Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.44 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>GIÚP HỌC SINH YẾU LỚP HAI HỌC ĐỌC, HỌC VIẾT </b>
<b>GÓP PHẦN GIẢM THIỂU HỌC SINH LƯU BAN.</b>
<i><b>1/ Lý do chọn để tài:</b></i>
Cuộc vận động của Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân về việc “Nói khơng với tiêu
cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” như một làn gió mới làm thay đổi
cách nhìn, cách đánh giá về thực trạng chất lượng giáo dục hiện nay. Cũng chính từ đó
ngành Giáo dục có những động thái tích cực cho chất lượng sắp tới và các thầy cơ giáo có
cơ hội được dạy đúng lương tâm của mình, họ khơng bị sức ép của bệnh thành tích từ
nhiều phía, các em học sinh được đánh giá cơng bằng, chính xác.
Nhưng cũng phải thẳng thắn mà nói rằng: Hậu quả của bệnh thành tích những năm
qua bây giờ chúng ta phải gánh chịu. Như trên truyền hình báo chí nhiều nơi đã đưa tin,
một bộ phận không nhỏ học sinh đang ngồi nhầm lớp. Hiện tượng học sinh lớp bảy, lớp
tám không biết đọc là nỗi đau âm ĩ mà những ngày qua ngành Giáo dục phải chịu trước
những phán xét của dư luận.
Thực trạng về chất lượng là vấn đề đáng quan tâm, mà đánh giá đúng chất lượng
học sinh lại càng đáng quan tâm. Sẽ có nhiều học sinh khơng theo kịp chương trình, lưu
ban, bỏ học, khơng thể chối cãi điều đó.
Một bên là chất lượng, một bên là quyền được học của các cháu! Trước tình hình
đó Sở Giáo duc & Đào tao Bình Thn đã có cơng văn số 176/SGD&ĐT-TH ngày
02/10/2006 về việc giảm thiểu học sinh lưu ban và khắc phục tình trạng học sinh ngồi
nhầm lớp ở cấp tiểu học.
Để thực hiện sự chỉ đạo của Sở, đội ngũ cốt cán tiến hành khảo sát chất lượng học
sinh các khối lớp đặc biệt khối lớp hai để tìm ra giải pháp giúp các em tránh nguy cơ ở lại
Từ những lý do trên tổ cốt cán hình thành sáng kiến kinh nghiệm: <i><b>GIÚP HỌC</b></i>
<i><b>SINH YẾU LỚP HAI HỌC ĐỌC, HỌC VIẾT GÓP PHẦN GIẢM THIỂU HỌC SINH</b></i>
<i><b>LƯU BAN.</b></i>
<i><b>2/ Nội dung:</b></i>
Trong thời gian qua, trên các thông tin đại chúng từ trung ương đến địa phương
hoặc trên các diễn đàn hội nghị, chúng ta nghe nói nhiều đến thực chất chất lượng dạy và
học .... thúc giục mọi người không thể thờ ơ trước thực trạng của học sinh bị sa sút, hoặc
học sinh chưa biết đọc biết viết khi đã hồn thành chương trình bậc tiểu học.
Thật ra trong những năm gần đây tỉ lệ học sinh lớp 1, 2, 3, 4 lưu ban của toàn một
năm học như sau:
Theo số liệu thống kê chất lượng những năm gần đây của Sở Giáo dục & Đào tạo.
- Năm học 2004 – 2005: 1.869/119.390; tỉ lệ: 1,56%
Tuy nhiên, các thành viên trong tổ Tiếng Việt đã khảo sát thống kê thực trạng số
học sinh lớp hai có nguy cơ lưu ban của các Huyện đầu năm học 2006-2007 như sau:
Tuy Phong : 202 – 7,8% Hàm Thuận Nam: 157 – 8,4%
Bắc Bình: 220 – 9,1% Hàm Tân: 99 – 6,9%
Hàm Thuận Bắc: 217 – 6,9% La Gi: 96 – 4,9%
Phan Thiết: 304 – 9,3% Tánh Linh: 307 – 15,0%
Đức Linh: 146 – 5,9% Phú Quý: 54 – 10,6%
Từ số liệu đầu năm học 2006 – 2007 và các năm về trước, chúng tôi đã xác định
nguyên nhân thực trạng như sau:
<i><b>- Nguyên nhân khách quan:</b></i>
Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là do đại bộ phận nhân dân sống bằng nghề
nơng, làm biển kinh tế khó khăn nên ít quan tâm đến việc học của con em mình. Nghề
nơng và nghề biển thường sử dụng lao động ở lứa tuổi học sinh tiểu học trong việc phụ
giúp gia đình nên các em khơng có thời gian học tập, học tập không chuyên cần, nhận
thức về giáo dục của người dân tộc thiểu số còn hạn chế. Học sinh là dân tộc thiểu số
chưa thông thạo tiếng phổ thơng nên tiếp thu bài cịn chậm nhất là mơn cơng cụ Tiếng
Việt. Ngồi ra mạng lưới trường mẫu giáo còn mỏng nên tỉ lệ học sinh vào lớp 1 đã qua
lớp lá chỉ chiếm 88,4% (theo thống kê năm học 2005-2006).
Do việc hiểu và vận dụng đánh giá học sinh bằng nhận xét chưa phù hợp. Theo
qui định của Quyết định số 30, phải tổ chức có thể nhiều lần cho học sinh yếu được kiểm
tra lại và được lên lớp, mang tính hình thức bắt buộc gây cho học sinh, phụ huynh chủ
quan và làm cho giáo viên “mệt mỏi” nên tâm lí cho điểm “rộng” để học sinh được lên
lớp khỏi “phiền hà”. Cũng theo Quyết định 30, điểm trung bình cuối năm mặc dù dưới 5
nhưng nếu điểm thi từ 5 trở lên cũng được lên lớp. Do vậy các em chỉ ở mức trung bình
yếu nên khi lên lớp 2 rất mau “đuối”.
Nhận thức về xã hội hóa giáo dục trong một số bộ phận người dân vùng đồng bào
dân tộc thiểu số chưa cao, còn mang nặng sự ỷ lại, sự trợ cấp của Nhà nước. Tinh thần
của đồng bào dân tộc cịn mê tín dị đoan, nhiều tập tục lạc hậu chưa được bãi bỏ, hiện
tượng tảo hơn cịn nhiều, nhiều học sinh đang học có vợ (chồng) nên phải nghỉ học.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất chưa được đảm bảo, thiết bị và đồ dùng dạy học chưa
<i><b>- Nguyên nhân chủ quan:</b></i>
tượng học sinh để hướng dẫn học sinh nắm được bài tại lớp. Ngoài ra, việc vận dụng thiết
bị, đồ dùng dạy học của một vài giáo viên có khi chưa chính xác, thao tác khơng đúng,
thậm chí cịn có giáo viên dạy chay.
Phương pháp học tập của học sinh cịn thụ động, khơng khoa học, học “vẹt”, thiếu
khả năng suy luận. Công tác quản lý chỉ đạo chưa được chú trọng đúng mức, cũng chưa
có nhiều giải pháp trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên. Việc kiểm tra
vẫn cịn coi nhẹ, hình thức, chưa đáp ứng yêu cầu, chưa mang tính chính xác khách quan.
Trong quản lý điều hành còn mang nặng tính hành chính, coi trọng hình thức, chỉ tiêu, số
lượng.
Đối với số học sinh ngồi nhầm lớp, tuy không nhiều nhưng những em này gần như
hỏng kiến thức ở lớp dưới khá nặng nề, ngay cả một số âm vần đơn giản cũng không
nhận biết được.
Vào giữa tháng 10, chúng tôi đã tiến hành khảo sát một số lớp ở các huyện mà dự
kiến sẽ thử nghiệm như sau: (Xem phụ lục I)
Riêng số học sinh có nguy cơ lưu ban nhiều hơn, nhìn chung các em yếu đều các
mơn nhất là Tiếng việt và Tốn. Thay vì học hết chương trình lớp 1, các em phải đọc
đúng và rõ ràng một bài văn đơn giản (tốc độ khoảng 30 tiếng/1phút), hiểu nghĩa các từ
thông thường và ý các câu đã học. Viết đúng chữ thường, chép đúng chính tả đoạn văn
khoảng 30 chữ/15phút. Nghe hiểu lời giảng và hướng dẫn học tập của giáo viên. Nói rõ
ràng, trả lời được câu hỏi đơn giản ... Vậy mà hiện nay, các em đọc viết yếu (90/117em tỷ
lệ 76.9%), thậm chí cịn phải đánh vần lại những vần có 2 âm (47/117em, tỷ lệ 40.2%),
Các em viết cũng rất yếu, ngoài việc viết sai các tiếng, từ địa phương, các em còn
viết sai cả những chữ đơn giản (46/117em ,tỷ lệ 39.3%).
Ngồi ra, các em cịn mặc cảm với bạn bè, sợ bạn bè chế nhạo, giáo viên chê trách
nên các em càng tự ti hơn trong học tập và giao tiếp với mọi người.
<i><b>-</b><b>Biện pháp:</b></i>
Được sự chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo Ngành, của ban giám hiệu trường,
khoảng giữa tháng 10, khi nhà trường tổ chức khảo sát chất lượng đầu năm, giáo viên chủ
nhiệm cần coi và chấm thi nghiêm túc, tránh tình trạng để học sinh xem bài nhau từ đó
chúng ta khơng có căn cứ đánh giá năng lực trình độ học tập sát đối tượng học sinh.
Giáo viên lên kế hoạch phụ đạo cho học sinh yếu ngay tại lớp bằng cách bổ sung
kiến thức hỏng, các em phải được quan tâm đặc biệt khi học sinh tiếp thu kiến thức mới
và luyện tập thực hành. Thường cho học sinh khá giỏi đọc, viết trước để học sinh yếu
phần nào nắm được, giáo viên có cách dạy cụ thể để các em tiếp thu bài một cách toàn
diện và dành thời gian luyện tập nhiều hơn cho các em.
Hằng ngày, chúng ta cần sử dụng tốt 15 phút đầu giờ, phân công cho các em giỏi,
khá giúp đỡ các em học sinh yếu về đọc, viết.
Ở lớp trong giờ dạy phân môn tập đọc, chúng ta cần phân cơng các em đọc tốt
học cùng nhóm với các em yếu giúp các em yếu đọc ở những bước đọc trong nhóm; khi
gặp những chữ bạn khơng đọc được, các em sẽ dùng bút chì gạch chân, sau khi đọc qua
Sau đó giáo viên chủ nhiệm kiểm tra và ghi những âm, vần, chữ khó ấy lên một tờ
giấy rơki hoặc giấy Ao đính sẵn ở lớp, vào lúc nghỉ giữa tiết các em khá sẽ chỉ lộn xộn
những âm, vần, chữ ấy và đề nghị bạn đọc, nếu đọc được các bạn khác sẽ vỗ tay hoan
hơ ...
Ngồi ra, với đặc điểm tâm sinh lý học sinh lớp 2 các em rất thích vui học, học
vui, giáo viên có thể làm những thẻ từ, thẻ âm, vần, gồm những từ học sinh không nắm
chắc trong tuần (mỗi em một bộ) đến tiết sinh hoạt tập thể tổ chức cho các em vui chơi
(thi đua). Một em khá đọc âm (hoặc vần hoặc chữ) các em sẽ nhặt âm, vần, chữ ra và đọc
to lên, em nào làm đúng, nhanh sẽ được vỗ tay hoan hô, khen ngợi luôn cả em khá giỏi
được phân công kèm em yếu. Cuối tuần thực hiện và sơ kết tháng, được biểu dương, khen
thưởng cả 2 em (đơi bạn học tập).
Chúng ta có thể vận dụng một số chương trình được trình chiếu trên truyền hình
sao cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh: thích được vui học - học vui, như tổ
chức trị chơi “Nhìn hình đốn chữ” cho học sinh xem một số hình hoặc ngay cả nhờ học
sinh thực hiện cũng được để các em học sinh yếu đoán và ghi chữ đã đốn. Ví dụ: một
em “cười” và chúng ta yêu cầu bạn học sinh yếu đoán xem bạn đang làm gì? Nếu bạn yếu
đốn bạn kia đang cười chúng ta lại yêu cầu bạn yếu viết chữ ấy lên bảng … Nếu đoán
đúng sẽ được các bạn khác vỗ tay tán thưởng. Với những trò chơi nho nhỏ như thế này
chúng ta chỉ cần sử dụng thời gian nghỉ giữa tiết cũng đã đủ.
Trong quá trình đọc cho các em viết chính tả, chúng ta cũng cần có cách đọc riêng
cho các em một chút như đọc nhỏ, chậm lại và có thể đánh vần ở một số từ khó để học
sinh yếu viết được. Thường xuyên theo dõi quá trình viết để giúp các em điều chỉnh,
chấm chữa bài cho các em và yêu cầu các em nếu viết sai chữ nào thì viết lại một dịng
chữ ấy.
Giúp các em viết đúng chính tả, chúng ta giao bài trước để các em ở nhà đọc và
chép trước một bước, lên lớp các em có thể theo kịp bạn bè, thường xuyên nhắc nhở các
em mẹo viết chính tả thường gặp (cách viết âm c, k, qu, gh, ngh...) và bước đầu viết đúng
theo nghĩa của từ. Để giúp các em viết đúng và đẹp, giáo viên cho các em khá giỏi viết
chữ đẹp viết mẫu vào vở trắng.
Nếu trường có giáo viên dạy chuyên nhạc, họa, giáo viên chủ nhiệm có thể dùng
một số tiết này để kèm riêng thêm cho các em.
Nói chung, giáo viên chủ nhiệm cần tạo một khơng khí học tập thân thiện, gần gũi
tạo niềm tin của các em đối với tập thể nhỏ, giúp các em không tự ti, mặc cảm vì mình là
học sinh yếu.
Riêng đối với Ban giám hiệu: chúng ta cũng biết rằng một trong những nguyên
nhân dẫn đến học sinh học yếu vì gia đình các em cịn q khó khăn, khơng đủ tiền để
mua đầy đủ các đồ dùng học tập, sách vở…. Do vậy chúng ta cần vận dụng quỹ “Vòng
tay bạn bè”, quỹ “Vì bạn nghèo”, dự án trẻ em có hồn cảnh khó khăn ... để cấp học bổng
giúp các em khơng cịn bị áp lực bởi sự thiếu thốn về vật chất. Ngồi ra, Ban giám hiệu
cịn tổ chức cho các giáo viên chủ nhiệm lớp có đối tượng học sinh yếu kém tập huấn về
chuyên đề này; trẻ em có hồn cảnh khó khăn cách dạy lớp ghép. Thường xuyên dự giờ
giám sát giáo viên dạy theo phân luồng kiến thức, khuyến khích giáo viên dạy phụ đạo
vào những buổi khơng chính quy với tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Ở các trường có
giáo viên dự khuyết, phân công giáo viên dôi dư hợp lý, kèm cặp riêng cho các em này
ngồi giờ học chính quy. Ln theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực tế sự tiến độ của học sinh
Mỗi tháng họp hội đồng, Ban giám hiệu phải nắm bắt kịp thời tình hình diễn biến
chất lượng cụ thể ở mỗi lớp để cùng nhau thống nhất kế hoạch và biện pháp cho tháng
tiếp theo.
<i><b>3/ Kết quả:</b></i> Sau gần một năm thử nghiệm, bước đầu đã có được kết quả khả quan:
Tinh thần, thái độ học tập của học sinh được nâng lên rõ rệt, chất lượng đọc, viết
chuyển biến tốt, giảm đáng kể số học sinh có nguy cơ lưu ban (Số học sinh yếu chỉ còn
35/117em, tỷ lệ 29.9%). Xem bảng phụ lục II.
Tinh thần, ý thức trách nhiệm, lương tâm của nhà giáo được nâng lên rõ rệt, củng
cố lòng tin của mọi giới đối với giáo dục tỉnh nhà.
Giáo viên đã có cách dạy linh hoạt, phù hợp hơn với từng đối tượng học sinh. Bản
thân của giáo viên khơng cịn bứt rứt vì phải đối phó với các chỉ tiêu số lượng và các
danh hiệu thi đua.
* <i><b>Bài học kinh nghiệm:</b></i>
Đầu năm giáo viên chủ nhiệm phân loại đúng mức độ kiến thức và kĩ năng của
từng học sinh yếu.
Điều tra hoàn cảnh gia đình, điều kiện học tập ở nhà của học sinh, thường xuyên
liên hệ, tạo sự phối kết hợp gia đình, địa phương, các đồn thể để có sự hưởng ứng, hỗ
trợ.
Phân công các đối tượng học sinh khá, giỏi kèm cặp theo sự giao việc cụ thể của
Trong việc giảng dạy trên lớp, giáo viên phải nghiên cứu nhiều hình thức học tập,
tăng cường là và sử dụng đồ dùng dạy học, tổ chức các hoạt động vui – học, học – vui để
các học sinh yếu được tham gia, hứng thú hoạt động tạo cho trẻ sự tự tin.
Giáo viên phải giao việc và kiểm tra cụ thể việc học tập ở nhà như tập đọc các bài
tập đọc, tập chép các bài chính tả trước và sau khi học, đọc truyện thiếu nhi, câu đố ... do
giáo viên lựa chọn, cung cấp.
Luôn luôn động viên, khen thưởng khi có sự tiến bộ của học sinh dù nhỏ trong học
tập.
Giáo viên đặt ra chỉ tiêu, thời gian cụ thể để dứt điểm mức độ cần rèn cho học
sinh, lập kế hoạch tiếp theo để giáo viên và học sinh có hướng phấn đấu hoặc khắc phục.
Dạy học sinh học đọc, học viết là một công việc quan trọng và có quan hệ mật
thiết chặt chẽ với nhau. Chính nhờ đọc để hiểu, nhờ sự hiểu học sinh mới diễn đạt ý nghĩ
của mình qua văn bản bằng chữ viết. Học đọc, học viết đối với học sinh tiểu học nói
chung và học sinh lớp hai nói riêng là cái gốc, hay nói đúng hơn đó chính là nền tảng để
giúp các em học các môn học khác. Các em có đọc đúng, đọc hiểu các đề tốn thì các em
mới hiểu và làm đúng bài toán ... Trong thực tế với nhiều lí do, một số giáo viên đã
không chú trọng việc dạy đọc cho học sinh, từ đó đã có trường hợp học sinh khơng đọc
thơng sẽ dẫn đến việc viết cũng không thạo...
Vậy lao động của giáo viên trong việc dạy đọc, dạy viết là quá trình tạo lập nên
nền tảng cơ bản trong việc truyền thụ tri thức cho học sinh. Do vậy giáo viên phải bám
sát đối tượng, giáo viên phải tham gia nhiều hoạt động sư phạm và mọi vấn đề phải được
giải quyết trên cơ sở của ba yếu tố: Kiến thức – phương pháp – con người. Có như vậy
Trên đây là một số vấn đề mà tổ cốt cán chúng tôi đã kiểm chứng với thực tế
giảng dạy trong năm qua và cùng nhau trao đổi, bàn bạc đưa ra một số giải pháp nhằm
hạn chế học sinh lớp hai có nguy cơ lưu ban.