Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Quyền im lặng của người bị buộc tội nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (995.06 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

VŨ THỊ QUYÊN

QUYỀN IM LẶNG
CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI – NGHIÊN CỨU SO SÁNH
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ & TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, 2017.


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

QUYỀN IM LẶNG
CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI – NGHIÊN CỨU SO SÁNH
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật HÌNH SỰ & TTHS
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
Học viên: Vũ Thị Qun
MSHV: 1421040099
Lớp: CHLHS

Khóa 21


Thành phố Hồ Chí Minh, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Quyền im lặng của người bị buộc tội – Nghiên
cứu so sánh và kinh nghiệm cho Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Lương Thị Mỹ Quỳnh. Các tài liệu, thơng tin có trong
Luận văn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, những nội dung của những tác giả khác đã
trích dẫn theo đúng quy định.
Tp. Hồ Chí Minh, 11/2017.

Vũ Thi Quyên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN IM LẶNG
CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................... 9
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền im lặng của người bị buộc tội trong
pháp luật tố tụng hình sự 9
1.2. Nền tảng pháp lý của quyền im lặng trong tố tụng hình sự ........................... 14
1.2.1. Quyền im lặng và nguyên tắc xét xử công bằng .................................. 15
1.2.2. Quyền im lặng và ngun tắc suy đốn vơ tội ..................................... 17
1.2.3. Quyền im lặng và trách nhiệm chứng minh của nhà nước ................... 19
1.3. Nội dung quyền im lặng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự ........... 22
1.4. Đặc điểm quyền im lặng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự ............ 25
1.5. Ý nghĩa của quyền im lặng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự ....... 28
Kết luận chương 1 ...................................................................................................... 32
CHƯƠNG 2: QUYỀN IM LẶNG CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG PHÁP

LUẬT THẾ GIỚI ..................................................................................................... 33
2.1. Quyền im lặng của người bị buộc tội trong một số văn bản pháp luật quốc tế
.................................................................................................................................... 33
2.2. Quyền im lặng của người bị buộc tội trong pháp luật một số quốc gia ......... 42
2.2.1. Quyền im lặng của người bị buộc tội theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ
.................................................................................................................................... 43
2.2.2. Quyền im lặng của người bị buộc tội theo pháp luật tố tụng hình sự Pháp ..53
Kết luận Chương 2 ..................................................................................................... 61


CHƯƠNG 3. QUYỀN IM LẶNG CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM – SO SÁNH, ĐÁNH GIÁ VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ................................................................................... 61
3.1. Quyền im lặng của người bị buộc tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam...61
3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về quyền im lặng của người bị buộc
tội ............................................................................................................................... 71
3.3. Một số đánh giá về pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong sự so sánh với
pháp luật thế giới ........................................................................................................ 75
3.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền im
lặng của người bị buộc tội .......................................................................................... 81
3.4.1. Một số yêu cầu sửa đổi, bổ sung quy định về quyền im lặng của người bị
buộc tội theo BLTTHS 2015 ....................................................................................... 81
3.4.2 Một số kiến nghị hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền
im lặng của người bị buộc tội ..................................................................................... 85
Kết luận chương 3 ...................................................................................................... 92
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 93


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát hiện, xử lý tội phạm, đảm bảo trật tự an toàn xã hội là hoạt động của bất kỳ
quốc gia nào nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như của các cá nhân trong xã hội
đó. Tuy nhiên, việc tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) bao giờ cũng tiềm
ẩn trong nó ít nhất hai loại nguy cơ. Nguy cơ thứ nhất là sự xung đột lợi ích giữa một
bên là lợi ích của số đông mà đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng, và bên kia là lợi
ích của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, hay chính là những người bị tình
nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong mối quan hệ này, so với các cơ quan tiến
hành tố tụng với đầy đủ những công cụ và phương tiện được pháp luật trao cho thì
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bao giờ cũng ở vào thế bất lợi hơn. Nguy
cơ thứ hai là nguy cơ lạm dụng quyền lực của những cơ quan và cá nhân có thẩm
quyền1. Do đó, bên cạnh mục tiêu là tìm kiếm sự thật vụ án, xử lý công minh, kịp thời
các hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, pháp luật
TTHS cũng rất chú trọng đến việc bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân, tổ chức, đặc biệt
là quyền lợi của các đối tượng yếu thế là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong quá trình tố tụng. Đồng thời, những đối tượng yếu thế này cũng cần phải được
trang bị các quyền năng tố tụng cần thiết để họ có thể tự bảo vệ mình trước sự cáo buộc
từ phía Nhà nước. Vấn đề bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội trong TTHS là
một vấn đề hết sức được chú trọng trong các văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con
người cũng như trong pháp luật TTHS của đa số các quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam.
Bảo đảm quyền con người nói chung và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội trong TTHS nói riêng ln được xem là nhiệm vụ trọng tâm của các
thiết chế nhà nước và pháp luật dân chủ. Một xã hội tiến bộ là xã hội mà mọi công dân
được bảo vệ bởi một hệ thống pháp luật công bằng và dân chủ. Trong lĩnh vực pháp
luật TTHS, bảo đảm quyền tố tụng của người bị buộc tội là một khía cạnh quan trọng
của việc bảo đảm quyền công dân. Với người bị buộc tội, bên cạnh những trách nhiệm
Nguyễn Hữu Thế Trạch, “Thủ tục tố tụng thân thiện đối với người chưa thành niên”, Tạp chí Khoa
học pháp lý, Trường đại học Luật Tp.HCM, số 3/2013, tr30.

1


2

mà họ phải gánh vác trước nhà nước thì quyền và lợi ích chính đáng của họ cần phải
được pháp luật tôn trọng và đảm bảo.
Hiện nay, vấn đề bảo đảm quyền con người và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực tố tụng hình sự đang được các quốc gia quan tâm, trong đó có Việt Nam. Tuy
nhiên, một trong những khó khăn mà các nước gặp phải trong quá trình hồn thiện
pháp luật đó là việc đảm bảo cân bằng giữa các mục tiêu của tố tụng hình sự; đó là cân
bằng giữa nhiệm vụ xử lý tội phạm và duy trì tính nghiêm minh của pháp luật với việc
đảm bảo và không vi phạm các quyền tố tụng của người bị buộc tội2. Thực tiễn cho
thấy vẫn còn tồn tại tình trạng lạm dụng quyền lực từ phía các chủ thể có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, dẫn đến việc vi phạm pháp luật TTHS, vi phạm quyền lợi của người
tham gia tố tụng nói chung, đặc biệt là những người bị buộc tội. Để khắc phục tình
trạng này, cần thiết phải trang bị cho người bị buộc tội những quyền lợi thiết thực để
họ tự bảo vệ bản thân mình. Bên cạnh những quyền như quyền được suy đốn vơ tội,
quyền được có người bào chữa, quyền được trình bày chứng cứ, quyền được khiếu nại
các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền… thì quyền được giữ im lặng của
người bị buộc tội trong quá trình TTHS cũng là một nội dung đáng chú trọng.
Quyền im lặng là một quyền cơ bản của người bị buộc tội trong TTHS. Việc quy
định quyền im lặng đồng nghĩa với việc pháp luật trao cho người bị buộc tội thêm một
biện pháp để họ có thể tự bảo vệ mình trước sự buộc tội từ các cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, các quy định về quyền im lặng của người bị buộc tội cũng đóng vai trị
quan trọng trong việc tăng cường tính tranh tụng trong TTHS cũng như góp phần đảm
bảo tính khách quan, cơng bằng trong q trình giải quyết vụ án hình sự.
Trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2015, đã có nhiều quan điểm liên
quan đến vấn đề quyền im lặng của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, thu
hút sự quan tâm chú ý của dư luận xã hội. Sự quan tâm này là chính đáng bởi tuy mơ

hình TTHS nước ta là mơ hình thẩm vấn nhưng nếu ngun tắc suy đốn vơ tội và
ngun tắc tranh tụng chính thức được thừa nhận thì cũng có nghĩa là quyền lợi của
những người bị buộc tội cần phải được ghi nhận và bảo đảm tốt hơn nữa. Theo đó,
Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - So sánh
giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ , Luận án tiến sĩ Luật học, tr1.
2


3

người bị tình nghi phạm tội có quyền khai hoặc không khai nhận về hành vi bị coi là
phạm tội. Nói cách khác, họ có quyền giữ im lặng hoặc trả lời những câu hỏi được đặt
ra từ phía các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Ở phạm vi quốc tế, quyền im lặng đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý
về quyền con người, chẳng hạn Công ước của Liên hiệp quốc về các quyền Dân sự và
Chính trị 1966, Cơng ước về các Quyền của trẻ em 1989, Quy chế Rome của Tồ án
Hình sự Quốc tế 1998, Công ước châu Âu về Nhân quyền… Theo đó, quyền im lặng
được coi là một trong những quyền cơ bản của người bị buộc tội, là một công cụ pháp
lý hữu hiệu nhằm bảo vệ đối tượng này trước những cáo buộc từ phía Nhà nước.
Tương tự, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Canada,
Nhật Bản, Thái Lan, Singapore… cũng ghi nhận quyền im lặng như một trong những
cách thức quan trọng để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người bị buộc tội trong
TTHS.
Như vậy, có thể thấy, vấn đề bảo đảm quyền im lặng của người bị buộc tội
không chỉ là mối quan tâm của riêng từng quốc gia mà là vấn đề của cả quốc tế. Trong
xu thế hội nhập pháp luật, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa tiến trình của cuộc
cải cách tư pháp nhằm hạn chế những bất cập còn tồn cũng như phát huy hiệu quả của
pháp luật trong cơng cuộc phịng chống tội phạm. Với BLTTHS 2015, pháp luật TTHS
Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong việc bảo đảm quyền im lặng
của người bị buộc tội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại những điểm hạn chế cần

hoàn thiện hơn nữa. Do đó, với mong muốn góp phần vào việc hồn thiện pháp luật
TTHS về bảo đảm quyền của người bị buộc tội, tác giả lựa chọn đề tài “QUYỀN IM
LẶNG CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI – NGHIÊN CỨU SO SÁNH VÀ KINH
NGHIỆM CHO VIỆT NAM” là đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
Tác giả nhận thấy, việc nghiên cứu so sánh pháp luật TTHS Việt Nam với pháp
luật quốc tế và một số quốc gia khác về quyền im lặng của người bị buộc tội là cần
thiết và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. Điều này sẽ góp phần vào việc
tìm hiểu và học hỏi có chọn lọc những kinh nghiệm từ pháp luật quốc tế cũng như pháp
luật một số quốc gia vào việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung và áp dụng pháp luật TTHS
Việt Nam về quyền im lặng của người bị buộc tội.


4

2. Tình hình nghiên cứu
Ở phạm vi thế giới, việc nghiên cứu về quyền im lặng của người bị buộc tội
trong TTHS không phải là một vấn đề mới mẻ, xa lạ. Đã có rất nhiều cơng trình của
các học giả nước ngoài nghiên cứu về vấn đề này, chẳng hạn: D. Morgan and G.
Stephenson, “Suspicion and Silence: The Right to Silence in Criminal Investigations”
(Tạm dịch là “Sự nghi ngờ và sự im lặng: Quyền im lặng trong các cuộc điều tra hình
sự”), Nxb Blackstone (1994); Fenella Billing, “The Right to Silence in Transnational
Criminal Proceedings: Comparative Law Perspectives” (tạm dịch là “Quyền im lặng
trong các thủ tục tố tụng hình sự xuyên quốc gia: Khía cạnh so sánh luật”, Nxb
Springer (2016); Barbara Ann Hocking và Laura Leigh Manville, “What of the Right to
Silence: Still Supporting the Presumption of Innocence, or a Growing Legal Fiction?”
(Tạm dịch là “Quyền im lặng là gì: Vẫn tiếp tục trợ giúp ngun tắc suy đốn vơ tội
hay chỉ là một sự hư cấu mang tính pháp lý đang được phát triển?”), đăng trên Tạp chí
luật Macquarie (2001) tập 1, số 1; Michael Avery, “You have a right to remain silent”
(Tạm dịch là “Anh có quyền giữ im lặng”), đăng trên tạp chí luật Fordham Urban
(2002) tập 30…

Tuy nhiên, ở Việt Nam, quyền im lặng của người bị buộc tội trong TTHS vẫn
được coi là khá mới mẻ. Vấn đề này chỉ mới thu hút được khá nhiều sự quan tâm từ
phía những nhà làm luật, những người áp dụng pháp luật hay nghiên cứu về pháp luật
trong thời gian gần đây. Cho đến thời điểm hiện nay, khơng có nhiều cơng trình nghiên
cứu về vấn đề quyền im lặng của người bị buộc tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Các nghiên cứu về đề tài quyền im lặng của người bị buộc tội mới chỉ dừng lại ở
cấp độ khóa luận cử nhân hay các bài viết được đăng tải trên các tạp chí chun ngành
luật. Chưa có một đề tài luận văn Thạc sĩ hay luận án Tiến sĩ nào đã được công bố
nghiên cứu trực tiếp về vấn đề này. Một số cơng trình nghiên cứu về quyền im lặng có
thể kể đến như:
- Về khóa luận cử nhân: Đề tài liên quan đến quyền im lặng của người bị buộc
tội được nghiên cứu bởi hai khóa luận cử nhân luật là: Bùi Duy Hải Trân (2015),
“Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ về quyền im lặng của người bị buộc
tội và kinh nghiệm cho Việt Nam”, và Phan Thị Đoài (2015), “Nghiên cứu pháp luật tố


5

tụng hình sự của Nhật Bản về quyền im lặng của người bị buộc tội và kinh nghiệm cho
Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân”. Hai khóa luận này đã nghiên cứu về một số
vấn đề lý luận chung về quyền im lặng của người bị buộc tội, một số quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự 2003 và Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về quyền im lặng
cũng như tìm hiểu quy định pháp luật của một số quốc gia (cụ thể là Hoa Kỳ và Nhật
Bản) về vấn đề có liên quan, từ đó đưa ra một số kiến nghị hồn thiện Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 về quyền im lặng. Tuy nhiên, hai khóa luận này vẫn chưa đi sâu vào tìm
hiểu một số vấn đề lý luận cũng như được thực hiện trong thời điểm Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015 đang trong q trình dự thảo. Do đó, tính đến thời điểm hiện tại, một số
nội dung trong hai cơng trình này đã khơng cịn phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự
2015.
- Các bài viết tạp chí: Trên các tạp chí chun ngành luật có nhiều bài viết

nghiên cứu về một hay một số nội dung của quyền im lặng của người bị buộc tội trong
TTHS như: Nguyễn Quốc Việt (2014), “Bàn về quyền im lặng trong pháp luật tố tụng
hình sự một số nước trên thế giới”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Đại học Kiểm sát, số
01/2014; Nguyễn Minh Tâm, Vũ Công Giao (2015), “Bàn về quyền im lặng trong
pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia và Việt Nam”, tạp chí Nhà nước và pháp
luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, số 03/2015; Lê Huỳnh Tấn Duy (2015), “Trực tiếp
ghi nhận quyền im lặng cho người bị buộc tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật Tp. HCM, số 03/2015; Vũ Gia Lâm (2015),
“Quyền "im lặng" trong dự thảo bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi)”, Tạp chí Kiểm sát,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 12/2015; Bình Sơn (2015), “Sơi động về quyền im
lặng”, tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Bộ tư pháp, số 11/2015; Hoàng Duy Hiệp (2015),
“Quyền im lặng trong Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự”, tạp chí Dân chủ & Pháp luật,
Bộ tư pháp, số 08/2015; Võ Minh Kỳ (2017), “Quyền im lặng và hành vi tự buộc tội
trong TTHS: Cách tiếp cận của Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam”, tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, số 9/2017… Tuy nhiên, trong dung
lượng cho phép, các bài viết này mới chỉ đề cập đến một hay một số khía cạnh mà chưa
thể tìm hiểu một cách có hệ thống và đầy đủ các nội dung cần thiết về quyền im lặng.


6

Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả nhận thấy việc tiếp tục thực hiện cơng
trình nghiên cứu về quyền im lặng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự là cần
thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có hai mục đích chính:
- Thứ nhất, nghiên cứu, tìm hiểu những quy định pháp luật về đảm bảo quyền
im lặng của người bị buộc tội theo một số Công ước quốc tế cũng như pháp luật TTHS
của một số quốc gia, cụ thể là Hoa Kỳ và Pháp.
- Thứ hai, trên cơ sở kết quả nghiên cứu về quyền im lặng của người bị buộc tội

theo một số công ước quốc tế, theo pháp luật Hoa Kỳ và Pháp, tác giả tiến hành so
sánh với quy định của pháp luật Việt Nam và đưa ra một số đánh giá. Từ đó, tác giả
mạnh dạn đề xuất một số phù hợp để hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo
đảm quyền im lặng của người bị buộc tội, góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình
giải quyết vụ án hình sự, đáp ứng tốt nhiệm vụ xử lý tội phạm và bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, đề tài nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về
quyền im lặng của người bị buộc tội như lịch sử hình thành, đặc điểm, ý nghĩa của
quyền im lặng của người bị buộc tội trong TTHS.
- Thứ hai, đề tài tiến hành nghiên cứu những quan điểm khoa học cũng như
những quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng quyền im lặng của người bị buộc tội
theo một số văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia.
- Thứ ba, tìm hiểu những quy định của pháp luật Việt Nam cũng như thực tiễn
áp dụng pháp luật liên quan đến quyền im lặng của người bị buộc tội.
- Thứ tư, trên cơ sở so sánh quy định về quyền im lặng của người bị buộc tội
theo pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của một số quốc gia,
đề tài chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề
này, từ đó đề xuất những giải pháp kiến nghị hoàn thiện.


7

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Những nghiên cứu trong luận văn tập trung làm sáng tỏ những nội dung liên
quan đến quyền im lặng ở phạm vi các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm khoa học của các học giả
trong và ngoài nước về quyền im lặng của người bị buộc tội; những quy định pháp luật
liên quan đến quyền im lặng của người bị buộc tội theo pháp luật quốc tế, pháp luật
một số quốc gia và việc áp dụng các quy định này trên thực tế. Về pháp luật quốc tế,

nhằm mục đích nghiên cứu và học hỏi, tác giả không chỉ lựa chọn các công ước mà
Việt Nam là thành viên (Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị 1966,
Cơng ước về các Quyền trẻ em 1989) mà cịn tiến hành tìm hiểu một số cơng ước mà
Việt Nam không là thành viên (Công ước châu Âu về Nhân quyền). Về pháp luật của
một số quốc gia, tác giả lựa chọn pháp luật TTHS của hai quốc gia là Hoa Kỳ và Pháp
làm đối tượng tham chiếu trong đề tài này. Việc lựa chọn này xuất phát từ đặc thù về
mơ hình TTHS của các quốc gia này. Mỹ là một nước theo hệ thống luật án lệ
(Common law) và là điển hình của mơ hình tố tụng tranh tụng. Trong khi đó, Pháp là
quốc gia theo hệ thống pháp luật thành văn (Civil law) và là một ví dụ về mơ hình
TTHS thẩm vấn (tuy nhiên, vì Pháp là thành viên của Công ước châu Âu về Nhân
quyền nên việc áp dụng pháp luật TTHS của Pháp cũng bị chi phối bởi các bản án của
Toàn án Nhân quyền châu Âu). Bên cạnh đó, cả hai quốc gia này đều có một hệ thống
pháp luật TTHS với nhiều điểm tiến bộ và đáng học hỏi.
5. Phương pháp nghiên cứu
Như đã đề cập, mục đích của luận văn là nghiên cứu, so sánh pháp luật quốc tế
về pháp luật Hoa Kỳ, Pháp, Việt Nam về quyền im lặng của người bị buộc tội, từ đó
đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nội dung
này. Để thực hiện mục đích này, tác giả sử dụng các phương pháp chính sau đây:
Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển
của chế định quyền im lặng về mặt thời gian.


8

Phương pháp phân tích được dùng để nghiên cứu các quan điểm khoa học và
quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về quyền im lặng của người bị buộc
tội trong TTHS cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này.
Phương pháp so sánh được áp dụng để tìm hiểu những điểm tương đồng và khác
biệt giữa các quy định của pháp luật quốc tế và các quốc gia về quyền im lặng của
người bị buộc tội, lý giải tại sao có những điểm tương đồng và khác biệt đó. Trên cơ sở

đó làm sáng tỏ những nội dung có liên quan đến quyền im lặng của người bị buộc tội.
Phương pháp này được áp dụng nhiều ở Chương 2 và Chương 3 luận văn.
6. Bố cục của luận văn
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, luận văn được bố cục như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền im lặng của người bị buộc
tội trong tố tụng hình sự
- Chương 2: Quyền im lặng của người bị buộc tội theo pháp luật thế giới
- Chương 3: Quyền im lặng của người bị buộc tội trong pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam – so sánh, đánh giá và một số kiến nghị hoàn thiện


9

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN IM
LẶNG CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền im lặng của người bị buộc
tội trong pháp luật tố tụng hình sự
Một trong những mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia là hoàn thiện hệ thống
pháp luật nhằm đảm bảo tốt nhất quyền con người, quyền công dân. Trong lĩnh vực tố
tụng hình sự, vấn đề quyền con người của người bị buộc tội luôn là một vấn đề cấp
thiết, không chỉ của riêng quốc gia mà mang tính tồn cầu. Mục tiêu mà Tố tụng hình
sự (TTHS) hướng đến là phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội cũng như phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, từ đó duy trì trật tự xã hội, bảo vệ
lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi cá
nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, TTHS cũng có những mặt trái nhất định. Đó là các
hoạt động TTHS thường mang tính căng thẳng, nghiêm khác rất cao và tiềm ẩn nguy
cơ xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là
những người bị buộc tội. Theo nguyên tắc suy đốn vơ tội, trong q trình giải quyết
vụ án, trước khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của tịa án thì người bị buộc tội
vẫn phải được coi là người vơ tội. Do đó, những quyền lợi hợp pháp của người bị buộc

tội không thể bị xâm phạm một cách tùy tiện. Như vậy, người bị buộc tội sẽ có các
quyền như thế nào khi tham gia vào q trình tố tụng để có thể bảo vệ chính mình
trước nguy cơ bị xâm phạm về quyền lợi.
Trong TTHS, so với các cơ quan tiến hành tố tụng với đầy đủ những công cụ và
phương tiện được pháp luật trao cho, người bị buộc tội, cụ thể là người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo luôn ở vào thế bất lợi hơn. Do đó, những đối tượng yếu thế này
cần phải được trang bị các quyền năng tố tụng cần thiết để có thể tự bảo vệ mình trước
sự cáo buộc từ phía Nhà nước. Trong đó, những quy định về quyền im lặng của người
bị buộc tội là một nội dung đáng chú trọng. Đã từ lâu, quyền im lặng được rất nhiều
các Công ước quốc tế cũng như pháp luật của nhiều quốc gia quy định nhằm bảo đảm
quyền lợi của người bị buộc tội trước những cáo buộc từ phía Nhà nước.
Nhắc đến quyền im lặng, các nhà nghiên cứu thường đề cập đến án lệ Miranda
nổi tiếng tại Mỹ. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền im lặng đã được đề cập từ rất lâu trước


10

đó. Vụ án Miranda chỉ làm cho quyền im lặng của người bị buộc tội được biết đến một
cách rộng rãi chứ không phải là vụ án “khai sinh” ra quyền im lặng. Theo nghiên cứu,
quyền im lặng của người bị buộc tội có nguồn gốc từ đặc quyền khơng tự buộc tội
chính mình (privilege against self-incrimination) xuất hiện ở Anh từ rất sớm.
Vào đầu thế kỷ XVI, tố tụng hình sự Anh theo đuổi học thuyết “người bị buộc
tội trình bày” (accused speaks theory). Theo lý thuyết này, sự bảo đảm cơ bản đối với
người bị buộc tội trong tố tụng hình sự khơng phải là việc thừa nhận quyền im lặng mà
là việc trao cho họ những cơ hội để trình bày. Phiên tịa xét xử sẽ là nơi mà bị cáo có
cơ hội để đưa ra những lập luận, lí lẽ nhằm phản đối lại sự buộc tội đối với mình.
Người bị buộc tội sẽ phải tự mình trình bày bởi “bất kể có tội hay vơ tội nhưng một khi
đã bị cáo buộc về việc thực hiện tội phạm thì người bị buộc tội chắc chắn phải có
những mối liên quan mật thiết với sự việc phạm tội đã xảy ra”3. Dưới sự xét xử của
Toà án Cung đình (Star Chamber) và Tồ án Giáo hội (Court of High Commission)4,

những nghi phạm sẽ buộc phải tuyên thệ trước Toà án về việc trả lời trung thực những
câu hỏi được đặt ra. Điều này đồng nghĩa với việc họ phải đối mặt với một trong ba
khả năng: nếu họ trả lời không đúng sự thật để bảo vệ chính bản thân mình, họ sẽ bị
buộc tội khai man; nếu họ từ chối trả lời, họ sẽ phải đối mặt với hình phạt nghiêm khắc
vì đã coi thường Toà án; và trong trường hợp họ làm đúng như những lời tuyên thệ là
trả lời trung thực mọi câu hỏi thì có nghĩa là họ đã khơng thể thực hiện một quyền rất
hiển nhiên là tự bảo vệ mình5.
Có thể thấy trong giai đoạn này, người bị buộc tội hồn tồn khơng có quyền
được giữ im lặng mà ngược lại, họ có nghĩa vụ khai báo. Khi những người bị tình nghi
giữ im lặng hoặc khơng trả lời được những câu hỏi đưa ra, họ sẽ bị kết tội. Sự lí giải
John H. Langbein, ‘Nguồn gốc lịch sử của đặc quyền chống lại sự tự buộc tội trong hệ thống án lệ’
[The Historial Origins of the Privilege against Seft-Incrimination at Common Law] (1994), Yale Law
School, Faculty Scholarship Series, paper 550, trang 1055.
4
Tồ án Cung đình (Star Chamber) và Tồ án Giáo hội (Court of High Commission) là hai Toà án
cơng bình được thiết lập ở Anh trong khoảng thời gian từ năm 1487 đến 1641, với mục đích quản lý về
mặt chính trị và kiểm sốt những thế lực thù địch đối với giáo hội. Những Toà án này sử dụng phương
thức tra khảo để tìm kiếm sự thật trong các vụ án hình sự. Do đó, cơng tố viên chỉ cần sử dụng các
phương pháp đe dọa nhằm lấy lời khai của người bị buộc tội.
5
Saurav Gupta, An Inquiry into article 20(3): the right against Self-Incrimination,
truy cập ngày
18/2/2017.
3


11

được đưa ra là “giả sử sự buộc tội đối với nghi phạm là sai thì nghi phạm sẽ phải nói
rằng việc buộc tội đó là sai và giải thích tại sao, ngược lại trong trường hợp nghi

phạm khơng trình bày thì chỉ có thể bởi anh ta khơng thể phủ nhận sự thật được tìm
thấy qua các chứng cứ”6.
Thủ tục xét xử thiếu tính cơng bằng của Tồ án Cung đình và Tồ án Giáo hội
sau đó đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía người dân, dẫn đến sự sụp đổ của hệ
thống Toà án này vào thế kỷ XVI, cùng với đó là sự xuất hiện của ngun tắc “khơng
ai bị buộc tội chính mình, bất kể tội phạm bị cáo buộc là gì, và bất kể tại Toà án nào”
(no man is bound to incriminate himself, on any charge, or in any Court). Đồng thời,
sau những cuộc cách mạng Nghị viện vào thế kỷ XVI, quyền im lặng đã được thiết lập
như một sự phản ứng của người dân trước phương pháp tra hỏi của các Toà án Anh lúc
bấy giờ. Tuy nhiên, những quy định này chỉ mang tính hình thức, nhằm xoa dịu sự
phản đối của người dân trước những thủ tục tố tụng hà khắc mà không thể đi vào thực
tế trong một thời gian dài sau đó do những quy định hạn chế sự tham gia của người bào
chữa.
Một đặc điểm đáng lưu ý của tố tụng hình sự trong giai đoạn đầu thế kỷ XVI là
việc người bào chữa không được tham gia để bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội,
ngay cả sau khi Toà án Cung đình đã được bãi bỏ vào năm 1641. Chỉ đến cuối thế kỷ
XVI (năm 1696), quyền có người bào chữa mới được thừa nhận đối với những vụ án ít
nghiêm trọng (khinh tội). Từ năm 1836, quyền này được đảm bảo trọn vẹn không chỉ
đối với những vụ khinh tội mà cả những vụ trọng tội.7 Dưới sự ảnh hưởng của người
bào chữa, các phiên tịa hình sự dần trở thành cơ hội để các luật sư bào chữa kiểm tra
sự buộc tội của bên công tố. Tuy nhiên, người bào chữa chỉ được quyền nói đến khía
cạnh pháp lý của vụ án. Với những vấn đề phát sinh thuộc về tình tiết, sự kiện, bị cáo
phải tự trình bày trước thẩm phán và bồi thẩm đoàn. Như một vị thẩm phán của Tồ án
Old Bailey 8 đã giải thích với bị cáo trong một phiên tòa vào năm 1777 như sau:
J.M. Beattie (1986), Crime and the Courts in England: 1660 – 1800. Dẫn theo John H. Langbein, chú
thích số 2, trang 1066.
7
Lương Thị Mỹ Quỳnh (2013), Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa
Kỳ, Nxb Chính Trị Quốc gia, Hà Nội, tr16.
8

Tồ án hình sự trung ương (The Central Criminal Court) của Anh, thường được biết đến với tên gọi
“Toà án Old Bailey” vì tọa lạc trên đường Old Bailey, thủ đơ Luân Đôn, Anh.
6


12

“Người bào chữa của bị cáo khơng có quyền trình bày các vấn đề liên quan đến thực
tế; họ chỉ được phép kiểm tra các chứng cứ của bị cáo; sự có mặt của người bào chữa
ở đây là để trình bày về các vấn đề pháp lý có thể phát sinh; trong trường hợp vấn đề
phát sinh thuộc về tình tiết vụ án, bị cáo phải tự mình trình bày với tôi và các vị bồi
thẩm”.9
Năm 1898, Đạo luật về Chứng cứ Hình sự của Anh được thơng qua. Theo Đạo
luật này, những người bị buộc tội có quyền nhưng khơng có nghĩa vụ phải chứng minh.
Văn bản này cũng cho phép các thẩm phán (chứ không phải công tố viên) đưa ra ý kiến
với bồi thẩm đoàn về các trường hợp mà bị cáo chọn sự im lặng, thường là không đưa
ra lời kết luận về việc thực hiện hành vi phạm tội chỉ dựa trên sự im lặng của bị cáo tại
phiên tòa.10 Đồng thời, với sự xuất hiện của pháp luật về chứng cứ hình sự, những
người bào chữa đã đưa ra sự phản đối về việc chấp nhận một số loại chứng cứ nhất
định và tìm kiếm sự giới hạn về các trường hợp mà người bị buộc tội bắt buộc phải trả
lời.
Thêm vào đó, sự xuất hiện của ngun tắc suy đốn vơ tội (the presumption of
innocence) và tiêu chuẩn đánh giá chứng cứ vượt quá sự nghi ngờ hợp lý (beyond
reasonable doubt11) vào cuối thế kỷ XVIII đã đặt trách nhiệm chứng minh lên vai bên
buộc tội. Tiêu chuẩn vượt quá sự nghi ngờ hợp lý khuyến khích người bào chữa đưa ra
lời khuyên cho bị cáo về việc giữ im lặng, và do đó buộc bên buộc tội phải tìm kiếm
chứng cứ từ các nguồn khác. Điều này cho thấy chính những người bào chữa đã khiến
cho đặc quyền chống lại sự tự buộc tội được thực hiện trên thực tế, qua đó giải phóng
nghĩa vụ chứng minh mà trước đây được đặt trên vai những người bị buộc tội. Có thể
nói những người bào chữa đã góp cơng lớn trong việc khai sinh ra đặc quyền chống lại


9

John H. Langbein, chú thích số 3, trang 1054.
Eileen Skinnider và Frances Gordon, “The right to silence- International norms and domestic
realities”, Sino Canadian International conference on the ratification and implementation of human
rights covenants Beijing, 25-16 October 2001, tr8.
icclr.law.ubc.ca/sites/icclr.law.ubc.ca/files/publications/pdfs/Paper1_0.PDF
11
Tiêu chuẩn đánh giá chứng cứ vượt quá sự nghi ngờ hợp lý (beyond reasonable doubt) đòi hỏi Tồ
án chỉ được tun bị cáo là có tội khi đã có đầy đủ chứng cứ để chứng minh một cách chắc chắn và
khơng cịn nghi ngờ về hành vi phạm tội của bị cáo. Ngược lại, nếu có bất kỳ sự nghi ngờ hợp lý nào
còn tồn tại cho đến khi kết thúc phiên xét xử, bị cáo phải được tuyên là vô tội.
10


13

sự tự buộc tội và quyền im lặng, cũng như tạo nên một cuộc cách mạng về tố tụng mà
kết quả của nó vẫn cịn tồn tại trong hệ thống tư pháp Anh Mỹ cho đến ngày nay12.
Năm 1912, quyền từ chối trả lời các câu hỏi của người bị buộc tội chính thức
được thừa nhận bởi một kết luận trong Bộ quy tắc của Thẩm phán (Judges’ Rules)13.
Cũng theo bộ quy tắc này, cảnh sát có thể thực hiện bất kỳ cuộc thẩm vấn cần thiết nào
trong quá trình giam giữ, miễn rằng nó khơng dẫn đến kết quả là một lời thú tội được
thực hiện trong sợ hãi và không tỉnh táo. Nếu cảnh sát không tuân thủ điều luật này,
thẩm phán có quyền loại bỏ bất kỳ bằng chứng buộc tội nào được đưa ra trước phiên
tòa.14 Năm 1914, trong vụ án Ibrahim v R, Toà án đã đưa ra quyết định rằng sự nhận tội
của người bị buộc tội trước các nhân viên cảnh sát sẽ chỉ được chấp nhận là chứng cứ
trong vụ án nếu sự nhận tội đó là tự nguyện và là sự tự do lựa chọn giữa việc khai báo
hay giữ im lặng.15

Quyền im lặng khơng chỉ tồn tại và có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật TTHS
của Anh mà còn ảnh hưởng và được tiếp thu bởi nhiều quốc gia khác. Trải qua một
thời gian dài là thuộc địa của Anh nên pháp luật Hoa Kỳ nói chung, pháp luật TTHS
Hoa Kỳ nói riêng cũng chịu những ảnh hưởng nhất định từ pháp luật nước Anh. Sau
khi chính thức tuyên bố độc lập năm 1776, Hoa Kỳ bắt tay vào việc xây dựng một bản
Hiến pháp mới với đầy đủ những bảo đảm cơ bản về quyền con người, trong đó có các
quyền như quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, quyền được xét xử cơng bằng, quyền
khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình… Trên cơ sở quy định của Hiến
pháp, các Toà án Hoa Kỳ đã có những giải thích và đưa ra phán quyết liên quan đến
quyền im lặng của người bị buộc tội trong TTHS. Chẳng hạn trong án lệ Escobedo v.
State of Illinois vào năm 1964, Toà án đã nêu rõ rằng người bị buộc tội có quyền im
lặng trước những cáo buộc của cơ quan cảnh sát. Trong vụ án Malloy v. Hogan (1964),
Lê Huỳnh Tấn Duy, Trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người bị buộc tội trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật tp. HCM, số 3/2015, tr49
13
Đây là văn bản được ban hành nhằm đưa ra những chỉ dẫn cho các nhân viên cảnh sát trong việc
thẩm vấn những người bị tình nghi cũng như quy định những điều kiện để lời khai, lời nhận tội của bị
can có thể trở thành chứng cứ trước tịa.
14
Bùi Phú Châu, Quyền im lặng: Khi cuộc sống không như là phim,
/>truy cập ngày 1/11/2017.
15
Eileen Skinnider và Frances Gordon, chú thích số 10, tr8.
12


14

Toà án tối cao liên bang cũng yêu cầu những người có thẩm quyền phải tơn trọng
quyền im lặng của bị cáo… Tuy nhiên, phải đến vụ án Miranda v. Arizona (1966),

quyền im lặng của người bị buộc tội mới thực sự được biết đến một cách rộng rãi.
Đồng thời, thông qua sự bành trướng của đế quốc Anh vào thế kỷ XIX, pháp
luật Anh cũng có sự tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước thuộc địa. Ở nhiều
quốc gia trước đây thuộc đế quốc Anh như Australia, Canada, New Zealand,
Singapore,… quyền im lặng của người bị buộc tội được quy định trong pháp luật
TTHS như một sự kế thừa từ pháp luật Anh. Bên cạnh đó, qua quá trình hội nhập pháp
luật, quyền im lặng cũng được nhiều quốc gia khác tiếp thu và quy định trong pháp luật
TTHS của qc gia mình.
Như vậy, có thể nói, quyền im lặng có nguồn gốc từ quyền khơng tự buộc tội
bản thân xuất hiện ở Anh từ thế kỷ XVI, khi hệ thống Tồ án Cung Đình và Toà án
Giáo Hội ở đây sụp đổ. Tuy nhiên, phải mất một thời gian dài sau đó, quyền im lặng
mới thực sự được áp dụng và phát huy ý nghĩa trên thực tế. Trải qua quá trình phát
triển, ngày nay quyền im lặng được xem là một trong những quyền tự nhiên cơ bản của
con người. Quyền im lặng không chỉ được các quốc gia quy định như một bộ phận
quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền lợi của những người bị
buộc tội mà còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng, trở
thành giá trị chung của nhân loại.
1.2. Nền tảng pháp lý của quyền im lặng trong tố tụng hình sự
Trong TTHS, người bị buộc tội ln là đối tượng yếu thế trước sự cáo buộc về
việc thực hiện hành vi phạm tội từ phía nhà nước. Chính vì vậy, người bị buộc tội phải
được trang bị những quyền pháp lý cần thiết đề bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
mình. Việc trang bị những quyền cần thiết cho người bị buộc tội không chỉ đơn thuần
nhằm bảo vệ đối tượng này mà còn nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan, cơng
bằng trong q trình TTHS. Do đó, việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội nói
chung và bảo đảm quyền im lặng nói riêng được dựa trên nền tảng về sự cơng bằng
giữa các bên trong TTHS. Bên cạnh đó, quyền im lặng của người bị buộc tội cũng
được xây dựng dựa trên nền tảng là ngun tắc suy đốn vơ tội và nguyên tắc về trách
nhiệm chứng minh của nhà nước trong TTHS. Việc ghi nhận các nguyên tắc xét xử



15

cơng bằng, ngun tắc suy đốn vơ tội cũng như nguyên tắc về trách nhiệm chứng
minh của nhà nước chính là nền tảng pháp lý vững chắc và là điều kiện tiên quyết đề
ghi nhận quyền im lặng của người bị buộc tội. Đồng thời, việc ghi nhận quyền im lặng
của người bị buộc tội là một trong những sự triển khai cụ thể của các nguyên tắc trên
trong TTHS.
1.2.1. Quyền im lặng và nguyên tắc xét xử công bằng
Quyền xét xử công bằng (the right to a fair trial) thực chất là một tập hợp các
bảo đảm tố tụng nhằm bảo đảm q trình xét xử được cơng bằng, trong đó bao gồm các
khía cạnh như được bình đẳng trước Tồ án (equality before a court), được suy đốn vô
tội (assumption of innocence); không bị áp dụng hồi tố (prohibition of ex post facto
laws); và không bị bỏ tù chỉ vì khơng hồn thành nghĩa vụ theo hợp đồng (prohibition
of imprisonment for debt)16. Hiện nay, quyền được xét xử công bằng làm một trong
những quyền cơ bản được ưu tiên bảo đảm nhiều nhất trong pháp luật quốc tế.17 Theo
hệ thống Thông luật, nguyên tắc xét xử công bằng (Principle of Right to Fair Trial) là
nền tảng quan trọng cho sự ra đời của quyền im lặng. Yêu cầu về ngun tắc xét xử
cơng bằng là một tiêu chí quan trọng nhằm hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự cũng
như bảo đảm triệt để các quyền cơ bản của người bị buộc tội.
Quyền được xét xử công bằng được ghi nhận tại nhiều văn bản pháp lý quốc tế
như Điều 14, Điều 16 Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị
(ICCPR)1966; Điều 5, Điều 6 Công ước châu Âu về Nhân quyền; Điều 3, 8, 9, 10
Công ước châu Mỹ về Nhân quyền 1969… Theo đó, tính cơng bằng được biểu hiện ở
hai nội dung: (1) mọi thủ tục tố tụng đều phải được tiến hành một cách công bằng; và
(2) các bên trong quá trình tố tụng phải được đối xử một cách cơng bằng18. Như vậy,
trong lĩnh vực tố tụng hình sự, một trong những mục đích của quyền xét xử cơng bằng
chính là tạo vị thế cân bằng giữa hai bên đối trọng là các cơ quan có thẩm quyền tố
tụng và người bị buộc tội. Sự công bằng giữa các bên ở đây không chỉ hiểu đơn thuần
Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr.210.

17
Lương Thị Mỹ Quỳnh, Quan điểm lịch sử và nền tảng lý luận về bảo đảm quyền có người bào chữa
trong tố tụng hình sự thế giới, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật tp. HCM , số 6/2013, tr32.
18
Lương Thị Mỹ Quỳnh, chú thích số 7, tr35.
16


16

là một khái niệm mang tính hình thức, và nó khơng chỉ là sự bình đẳng về quyền của
người bị buộc tội với cơng tố viên mà cịn phải được hiểu là những bình đẳng về cơ
hội. Điều này có nghĩa là mọi đối xử thiên lệch đối với một bên trong tố tụng hình sự
so với bên đối trọng là khơng chính đáng, bị cấm đốn và bị coi là vi phạm pháp luật19.
Xuất phát từ yêu cầu về sự bình đẳng về quyền cũng như về vị thế giữa bên
buộc tội và bên bị buộc tội, quyền im lặng cần phải được thừa nhận như một cách thức
tự bảo vệ của bên yếu thế hơn là người bị buộc tội trước sức mạnh cáo buộc từ phía
nhà nước. Bởi nếu bên buộc tội có quyền đặt câu hỏi thì ở vị thế cân bằng đối trọng,
bên bị buộc tội cũng phải có quyền từ chối trả lời những câu hỏi đó. Nếu bên đặt câu
hỏi sử dụng đến những sức mạnh mang tính cưỡng chế để bắt buộc bên cịn lại phải trả
lời câu hỏi của mình thì có nghĩa là vị thế cân bằng khơng tồn tại, dẫn đến vi phạm yêu
cầu của nguyên tắc xét xử công bằng. Giả sử trong trường hợp quyền im lặng khơng
được thừa nhận thì rõ ràng việc thu thập những thơng tin về vụ án của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng sẽ có những chênh lệch nhất định. Khi người bị buộc tội không
được quyền lựa chọn giữa việc tự do khai báo hay giữ im lặng, rất có thể họ sẽ liên tục
bị khai thác về các bằng chứng phạm tội dù biết những nội dung đó có thể sẽ gây bất
lợi cho bản thân trong q trình xét xử. Bên cạnh đó, khi mà những người bị buộc tội
khơng có quyền im lặng trước những câu hỏi của bên cơ quan có thẩm quyền thì câu
hỏi đặt ra là liệu có thật sự tồn tại sự công bằng về vị thế giữa hai bên đối trọng trong
trường hợp này? Khi đó, việc nguyên tắc xét xử cơng bằng bị vi phạm là điều dễ nhận

thấy.
Ngồi ra, như đã trình bày, nguồn gốc của quyền im lặng chính là đặc quyền
khơng tự buộc tội bản thân. Mà quyền khơng tự buộc tội bản thân chính là một trong
những nội dung quan trọng của nguyên tắc xét xử công bằng. Khoản 3, Điều 14 Công
ước ICCPR đã quy định rõ: “Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều
có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hồn tồn bình đẳng những bảo đảm tối
thiểu sau đây: […] Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc
buộc phải nhận là mình có tội”. Theo đó, bất kỳ hành vi cưỡng bức nào về mặt thể chất
hay tinh thần, trực tiếp hay gián tiếp, dù là trước hay tại phiên tịa nhằm buộc người bị
19

Lương Thị Mỹ Quỳnh, chú thích số 7, tr42.


17

buộc tội đưa ra lời khai chống lại chính mình hay nhận mình có tội đều bị cấm. Tất cả
những bằng chứng thu thập được từ các hành vi trái pháp luật này đều khơng có giá trị
chứng minh. Bên cạnh đó, sự im lặng của người bị buộc tội không được sử dụng như
chứng cứ để buộc tội hay rút ra bất kỳ kết luận bất lợi nào đồi với đối tượng này.20 Toà
án Nhân quyền châu Âu cũng đã chỉ rõ rằng quyền im lặng là một trong những thành tố
quan trọng kế thừa nguyên tắc xét xử cơng bằng21. Vì vậy, quyền được xét xử cơng
bằng sẽ được xem là vi phạm nếu bị cáo bị kết tội chỉ dựa trên những giả thiết bất lợi
xuất phát từ quyền in lặng của họ.22 Ngoài ra, trong một số văn bản pháp luật quốc tế,
nội dung về quyền im lặng cũng được quy định tại các điều luật về quyền được xét xử
công bằng. Chẳng hạn, Công ước về Nhân quyền của châu Mỹ quy định tại điểm g,
Khoản 2 Điều 8 về quyền được xét xử công bằng: “khơng ai bị buộc phải làm chứng
chống lại mình hoặc phải nhận mình có tội”. Do đó, có thể nói quyền im lặng là một bộ
phận quan trọng của quyền được xét xử công bằng.
Như vậy, nguyên tắc xét xử công bằng đã tạo ra những cơ sở pháp lý vững chắc

cho việc quy định về quyền im lặng. Ngược lại, việc bảo đảm thực hiện quyền im lặng
trên thực tế cũng góp phần vào việc bảo đảm nguyên tắc xét xử cơng bằng trong tố
tụng hình sự. Có thể nói rằng, nếu khơng có quy định về quyền im lặng của người bị
buộc tội,nguyên tắc xét xử công bằng cũng không được bảo đảm một cách đầy đủ, trọn
vẹn.
1.2.2. Quyền im lặng và ngun tắc suy đốn vơ tội
Suy đốn vơ tội là một trong những ngun tắc cơ bản được ứng dụng rộng rãi
trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Ngày nay, nguyên tắc suy đoán vô tội được nhiều
Nhà nước coi là nguyên tắc của tố tụng hình sự, được đánh giá là thành tựu vĩ đại của
văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc này đã được công
nhận trong tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các Quyền Dân

20

Lawyers Committee for Human Rights (2000), What is a fair trial? A Basic Guide to Legal
Standards and Practice, />21
Xem Mục 2.1.
22
Eileen Skinnider và Frances Gordon, chú thích số 10, tr21.


18

sự và Chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc. 23 Theo ngun tắc suy đốn vơ tội,
“người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi
phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật.”24.
Việc ghi nhận quyền suy đốn vơ tội là một trong những nền tảng vững chắc
cho việc hình thành quyền im lặng trong pháp luật tố tụng hình sự. Theo ngun tắc
suy đốn vô tội, hành vi phạm tội của người bị buộc tội phải được chứng minh bởi chủ
thể có thẩm quyền, theo đúng trình tự mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. Để đạt

được bản án kết tội, bên buộc tội phải có đầy đủ các chứng cứ để có thể loại bỏ tất cả
những sự nghi ngờ hợp lý, từ đó thuyết phục Tồ án theo quan điểm của mình. Đây là
yêu cầu của tiêu chuẩn đánh giá chứng cứ “vượt quá sự nghi ngờ hợp lý”. Sự nghi ngờ
hợp lý là tất cả những nghi ngờ của Tồ án về việc có tội sau khi đã xem xét các chứng
cứ và vấn đề một cách nghiêm túc. Cách thức đánh giá chứng cứ này đòi hỏi các chứng
cứ thu thập được phải đầy đủ và rõ ràng chứng minh được hành vi phạm tội của người
bị buộc tội. Nói cách khác, trước những chứng cứ được đưa ra, Tồ án có thể khẳng
định một cách chắc chắn mà khơng hề có chút nghi ngờ nào là bị cáo chính là người đã
thực hiện hành vi phạm tội. Và trong các chứng cứ đó, các cơ quan có thẩm quyền
không thể coi sự im lặng của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án như
một chứng cứ buộc tội.
Bên cạnh đó, ngun tắc suy đốn vô tội cũng đặt ra yêu cầu về việc “suy đốn
có lợi” cho người bị buộc tội. Điều này có nghĩa là mọi sự nghi ngờ đối với người bị
buộc tội đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu khơng chứng minh làm rõ
được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị buộc tội phải được giải thích theo
hướng có lợi cho họ. Nói cách khác, trong trường hợp Toà án xét thấy những chứng cứ
mà bên buộc tội đưa ra chưa thật sự đầy đủ, chặt chẽ, dẫn đến việc kết tội bị cáo là
khơng hồn tồn thuyết phục thì Tồ án phải tun bị cáo là vơ tội. Trước khi có bản
án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tồ án, người bị buộc tội vẫn không bị coi là tội
phạm. Do đó, các cơ quan nhà nước khơng thể áp dụng các biện pháp tra tấn, cưỡng
Đoàn Thị Ngọc Hải, Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong Luật tố tụng hình sự, sự thể chế hóa cho phù
hợp với Hiến pháp, truy cập
ngày 18/4/2017.
24
Khoản 2 Điều 14 Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị 1966.
23


19


bức cả về tinh thần hay thể chất, dù là trực tiếp hay gián tiếp đối với họ. Điều này có
nghĩa là các cơ quan có thẩm quyền khơng thể ép buộc người bị buộc tội phải trả lời
câu hỏi của mình. Nếu người bị buộc tội vì bị ép buộc mà phải trình bày thì lời khai
của họ sẽ không thể được dùng làm chứng cứ trong bất kỳ tiến trình tố tụng nào25. Và
trong trường hợp người bị buộc tội im lặng, sự im lặng đó cũng khơng thể được dùng
làm bằng chứng buộc tội trong vụ án.
Xuất phát từ mối quan hệ mật thiết giữa quyền im lặng và ngun tắc suy đốn
vơ tội, có ý kiến cho rằng quyền im lặng chỉ là một trong những vấn đề cụ thể của
ngun tắc suy đốn vơ tội. Suy cho cùng, quyền im lặng có nguồn gốc từ ngun tắc
suy đốn vơ tội, là cơ chế thực thi ngun tắc suy đốn vơ tội trong bảo vệ quyền con
người trong tố tụng hình sự26.
Như vậy, có thể thấy rằng, quyền im lặng và ngun tắc suy đốn vơ tội đều có
vai trị, vị trí nhất định và có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau,
tạo thế trọng cân bằng cho người bị buộc tội khi tham gia tố tụng. Việc quy định
nguyên tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự đặt ra yêu cầu về việc quy
định quyền im lặng của người bị buộc tội. Ngược lại, việc ghi nhận quyền im lặng cũng
góp phần quan trọng vào việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền suy đốn vơ tội.
1.2.3. Quyền im lặng và trách nhiệm chứng minh của nhà nước
Có thể thấy rằng, quyền im lặng không chỉ đơn thuần thể hiện đặc quyền không
tự buộc tội chính mình mà cịn là sự tổng hợp của nhiều nguyên tắc khác nhau trong tố
tụng hình sự27, trong đó có nguyên tắc về việc xác định trách nhiệm chứng minh trong
vụ án hình sự.
Việc xác định trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự đã có những sự
thay đổi nhất định theo từng thời kỳ và từng mơ hình tố tụng. Chẳng hạn, theo mơ hình
tố tụng tố cáo xuất hiện vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phát triển cực thịnh trong thời
kỳ đầu của xã hội phong kiến, nghĩa vụ chứng minh thuộc về người tố cáo: “người tố
Điều 15, Công ước Chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ
nhục, 1984
26
Võ Văn Tài, Trịnh Tuấn Anh (2015), Nguồn gốc, bản chất, phạm vi áp dụng của “quyền im lặng”

trong tố tụng hình sự, Tạp chí Luật học, Đại học Luật Hà Nội, số 11/2015, tr39.
27
Eileen Skinnider và Frances Gordon, chú thích số 10, tr21
25


20

cáo có nghĩa vụ chứng minh và khơng có người tố cáo thì khơng có quan tịa”28. Hay
vào thế kỷ thứ XIII ở Pháp, thế kỷ thứ XVI ở Đức và một số nước châu Âu, hình thức
tố tụng thẩm vấn được hình thành, phát triển. Khi đó, “Biện lý là người đại diện cho
quyền lực nhà vua, có trách nhiệm điều tra, thu thập chứng cứ và duy trì sự buộc tội
trước Tồ án”29. Cịn trong pháp luật tố tụng hình sự hiện đại, có thể nói, cho dù các
quốc gia theo mơ hình tố tụng tranh tụng hay thẩm vấn, hỗn hợp thì trách nhiệm chứng
minh trong vụ án hình sự nhìn chung đều thuộc về phía nhà nước. Các cơ quan có thẩm
quyền sẽ đại diện cho nhà nước thực hiện chức năng buộc tội cũng như trách nhiệm
chứng minh tội phạm. Các cơ quan này trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình phải tiến hành các biện pháp theo quy định của pháp luật để tìm kiếm, thu
thập đầy đủ các bằng chứng nhằm buộc tội một đối tượng nào đó về việc thực hiện
hành vi phạm tội. So với người bị buộc tội, rõ ràng các cơ quan nhà nước có đủ các
điều kiện cần thiết để thực hiện trách nhiệm chứng minh trong vụ án hình sự. Với
những cơng cụ, phương tiện trong tay, nhà nước có khả năng vượt trội trong việc tìm
kiếm, thu thập, bảo quản chứng cứ. Việc đặt trách nhiệm chứng minh lên vai các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cũng chính là một trong những cách thức nhằm cân bằng
vị thế giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội.30
Ở phía đối diện, người bị buộc tội có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh
mình là vơ tội. Vì trách nhiệm chứng minh thuộc về nhà nước nên người bị buộc tội
khơng có nghĩa vụ phải cùng với các cơ quan nhà nước đi tìm sự thật vụ án, cũng
khơng có nghĩa vụ phải hỗ trợ các cơ quan này trong hoạt động tìm kiếm chứng cứ. Do
đó, người bị buộc tội cần thiết phải có quyền từ chối câu hỏi do các cơ quan có thẩm

quyền đặt ra. Trong trường hợp người bị buộc tội giữ im lặng, các cơ quan có thẩm
quyền khơng thể thu thập được nguồn chứng cứ là lời khai của người bị buộc tội. Khi
đó, các cơ quan này phải tiến hành các biện pháp điều tra khác theo quy định để thu
Trần Quang Tiệp (2009), Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, trang 94.
29
Đỗ Văn Đương (2011), Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, NXB Chính trị quốc gia – Sự
thật, Hà Nội, trang 27.
30
Gregory W. O'Reilly (1994), England Limits the Right to Silence and Moves towards an
Inquisitorial System of Justice, Journal of Criminal Law and Criminology, Northwestern University
School of Law Scholarly, volume 84, tr420.
28


×