Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA
TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN :

THS. NGÔ THỊ ANH VÂN

SINH VIÊN THỰC HIỆN

:

ĐẶNG LÊ PHƯƠNG UN

MÃ SỐ SINH VIÊN

:

1453801012352

NIÊN KHỐ

:

2014 - 2018



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả Khoá luận cam đoan: Khoá luận tốt nghiệp “Pháp luật về phân chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” là kết quả nghiên cứu độc lập và nghiêm túc
của riêng tác giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Ngô Thị Anh Vân
- Giảng viên Khoa Luật Dân sự, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung
Khố luận có sự tham khảo các nguồn tài liệu khác nhau, đảm bảo tính trung thực và tuân
thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tác giả xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả

Đặng Lê Phương Uyên


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

HNGĐ

Hơn nhân và gia đình

BLDS


Bộ luật dân sự


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………………………………………..

1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VIỆC PHÂN CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN……………………...

6

1.1. Khái niệm…………………………………………………………………………...

6

1.1.1. Khái niệm tài sản và tài sản chung của vợ chồng………………………………...

6

1.1.2. Khái niệm hôn nhân và thời kỳ hôn nhân………………………………………...

13

1.1.3. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân……………..

16


1.2. Quá trình phát triển của quy định phân chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân…………………………………………………………….

17

1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945…………………………………….

17

1.2.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước ngày 01/01/2015…………..

19

1.3. Tác động của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn
nhân…………………………………………………………………………………

23

1.3.1. Tác động tích cực…………………………………………………………………

23

1.3.2. Tác động tiêu cực…………………………………………………………………

25

1.4. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về việc phân chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân……………………………………………………..

26


1.4.1. Quy định gián tiếp thông qua thoả thuận của vợ chồng về chế độ tài sản………..

26

1.4.2. Quy định trực tiếp về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân…………………………………………………………………………….

29

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1……………………………………………………………….

32

CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ VIỆC PHÂN CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HƠN NHÂN, BẤT CẬP VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN………………………………………………..

33

2.1. Điều kiện để việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn
nhân có hiệu lực, bất cập và kiến nghị hoàn thiện……………………………….

33

2.1.1. Điều kiện về ý chí………………………………………………………………...

33

2.1.2. Điều kiện về hình thức……………………………………………………………


35

2.1.3. Bất cập và kiến nghị hồn thiện quy định điều kiện có hiệu lực về ý chí của việc
phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân…………………….

37


2.2. Thời điểm phát sinh hiệu lực của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân…………………………………………………………….

41

2.3. Nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân……

43

2.4. Hậu quả của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn
nhân, bất cập và kiến nghị hồn thiện…………………………………………….

46

2.4.1. Hậu quả về quan hệ tài sản của vợ chồng………………………………………...

46

2.4.2. Hậu quả về quan hệ nhân thân của vợ chồng và nghĩa vụ đối với con chung……

51


2.4.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định về hậu quả của việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân đối với mối quan hệ tài sản của vợ chồng………………...

54

2.5. Chấm dứt hiệu lực việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân, bất cập và kiến nghị hoàn thiện……………………………………….

55

2.5.1. Điều kiện để thoả thuận chấm dứt việc phân chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hơn nhân có hiệu lực…………………………………………………

55

2.5.2. Thời điểm có hiệu lực và hậu quả của việc chấm dứt việc phân chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân……………………………………….

57

2.5.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức của
thoả thuận sửa đổi, bổ sung hoặc chấm dứt hiệu lực việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân…………………………………………………..

59

2.6. Thoả thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vô
hiệu, bất cập và kiến nghị hoàn thiện……………………………………………


62

2.6.1. Các trường hợp thoả thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân vô hiệu…………………………………………………………………...
2.6.2. Hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị tuyên bố vô hiệu

62
65

2.6.3. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện giải pháp bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba trong
trường hợp việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân vô
hiệu…………………………………………………………………………………

66

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2……………………………………………………………….

70

KẾT LUẬN……………………………………………………………………………...

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI NĨI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quy định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là sự phát triển và thích nghi của
pháp luật hơn nhân và gia đình với thực tiễn kinh tế - xã hội trong giai đoạn đất nước đổi
mới. Trải qua hơn ba mươi năm tồn tại và nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến nay quy định này
đã đáp ứng một phần nhu cầu độc lập tài chính của vợ chồng. Trong nền kinh tế thị trường
nhiều biến động, mối quan hệ giữa vợ và chồng cũng có nhiều thay đổi thì việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hơn nhân ngày càng được nhiều cặp vợ chồng quan tâm. Tuy nhiên, chia
tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại dường như vẫn còn là lĩnh vực khá xa lạ với gia đình
truyền thống từ xưa đến nay, dẫn đến tâm lý e ngại của vợ, chồng khi muốn tiến hành phân
chia. Từ đây đặt ra vấn đề cần phân tích chuyên sâu quy định này để các chủ thể tham gia
hiểu rõ bản chất việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cũng như quyền và nghĩa vụ
của mình, đảm bảo việc phân chia diễn ra đúng pháp luật và đem lại hiệu quả tốt nhất.
Bên cạnh đó, quy định chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân vẫn cịn tồn tại một
vài hạn chế. Trước đây, khơng có nhiều trường hợp phân chia trên thực tế, môi trường kinh
tế - xã hội không quá phức tạp nên quy định này chưa bộc lộ bất cập. Đến nay, với sự biến
đổi không ngừng của các quan hệ dân sự, nhu cầu phân chia tài sản chung khi hơn nhân đang
tồn tại ngày càng nhiều thì cách quy định đơn giản như pháp luật hiện hành đã thể hiện một
số điểm bất hợp lý. Vì vậy, phải tiến hành phân tích chỉ ra những nội dung cần sửa đổi, bổ
sung; từ đó đề xuất hướng hồn thiện hợp lý, đảm bảo quy định pháp luật phù hợp với tình
hình thực tế xã hội.
Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về phân chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” làm đề tài nghiên cứu cho Khoá luận tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Gia đình là hạt nhân của xã hội, cịn mối quan hệ vợ chồng chính là khởi đầu của một
gia đình mới. Nói cách khác, quan hệ vợ chồng bền vững, tiến bộ là một trong những trụ cột
để xây dựng xã hội ổn định, văn minh. Vì lẽ đó mà có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về
các lĩnh vực khác nhau trong mối quan hệ vợ chồng nói chung và quy định chia tài sản
chung của vợ chồng nói riêng. Tuy nhiên, đa phần các tác giả nghiên cứu toàn diện những



2

trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng hoặc chỉ tập trung vào việc chia tài sản chung
khi ly hơn, có thể kể đến một số cơng trình sau:
- Phạm Thị Hoa (2001), Một số vấn đề pháp lý về việc chia tài sản chung của vợ và
chồng, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Thị Bảo Nga (2003), Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng,
Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Thị Kim Cương (2011), Chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng
đất khi ly hơn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
- Thu Hương, Duy Kiên (2013), “Một số vấn đề cơ bản về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hơn theo luật hơn nhân và gia đình và thực tiễn giải quyết”, Tạp chí Tịa án
nhân dân, số 5, số 6.
Những cơng trình nghiên cứu này có ưu điểm là đem lại cái nhìn tổng quát về các
trường hợp phân chia tài sản chung của vợ chồng, cho phép so sánh giữa chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân với các quy định chia tài sản chung khác. Tuy nhiên, vì nghiên cứu
tồn diện nên các tác giả khó có thể đi sâu vào từng khía cạnh, trong khi việc chia tài sản
chung khi hôn nhân đang tồn tại rất phức tạp, ảnh hưởng nhiều mối quan hệ. Do đó, một
chương hay một mục trong các cơng trình kể trên khơng đáp ứng được u cầu tìm hiểu
chuyên sâu quy định này.
Bên cạnh đó, cũng có những cơng trình nghiên cứu chun về quy định chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhưng đa số dừng lại ở mức độ bài viết trên các
báo, tạp chí. Với quy mơ như vậy, các tác giả khó trình bày cụ thể từng khía cạnh của điều
luật cũng như khơng thể phân tích chi tiết những bất cập còn tồn tại. Các bài viết thường chỉ
nêu và giải thích quy định pháp luật. Có tác giả chỉ ra điểm bất hợp lý trong quy định pháp
luật nhưng không đề xuất hướng giải quyết. Một số công trình nghiên cứu, bài viết về chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là:
- Tô Quang Đô (2009), Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân.
Quy định pháp luật và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ

Chí Minh;
- Nguyễn Văn Cừ (2000), “Chia tài sản chung của vợ chồng khi hơn nhân đang tồn
tại”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 9;


3

- Phùng Trung Tập (2012), “Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn
nhân”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10;
- Phan Duy Đô (2009), “Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
người thứ ba có quyền khởi kiện”, Tạp chí Nghề luật, số 5;
- Phan Tấn Pháp, Nguyễn Nho Hoàng (2012), “Một số vấn đề về chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1;
- Nguyễn Hồng Hải (2003), “Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kì hơn nhân theo pháp luật hơn nhân và gia đình hiện hành”, Tạp chí Luật học, số 5;
- Ngơ Thị Anh Vân, “Quy định về tài sản hình thành trong tương lai và những tác
động đến việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Quy định về tài sản trong bộ luật dân sự 2015 và ảnh hưởng của nó đến các
quy định khác trong pháp luật Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tổ
chức năm 2017 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Hơn nữa, đa số các bài viết kể trên được thực hiện dựa trên Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 đã hết hiệu lực pháp luật, trong khi quy định về chia tài sản chung trong thời
kỳ hơn nhân có sự thay đổi rất lớn giữa pháp luật hiện hành với pháp luật giai đoạn trước.
Một số nội dung trong các bài viết khơng cịn phù hợp với quy định pháp luật cũng như đời
sống thực tế hiện nay. Chính vì vậy, cần có cơng trình nghiên cứu khác theo Luật HNGĐ
năm 2014 để đảm bảo bắt kịp những thay đổi trong pháp luật và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Khi tiến hành phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nếu các bên không hiểu
đúng điều luật thì dễ dẫn đến chia tài sản chung một cách tuỳ tiện, xâm phạm lợi ích gia
đình, con chung và bên thứ ba. Mặt khác, việc không nắm rõ quy định pháp luật cũng làm

cho vợ chồng e ngại việc chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại, hậu quả là nhiều nhu
cầu chính đáng của vợ chồng khó thực hiện được do những quy định nghiêm ngặt khi định
đoạt tài sản thuộc sở hữu chung.
Đề tài “Pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân” hướng đến mục tiêu giải thích các khái niệm pháp lý và phân tích quy định của pháp
luật hiện hành. Đề tài sẽ làm rõ các nội dung trong quy định chia tài sản chung khi hôn nhân
đang tồn tại như điều kiện để việc phân chia có hiệu lực, hậu quả sau khi chia tài sản chung,


4

chấm dứt hiệu lực chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và các trường hợp phân chia vô
hiệu. Qua đó, tác giả sẽ chỉ ra một số điểm bất hợp lý và đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung phù
hợp. Mục đích cuối cùng của đề tài nghiên cứu là vừa làm sáng tỏ quy định hiện hành, vừa
hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả dựa theo nội dung của từng chương để sử dụng phương pháp nghiên cứu thích
hợp, trên cơ sở kết hợp nhiều phương pháp để làm rõ toàn diện vấn đề:
- Phương pháp lịch sử: Pháp luật HNGĐ Việt Nam đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ
sung, quan điểm lập pháp có những thay đổi đáng kể từ thời điểm văn bản pháp luật thành
văn đầu tiên ra đời cho đến đến nay. Phương pháp này thể hiện tư duy pháp lý trong từng
thời kỳ, từ đó có cái nhìn tồn diện về những thay đổi của quy định chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Nội dung Mục 1.2 được nghiên cứu thông qua phương pháp
lịch sử.
- Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong tồn Khố
luận. Tác giả vận dụng phương pháp phân tích để giải thích, làm sáng tỏ các điều luật liên
quan đến việc chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân, từ đó chỉ ra những nội dung nào
tiến bộ, nội dung nào nên sửa đổi.
- Phương pháp tổng hợp: Tác giả tổng hợp những nội dung đã phân tích trong phần

Kết luận chương và Kết luận chung. Đề tài có sự tham khảo những nhận xét và kiến nghị
trong các cơng trình đi trước, kết hợp với quan điểm cá nhân của tác giả để đánh giá các quy
định hiện hành và đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung phù hợp.
- Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở Mục 1.2, Mục
1.4 và những phần trong Chương 2 có sự so sánh với pháp luật HNGĐ các giai đoạn trước.
Phương pháp so sánh chỉ ra ưu điểm của quy định hiện hành so với những văn bản pháp luật
trước đây khi quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Bên cạnh đó cịn so
sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật nước ngoài để học tập những điểm tiến bộ của pháp
luật trên thế giới.


5

- Phương pháp thống kê: Tác giả thống kê tỷ lệ giữa các vụ án về chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân trên tổng số vụ án HNGĐ có tranh chấp tài sản. Những số liệu này là
thể hiện phần nào tình hình pháp luật đi vào thực tiễn đời sống.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Pháp luật HNGĐ hiện hành phân loại việc chia tài sản chung của vợ chồng thành
nhiều trường hợp, trong đó có trường hợp chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại. Một
trong những điểm mới của Luật HNGĐ năm 2014 là thừa nhận vợ chồng có quyền thoả
thuận về chế độ tài sản áp dụng. Nghĩa là từ thời điểm Luật HNGĐ năm 2014 có hiệu lực
pháp luật, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ chịu sự điều chỉnh của quy định
trong chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thoả thuận. Trong thời gian và
kiến thức có hạn, tác giả không nghiên cứu việc chia tài sản chung của vợ chồng theo cả hai
loại chế độ tài sản kể trên mà chỉ tập trung nghiên cứu các đối tượng và trong phạm vi sau
đây:
Về đối tượng nghiên cứu, đề tài chỉ phân tích quy định chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân và các điều luật có liên quan. Những trường hợp chia tài sản
chung khác như chia tài sản chung khi vợ chồng ly hôn hoặc khi một bên chết sẽ không
thuộc đối tượng nghiên cứu của đề tài.

Về phạm vi nghiên cứu, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân có thể diễn ra
theo chế độ tài sản theo luật định hoặc theo chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận. Đề
tài khoanh vùng phạm vi nghiên cứu về phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân đối với chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. Các nội dung liên quan đến chế
độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Bố cục của Khoá luận
Đề tài “Pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn
nhân” có kết cấu 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, phần nội
dung của đề tài gồm 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân
Chương 2. Quy định hiện hành về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân, bất cập và một số kiến nghị hoàn thiện


6

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VIỆC PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm tài sản và tài sản chung của vợ chồng
 Khái niệm tài sản
Trong đời sống thường ngày, tài sản được hiểu bao gồm của cải vật chất và tinh thần
có giá trị đối với chủ sở hữu1. Từ điển Luật học giải thích “tài sản là các vật có giá trị bằng
tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác”2. Pháp luật hiện nay thừa
nhận và bảo vệ tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, bao gồm bất động sản và
động sản, khơng phân biệt đó là tài sản hiện có hay tài sản hình thành trong tương lai3.
Bộ luật dân sự năm 2015 quy định dưới dạng liệt kê, theo đó, tài sản được chia thành
bốn nhóm, bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Vật - trước hết phải là một bộ phận của thế giới vật chất mà con người có thể cảm

nhận trực quan, xác định được hình dáng, kích thước, có khả năng cân, đo, đong đếm. Vật
chỉ trở thành tài sản khi có ích cho con người, tức là thoả mãn một nhu cầu nào đó của con
người (bao gồm cả nhu cầu vật chất và tinh thần). Đồng thời, con người phải có khả năng
chiếm hữu, chi phối vật.
Tiền - “cần hiểu tiền là Việt Nam Đồng (VNĐ), do Ngân hàng Nhà nước Việt nam
độc quyền phát hành, giá trị đồng tiền được ghi trên bề mặt đồng tiền, bất kỳ ai cũng có
quyền sử dụng và tiền được sử dụng rộng rãi trên phạm vi lãnh thổ”4. Tiền được xem là tài
sản thuộc quyền sở hữu vì tiền là phương tiện dùng để thanh toán, là đối tượng trong các
quan hệ hợp đồng, bồi thường thiệt hại. Tiền cũng tồn tại dưới dạng vật như tiền giấy, tiền
xu nhưng chúng được xem là tài sản với tư cách là tiền mà khơng phải là vật vì giá trị lưu
hành của chúng. Tiền có tính ổn định, thực hiện chức năng “trao đổi, thanh toán, dự trữ và
xét về mặt chủ quyền thì tiền bình ổn giá cả và giữ chủ quyền quốc gia”5.
1

Hoàng Phê (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 884.
Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB. Từ điển Bách khoa - NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr.
685.
3
Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015.
4
Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015 của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 204.
5
Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), Sđd, tr. 204.
2


7

Giấy tờ có giá là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển giao được trong giao lưu

dân sự. Loại tài sản này khơng mang tính Nhà nước độc quyền phát hành giống như tiền
nhưng cũng không phải mọi chủ thể đều tạo ra được giống như vật, giấy tờ có giá chỉ được
tạo ra bởi một số chủ thể có đủ điều kiện luật định. Bên cạnh đó, khi thực hiện chuyển
nhượng, các bên không cần chuyển giao thực tế bằng hiện vật mà chỉ cần thông qua thủ tục
giấy tờ tại các tổ chức có trách nhiệm. Giấy tờ có giá sẽ xác nhận quan hệ tài sản với những
chủ thể nhất định như quyền đối với vốn góp hoặc quyền địi nợ trong quan hệ tín dụng. Cần
lưu ý là giấy tờ có giá chỉ được xem là tài sản khi chúng được phát hành hợp pháp và ở thời
điểm có hiệu lực.
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác6. So với quy định
trong BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bỏ hẳn yếu tố “có thể chuyển giao trong giao
dịch dân sự” khi xác định một đối tượng có phải là quyền tài sản hay không7. Thay đổi này
nhằm khắc phục khó khăn khi áp dụng pháp luật do nhiều quyền có giá trị vật chất nhưng
pháp luật khơng cho phép chuyển giao (như quyền mua nhà ở tài định cư hoặc quyền đòi bồi
thường thiệt hại do xâm phạm yếu tố nhân thân). Hơn nữa, “việc mở rộng phạm vi đối tượng
quyền được xem là tài sản mặc dù khơng có khả năng chuyển giao trong giao dịch cịn tạo
tiền đề để ghi nhận một số loại đối tượng có giá trị trong thực tiễn nhưng chưa được pháp
luật thừa nhận bởi hạn chế trong việc chuyển giao của nó như quyền đối với tài sản ảo trên
internet...”8
Ngồi cách phân loại như trên, tài sản còn được chia thành động sản và bất động sản9.
Khoản 1 Điều 107 BLDS năm 2015 liệt kê những tài sản là bất động sản gồm: đất đai; nhà,
cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, cơng trình
xây dựng; tài sản khác theo quy định của pháp luật. Tại khoản 2 Điều này, các nhà làm luật
hướng dẫn xác định động sản theo phương pháp loại trừ: những tài sản không phải là bất
động sản thì là động sản.

6

Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015.
Điều 181 Bộ luật dân sự năm 2005: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao

dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”.
8
Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015, NXB. Hồng Đức, Thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 128-129.
9
Khoản 2 Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015.
7


8

Động sản và bất động sản có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương
lai. Khoản 1 Điều 108 BLDS năm 2015 quy định: “Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành
và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác
lập giao dịch.” Ngược lại, tài sản hình thành trong tương lai là tài sản chưa hình thành hoặc
đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch10.
Tuy nhiên, hiện nay không có điều luật nào giải thích thuật ngữ “hình thành” cũng như
không quy định “khả năng và thời hạn” tài sản sẽ hình thành hoặc chủ thể sẽ xác lập quyền
sở hữu. Dường như sự mở rộng loại hình tài sản này có vẻ hơi quá mức cần thiết khi khơng
hề có bất kỳ điều kiện nào để xác định giới hạn cho tài sản hình thành trong tương lai11.
 Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng là “vật và lợi ích vật chất khác thuộc sở hữu chung của cả
vợ và chồng”12, thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia13. BLDS năm 2015
là nguồn của Luật HNGĐ năm 2014, do đó khái niệm tài sản trong Luật HNGĐ năm 2014
cũng được hiểu theo khái niệm về tài sản đã nêu trước đó. Tài sản chung của vợ chồng có
đầy đủ những đặc điểm như tài sản nói chung. So với những tài sản khác thuộc về cá nhân
vợ hoặc chồng, tài sản chung của vợ chồng có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, sự hình thành và phát triển của khối tài sản chung gắn liền với hôn nhân:
“nếu khơng có hơn nhân thì khơng có tài sản chung; hơn nhân càng dài, khối tài sản chung
càng có điều kiện tốt về thời gian để phát triển lớn mạnh”14. Hôn nhân là điều kiện cần để

làm phát sinh và duy trì tài sản chung của vợ chồng. Khối tài sản chung này thường tồn tại
song song với một quan hệ hơn nhân cụ thể, khơng có trường hợp trước khi bắt đầu thời kỳ
hôn nhân mà giữa nam và nữ lại có tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Thứ hai, vợ chồng sở hữu tài sản chung theo hình thức chung hợp nhất và có thể phân
chia. Khi xác lập quan hệ hôn nhân, vợ chồng ràng buộc lẫn nhau về nhiều mặt, trong đó có
quan hệ tài sản. Song song với tài sản riêng của mỗi người, giữa vợ và chồng sẽ phát sinh tài
sản chung. BLDS năm 2015 quy định có hai hình thức sở hữu chung là sở hữu chung theo
phần và sở hữu chung hợp nhất. Trong khi tài sản riêng hay tài sản chung theo phần luôn cho
10

Khoản 2 Điều 108 Bộ luật dân sự năm 2015.
Đỗ Văn Đại (2016), Sđd, tr. 127.
12
Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Sđd, tr. 686.
13
Khoản 1 Điều 213 Bộ luật dân sự năm 2015.
14
Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, Tập II: Các quan hệ tài sản
giữa vợ chồng, NXB. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 41.
11


9

phép chủ sở hữu xác định cụ thể phần sở hữu của mình và tồn quyền định đoạt phần tài sản
đó (trong khn khổ pháp lý), thì sở hữu chung hợp nhất lại không phân chia giá trị quyền
sở hữu của mỗi người theo tỷ lệ tài sản. Khoản 1 Điều 210 BLDS năm 2015 quy định: “Các
chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu
chung.”
Bản thân hình thức sở hữu chung hợp nhất cũng chia thành hai nhóm, gồm sở hữu

chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia. Tài sản chung
của cộng đồng, phần diện tích, trang thiết bị và các tài sản khác dùng chung trong nhà chung
cư theo quy định của Luật Nhà ở là tài sản chung hợp nhất không phân chia15. Ngược lại,
pháp luật cho phép vợ chồng phân chia tài sản chung của mình. Thời kỳ hôn nhân không tồn
tại mãi mãi, khi chấm dứt hôn nhân thì lẽ đương nhiên là tài sản chung phải được phân chia
cho mỗi người. Thậm chí, dù quan hệ hơn nhân đang tồn tại, vợ chồng vẫn có quyền tiến
hành tách riêng một phần hoặc toàn bộ khối tài sản chung. Quy định tài sản chung của vợ
chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia một mặt đảm bảo tính ổn định của hơn
nhân, một mặt đáp ứng nhu cầu phân chia tài sản của vợ, chồng khi cần thiết.
Luật HNGĐ năm 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng theo hình thức liệt kê16.
Dựa trên một trong những căn cứ: thời điểm phát sinh tài sản, nguồn gốc hình thành tài sản,
ý chí của vợ chồng hoặc suy đoán pháp lý mà tài sản được xác định là tài sản chung của vợ
chồng hay tài sản riêng của mỗi bên.
Thứ nhất, căn cứ vào thời điểm phát sinh, tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là
tài sản chung của vợ chồng. Những tài sản hình thành trong thời kỳ hơn nhân thuộc phạm vi
điều chỉnh của điều luật bao gồm:
Một là, tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Đây là nhóm tài sản chủ yếu để duy trì khối tài sản chung của vợ chồng và chăm lo
đời sống chung trong gia đình. Điều kiện quan trọng để xác định tài sản hình thành từ kết
quả lao động là tài sản chung của vợ chồng đó là vợ, chồng có được tài sản trong thời kỳ hôn

15
16

Khoản 3 Điều 211, khoản 1 Điều 214 Bộ luật dân sự năm 2015.
Điều 33 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.


10


nhân17. Cách thức hình thành tài sản có thể là do vợ và chồng cùng trực tiếp lao động hoặc
một trong hai bên trực tiếp lao động để tạo ra tài sản.
Khái niệm “tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân” từng gây tranh cãi vào thời điểm
Luật HNGĐ năm 2000 có hiệu lực. Cụ thể là trường hợp giao dịch làm phát sinh tài sản hình
thành trước khi kết hôn và được thực hiện bằng tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng
nhưng đến sau khi kết hơn mới hồn thành và xác lập quyền sở hữu cho vợ, chồng. Luật
HNGĐ năm 2014 đã giải quyết vấn đề trên khi khẳng định “tài sản được hình thành từ tài
sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng”18. Điều này có nghĩa là, cụm từ
“có được trong thời kỳ hơn nhân” cần được xem xét vào thời điểm vợ, chồng xác lập giao
dịch chứ khơng phải thời điểm hồn thành giao dịch19.
Hai là, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng. Nhóm tài sản này bao
gồm sản vật tự nhiên từ tài sản riêng của vợ, chồng và khoản lợi thu được từ việc khai thác
tài sản riêng của vợ, chồng20. Quy định mới trong Luật HNGĐ năm 2014 đã khắc phục
nhược điểm không rõ ràng từ Luật HNGĐ năm 2000, bác bỏ những quan điểm cho rằng hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng thì phải thuộc về riêng chủ sở hữu. Quan hệ tài sản trong
hơn nhân có những đặc thù riêng so với các quan hệ tài sản khác mà điển hình là vai trị đảm
bảo kinh tế gia đình và góp phần giữ ổn định, bền vững mối quan hệ vợ chồng. Do đó xu
hướng chấp nhận thêm nhiều nguồn tài sản được xem là tài sản chung của vợ chồng tỏ ra
hợp lý hơn hướng ngược lại. Thêm vào đó, thực tế vợ chồng thường cùng nhau đầu tư thời
gian, công sức khai thác tài sản để hưởng hoa lợi, lợi tức chung. “Đây cũng có thể xem là tài
sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh mà vợ, chồng
có được trong thời kỳ hôn nhân.”21
Ba là, các khoản thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Theo
hướng dẫn tại Điều 9 và khoản 3 Điều 11 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, thu nhập hợp pháp
khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân gồm: khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số,
tiền trợ cấp (trừ khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật
về ưu đãi người có cơng với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ,
17

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam (tái bản có

sửa đổi, bổ sung), NXB. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 210.
18
Khoản 2 Điều 43 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
19
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Sđd, tr. 211.
20
Điều 10 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật Hơn nhân và gia đình.
21
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Sđd, tr. 214.


11

chồng); tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự
đối với vật vơ chủ, vật bị chơn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia
cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước; thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Điều kiện để những tài sản này được công nhận là tài sản chung của vợ chồng là nguồn gốc
tài sản hợp pháp và hình thành trong thời kỳ hơn nhân. Tính chất “hợp pháp” của tài sản
được xác định thông qua cách thức hình thành tài sản mà nó thể hiện ra bên ngồi, nghĩa là
dù tài sản có được bằng con đường bất hợp pháp nhưng không bị phát hiên, xử lý thì “sự
hiện diện của tài sản trong gia đình cũng được xem là tài sản chung của vợ chồng, có chế độ
pháp lý giống những tài sản chung khác”22.
Thứ hai, căn cứ vào nguồn gốc hình thành, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc được tặng cho chung là tài sản chung của vợ chồng. Để xác định tài sản được tặng cho
chung hoặc được thừa kế chung là tài sản chung của vợ chồng thì người tặng cho cũng như
người để lại thừa kế phải không xác định phần quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng trong
khối tài sản đó. Nếu khơng hình thức sở hữu của vợ chồng đối với tài sản được tặng cho
chung, được thừa kế chung sẽ là sở hữu chung theo phần. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào
ý chí của người có tài sản tặng cho hoặc người để lại di sản. Cần lưu ý là vợ chồng được

thừa kế chung chỉ khi hưởng thừa kế theo di chúc vì nếu thừa kế theo pháp luật thì lúc này
vợ, chồng sở hữu riêng vì pháp luật đã phân chia phần di sản mỗi người được hưởng.
Thứ ba, căn cứ vào ý chí của vợ chồng, tài sản mà vợ chồng thoả thuận là tài sản
chung là tài sản chung của vợ chồng. Đối tượng của thoả thuận thường là tài sản có sự khơng
rõ ràng giữa sở hữu chung và sở hữu riêng hoặc là tài sản riêng của một bên vợ, chồng. Vấn
đề pháp lý đặt ra cho nhóm tài sản này là hiệu lực của thoả thuận, bởi vì thoả thuận về tính
chất chung hay riêng của một tài sản không chỉ là câu chuyện riêng của vợ chồng mà cịn
ảnh hưởng đến lợi ích của người thứ ba23. Về nguyên tắc, pháp luật không can thiệp vào
những thoả thuận hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của vợ chồng nhưng phải đảm bảo điều
kiện là thoả thuận khơng xâm phạm lợi ích chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác.
Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn những trường hợp thoả thuận này của vợ chồng
bị vô hiệu, trong khi đây là một nội dung đã được thừa nhận từ giai đoạn Luật HNGĐ năm
22
23

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Sđd, tr. 217.
Nguyễn Ngọc Điện (2004), Sđd, tr. 63.


12

2000 có hiệu lực. Cụ thể, thoả thuận nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng
sẽ vô hiệu nếu nhằm trốn tránh một trong các nghĩa vụ sau: nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp
dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh tốn khi bị Tịa án tuyên bố phá sản;
nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với
Nhà nước; nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, BLDS và quy định khác của
pháp luật có liên quan24. Nội dung này tương tự điều kiện có hiệu lực của thoả thuận chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân theo pháp luật hiện hành. Có thể thấy, bản
chất thoả thuận một tài sản là tài sản chung cũng làm chuyển biến tính chất chung - riêng của

tài sản giống như thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân. Vì vậy, nếu phải đặt
vấn đề “liệu sự thoả thuận giữa vợ chồng về một tài sản là tài sản chung có hiệu lực hay
khơng” thì có thể áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết.
Thứ tư, căn cứ vào suy đoán pháp lý, tài sản đang có tranh chấp mà vợ, chồng khơng
chứng minh được là tài sản riêng thì được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Đương
nhiên, nguyên tắc suy đốn này sẽ khơng áp dụng cho những tài sản mà tính chất riêng bộc
lộ hẳn ra bên ngồi và việc chứng minh trở nên khơng cần thiết (ví dụ như tài sản là vật phụ
của tài sản riêng, kỷ vật gia đình, dịng họ có mang dấu ấn, ký hiệu riêng,…)25. Quy định này
giúp mở rộng phạm vi tài sản thuộc hình thức sở hữu chung, hạn chế những xáo trộn có thể
xảy ra đối với tài sản chung của vợ chồng, qua đó bảo vệ tính ổn định của khối tài sản chung
và xa hơn là bảo vệ sự bền vững của gia đình.
Như vậy, mặc dù có nhiều căn cứ để xác định tính chất chung - riêng của tài sản trong
quan hệ vợ chồng nhưng điểm chung dễ nhận thấy là căn cứ nào cũng theo hướng khuyến
khích mở rộng, phát triển khối tài sản chung. Vợ chồng càng có nhiều tài sản thuộc sở hữu
chung hợp nhất thì càng có nhiều quyền và nghĩa vụ chung, buộc mỗi bên phải dành sự quan
tâm đúng mức đến bên cịn lại nói riêng và cả gia đình nói chung. Đây là hướng quy định
phù hợp để đảm bảo mối quan hệ vợ chồng sẽ trở nên bền chặt hơn thông qua sự ràng buộc
về tài sản.

24

Khoản 2 Điều 13 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2001 Quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và
gia đình.
25
Nguyễn Ngọc Điện (2004), Sđd, tr. 87.


13

1.1.2. Khái niệm hôn nhân và thời kỳ hôn nhân

 Khái niệm hôn nhân
Hôn nhân là mối quan hệ được xác lập giữa một nam và một nữ thoả mãn các điều
kiện luật định. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “quan hệ là sự gắn liền về mặt nào đó giữa hai
hay nhiều sự vật khác nhau, khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác động đến sự
vật kia”26, vì vậy có thể suy ra hôn nhân là sự gắn liền về nhân thân và tài sản giữa hai cá
nhân nam và nữ một cách hợp pháp. Yếu tố “hợp pháp” được hiểu là sự tuân thủ các quy
định của pháp luật về điều kiện kết hôn - điều kiện nội dung và đăng ký kết hơn - điều kiện
hình thức (trừ một số trường hợp ngoại lệ được pháp luật quy định). Ngoài ra, Từ điển Luật
học còn bổ sung thêm điều kiện để hôn nhân được pháp luật thừa nhận, cụ thể: việc nam và
nữ xác lập quan hệ hôn nhân phải nhằm mục đích chung sống lâu dài và cùng nhau xây dựng
gia đình hạnh phúc, những mục đích khác trong hơn nhân đều không được công nhận và
không làm phát sinh quan hệ vợ chồng trước pháp luật27. Như vậy, có thể hiểu, hôn nhân là
sự gắn kết về nhân thân và tài sản giữa hai cá nhân nam và nữ một cách hợp pháp, hai bên
dành cho nhau sự giúp đỡ và hỗ trợ cần thiết để tạo lập một gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc và bền vững. Dưới góc độ pháp lý, hơn nhân là “quan hệ giữa vợ và chồng
sau khi kết hôn”28.
Hôn nhân vừa là hiện tượng tự nhiên, vừa là hiện tượng xã hội. Một mặt, hơn nhân
thoả mãn nhu cầu tình cảm và đáp ứng quy luật sinh tồn. Mặt khác, hôn nhân chịu sự điều
chỉnh và chi phối của các yếu tố xã hội như đạo đức, tôn giáo, pháp luật,… Hơn nhân là nền
tảng, là cơ sở hình thành nên gia đình, từ đó mang ý nghĩa duy trì và phát triển xã hội.
 Khái niệm thời kỳ hôn nhân
Theo cách hiểu thông thường, thời kỳ là “khoảng thời gian được phân chia ra theo
một sự việc hay sự kiện nào đó”29. Luật HNGĐ năm 2014 quy định, thời kỳ hôn nhân là
“khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hơn đến ngày
chấm dứt hôn nhân”30. Như vậy thời kỳ hôn nhân là một khoảng thời gian xác định, có bắt
đầu và kết thúc. Trong cả cuộc đời con người, thời kỳ hơn nhân thực ra chỉ là một giai đoạn
26

Hồng Phê (2006), Sđd, tr. 799.
Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Sđd, tr. 629.

28
Khoản 1 Điều 3 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
29
Hồng Phê (2006), Sđd, tr. 956.
30
Khoản 13 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
27


14

và được phân chia với các giai đoạn khác bằng thời điểm bắt đầu hôn nhân - ngày đăng ký
kết hôn và thời điểm kết thúc hôn nhân - ngày chấm dứt hôn nhân. Tuy nhiên, những điều
luật khác trong Luật HNGĐ năm 2014 và các văn bản hướng dẫn cho thấy việc đăng ký kết
hôn không phải cách thức duy nhất để xác lập quan hệ hơn nhân. Có thể chia thời điểm bắt
đầu thời kỳ hôn nhân thành ba nhóm như sau:
Thứ nhất, thời kỳ hơn nhân bắt đầu từ ngày đăng ký kết hôn. Đăng ký kết hơn là việc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện kết hôn của vợ chồng. Bên cạnh điều
kiện cần là thoả mãn các điều kiện kết hôn thì đăng ký kết hơn chính là điều kiện đủ để hôn
nhân trở nên hợp pháp. Từ thời điểm việc kết hôn được thực hiện đúng thủ tục và nghi thức
luật định, Nhà nước sẽ thừa nhận nam, nữ là vợ chồng. Nghi thức kết hôn được pháp luật
công nhận hiện nay là nghi thức dân sự, các nghi thức kết hôn khác như nghi thức tôn giáo
hay lễ cưới thực tế sẽ không được xem là sự kiện làm phát sinh hôn nhân, dù các bên tuân
thủ điều kiện kết hôn. Thẩm quyền đăng ký kết hôn được thực hiện theo Luật HNGĐ năm
2014 và Luật Hộ tịch năm 201431. Nếu việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền thì khi
có u cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, huỷ bỏ giấy chứng nhận kết hôn theo
quy định của pháp luật về hộ tịch và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hơn lại
tại cơ quan có thẩm quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày
đăng ký kết hôn trước32.
Thứ hai, thời kỳ hôn nhân có thể bắt đầu từ ngày nam, nữ chung sống với nhau như

vợ chồng. Cụ thể, nếu nam, nữ đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau như vợ chồng từ
trước ngày 03/01/1987 thì khơng bắt buộc họ phải đăng ký kết hôn, việc đăng ký kết hôn
được pháp luật khuyến khích chứ khơng áp đặt như một nghĩa vụ33.
Trường hợp nam, nữ đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau như vợ chồng từ
ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hơn trong thời hạn hai
năm, kể từ ngày Luật HNGĐ năm 2000 có hiệu lực đến ngày 01/01/2003; trong thời hạn này
mà họ khơng đăng ký kết hơn nhưng có u cầu ly hơn thì Tồ án áp dụng các quy định về
31

Khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 123 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 123 Luật Hộ tịch năm 2014; Điều 18
Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ
tịch.
32
Điều 13 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
33
Điểm b, khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016
Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hơn nhân và gia đình. Cần lưu ý rằng, đến thời điểm xảy ra tranh chấp
hoặc xảy ra sự kiện pháp lý (một trong hai bên chết) mà nam, nữ vẫn đang chung sống với nhau như vợ chồng thì mới
được thừa nhận quan hệ hơn nhân.


15

ly hôn của Luật HNGĐ năm 2000 để giải quyết34. Điều này có nghĩa là, trong thời hạn luật
định, nếu hai bên nam và nữ đăng ký kết hôn, hoặc khơng đăng ký kết hơn nhưng có u cầu
ly hơn, thì quan hệ hơn nhân được xác lập từ ngày nam và nữ chung sống với nhau như vợ
chồng. Ngược lại, nếu hai bên đăng ký kết hôn sau ngày 01/01/2003 thì thời kỳ hơn nhân của
họ bắt đầu từ ngày đăng ký kết hôn.
Được hiểu là “chung sống với nhau như vợ chồng” khi nam và nữ: có tổ chức lễ cưới
khi về chung sống với nhau; việc họ về chung sống với nhau được gia đình một hoặc hai bên

chấp nhận; việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; họ
thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình35.
Thứ ba, thời kỳ hơn nhân bắt đầu từ ngày nam và nữ kết hôn trái pháp luật đủ điều
kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Kết hôn trái pháp luật là việc kết hôn đã đăng ký
đúng thủ tục tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng ở thời điểm kết hôn một hoặc cả hai
bên tham gia việc kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn luật định36. Việc kết hôn này tuy
được Cơ quan hộ tịch cấp Giấy chứng nhận kết hôn nhưng không làm phát sinh quan hệ vợ
chồng giữa nam và nữ, đồng nghĩa với việc thời điểm đăng ký kết hôn không được xem là
thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân. Về nguyên tắc, việc kết hôn vi phạm một trong các điều
kiện kết hơn sẽ bị Tồ án nhân dân ra quyết định huỷ kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu
thời điểm Tồ án giải quyết mà cả hai bên đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định pháp
luật và đều yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tồ án quyết định cơng nhận quan hệ
hơn nhân đó kể từ thời điểm các bên kết hơn có đủ điều kiện kết hôn37.
Một trường hợp khác mà thời kỳ hôn nhân cũng bắt đầu từ thời điểm hai bên đủ điều
kiện kết hơn là: khi Tịa án giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, các điều kiện kết
hôn đều được thoả mãn, lúc này nếu hai bên cùng u cầu Tồ án cho ly hơn hoặc một bên
u cầu ly hơn cịn bên kia u cầu cơng nhận quan hệ hơn nhân. Lúc này, Tồ án quyết
định cho ly hôn. Khoảng thời gian từ khi hai bên đủ điều kiện kết hôn đến khi ly hơn được
cơng nhận là thời kỳ hơn nhân (bởi vì quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên
34

Điểm b Mục 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 Về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
Điểm d Mục 2 Thơng tư liên tịch 01/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03 tháng 01 năm 2001 Hướng dẫn
thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội “Về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia
đình”.
36
Khoản 6 Điều 3 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
37
Khoản 2 Điều 11 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014; điểm a, khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hơn nhân và gia
đình.

35


16

trong khoảng thời gian này được giải quyết theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng
khi ly hôn tại Điều 59 Luật HNGĐ năm 201438).
Hiện nay, pháp luật chỉ thừa nhận hai trường hợp chấm dứt hôn nhân, bao gồm hôn
nhân chấm dứt do ly hôn và hôn nhân chấm dứt do vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố
là đã chết. Trong mỗi trường hợp, thời điểm hôn nhân chấm dứt cũng được quy định rất rõ
ràng. Cụ thể, khi vợ chồng ly hơn thì “quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết
định ly hơn của Tịa án có hiệu lực pháp luật”39. Nếu một trong hai bên vợ, chồng chết về
mặt sinh học thì hơn nhân chấm dứt tại thời điểm vợ hoặc chồng chết (được thể hiện trong
giấy khai tử). Trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng đã chết thì thời điểm hơn nhân
chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tịa án. 40
Như vậy, thời kỳ hơn nhân là một khoảng thời gian xác định, có thời điểm bắt đầu và
thời điểm kết thúc. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà thời điểm bắt đầu hôn nhân được xác
định là ngày đăng ký kết hôn hoặc ngày các bên chung sống với nhau như vợ chồng hoặc
ngày các bên đủ điều kiện kết hôn. Từ lúc này, thời kỳ hôn nhân phát sinh và tồn tại cho đến
khi các bên ly hôn hoặc một trong hai bên chết hay bị tuyên bố là đã chết theo bản án, quyết
định của Toà án.
1.1.3. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Theo cách hiểu thông thường, “chia” là “làm ra thành từng phần từ một chỉnh thể”41.
“Chỉnh thể” trong trường hợp này chính là khối tài sản chung hợp nhất của vợ chồng, vốn là
một thể thống nhất không phân biệt tỷ lệ sở hữu của mỗi người. Khi tiến hành chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng đã tách một phần hoặc tồn bộ khối tài sản chung
thống nhất đó thành từng phần và xác định phần tương ứng đó là tài sản riêng của một bên.
Từ đó, có thể định nghĩa:
Phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc xác định quyền
sở hữu riêng của vợ, chồng đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản chung của vợ chồng khi

hôn nhân đang tồn tại.

38

Điểm c, khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016
Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
39
Khoản 1 Điều 57 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
40
Điều 65 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
41
Hoàng Phê (2006), Sđd, tr. 155.


17

Về bản chất, quy định phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là
một trường hợp chia tài sản thuộc sở hữu chung theo pháp luật dân sự. Tuy nhiên, do gắn
với quan hệ hôn nhân, quy định này vẫn mang tính chất đề cao tình cảm, đồng thời hướng
đến giảm thiểu những tác động tiêu cực đối với tài sản gia đình nói riêng và mối quan hệ vợ
chồng nói chung. Điều này thể hiện qua nguyên tắc phân chia tài sản, hậu quả pháp lý khi
chia tài sản chung, trường hợp việc phân chia bị vô hiệu,… Việc chia tài sản chung chỉ được
tiến hành trên cơ sở đảm bảo không xâm phạm lợi ích gia đình, quyền và lợi ích hợp pháp
của con chung và chủ thể thứ ba khác. Vợ chồng vẫn có trách nhiệm duy trì đời sống gia
đình, các quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng với nhau và với con chung khơng thay đổi.
Tóm lại, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân tác động đến quan hệ tài sản
của vợ chồng mà không gây ảnh hưởng đến quan hệ nhân thân cũng như quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng đối với gia đình và con chung. Thậm chí trong trong mối quan hệ tài sản, việc
phân chia cũng không làm thay đổi chế độ tài sản của vợ chồng. Chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân chỉ xác định lại thành phần thực tế của khối tài sản chung, đồng thời làm

thay đổi hình thức sở hữu của một số loại tài sản phát sinh sau thời điểm chia tài sản chung
(thay vì thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng thì từ sau sự kiện chia tài sản chung sẽ là
tài sản riêng của mỗi bên).
1.2. Quá trình phát triển của quy định phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân
1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945
 Thời kỳ phong kiến
Quốc Triều hình luật và Hồng Việt luật lệ là hai bộ luật điển hình cho pháp luật thời
kỳ phong kiến ở Việt Nam. Quốc Triều hình luật được xem là đỉnh cao của thành tựu lập
pháp Việt Nam thời phong kiến. Vượt qua những định kiến về vị trí, vai trị của người phụ
nữ do ảnh hưởng Nho giáo, Bộ luật này có những quy định nâng cao quyền lợi của người vợ,
đặt người vợ ở vị thế ngang bằng với chồng về tài sản. Cụ thể là người vợ được trao quyền
có tài sản riêng (thê gia điền sản) và bình đẳng với chồng trong sở hữu khối tài sản chung
(tân tạo điền sản), khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi42. Việc cho phép
chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân chấm dứt và hướng theo nguyên tắc chia đơi
42

Điều 374, Điều 375 Quốc Triều hình luật.


18

là điểm sáng nổi bật của Quốc Triều hình luật khi đặt trong bối cảnh tư tưởng “trọng nam
khinh nữ”, “xuất giá tòng phu” còn được đề cao và chi phối mọi mối quan hệ xã hội.
Đáng tiếc đến Hoàng Việt luật lệ thì những điểm tích cực trên đều bị bãi bỏ. Người
vợ khơng cịn quyền sở hữu tài sản riêng cũng như quyền đối với tài sản chung. Có tác giả
nhận xét Hồng Việt luật lệ như sau: “Bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều
Lê đã khơng cịn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà Nguyễn. Khơng cịn những
điều khoản liên quan đến hương hoả, đến chúc thư, đến các điều kiện về giá thú, đến chế độ
tài sản của vợ chồng.”43 Ngun nhân chính là vì Hồng Việt luật lệ sao chép gần như toàn

bộ Luật Đại Thanh, bộc lộ rõ ràng định kiến giới cũng như phân biệt đối xử giữa nam và nữ.
Pháp luật thời Nguyễn nói chung và Hồng Việt luật lệ nói riêng tước bỏ quyền của người
vợ, ít quan tâm đến tài sản của vợ chồng. Nội dung bất bình đẳng này trong Hồng Việt luật
lệ đã tạo nên sự thụt lùi trong lịch sử lập pháp của Việt Nam.
 Thời kỳ Pháp thuộc
Trong quá trình xâm lược và cai trị nước ta, thực dân Pháp nhất quán áp dụng chính
sách “chia để trị”. Từ đó dẫn đến việc trên một đất nước thuộc địa mà Pháp ban hành đến ba
Bộ Dân luật áp dụng cho ba miền Bắc - Trung - Nam, lần lượt là Bộ Dân luật Bắc Kỳ, Bộ
Dân luật Trung Kỳ và Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ. Cả ba bộ luật này đều không quy định
về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân.
Nhìn chung, trong thời kỳ Pháp thuộc, các quy định về chia tài sản của vợ chồng khi
chấm dứt quan hệ hơn nhân đều thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, sự bất công đối
với người vợ, bảo vệ quyền của người gia trưởng - người chồng trong gia đình. Điểm khác
biệt là Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ hồn tồn khơng có quy định về chia tài sản giữa vợ và
chồng, còn Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Bộ Dân luật Trung Kỳ có đặt vấn đề chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn hoặc khi người chồng chết mà vợ cải giá. Tuy nhiên, nguyên tắc
chia không phải là chia đôi bình đẳng: Bộ Dân luật Bắc Kỳ cho phép người vợ nhận một
phần trong tài sản chung tuỳ thuộc kỷ phần người vợ đã đóng góp44, cịn Bộ Dân luật Trung
Kỳ quy định phần người vợ được nhận là một phần ba tài sản chung45. Riêng Bộ Dân luật

43

Vũ Văn Mẫu (1973), Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử - Quyển 1, Tập 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Điều 112 Bộ Dân luật Bắc Kỳ.
45
Điều 110 Bộ Dân luật Trung Kỳ.
44


19


giản yếu Nam Kỳ do không thừa nhận người vợ có tài sản riêng hay chế độ tài sản chung
giữa vợ chồng nên không đặt ra vấn đề chia tài sản.
Bộ Dân luật Bắc Kỳ khơng có quy định về ly thân như Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ
nhưng chế định ly thân dần được thừa nhận bằng cách xác lập qua các án lệ. “Trong một bản
án của Toà Thượng thẩm Hà Nội, trên cơ sở lập luận rằng, nếu người chồng đuổi người vợ
ra khỏi nơi cư trú chung của vợ chồng hoặc chồng ngược đãi, ép buộc người vợ phải sống
chung với một tình nhân của chồng tại nơi ở chung của vợ chồng mà người vợ khơng chấp
nhận, thì người vợ có quyền xin Tồ án ấn định một nơi ở riêng, với hy vọng người chồng sẽ
thay đổi tính tình.”46 Có thể thấy, việc Toà án cho phép vợ chồng ly thân chỉ giải quyết nhu
cầu tách riêng nơi ở mà không đáp ứng nguyện vọng tách riêng tài sản, trong khi Bộ Dân
luật Bắc Kỳ có quy định chia tài sản chung. Như vậy, về mặt luật định lẫn thực tiễn, pháp
luật thời kỳ Pháp thuộc đều không ghi nhận việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân.
1.2.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước ngày 01/01/2015
 Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước ngày 13/01/1960
Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành cơng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành
một loạt Sắc lệnh, một mặt giữ ổn định hệ thống pháp luật, một mặt chọn lọc các văn bản
pháp luật của chế độ cũ vừa kế thừa những giá trị tốt đẹp trong kỷ cương xã hội, vừa phù
hợp với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Sắc lệnh 47
ngày 10/10/1945 giữ lại nội dung về HNGĐ trong cả ba Bộ Dân luật do Pháp ban hành. Như
vậy, lúc này quy định phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vẫn chưa được hình
thành.
Ngày 22/5/1950, Sắc lệnh 97 ra đời, được xem là bước ngoặt lớn trong cuộc cải cách
tư pháp 1950, với nội dung cải cách các quyền dân sự. Trong lĩnh vực HNGĐ, nội dung Sắc
lệnh 97 chủ yếu điều chỉnh các quyền nhân thân giữa vợ chồng và giữa cha mẹ con, còn vấn
đề tài sản vẫn áp dụng Bộ Dân luật ở ba miền, miễn sao không trái tinh thần dân chủ, bình
đẳng của Sắc lệnh. Nghĩa là, với quy định “chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình”47
thì khi áp dụng các Bộ Dân luật cũ để chia tài sản cho vợ, chồng, cơ quan tư pháp phải chia
đều tài sản chung mà khơng được có bất cứ sự thiên vị nào.

46
47

Ngơ Thu Trang (2016), “Pháp luật Việt Nam với vấn đề ly thân”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8, tr. 39-40.
Điều 5 Sắc lệnh 97 ngày 22 tháng 5 năm 1950.


20

Vấn đề ly hôn được điều chỉnh cụ thể trong Sắc lệnh 159 ngày 17/11/1950. Tuy
nhiên, Sắc lệnh 159 chỉ tập trung vào căn cứ, thủ tục ly hôn và bảo vệ quyền lợi của con
chung48 mà không giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng.
Có thể nói, pháp luật HNGĐ trong giai đoạn này mang tính chất chuyển tiếp giữa chế
độ cũ và chế độ mới, các điều luật tập trung bảo vệ quyền bình đẳng, dân chủ trong mối
quan hệ hơn nhân, gia đình hơn là điều chỉnh các quyền tài sản phát sinh từ hôn nhân. Đặc
biệt, thời kỳ này đề cao chế độ sở hữu chung, dẫn đến quy định chia tài sản chung của vợ
chồng chưa được quan tâm đúng mức, còn việc phân chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hơn nhân hồn tồn khơng được ghi nhận.
 Giai đoạn từ ngày 13/01/1960 đến trước ngày 03/01/1987
Do đặc điểm lịch sử đất nước bị chia cắt nên pháp luật nói chung và pháp luật HNGĐ
nói riêng được áp dụng ở hai miền Nam, Bắc khơng giống nhau. Ngồi Bắc, chính quyền
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành Luật HNGĐ năm 1959, còn ở miền Nam, các văn
bản pháp luật điều chỉnh quan hệ HNGĐ thay đổi theo từng thời kỳ.
Luật HNGĐ năm 1959 ra đời trong hoàn cảnh lợi ích chung và sở hữu chung được đề
cao và ưu tiên hàng đầu, lợi ích cá nhân phải ln gắn liền với lợi ích tập thể, mặt khác cũng
khơng tồn tại nhiều hình thức sở hữu và đa dạng thành phần kinh tế như hiện nay. Thời kỳ
này, sở hữu của vợ chồng là sở hữu chung tuyệt đối, pháp luật không thừa nhận việc một cá
nhân đang trong mối quan hệ vợ chồng lại có tài sản riêng của mình, dù cho tài sản đó có
nguồn gốc như thế nào, thời điểm phát sinh trước hay sau khi kết hơn49. Vì vậy, việc phân
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - hành vi làm xuất hiện sở hữu riêng của mỗi bên cũng không được ghi nhận. Chỉ có hai trường hợp vợ chồng được chia tài sản chung là ly

hôn hoặc một bên chết trước. Nguyên tắc phân chia cũng có sự khác biệt so với hiện nay, do
chế độ sở hữu chung hợp nhất chưa được quy định nên không áp dụng nguyên tắc chia đơi
tài sản chung mà căn cứ vào cơng sức đóng góp để chia giống như khi chia tài sản chung
theo phần.
Ở miền Nam, văn bản pháp luật đầu tiền điều chỉnh quan hệ HNGĐ trong giai đoạn
này là Luật Gia đình 1/59 ngày 02/01/1959. Theo quan điểm của các nhà lập pháp, “gia đình
48

Điều 2 - Điều 7 Sắc lệnh 159 ngày 17 tháng 11 năm 1950.
Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau
đối với tài sản có trước và sau khi cưới”.
49


×