Năng lực trách nhiệm hình sự là
khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi do mình thực hiện và khả năng điều khiển
hành vi theo những đòi hỏi và chuẩn mực của xã hội. Năng lực nhận thức và điều khiển
hành vi của mỗi con ngƣời khơng thể có ngay khi họ sinh ra mà đƣợc hình thành và tích
lũy theo thời gian. Do đó phải đến một độ tuổi nhất định con ngƣời mới đủ khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi của mình, khi đó mới xét đến yếu tố lỗi. Vì vậy, tuổi
chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm hình sự là tiền đề để xác định lỗi của
chủ thể. Chủ thể của tội chống ngƣời thi hành công vụ phải thỏa mãn đặc điểm về năng
lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 BLHS 1999.
Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần hội tụ đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật và có hành vi phạm tội là đã có thể trở thành chủ thể của tội
phạm. Nhƣ vậy, ngƣời dƣới 16 tuổi khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi

chống ngƣời thi hành cơng vụ vì quy định của tội phạm này không phải là tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
14


2.1.2 Khách thể của tội chống ngƣời thi hành công vụ
Trong tổng thể các quan hệ xã hội, mỗi quan hệ xã hội lại có ý nghĩa khác nhau đối
với sự củng cố và phát triển của xã hội và đƣợc Nhà nƣớc bảo vệ bằng những loại quy
phạm pháp luật khác nhau với những biện pháp cƣỡng chế khác nhau. Mỗi hành vi vi
phạm nói chung cũng nhƣ tội phạm nói riêng đều là về hình thức mâu thuẫn với quy
phạm pháp luật và về nội dung gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội
đƣợc Nhà nƣớc xác lập và bảo vệ ở những mức độ nhất định. Khách thể của Luật hình sự
là những quan hệ xã hội đƣợc Nhà nƣớc xác định cần đƣợc bảo vệ bằng những quy phạm
pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội đó bị hành vi phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại ở những mức độ khác nhau.
Khách thể của tội chống ngƣời thi hành công vụ là trật tự quản lý hành chính của nhà
nƣớc. Đối tƣợng tác động của tội phạm này là hoạt động (xử sự) bình thƣờng của ngƣời
thi hành công vụ.
Cần khẳng định, đối tƣợng tác động của tội chống ngƣời thi hành công vụ không phải
là ngƣời thi hành công vụ. Căn cứ vào khái niệm về đối tƣợng tác động của tội phạm
trong lý luận pháp luật hình sự phần chung xác định: đối tượng tác động của tội phạm là
bộ phận hợp thành của khách thể, bị hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại hoặc đe
doa gây thiệt hại cho các quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ có thể xác định đối
tƣợng tác động của tội phạm này là hoạt động bình thƣờng của ngƣời thi hành công vụ.
Khách thể của tội phạm đƣợc hợp thành từ ba bộ phận: chủ thể của quan hệ (là con
ngƣời với tƣ cách là một thực thể tự nhiên, đồng thời là thực thể của xã hội); Nội dung
của quan hệ xã hội: là hoạt động bình thƣờng của các chủ thể khi tham gia vào các quan
hệ xã hội thông qua việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhất định (nghĩa vụ phải xét xử
đúng pháp luật, công bằng nghiêm minh của thẩm phán, và hành vi đƣa hối lộ có đối
tƣợng tác động là hoạt động bình thƣờng của chủ thể, là quyền đƣợc sống của con ngƣời

trong tội xúi ngƣời khác tự sát,…); Và đối tƣợng vật chất của quan hệ xã hội: là các sự
vật hoặc các lợi ích mà qua đó quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại (hình thức vật chất của
quan hệ xã hội).

15


Hành vi tác động vào một trong ba bộ phận hợp thành của khách thể là tác động vào
đối tƣợng tác động của tội phạm. Hành vi phạm tội, để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại đƣợc cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ thì đầu tiên phải tác động lên
các bộ phận hợp thành của quan hệ xã hội đó. Sự tác động đó làm biến đổi tình trạng bình
thƣờng của đối tƣợng tác động. Ví dụ: hành vi giết ngƣời có đối tƣợng tác động là con
ngƣời, khi tác động vào một con ngƣời cụ thể làm biến đổi tình trạng bình thƣờng của
con ngƣời nhƣ gây thƣơng tích hoặc chết ngƣời, khi đó khách thể của tội phạm là tính
mạng sức khỏe đã bị xâm phạm. Ví dụ: Đối với tội đƣa hối lộ, đối tƣợng tác động là hoạt
động bình thƣờng của ngƣời nhận hối lộ, …
Mọi hành vi làm biến đổi tình trạng bình thƣờng của đối tƣợng tác động đều gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến khách thể của tội phạm, tuy nhiên không phải mọi hành
vi phạm tội đều gây thiệt hại cho đối tƣợng tác động. Trong nhiều trƣờng hợp hành vi
phạm tội khơng làm xấu đi tình trạng bình thƣờng của đối tƣợng tác động nhƣng vẫn xâm
hại đến khách thể của tội phạm. Ví dụ trong tội trộm cắp, hành vi làm thay đổi tình trạng
bình thƣờng của tài sản là đang trong sự chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu
lại chuyển sang sự quản lý của ngƣời phạm tội. Tuy nhiên hành vi này không phải lúc
nào cũng gây thiệt hại cho tài sản bị chiếm đoạt mà chỉ làm dịch chuyển quyền sở hữu
hợp pháp của tài sản đó sang sự chiếm hữu khơng hợp pháp, cịn tài sản đó khơng bị mất
đi hay bị biến đổi cả về mặt định chất hay định lƣợng.
Đối với tội chống ngƣời thi hành công vụ, quan hệ pháp luật mà Nhà nƣớc muốn bảo
vệ là hoạt động quản lý hành chính, thơng qua việc bảo đảm hoạt động bình thƣờng của
các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ đó, trong trƣờng hợp này đối tƣợng tác động là
hoạt động bình thƣờng của chủ thể (tức ngƣời thi hành công vụ). Hành vi phạm tội là

hành vi làm biến đổi tình trạng bình thƣờng của hoạt động công vụ (bao gồm hành vi cản
trở ngƣời thi hành công vụ hoặc hành vi ép buộc ngƣời thi hành công vụ phải thực hiện
hành vi trái pháp luật).
Giữa khách thể của tội phạm và đối tƣợng tác động thì khách thể ln là quan hệ xã
hội trong đó bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ còn đối tƣợng tác động
là một bộ phận hợp thành của khách thể đó. Cịn giữa đối tƣợng tác động và công cụ,
16


phƣơng tiện phạm tội thì: cơng cụ phƣơng tiện phạm tội là vật mà ngƣời phạm tội sử
dụng để tác động vào đối tƣợng tác động, thơng qua đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho khách thể của tội phạm.
2.1.3 Mặt khách quan của tội chống ngƣời thi hành công vụ
2.1.3.1 Hành vi khách quan của tội phạm
Trong yếu tố mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản
nhất. Những biểu hiện khác của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách
quan. Khơng thể nói đến hậu quả của tội phạm cũng nhƣ những biểu hiện khách quan
khác nhƣ công cụ, phƣơng tiện, địa điểm, thời gian phạm tội v.v. khi khơng có hành vi
khách quan của tội phạm. Những nội dung biểu hiện của mặt chủ quan là lỗi, mục đích,
động cơ cũng ln gắn với hành vi cụ thể. Hành vi khách quan của tội phạm là nguyên
nhân làm biến đổi tình trạng của đối tƣợng tác động và do vậy là nguyên nhân gây thiệt
hại cho quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Hành vi khách quan đƣợc coi là cầu nối
giữa khách thể và chủ thể.
Ngƣời phạm tội chống ngƣời thi hành cơng vụ có thể thực hiện một trong hai hành vi
khách quan là: cản trở ngƣời thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ, hoặc ép buộc họ
thực hiện hành vi trái pháp luật khác. Để thực hiện hai hành vi khách quan của tội phạm
này, ngƣời phạm tội có thể thực hiện một trong các thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ
lực hoặc các thủ đoạn khác.
Thứ nhất là thủ đoạn dùng vũ lực. Là cách thức mà ngƣời phạm tội thực hiện, tác
động vào cơ thể ngƣời thi hành công vụ nhƣ: đấm, đá, bóp cổ, đâm… là hành vi nhằm

vào cơ thể ngƣời thi hành công vụ làm cho họ đau đớn mà do đó khơng thực hiện đƣợc
nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, việc dùng vũ lực đối với ngƣời thi hành công vụ phải không gây ra tỉ lệ
thƣơng tật cho ngƣời thi hành công vụ, nếu việc tác động vào ngƣời thi hành công vụ mà
gây ra tỉ lệ thƣơng tật cho họ, hoặc dẫn đến chết ngƣời thì tùy mức độ hậu quả xảy ra mà
ngƣời phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở các tội danh tƣơng ứng tại
chƣơng XX “các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe”.

17


×