Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Rào cản phi thuế quan của Mỹ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 116 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG





PHAN THỊ MINH LÝ



RÀO CẢN PHI THUẾ QUAN CỦA MỸ VÀ
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM



Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số: 60.31.07




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ



Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Hữu Khải







Hà Nội - 2006



LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ hỗ trợ
của các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp.
Nhân dịp hoàn thành bản Luận văn, tôi xin đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Hữu Khải – người đã chỉ bảo tận tâm, nhiệt tình
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Hội đồng Khoa học
trường Đại học Ngoại thương, Khoa Sau Đại học trường Đại học Ngoại
thương đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các bạn bè
đồng nghiệp, gia đình đã tạo điều kiện, hỗ trợ, ủng hộ về tinh thần để tôi có
thể hoàn thành Luận văn.
Do hạn chế năng lực và thời gian nghiên cứu, Luận văn chắc chắn
không tránh khỏi những sai sót, tác giả rất mong được sự góp ý chỉ bảo của
thầy cô và các bạn bè đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2006
Tác giả
Phan Thị Minh Lý




LỜI NÓI ĐẦU

Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam
đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN, tham gia AFTA, APEC,
ASEM và đang đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Hiện tại, WTO đang tiếp tục Vòng đàm phán thiên niên kỷ với mục tiêu đẩy
mạnh tự do hoá thương mại trên toàn thế giới. Tuy nhiên, tự do hoá thương
mại là một quá trình lâu dài, gắn chặt với quá trình đàm phán để cắt giảm
thuế quan và hàng rào phi quan thuế. Các nước, đặc biệt là các nước công
nghiệp phát triển, một mặt luôn đi đầu trong việc đòi hỏi phải đàm phán để
mở cửa thị trường và thúc đẩy tự do hoá thương mại, mặt khác lại luôn đưa ra
các biện pháp tinh vi hơn và các rào cản phức tạp hơn nhằm bảo hộ sản
xuất trong nước.
Khi tham gia vào “sân chơi” chung này, các nước đang phát triển trong
đó có Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi cạnh tranh với hàng hóa của
các nước công nghiệp phát triển. Những quy định của WTO sẽ hướng tới việc
tự do hoá thương mại bằng cách giảm dần và tiến tới loại bỏ hẳn các hàng rào
thuế quan trong thương mại giữa các nước. Các quốc gia có xu hướng bảo hộ
sản xuất trong nước bằng các biện pháp phi thuế quan.
Kể từ sau khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận và bình thường hóa quan hệ đối
với Việt Nam, quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ liên tục được phát
triển và Hoa Kỳ đã trở thành đối tác quan trọng của Việt nam.Vì vậy, việc
nghiên cứu hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ - một trong những quốc gia có
hệ thống các quy định phi thuế phức tạp nhất thế giới là việc hết sức cần thiết
cho Việt Nam để tìm ra giải pháp vượt rào cản, đẩy mạnh xuất khẩu và rút ra


những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng hàng rào phi thuế quan để
bảo hộ sản xuất trong nước.

Hiện nay, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về các biện
pháp phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế nói chung và các
biện pháp phi thuế quan được áp dụng tại Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu
khoa học cụ thể về hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ – một quốc gia có hệ
thống các rào cản phi thuế vào dạng phức tạp nhất trên thế giới và rút ra bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam từ việc áp dụng các biện pháp phi thuế quan
của Hoa Kỳ thì hầu như chưa có.
Từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Rào cản phi thuế
quan của Mỹ và kinh nghiệm cho Việt Nam”
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài :
- Hệ thống lại một số vấn đề lý luận liên quan đến hàng rào phi thuế quan
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ.
- Rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam để đẩy mạnh xuất khẩu
sang thị trường Hoa Kỳ và xây dựng hàng rào phi thuế quan bảo hộ sản xuất
trong nước
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu là hệ thống các rào cản phi thuế quan của Hoa
Kỳ, các quy định của WTO về rào cản phi thuế quan và các rào cản phi thuế
quan của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào nghiên cứu các rào cản
phi thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Phạm vi về
thời gian là các rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ từ năm 2001 đến thời
điểm nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp nghiên cứu của luận văn là sự tổng hợp của các phân tích,
thống kê, diễn giải, so sánh…để nghiên cứu bản chất các đối tượng. Luận văn
cũng tham khảo ý kiến của các chuyên gia kinh tế cũng như các giáo sư tiến
sỹ kinh tế trong ngành nhằm đạt được kết quả nghiên cứu tốt nhất.

Nội dung nghiên cứu:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương
như sau:
Chương I. Cơ sở lý luận về hàng rào phi thuế quan trong thương mại
quốc tế
Chương II. Thực tiễn áp dụng các biện pháp phi thuế quan của Hoa Kỳ.
Chương III. Đề xuất các biện pháp phi thuế quan Việt Nam có thể sử
dụng trong thời gian tới.




















DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


Viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
ADP
Agreement on Anti-
Dumping Practices
Hiệp định về chống bán
phá giá
AFTA
ASEAN Free Trade
Area
Khu vực thương mại tự
do ASEAN
APEC
Asia – Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu á - Thái Bình
Dương
ATC
Agreement on Textiles
and Clothing
Hiệp định Dệt may
ASEAN
Association of South-
East Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam á
ASEM
Asia Europe Meeting

Diễn đàn hợp tác á - Âu
BATF
Bureau of Alcohol,
Tobacco and Firearms
Cơ quan quản lý rượu,
thuốc lá và vũ khí
CDC
Centers for Disease
Control and Prevention
Trung tâm dịch vụ y tế
kiểm soát dịch bệnh
DOT
US Department of
Transportation
Bộ giao thông Hoa Kỳ
DOC
US – Department of
Commerce
Bộ thương mại Hoa Kỳ.


GATT
General Agreement on
Tariff and Trade
Hiệp định chung về thuế
quan và mậu dịch
EPA
Environment Protection
Agency
Cơ quan bảo vệ môi

trường
FWS
US Fish and Wildlife
Service
Cơ quan kiểm soát cá và
thú vật hoang dã
FTC
Federal Trade
Commission
Hội đồng thương mại
liên bang
FDA
US Food and Drug
Administration
Cục Thực phẩm và
Dược phẩm Hoa Kỳ
FSIS
US Food Safety
Investigation
Cục kiểm định an toàn
thực phẩm - Bộ Nông
nghiệp
MFN
Most Favored Nation
Chế độ ưu đãi tối huệ
quốc
NTM
Non tariff Measures
Các biện pháp phi thuế
quan

NRC
Nuclear Regulatory
Commission
Cơ quan quản lý hạt
nhân Hoa Kỳ
NIST
National Institude of
Standard and
Technology
Viện tiêu chuẩn kỹ thuật
quốc gia
USDA
United States
Department of
Agriculture
Bộ Nông nghiệp
USITC
United states
International Trade
Uỷ ban thương mại
quốc tế Hoa Kỳ


Commission
UNCTAD
United Nations
Conference on Trade
and Development
Hội nghị liên hợp quốc
tế về thương mại và phát

triển
UNDP
United Nations
Development Program
Chương trình phát triển
Liên hợp quốc
USTR
United States Trade
Representatives
Đại diện thương mại
Hoa Kỳ.
SCM
Subsidies and
Countervailing
Measures Agreement
Hiệp định về trợ cấp và
các biện pháp đối khàng
SPS
Agreement on Sanitary
and phytosanitary
Measures
Hiệp định về các biện
pháp vệ sinh dịch tễ
TBT
Agreement on Technical
Barriers to Trade
Hiệp định về hàng rào
kỹ thuật đối với thương
mại
TRIMS

Trade Related
Investment Measures
Các biện pháp đầu tư
liên quan đến thương
mại
WTO
World Trade
Organization
Tổ chức thương mại thế
giới



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Bảng
Nội dung
Trang
Bảng 2.1
Tóm tắt Ngoại thương Hoa Kỳ
28
Bảng 3.1
Dự kiến cơ cấu thị trường năm 2006 và 2010
65
Bảng 3.2
Trị giá xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2005
68
Bảng 3.3
Kim ngạch xuất nhập khẩu sau khi thiết lập quan hệ

thương mại với Hoa Kỳ.
69
Bảng 3.4
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
vào Hoa Kỳ từ năm 2000 đến 2005
70
Bảng 3.5
Kim ngạch buôn bán hai chiều và cán cân thương
mại Việt Nam – Hoa Kỳ
71

- 1 -


CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN
TRONG CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ

I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN
Chính sách thƣơng mại quốc tế là một hệ thống các quan điểm, nguyên
tắc, mục tiêu, biện pháp và các công cụ mà các quốc gia sử dụng nhằm điều
chỉnh các hoạt động thƣơng mại quốc tế phù hợp với các lợi thế quốc gia
trong từng thời kỳ nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho quốc gia từ thƣơng mại
quốc tế.
Khi tham gia vào thƣơng mại quốc tế, các quốc gia sẽ phát huy đƣợc
những thế mạnh của nƣớc mình, tận hƣởng đƣợc những lợi thế từ thị trƣờng
thế giới. Nhƣng mặt khác cũng sẽ bộc lộ những mặt yếu kém và bất lợi của
chính quốc gia đó. Do vậy các quốc gia thƣờng phải sử dụng một hệ thống
các công cụ để điều chỉnh hoạt động thƣơng mại quốc tế. Trong đó phải kể
đến việc sử dụng hàng rào phi thuế quan – một công cụ đƣợc coi là linh hoạt,

tác động nhanh, mạnh. Hàng rào phi thuế quan không chỉ có ý nghĩa trong
việc bảo hộ thị trƣờng nội địa, hƣớng dẫn tiêu dùng, điều tiết vĩ mô nền kinh
tế khá có hiệu quả mà còn là công cụ dùng để phân biệt đối xử trong quan hệ
đối ngoại.
Để đẩy mạnh giao lƣu, hợp tác giữa các nƣớc, các khu vực, hội nhập vào
nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp phải vƣợt qua hai rào cản lớn, đó là:
1. Hàng rào thuế quan (Tariff barriers)
Đây là biện pháp mà Tổ chức Thƣơng mại Thế giới cho phép sử dụng
để bảo hộ thị trƣờng trong nƣớc nhƣng phải cam kết ràng buộc với một mức
thuế trần nhất định và có lịch trình cắt giảm, do vậy xu hƣớng ngày càng giảm
đi. Sự tự do hoá biểu hiện thông qua các chính sách về Quy chế tối huệ quốc
- 2 -


(MFN), chế độ thuế quan ƣu đãi phổ cập (GSP), Hiệp định thuế quan ƣu đãi có
hiệu lực chung của các khối liên kết kinh tế nhƣ: EU, NAFTA, AFTA,
APEC…
2. Hàng rào phi thuế quan (Non-tariff Barriers)
Do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do trình độ phát triển kinh tế không
đồng đều, các nƣớc đều duy trì rào cản thƣơng mại nhằm bảo hộ sản xuất nội
địa. Bên cạnh biện pháp bảo hộ bằng thuế quan, rất nhiều hàng rào phi thuế
quan ra đời. Mức độ cần thiết và lý do sâu xa dẫn đến việc bảo hộ sản xuất
nội địa của từng nƣớc cũng khác nhau, đối tƣợng bảo hộ cũng khác nhau
khiến cho các hàng rào phi thuế quan càng trở nên đa dạng.
Trong thập niên 1960, GATT tiến hành công việc liệt kê các hàng rào
phi thuế quan của mọi quốc gia thành viên. Một trong những mục đích của
việc này là chuẩn bị cho vòng đàm phán kế tiếp. Năm 1973, công trình đã
liệt kê đƣợc hơn 800 loại hàng rào. Hội nghị liên hợp quốc về thƣơng mại và
phát triển (UNCTAD) cũng tiến hành một dự án nghiên cứu để liệt kê các
hàng rào phi thuế quan và đến năm 1986 đã ghi nhận đƣợc một số lƣợng còn

nhiều hơn thế nữa.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm về hàng rào phi thuế quan, Tổ chức
hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) năm 1997 đã định nghĩa: “Hàng rào
phi thuế quan là những biện pháp biên giới nằm ngoài phạm vi thuế quan có
thể đƣợc các quốc gia sử dụng, thông thƣờng dựa trên cơ sở lựa chọn, nhằm
hạn chế nhập khẩu”
Tƣơng tự nhƣ vậy, cơ sở dữ liệu của Hệ thống Phân tích và Thông tin
Thƣơng mại (TRAINS) của UNCTAD chủ yếu chỉ tính đến các biện pháp
biên giới. Phƣơng pháp tiếp cận này bỏ qua phần lớn những biện pháp liên
quan đến xuất khẩu và việc mua sắm của Chính phủ (nhƣ những nguyên tắc
về hàm lƣợng giá trị trong nƣớc, các khoản trợ cấp, giảm thuế, các biện pháp
biên giới về phân biệt đối xử và các biện pháp tƣ nhân chống cạnh tranh ).
- 3 -


Thực tế, phƣơng pháp tiếp cận về những biện pháp biên giới đƣợc áp dụng nhiều
hơn vì các lý do tình thế chứ không phải các tính toán nghiêm khắc, trí tuệ.
Nghiên cứu của Hội đồng hợp tác kinh tế Thái Bình Dƣơng (PECC) năm
1995 mô tả “các hàng rào phi thuế quan là mọi công cụ phi thuế quan can thiệp
vào thƣơng mại, bằng cách này làm biến dạng sản xuất trong nƣớc”
Các hàng rào phi thuế quan không nên đƣợc xem nhƣ một sự đồng
nghĩa với các biện pháp phi thuế quan, mà nên coi là tập hợp một số biện
pháp phi thuế quan. Tất cả các hàng rào phi thuế quan đều là các biện pháp
phi thuế quan, song không phải tất cả các biện pháp phi thuế quan đều là các
hàng rào phi thuế quan.
Các biện pháp phi thuế quan có thể bao gồm các biện pháp thúc đẩy
xuất khẩu, chúng không phải là những “rào cản” đối với thƣơng mại. Thuật
ngữ có vẻ trung lập hơn này cũng đƣợc các Chính phủ thƣờng dùng để mô tả
những biện pháp đƣợc sử dụng để quản lý nhập khẩu với các mục đích hợp
pháp (ví dụ các thủ tục bảo đảm thực vật đƣợc quốc tế công nhận). Hơn nữa,

ví dụ nếu các hạn ngạch mà không bắt buộc (ít nhất là ở mức nào trên thị
trƣờng phi hạn ngạch có thể xuất hoặc nhập khẩu), khó có thể quy cho chúng
là những “hàng rào”.
Trong thực tế, việc xác định những biện pháp phi thuế quan nào là các
hàng rào phi thuế quan khá khó khăn. Mục đích sử dụng các công cụ, chính
sách là quan trọng, song có những chính sách, biện pháp mà tác dụng của
chúng không thể đƣợc xác định, nếu không có sự điều tra kỹ lƣỡng về kết
quả, bản chất và hoạt động thực sự của chúng.
Bên cạnh các định nghĩa trên, chúng ta đề cập tới định nghĩa về các
biện pháp phi thuế quan và các hàng rào phi thuế quan của WTO: “Biện
pháp phi thuế quan là những biện pháp ngoài thuế quan, liên quan hoặc ảnh
hƣởng đến sự luân chuyển hàng hoá giữa các nƣớc”
- 4 -


Theo cách định nghĩa này thì WTO cũng đã dựa trên cơ sở của thuế
quan. Từ đó, WTO xây dựng định nghĩa về hàng rào phi thuế quan nhƣ sau:
“Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở
đối với thƣơng mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học hoặc bình
đẳng”
Ví dụ nhƣ với một số lƣợng ấn định sẵn, hạn ngạch sẽ không cho hàng
hoá nhập khẩu hoặc xuất khẩu vào hoặc ra khỏi một nƣớc vƣợt quá số lƣợng
đó, mặc dù hàng hoá có sẵn để bán, ngƣời mua đã sẵn sàng để mua.
Mục đích của việc nghiên cứu và phân tích các biện pháp phi thuế quan
là đƣa ra một nghiên cứu mô tả cơ bản của thể chế thƣơng mại hiện hành. Đây
cũng là một cơ sở quan trọng giúp cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam. Cụ thể hơn, nó liên quan đến những cam kết hiện có nhƣng chƣa đƣợc
thực hiện về tự do hoá thƣơng mại đối với ASEAN, APEC và WTO.
Khi Việt Nam ra nhập WTO, thì chắc chắn việc sử dụng hàng rào phi
thuế quan sẽ cần đƣợc bàn đến và phải cắt giảm tƣơng đối nhiều. Nhƣng mặc

dù vậy, chính những quốc gia đề xƣớng ra lại là những nƣớc sử dụng nhiều,
mạnh và có vẻ có hiệu quả bảo hộ nhất những hàng rào phi thuế quan. Do
vậy, với một nền kinh tế có điểm xuất phát thấp, đang trong giai đoạn
chuyển đổi thì lại có rất nhiều ngoại lệ mà WTO cho phép sử dụng. Việc sử
dụng nhƣ thế nào cần phải nghiên cứu một cách nghiên cứu dựa trên cơ sở sự
phân loại rõ ràng và khoa học.
Có rất nhiều cơ quan quản lý nhà nƣớc liên quan đến việc ban hành,
quản lý và thực hiện hàng rào phi thuế quan ở Việt Nam nhƣ:
1. Bộ Thƣơng mại: cơ quan chủ quản, chịu trách nhiệm chính về các
biện pháp kiểm soát số lƣợng (hạn ngạch, cấp giấy phép) và các biện pháp
độc quyền (một kênh về nhập khẩu)
- 5 -


2. Bộ Tài chính: các biện pháp gần thuế, các biện pháp kiểm soát giá cả,
(giá nhập khẩu tối thiểu) và trực tiếp theo dõi giám sát việc thông quan của
Tổng cục Hải quan, các khoản phụ thu vì mục đích ổn định giá cả
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: các biện pháp vệ sinh , các
biện pháp bảo vệ động, thực vật và các biện pháp ảnh hƣởng đến buôn bán
các mặt hàng nông sản
4. Bộ Công nghiệp: các biện pháp ảnh hƣởng đến buôn bán hàng công nghiệp
5. Bộ Y tế: các biện pháp ảnh hƣởng đến buôn bán dƣợc phẩm và thiết bị y tế
6. Bộ Khoa học công nghệ và môi trƣờng: các biện pháp kỹ thuật (các
yêu cầu về tiêu chuẩn và chất lƣợng)
7. Bộ Văn hoá thông tin: các biện pháp ảnh hƣởng đến buôn bán các
văn hoá phẩm, sản phẩm nghe nhìn, thiết bị in ấn [7, tr.15]
II. ƢU NHƢỢC ĐIỂM KHI SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN
1. Ƣu điểm
1.1. Phong phú về hình thức: Nhiều biện pháp phi thuế quan khác nhau có
thể đáp ứng cùng một mục tiêu, áp dụng cho cùng một mặt hàng.

Các NTM trong thực tế rất phong phú về hình thức nên khả năng tác
động và mức độ đáp ứng mục tiêu của chúng cũng rất đa dạng. Do đó, nếu sử
dụng NTM để phục vụ một mục tiêu đề ra thì có thể sử dụng nhiều lựa chọn,
kết hợp hơn mà không bị gò bó chật hẹp trong khuôn khổ một công cụ duy
nhất nhƣ thuế quan. Ví dụ, nhằm hạn chế nhập khẩu một mặt hàng bất kỳ, có
thể đồng thời áp dụng các biện pháp hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép
nhập khẩu không tự động, đầu mối nhập khẩu, phụ thu nhập khẩu
1.2. Đáp ứng nhiều mục tiêu: một NTM có thể đồng thời đáp ứng nhiều mục
tiêu với hiệu quả cao
Mỗi quốc gia thƣờng theo đuổi nhiều mục tiêu trong chính sách kinh tế,
thƣơng mại của mình. Các mục tiêu đó có thể là: (i) bảo hộ sản xuất trong
- 6 -


nƣớc, khuyến khích phát triển một số ngành nghề; (ii) bảo vệ an toàn sức
khoẻ con ngƣời, động thực vật, bảo vệ môi trƣờng; (iii) hạn chế tiêu dùng;
(iv) đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán; (v) đảm bảo an ninh quốc gia, trật
tự xã hội, Các NTM có thể đồng thời phục vụ hiệu quả nhiều mục tiêu khác
nhau trong khi có thể việc sử dụng công cụ thuế quan không khả thi hoặc
không hữu hiệu bằng. Ví dụ: quy định về vệ sinh kiểm dịch đối với nông sản
nhập khẩu vừa đảm bảo an toàn sức khoẻ con ngƣời, động thực vật lại vừa
gián tiếp bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nƣớc một cách hợp pháp. Hay
cấp giấy phép nhập khẩu không tự động đối với dƣợc phẩm vừa giúp bảo vệ
ngành dƣợc nội địa, quản lý chuyên ngành một mặt hàng quan trọng đối với
sức khoẻ con ngƣời, còn có tác dụng phân biệt đối xử với một số nƣớc cung
cấp nhất định
1.3. Nhiều NTM chưa chuẩn bị cam kết ràng buộc cắt giảm hay loại bỏ
Do NTM thƣờng mang tính mập mờ, mức độ ảnh hƣởng không rõ ràng
nhƣ những thay đổi định lƣợng của thuế quan nên tác động của chúng có thể
lớn nhƣng lại là tác động ngầm, có thể che đậy hoặc biện hộ bằng cách này

hay cách khác. Hiện nay các hiệp định của WTO chỉ mới điều chỉnh việc sử
dụng một số NTM nhất định. Trong đó, tất cả các NTM hạn chế định lƣợng
đều không đƣợc phép áp dụng, trừ một số trƣờng hợp ngoại lệ
Một số NTM khác tuy có thể nhằm mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ
sản xuất trong nƣớc nhƣng vẫn đƣợc WTO cho phép áp dụng với điều kiện
tuân thủ những quy định cụ thể, rõ ràng, khách quan. Chẳng hạn nhƣ hàng
rào kỹ thuật, biện pháp kiểm dịch động thực vật, biện pháp tự vệ, chống bán
pháp giá, các biện pháp chống trợ cấp, thuế đối kháng, hỗ trợ nông nghiệp
dạng hộp xanh.
Ngoài ra, các nƣớc vẫn có thể tiếp tục áp dụng mà chƣa bị yêu cầu cắt
giảm hay loại bỏ những NTM chƣa xác định có phù hợp hay không phù hợp
- 7 -


với các quy định của WTO. Những NTM này có thể do WTO chƣa có quy
định điều chỉnh hoặc có quy định nhƣng rất chung chung và trên thực tế rất
khó có thể xác định đƣợc tính phù hợp hay không phù hợp với quy định đó,
hoặc chúng vẫn là một thực tế đƣợc thừa nhận chung. Chẳng hạn nhƣ yêu
cầu đặt cọc, nộp thuế nhập khẩu trƣớc.
2. Nhƣợc điểm
2.1. Không rõ ràng và khó dự đoán
Các NTM trên thực tế thƣờng đƣợc vận dụng dựa trên cơ sở dự đoán
chủ quan, thậm chí tuỳ tiện của nhà chức trách về sản xuất và nhu cầu tiêu
thụ trong nƣớc. Chẳng hạn để xác định hạn ngạch nhập khẩu phân bón trong
năm tới, Chính phủ phải dự kiến đƣợc công suất sản xuất trong nƣớc có khả
năng đáp ứng đƣợc bao nhiêu phần trăm tổng nhu cầu về phân bón của toàn
ngành nông nghiệp
Trong bối cảnh nền kinh tế ngày nay rất phức tạp và thƣờng xuyên biến
động, việc đƣa ra một dự đoán tƣơng đối chính xác là tƣơng đối khó khăn.
Nếu dự đoán không chính xác sẽ có ảnh hƣởng xấu đến sản xuất trong nƣớc. Ví

dụ nhƣ gây ra thiếu hụt trầm trọng nguồn cung cấp phân bón khi sản xuất trong
nƣớc vào thời vụ, đẩy giá tăng vọt (sốt nóng) hoặc trái lại, dẫn đến tình trạng
cung vƣợt cầu quá lớn trên thị trƣờng làm giá sụt giảm (sốt lạnh). Điều này
đồng nghĩa với việc các quyết định sản xuất và kinh doanh sẽ chịu rủi ro cao
hơn
Sử dụng NTM cũng thƣờng làm nhiễu tín hiệu chỉ dẫn các quyết định
của ngƣời sản xuất và ngƣời tiêu dùng trong nƣớc , tín hiệu chỉ dẫn việc
phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế (chính là giá thị trƣờng), phản
ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thực sự. Do đó, khả năng xây dựng
kế hoạch đầu tƣ sản xuất kinh doanh hiệu quả trung và dài hạn của ngƣời sản
xuất bị hạn chế.
- 8 -


Tác động của các NTM thƣờng khó có thể lƣợng hoá đƣợc rõ ràng nhƣ
tác động của thuế quan. Nếu mức bảo hộ thông qua thuế quan đối với một
sản phẩm có thể dễ dàng đƣợc xác định bằng chính thuế suất đánh lên sản
phẩm đó thì mức độ bảo hộ thông qua NTM là tổng mức bảo hộ của các
NTM riêng rẽ áp dụng cho cùng một sản phẩm. Bản thân mức độ bảo hộ của
mỗi NTM cũng chỉ có thể đƣợc ƣớc lƣợng một cách tƣơng đối. Cũng vì mức
độ bảo hộ của các NTM không dễ xác định nên rất khó xây dựng một lộ trình
tự do hoá thƣơng mại rõ ràng nhƣ với bảo hộ chỉ bằng thuế quan.
2.2. Khó khăn, tốn kém trong quản lý
Vì khó dự đoán nên các NTM thƣờng đòi hỏi chi phí quản lý cao và tiêu tốn
nhân lực của Nhà nƣớc để duy trì hệ thống điều hành, kiểm soát bằng NTM
Một số NTM thuộc thẩm quyền và phạm vi quản lý của nhiều cơ quan
với những mục tiêu khác nhau, đôi khi còn mâu thuẫn nhau, nên có thể gây
khó khăn cho bản thân các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý và các
chủ thể tham gia hoạt động kinh tế trong việc xây dựng, sử dụng, tiếp cận
thông tin cũng nhƣ đánh giá tác động của các NTM này.

Các doanh nghiệp sản xuất chƣa chú trọng đến tiếp cận thông tin và
chƣa có ý thức xây dựng, đề xuất các NTM để bảo hộ sản xuất, còn trông
chờ vào nhà nƣớc tự quy định. Do đó, thực tế là các doanh nghiệp thƣờng
phải tốn kém chi phí vận động hành lang để cơ quan chức năng ra quyết định
áp dụng NTM nhất định có lợi cho mình.
Ngoài ra, có những NTM bị động là những NTM tồn tại trên thực tế
ngoài ý muốn của các nhà hoạch định chính sách nhƣ bộ máy quản lý thƣơng
mại quan liêu, năng lực thấp của các nhân viên hải quan, các văn bản pháp lý
không đƣợc công bố công khai…
- 9 -


2.3. Không tăng thu ngân sách
Việc sử dụng các NTM phục vụ mục tiêu hạn chế nhập khẩu, bảo hộ
sản xuất trong nƣớc, nhƣng hầu nhƣ không đem lại nguồn thu tài chính trực
tiếp nào cho Nhà nƣớc. Mặc dù một số nƣớc đang và kém phát triển có sử
dụng đấu thầu hạn ngạch hoặc quy định mức lệ phí khi đƣợc chứng nhận về
tiêu chuẩn kỹ thuật…nhƣng những khoản tài chính này quá nhỏ, chƣa đủ bù
đắp chi phí của công tác hành thu
2.4. Gây bất bình đẳng thậm chí dẫn đến độc quyền ở một số doanh nghiệp
Khi áp dụng các NTM có thể làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc
một ngành sản xuất nhất định đƣợc bảo hộ hoặc đƣợc hƣởng ƣu đãi, đặc
quyền nhƣ đƣợc phân bổ hạn ngạch, đƣợc chỉ định làm đầu mối nhập khẩu.
Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ
nền kinh tế. Không những thế, còn phát sinh tình trạng độc quyền ở một số
doanh nghiệp đối với những mặt hàng đƣợc bảo hộ ở mức độ cao. Hành động đó
làm cho chi phí sản xuất không hạ, chất lƣợng không cao, sức cạnh tranh
giảm.
2.5. Làm cho tín hiệu thị trường kém trung thực
Khác với thuế, các NTM không trực tiếp tác động đến giá, nhƣng nó lại

tác động trực tiếp đến lƣợng cung, cầu của một quốc gia do vậy nó cũng có
tác động giống thuế là làm cho tín hiệu thị trƣờng trở nên kém trung thực.
Khi cung (S) và cầu (D) cân bằng thì giá sẽ ở trạng thái ổn định. Trong
trƣờng hợp cung lớn hơn cầu (S > D) sẽ dẫn đến những áp lực làm giảm giá.
Ngƣợc lại, trong trƣờng hợp cung nhỏ hơn cầu (S < D) thì sẽ có áp lực làm
tăng giá.
Giả sử sản xuất xe máy của một quốc gia (S) là 500.000 chiếc, lƣợng
cầu (D) là 1.000.000 chiếc; để đảm bảo cân bằng cung cầu quốc gia đó cần
nhập khẩu 500.000 chiếc xe máy nữa, nhƣng để bảo hộ sản xuất, thực hiện
- 10 -


chính sách tiết kiệm ngoại tệ, Chính phủ đƣa ra hạn ngạch nhập khẩu (M) là
300.000 chiếc. Khi đó: (S + M) - D = -200.000. Nhƣ vậy nhu cầu còn thiếu là
200.000 chiếc xe máy. Điều này dẫn đến áp lực làm cho giá mặt hàng đó tăng.
Nhƣng đây là sự biến động không mang tính khách quan vì nó chịu sự
chi phối và điều tiết của Chính phủ thông qua rào cản phi thuế quan (hạn
ngạch). Nó sẽ phản ánh mặt không tốt khi một quốc gia đang chuyển đổi
sang cơ chế thị trƣờng.
Các biện pháp thuế quan và phi thuế quan là hai công cụ bảo hộ sản
xuất quan trọng đối với mọi quốc gia. Do mỗi công cụ đều có điểm mạnh,
điểm yếu đặc thù nên chúng thƣờng đƣợc sử dụng bổ sung lẫn nhau nhằm
bảo hộ sản xuất trong nƣớc. Mặc dù về lý thuyết, WTO và các định chế
thƣơng mại khu vực thƣờng chỉ thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp
pháp duy nhất nhƣng thực tế đã chứng minh rằng các nƣớc không ngừng sử
dụng các NTM mới, vừa đáp ứng mục đích bảo hộ, vừa không trái với thông
lệ quốc tế.
Mức độ hiệu quả của bảo hộ có tăng lên nhiều hay không còn phụ thuộc
vào tính linh hoạt có chọn lọc, có định hƣớng của Chính phủ các nƣớc trong
việc áp dụng các NTM bổ trợ cho biện pháp thuế quan. Nếu biết kết hợp hài

hoà và tinh tế hai công cụ này, sản xuất trong nƣớc sẽ đƣợc bảo hộ, hỗ trợ
hợp lý có thời hạn để nâng cao sức cạnh tranh nhằm từng bƣớc thích nghi
với các định chế và nguyên tắc chung của thƣơng mại quốc tế. [8, tr. 291 –
295]
III. PHÂN LOẠI CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN
1. Căn cứ phân loại
a. Căn cứ vào mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước
Đây là thuộc tính quan trọng nhất của một NTM mà các nhà hoạch định
chính sách cần cân nhắc khi đƣa ra quyết định có áp dụng chúng hay không.
- 11 -


Điều này phụ thuộc nhiều vào vấn đề phân tích và đánh giá thực trạng kinh
tế trong nƣớc từ đó lựa chọn ngành bảo hộ, thời gian và mức độ bảo hộ.
b. Căn cứ vào sự phù hợp với quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế
Khi xây dựng chính sách thƣơng mại nhằm hội nhập vào các tổ chức
thƣơng mại quốc tế, Chính phủ cần quan tâm đến những quy định của những
tổ chức này, đặc biệt là những biện pháp đã có cam kết cắt giảm. Hiện tại,
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và APEC, do đó
việc cắt giảm những biện pháp phi thuế quan cho phù hợp với những tổ chức
này là vấn đề bắt buộc. Ngoài ra, muốn trở thành thành viên chính thức của
WTO - một tổ chức thƣơng mại có quy mô toàn cầu trong một tƣơng lai gần,
Việt Nam cần phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa những biện pháp thuế quan
cũng nhƣ phi thuế quan…Các nguyên tắc và quy định của WTO thông
thƣờng cũng là những chuẩn mực cho mối quan hệ giữa các quốc gia với các
thể chế tài chính/ tiền tệ hay cho các tổ chức thƣơng mại khác. Do đó có thể
khẳng định rằng việc thực hiện triệt để bƣớc đầu các cam kết mở đƣờng cho
Việt Nam tham gia WTO và cũng đồng thời giúp Việt Nam phần nào đáp
ứng đƣợc những cam kết trong ASEAN và APEC.
2. Phân loại các biện pháp phi thuế quan

Trên cơ sở các căn cứ nói trên có thể phân loại các NTM thành ba nhóm
với các thuộc tính sau:
Nhóm 1: Các NTM không phù hợp với những quy định của WTO
Nhóm 2; Các NTM phù hợp với những quy định của WTO, không có
mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nƣớc
Nhóm 3: Các NTM phù hợp với những quy định của WTO, có mục tiêu
bảo vệ sản xuất trong nƣớc.
2.1. Nhóm 1: Những biện pháp phi thuế quan không phù hợp với những
quy định của WTO
- 12 -


Các NTM thuộc nhóm này hoặc là vi phạm rõ ràng quy định của WTO
(ví dụ áp dụng giá nhập khẩu tối thiểu để xác định trị giá tính thuế hải quan)
hoặc chỉ phù hợp trong những trƣờng hợp đặc biệt (ví dụ cấm nhập khẩu
hàng hoá có hại cho môi trƣờng). Nhóm này bao gồm tất cả các biện pháp
hạn chế nhập khẩu sau đây:
2.1.1. Các biện pháp quản lý định lượng
 Các trƣờng hợp ngăn cấm (6300)1 bao gồm:
- Cấm hoàn toàn (6310): trừ trƣờng hợp đối với lý do môi trƣờng, sức
khoẻ, thuần phong mỹ tục, an ninh quốc phòng
- Ngừng cấp giấy phép nhập khẩu (6320)
- Cấm theo mùa (6330)
- Cấm tạm thời (6340)
- Cấm trên cơ sở nguồn gốc (Cấm vận) (6360)
- Cấm đối với các hạng mục sản phẩm nhạy cảm (6370)
 Quản lý bằng hạn ngạch (6200): Hạn ngạch là quy định của Nhà
nƣớc về số lƣợng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó đƣợc nhập khẩu nói
chung hoặc từ một thị trƣờng nào đó, trong một thời gian nhất định
- Hạn ngạch toàn cầu (6210):

+ Không xác định (6211)
+ Xác định đối với các thành phẩm xuất khẩu (6212)
- Hạn ngạch song phƣơng (6220)
- Hạn ngạch theo mùa (6230)
- Hạn ngạch liên quan đến thực hiện xuất khẩu (6250)
- Hạn ngạch liên quan đến bán hàng hoá nội địa (6250)
- Hạn ngạch của các hạng mục sản phẩm nhạy cảm (6270)
 Cấp phép không tự động
- 13 -


Đƣợc xác định nhƣ là các thủ tục hành chính đƣợc sử dụng để thực hiện
chế độ cấp phép nhập khẩu, đòi hỏi đệ trình đơn hay các tài liệu khác (không
liên quan tới mục đích hải quan) tới các cơ quan hành chính thích hợp là điều
kiện tiên quyết để đƣợc phép nhập khẩu
- Giấy phép không có tiêu chuẩn thanh toán cụ thể (6110)
- Giấy phép đối với ngƣời mua chọn lọc (6120)
- Giấy phép đối với việc sử dụng cụ thể (6130)
+ Liên quan tới thƣơng mại xuất khẩu (6131)
+ Đối với mục đích ngoài xuất khẩu (6132)
- Giấy phép liên quan đến nội địa hoá (6140)
+ Mua hàng hoá trong nƣớc (6141)
+ Yêu cầu tỷ lệ nội địa hoá (6142)
+ Thƣơng mại hàng đổi hàng hoặc mua bán đối lƣu (6143)
- Giấy phép liên quan đến giao dịch ngoại hối không chính thức (6150)
+ Chuyển đổi ngoại tệ bên ngoài (6151)
+ Chuyển đổi ngoại tệ của chính các nhà nhập khẩu (6152)
 Các thoả thuận hạn chế xuất khẩu (6600)
Các hạn chế đƣợc đặt ra bởi nƣớc nhập khẩu nhƣng đƣợc nƣớc xuất
khẩu quản lý:

- Các thoả thuận quản lý xuất khẩu tự nguyện (6610)
- Các thoả thuận tiếp thị có trật tự (6620)
- Thoả thuận liên quan đến hiệp định đa sợi MFA (6630)
+ Thoả thuận hạn ngạch (6631)
+ Thoả thuận tƣ vấn (6632)
+ Thoả thuận hợp tác hành chính (6633)
- Thoả thuận hạn chế xuất khẩu hàng dệt may ngoài Hiệp định đa sợi
MFA (6640)
- 14 -


2.1.2. Các biện pháp tương đương thuế quan
Đƣợc định nghĩa nhƣ những biện pháp làm tăng chi phí theo cách tƣơng
tự đối với các biện pháp thuế quan. Bao gồm:
 Phụ phí hải quan (2100): Đây là loại chi phí thu thêm của chủ
hàng phục vụ cho công tác quản lý, làm thủ tục của Hải quan. Phụ phí Hải
quan còn đƣợc hiểu là phí thu thêm hoặc bổ sung thêm, là một phƣơng tiện
chính sách thƣơng mại độc lập để tăng thu nhập tài chính hoặc bảo hộ công
nghiệp trong nƣớc
 Thuế và chi phí bổ sung (2200): Chi phí bổ sung bao gồm các loại
thuế và lệ phí khác nhau đặt ra đối với hàng hoá nhập khẩu cũng giống nhƣ
phụ phí hải quan đƣợc đặt ra nhằm mục đích tăng thêm một phần thu cho
ngân sách chủ yếu phục vụ công tác hành thu. Nhƣng mặt khác còn có ý
nghĩa bảo hộ nhƣ một loại rào cản phi thuế quan khác gồm một số loại cơ
bản sau:
- Thuế đối với các giao dịch chuyển đổi ngoại tệ (2210)
- Thuế gián tem (2220)
- Lệ phí giấy phép nhập khẩu (2230)
- Lệ phí hoá đơn lãnh sự (2240)
- Thuế thống kê (2250)

- Thuế đối với các phƣơng tiện vận tải (2260)
- Thuế và phụ phí đối với các sản phẩm nhạy cảm (2270)
- Thuế và chi phí nội địa đánh vào nhập khẩu (2300)
- Thuế và phí tổn đối với hàng hoá thuộc hạng mục sản phẩm nhạy cảm (2370)
- Những loại thuế khác ghi trong mã số (2280)
 Định giá hải quan theo quy định (2400)
- 15 -


Định giá hải quan theo quy định làm biến đổi thuế theo giá hàng hoá
thành một dạng thuế đặc biệt. Biện pháp này đƣợc đƣa ra nhƣ một phƣơng
tiện để tránh gian lận hoặc bảo vệ công nghiệp trong nƣớc.
2.1.3. Các biện pháp tài chính (4000)
Các biện pháp quy định sự tham gia và chi phí của việc chuyển đổi
ngoại tệ đối với việc nhập khẩu và xác định các điều kiện thanh toán
 Các yêu cầu thanh toán trƣớc (4100)
Thanh toán trƣớc các giá trị giao dịch nhập khẩu trong một thời gian
cho phép trƣớc khi nhập khẩu và/hoặc thuế nhập khẩu liên quan đƣợc yêu
cầu tại thời điểm giao dịch hoặc cấp phép nhập khẩu
- Yêu cầu giới hạn tiền mặt (4120): Nghĩa vụ gửi toàn bộ số tiền liên
quan đến giá trị giao dịch hoặc một phần đƣợc xác định của số tiền đó trong
ngân hàng ngoại thƣơng trƣớc khi mở thƣ tín dụng. Việc thanh toán có thể
đƣợc yêu cầu bằng ngoại tệ.
- Tiền gửi có thể trả lại đối với các hạng mục sản phẩm nhạy cảm
(4170): Việc gửi lại tiền gửi là chi phí đƣợc trả lại khi các thùng hàng hoặc
các sản phẩm đã sử dụng đƣợc trả lại hệ thống giao nhận
 Tỷ giá hối đoái đa dạng (4200)
 Xác định tỷ giá hối đoái chính thức hạn chế (4300), Uỷ quyền
ngân hàng (4320)
 Yêu cầu giao lại chuyển đổi ngoại tệ (4400)

 Các quy định liên quan đến các điều kiện chi trả đối với nhập khẩu
(4500): Các quy định cụ thể liên quan đến các điều kiện thanh toán của quá
trình nhập khẩu và việc đạt đƣợc và sử dụng tín dụng (nƣớc ngoài và trong
nƣớc) đối với vấn đề nhập khẩu tài chính
 Trì hoãn chuyển giao xếp hàng (4600)
2.1.4. Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp
 Các hạn chế đối với công ty cụ thể (đầu mối xuất nhập khẩu) (6700):
- 16 -


- Phê chuẩn chọn lọc các nhà nhập khẩu (6710)
- Hạn ngạch đối với công ty nhập khẩu (6720)
 Các biện pháp độc quyền (7000): Các biện pháp tạo nên một tình
huống độc quyền, bằng cách đƣa ra các quyền riêng biệt cho một hoặc một
nhóm hạn chế các nhà kinh doanh vì những lý do xã hội tài chính hoặc kinh
tế. Bao gồm:
- Kênh nhập khẩu duy nhất (7100): tất cả việc nhập khẩu hoặc việc
nhập khẩu một loại hàng hoá chọn lọc phải thông qua các cơ quan Nhà nƣớc
hoặc các doanh nghiệp do Nhà nƣớc quản lý (Đôi khi khu vực tƣ nhân cũng
ó những quy định nhập khẩu riêng biệt). Bao gồm: quản lý doanh nghiệp
thƣơng mại nhà nƣớc (7110); Cơ quan nhập khẩu duy nhất (7120)
- Các dịch vụ quốc gia bắt buộc (7200): các quyền riêng biệt đƣợc
Chính phủ thừa nhận về bảo hiểm quốc gia và các công ty vận tải biển đối
với toàn bộ hoặc một phần cụ thể của việc nhập khẩu. Bao gồm: Bảo hiểm
quốc gia bắt buộc (7210), Vận tải quốc gia bắt buộc (7220)
2.1.5. Các biện pháp liên quan đến đầu tư (9100)
Do quan điểm, mục đích khác nhau giữa các nƣớc phát triển và đang
phát triển về đầu tƣ nƣớc ngoài, theo đó các quốc gia đang phát triển không
muốn thông qua đầu tƣ nƣớc ngoài lại làm thị trƣờng nƣớc sở tại bị lũng
đoạn. Do vậy, các nƣớc này thƣờng đặt ra một loạt các biện pháp có thể coi

nhƣ rào cản phi thuế quan nhằm hạn chế những tác động mà họ quan niệm là
bất lợi nhƣ:
 Quy định về tỷ lệ nội địa hoá: ví dụ nhƣ năm 1999 Thái Lan đặt ra
tỷ lệ nội địa hoá đối với xe 4 chỗ ngồi là 54%, xe tải nhẹ từ 65 đến 80%, xe
máy là 79%

×