Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 74 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BAN ĐIỀU HÀNH CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

LÊ THỊ KIM CHI

BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT HỌC
MSSV : 1055020349
Lớp

: 17 CLC 35

GVHD: Nguyễn Ngọc Hồng Phƣợng

Thành phố Hồ Chí Minh, 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật
Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của chính mình. Các nguồn tài liệu tham khảo
làm cơ sở cho việc nghiên cứu đều được trích dẫn đầy đủ.


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG .................6
1.1.

Khái quát chung về nhãn hiệu ..................................................................6



1.1.1.

Khái niệm .............................................................................................6

1.1.2.

Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam ...................... 10

1.2.

Nhãn hiệu nổi tiếng.................................................................................. 16

1.2.1.

Khái niệm ........................................................................................... 16

1.2.2.

Đặc điểm nhãn hiệu nổi tiếng ............................................................ 19

1.2.3.

Khái niệm Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng .............................................. 22

1.2.4.

Quy định về nhãn hiệu nổi tiếng trong các Điều ước quốc tế ........... 23

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG TẠI VIỆT

NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............................................... 30
2.1. Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng ........................................................ 30
2.1.1. Quy định pháp luật................................................................................ 30
2.1.2. Thực tiễn xem xét nhãn hiệu nổi tiếng ................................................. 35
2.2.

Hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng.................................................. 41

2.2.1.

Quy định pháp luật ............................................................................ 41

2.2.2.

Tình hình xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng ......................................... 43

2.3.

Biện pháp xử lý hành vi vi phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng ....46

2.3.1.

Quy định pháp luật ............................................................................ 46

2.3.2.

Thực tiễn xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng ................... 55

2.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng ............................................................................................................. 58

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 65
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 68


LỜI NĨI ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, các quốc gia trên thế giới ngày càng
trở nên liên kết chặt chẽ với nhau thông qua các thể chế như tổ chức quốc tế đa
phương, song phương; các hiệp định đa phương, song phương…Việt Nam ln đề
cao mục tiêu là phát triển nhanh chóng, chủ động hội nhập sâu rộng trong quan hệ
kinh tế quốc tế. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), đây là “sân chơi” tồn cầu với vơ vàn cơ hội nhưng
cũng khơng ít thách thức. Một trong những thách thức to lớn là vấn đề nghiên cứu
xây dựng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ tương thích với pháp luật quốc tế, với
những thay đổi về kinh tế - xã hội do việc hội nhập tạo ra và thiết lập cơ chế thực thi
chúng một cách hiệu quả. Đối với các nước phát triển, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ đã phát triển đến một trình độ cao với bề dày lịch sử hàng trăm năm. Với một
quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vốn đã
mới mẻ lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Nhãn hiệu nổi tiếng là một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, thuộc nhánh
quyền sở hữu cơng nghiệp, gắn chặt với q trình lưu thơng hàng hóa. Nhãn hiệu nổi
tiếng là tài sản có giá trị cả về kinh tế lẫn uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, tạo ra
lợi thế cho doanh nghiệp trong cuộc cạnh tranh khốc liệt, gay gắt với các đối thủ của
mình. Ngồi ra, nhãn hiệu nổi tiếng cịn góp phần tạo nên thương hiệu quốc gia và
có ý nghĩa nhất định đối với người tiêu dùng. Hiện nay, các vi phạm liên quan đến
nhãn hiệu và đặc biệt là nhãn hiệu nổi tiếng đã và đang diễn ra phổ biến, ngày càng
tinh vi và phức tạp, gây hậu quả tiêu cực cho chủ sở hữu nhãn hiệu, cho người tiêu
dùng và cho cả quốc gia. Một cơ chế hoàn chỉnh để bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng sẽ

thúc đẩy các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư, phát triển nhãn hiệu, kéo
theo sự lớn mạnh của doanh nghiệp; tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho
hoạt động kinh doanh; thúc đẩy kinh tế quốc gia phát triển; tăng vị thế của quốc gia
trên trường quốc tế. Do đó, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi
tiếng đang là vấn đề rất được quan tâm ở Việt Nam và kể cả các nước trên thế giới.
Với khái niệm đầu tiên về nhãn hiệu nổi tiếng được nhắc đến trong Nghị
định 06/2001/NĐ – CP ngày 1/2/2001 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị Định
63/CP của Chính phủ ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp, cho

1


đến khi ra đời Luật sở hữu trí tuệ 2005, pháp luật Việt Nam đã có những bước tiến
nhất định để bảo hộ đối tượng này.
Tác giả chọn đề tài “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam”
cho khóa luận tốt nghiệp của mình với mong muốn có một cơng trình nghiên cứu
một cách hệ thống các vấn đề tiêu biểu trong chế định bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
theo pháp luật Việt Nam hiện hành, qua đó nhìn nhận một số vấn đề cịn tồn tại và
đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện hơn chế định quan trọng này.
2.
Tình hình nghiên cứu
Nhãn hiệu nổi tiếng với tư cách là một đối tượng quyền sở hữu công nghiệp, là
một bộ phận quan trọng trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, một số sách nghiên
cứu về pháp luật sở hữu trí tuệ có đề cập đến vấn đề này, có thể kể đến như Giáo trình
Luật sở hữu trí tuệ, Trường ĐH Luật Tp.HCM, NXB. Hồng Đức, năm 2012; Lê Nết,
“Quyền sở hữu trí tuệ”, Trường ĐH Luật Tp.HCM, NXB. ĐH quốc gia, năm 2006.
Bên cạnh đó cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu về đối tượng này dưới nhiều góc độ
khác nhau, cụ thể: Phan Ngọc Tâm, “Well – known trademark protection – A
comparative study between the laws of the European Union and Vietnam” (Luận án
tiễn sĩ năm 2011); Lê Thị Tuyết Hà, “Phân tích các loại chế tài trong Luật sở hữu trí

tuệ Việt Nam” (Luận văn thạc sĩ năm 2007); Lê Xuân Lộc và Mai Duy Linh, “Nhãn
hiệu nổi tiếng, pháp luật và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 06/2013…
Ngồi ra, tác giả nhận thấy có các cơng trình nghiên cứu khoa học có liên
quan trực tiếp đến đề tài, cụ thể: bài viết “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật
Việt Nam”1 của tác giả Đỗ Văn Đại và Nguyễn Phương Thảo;“Hoàn thiện pháp luật
bảo vệ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”2
của tác giả Hà Thị Nguyệt Thu; bài viết “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong bối cảnh
hội nhập và xây dựng nền kinh tế tri thức”3 của tác giả Trần Thanh Lâm; bài viết
“Xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự tại Việt Nam – Thực
tiễn pháp luật và đề xuất hoàn thiện”4 của tác giả Phạm Văn Tồn…

1

Tạp chí khoa học pháp lý, số 2/2013, tr. 47.
Tham khảo tại: ngày truy cập: 22/6/2014.
3
Tham khảo tại: ngày truy cập: 22/6/2014.
4
Tham khảo tại: ngày truy cập: 22/6/2014.
2

2


Như vậy, vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng đã được khá nhiều tác giả quan
tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào hệ thống lại các quy định hiện
hành của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng một cách cụ thể, rõ ràng.
Do đó, khóa luận của tác giả là một cơng trình nghiên cứu độc lập dựa trên cơ sở
những quy định của pháp luật và sự kế thừa, học hỏi các cơng trình nghiên cứu hiện
có về các vấn đề xoay quanh nhãn hiệu nổi tiếng.

3.
Mục đích nghiên cứu – Đối tƣợng nghiên cứu – Phạm vi nghiên
cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ các quy định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong pháp luật Việt
Nam. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật cũng như thực trạng
áp dụng những quy định này, tác giả đề xuất một số quan điểm, phương hướng, biện
pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng và
tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi chúng.
Đối tượng nghiên cứu
Với khóa luận này, tác giả nghiên cứu các quy định pháp luật, những cơ sở
lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, cụ thể:
Phân tích một số vấn đề pháp lý cơ bản về nhãn hiệu, trên cơ sở đó nghiên
cứu các nội dung khái quát về nhãn hiệu nổi tiếng. Tìm hiểu sơ lược về các quy định
quốc tế hiện hành về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Trình bày và phân tích quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng, qua đó đánh giá sự phù hợp với quy định quốc tế. Nhìn nhận một số hạn
chế trong thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất
các kiến nghị hồn thiện.
Phạm vi nghiên cứu
Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Việt Nam là một đề tài rộng và
phức tạp, bao gồm: (i) việc đưa ra đường lối, chính sách, ban hành pháp luật về việc
công nhận và điều chỉnh vấn đề nhãn hiệu nổi tiếng; (ii) các biện pháp để thực thi
các chính sách, đường lối, quy định của pháp luật.
Vì phạm vi quá rộng, với vốn hiểu biết còn hạn hẹp cùng với sự hạn chế về
thời gian, không gian nghiên cứu nên trong phần nghiên cứu của mình tác giả tập
trung vào tìm hiểu quy định của Luật sở hữu trí tuệ đối với hai vấn đề quan trọng
sau đây:

3



Thứ nhất là tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng làm cơ sở xác lập quyền
cho chủ sở hữu nhãn hiệu;
Thứ hai là các hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng và biện pháp xử lý
hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng làm cơ sở cho chủ thể quyền bảo vệ nhãn
hiệu nổi tiếng.
4.
Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Trong khóa luận này, các phương pháp nghiên cứu chính được tác giả sử
dụng là:
Phương pháp phân tích – bình luận được sử dụng để phân tích các quy định
của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cũng như phân tích thực trạng
áp dụng pháp luật qua các vụ việc thực tế. Từ đây, tác giả đưa ra quan điểm của
mình và các tác giả khác về các quy định của pháp luật; về cách áp dụng pháp luật
trong thực tiễn của cơ quan có thẩm quyền. Đây là cơ sở để tác giả đưa ra những tiến
bộ cũng như hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại trong quy định pháp luật và
trong thực tiễn thi hành.
Phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh – đối chiếu được sử dụng khi
tác giả đề cập đến pháp luật sở hữu trí tuệ trước khi có Luật sở hữu trí tuệ 2005 (luật
hiện hành); khi đưa pháp luật quốc tế vào trong khóa luận, làm sáng tỏ những thay
đổi của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, xem xét sự phù hợp với
pháp luật quốc tế, cũng như lý giải cho những sự thay đổi đó.
Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng khi liên hệ với thực tiễn áp
dụng pháp luật bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, đó là thống kê tình hình xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ cũng như xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng; thống kê về tình trạng
giải quyết các vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung.
5.
Ý nghĩa và những đóng góp khoa học của khóa luận
Ý nghĩa

Kết quả khóa luận góp phần làm sáng tỏ, phong phú thêm lý luận về pháp
luật bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cũng như lý luận về hoàn thiện pháp luật và cơ chế
thực thi vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình nghiên cứu và học tập cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Đóng góp khoa học
Làm rõ một số vấn đề lý luận chung, cụ thể là khái niệm, đặc điểm, vai trò
của nhãn hiệu nổi tiếng,

4


Hệ thống và phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng.
Dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đưa ra những kiến nghị, giải pháp
cụ thể để hoàn thiện pháp luật cũng như cơ chế thực thi để nâng cao hiệu quả bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng.
6.
Kết cấu khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái luận chung về nhãn hiệu nổi tiếng
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng và một số kiến
nghị hoàn thiện

5


CHƢƠNG 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG
1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu
1.1.1. Khái niệm

Nhãn hiệu nổi tiếng trước hết là một nhãn hiệu, căn cứ vào danh tiếng, uy
tín của nhãn hiệu mà ta có khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng.5 Do đó, việc tìm hiểu các
vấn đề nền tảng về nhãn hiệu giúp ta bước đầu tiếp cận thuật ngữ “nhãn hiệu nổi
tiếng” cũng như các vấn đề pháp lý xoay quanh loại hình nhãn hiệu này.
Nhãn hiệu là thuật ngữ được sử dụng lâu đời, phổ biến, gắn liền với hàng
hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cách đây 3000 năm, những người thợ thủ cơng Ấn Độ đã từng chạm khắc chữ kí
của mình trên các tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng tới Iran. Các nhà sản xuất
Trung Quốc đã bán hàng hóa mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ 2000
năm trước và cùng thời gian đó hàng ngàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác nhau đã
được sử dụng.6 Nhãn hiệu ra đời trước nhu cầu đánh dấu nguồn gốc, xuất xứ của
hàng hóa, dịch vụ và phân biệt chúng với sản phẩm của các người khác. Ngày nay,
nhãn hiệu đã được sử dụng cho rất nhiều loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau. Nhãn
hiệu đã trở thành một dạng tài sản trí tuệ quý giá bởi chúng gắn liền với chất lượng
và sự mong đợi của khách hàng trên hàng hóa, dịch vụ.7
Qua q trình tồn tại lâu dài như vậy trong thực tiễn, thuật ngữ nhãn hiệu đã
được khái niệm một cách chính thức trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau.
Các điều ước quốc tế ghi nhận chế định nhãn hiệu từ rất sớm, như Công ước
Paris về quyền sở hữu công nghiệp (“Công ước Paris”) được kí kết từ năm 1883 mà
sau này Việt Nam là thành viên vào ngày 8/3/1949,8 sau đó là Hiệp định về các khía
cạnh liên quan đến thương mại về quyền sở hữu trí tuệ (“Hiệp định Trips”) được Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) kí kết năm 1995, Hiệp định này cũng nằm trong
Cam kết mà Việt Nam phải thực hiện khi trở thành thành viên của WTO ngày 1/1/

5

Trường ĐH Luật TP.HCM (2012), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, NXB Hồng Đức, tr. 261.
Trường ĐH Luật TP.HCM, sđd, tr. 250.
7
Phan Ngọc Tâm (2011), “Well – Known Trademark Protection – A comparative study between the laws of

the European Union and Viet Nam”, Luận án Tiến sĩ, tr. 27.
8
Tham khảo tại: truy cập ngày
9/6/2014.
6

6


2007.9 Bên cạnh đó cịn có Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ
có hiệu lực vào ngày 10/12/2001 cũng dành ra chương hai để quy định các vấn đề về
quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có vấn đề bảo hộ nhãn hiệu.
Cơng ước Paris khơng đưa ra khái niệm về nhãn hiệu. Tuy nhiên, tại Điều
6quinquies Cơng ước có đưa ra các trường hợp việc đăng kí nhãn hiệu sẽ bị từ chối
đăng ký hoặc bị bãi bỏ:
1. Khi các nhãn hiệu đó xâm phạm quyền của bên thứ ba tại nước có yêu
cầu bảo hộ.
2. Khi các nhãn hiệu đó khơng hề có bất cứ dấu hiệu phân biệt nào, hoặc
chỉ bao gồm toàn các dấu hiệu hoặc chỉ dẫn được sử dụng trong thương mại để chỉ
chủng loại, chất lượng, số lượng, mục đích sử dụng, giá trị, xuất xứ của hàng hố,
hoặc thời gian sản xuất, hoặc đã trở thành thông dụng trong ngôn ngữ hiện thời
hoặc trong tập quán thương mại lành mạnh và lâu đời tại nước có yêu cầu bảo hộ.
3. Khi các nhãn hiệu đó trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng, đặc biệt về
bản chất chúng có thể gây nhầm lẫn cho cơng chúng. Điều này được hiểu rằng nhãn
hiệu không thể bị coi là xâm phạm trật tự cơng cộng chỉ vì lý do duy nhất là nhãn
hiệu đó khơng phù hợp với một quy định nào đó của pháp luật về nhãn hiệu, trừ
trường hợp chính quy định đó liên quan đến trật tự cơng cộng.
Tựu chung lại điều luật này có đưa ra một dấu hiệu để loại trừ việc bảo hộ
đó là khả năng phân biệt của nhãn hiệu: “nhãn hiệu đó khơng hề có dấu hiệu phân
biệt nào” hoặc “có thể gây nhầm lẫn cho cơng chúng”. Qua đó, có thể suy đốn rằng

tất cả các dấu hiệu khác có khả năng phân biệt đều có thể dùng làm nhãn hiệu.10
Tiếp nối quy định trong Công ước Paris, Hiệp định Trips đã đưa ra khái
niệm nhãn hiệu tại khoản 1 Điều 15:
Bất kì một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt
hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa.
Các dấu hiệu đó là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa
và tổ hợp các màu sắc cũng như tổ hợp bất kì các dấu hiệu đó, phải có khả năng
được đăng kí là nhãn hiệu hàng hóa. Trường hợp bản thân các dấu hiệu khơng có
khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các nước thành viên có thể
9

“Cam kết về quyền sở hữu trí tuệ”, tham khảo tại: truy cập ngày 9/6/2014.
10
Trường ĐH Luật TP.HCM, sđd, tr. 246.

7


quy định rằng khả năng được đăng kí phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thơng
qua việc sử dụng. Các nước thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng
kí là các dấu hiệu nhìn thấy được.
Khái niệm này đưa ra hai yếu tố mà một nhãn hiệu cần phải thỏa mãn: thứ
nhất, nhãn hiệu phải là dấu hiệu; thứ hai nhãn hiệu đó phải có khả năng phân biệt
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Tuy nhiên, Trips
còn mở rộng trong trường hợp không đáp ứng được khả năng phân biệt thì vẫn có
thể được cơng nhận là nhãn hiệu để được bảo hộ thơng qua q trình sử dụng của
nhãn hiệu.
Trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ thì nhãn hiệu được khái
niệm là “nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kì hoặc sự kết hợp bất
kì của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một người với hàng

hóa, dịch vụ của người khác”. 11
Có thể thấy rằng, tuy các khái niệm ở các văn bản khác nhau nhưng đều
được xây dựng dựa trên hai yếu tố là nhãn hiệu phải là dấu hiệu và dấu hiệu đó phải
có khả năng phân biệt các hàng hóa, dịch vụ khác nhau. Các quy định quốc tế này
không đưa ra cụ thể dấu hiệu để làm nhãn hiệu là gì hay sự phân biệt cần ở mức độ
nào, với những sản phẩm nào, cùng loại hay khác loại… Chúng mang tính khái quát,
làm nền tảng cho quy định chi tiết của các quốc gia.
Nhãn hiệu đóng vai trò trung tâm của nền kinh tế và là đối tượng của pháp
luật nhãn hiệu của các quốc gia trên thế giới.12 Những địi hỏi của q trình hội nhập
quốc tế, đồng thời nhận thấy tầm quan trọng như vậy của chế định nhãn hiệu, pháp
luật Việt Nam đã ghi nhận việc bảo hộ nhãn hiệu trong các văn bản pháp luật, đầu
tiên là Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ngày 11/2/1989; Điều lệ về nhãn
hiệu hàng hoá, ban hành theo Nghị định số 197/HĐBT ngày 14/12/1982, được sửa
đổi, bổ sung theo Nghị định số 84/HĐBT ngày 20/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ). Và lần đầu tiên chế định bảo hộ nhãn hiệu được ghi nhận trong
văn bản pháp lý cao nhất của cả nước là Bộ Luật Dân sự 1995 có hiệu lực ngày
01/07/1996, khái niệm nhãn hiệu được đề cập: “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu
hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh
11
12

Khoản 1 Điều 6 Chương 2 Hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
Phan Ngọc Tâm, Luận án tiến sĩ, tlđd, tr. 26.

8


doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh, hoặc sự kết hợp
các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”.13
Vậy, nhãn hiệu trước tiên là các dấu hiệu, song các dấu hiệu này chỉ là từ

ngữ hoặc hình ảnh hoặc sự kết hợp giữa chúng; thứ hai, nhãn hiệu ở đây chỉ dùng để
phân biệt các sản phẩm cùng loại. Xu hướng chung của toàn thế giới là khoa học kỹ
thuật phát triển, các loại hình hàng hóa, dịch vụ ngày càng đa dạng kéo theo sự
phong phú các loại hình nhãn hiệu, khái niệm này tỏ ra quá hạn hẹp khi đã giới hạn
lại các dấu hiệu có thể được xem là nhãn hiệu. Bên cạnh đó, chức năng phân biệt
của nhãn hiệu dường như cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo nguồn gốc sản
phẩm của các chủ thể bởi theo khái niệm trên thì các chủ thể sản xuất các loại hàng
hóa khác nhau vẫn có thể sử dụng cùng chung nhãn hiệu.
Với mục tiêu cải cách và hội nhập, Việt Nam trở thành thành viên của các tổ
chức quốc tế, gia nhập các điều ước quốc tế đa phương, song phương là điều tất yếu.
Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, Việt Nam gia nhập các điều ước quốc tế quan trọng
như Công ước Paris, Hiệp định Trips, Hiệp định thương mại Việt – Mỹ như đã đề
cập. Chính phủ Việt Nam đã có những thay đổi toàn diện nhằm đưa ra một khung
pháp lý đầy đủ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với các quy định của các điều
ước. Mặt khác,Việt Nam cũng thừa nhận vai trò quan trọng của việc bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ trong việc phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, khuyến khích hoạt
động sáng tạo và phát minh phục vụ phát triển kinh tế. 14 Luật Sở hữu trí tuệ
(“SHTT”) được ban hành năm 2005 nhằm đáp ứng những yêu cầu cần thiết này,
Luật có hiệu lực ngày 01/07/2006.
Khái niệm nhãn hiệu đã được định nghĩa mới tại Khoản 16 Điều 4 Luật
SHTT: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức,
cá nhân khác nhau”. Các dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu được cụ thể hóa tại Điều 72
Luật SHTT, theo đó, dấu hiệu được mở rộng ra khơng chỉ là “từ ngữ, hình ảnh, hoặc
sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc” mà là “chữ
cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó,
13

Điều 785 Bộ luật dân sự 1995.
Phạm Văn Toàn, “Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu, tên thươngmại, chỉ dẫn địa lý và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh tại Việt

Nam”, tham khảo tại: truy cập ngày 27/4/2014.
14

9


được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”. Ngoài ra, khái niệm này không giới
hạn khả năng phân biệt của nhãn hiệu là chỉ đối với hàng hóa, dịch vụ cùng loại, tức
là, nhãn hiệu cịn phải có khả năng phân biệt giữa các hàng hóa, dịch vụ khác loại,
không tương tự nhau.
Những thay đổi trong Luật SHTT về khái niệm nhãn hiệu gần như là phù
hợp, đáp ứng yêu cầu mà các điều ước quốc tế đặt ra, đó là nhãn hiệu phải thỏa mãn
hai yếu tố cơ bản là “dấu hiệu” và “có khả năng phân biệt” hàng hóa, dịch vụ của
các chủ thể. Ngồi ra, tùy theo những hệ thống pháp luật khác nhau mà có thể có
thêm các yêu cầu bổ sung khác.
1.1.2. Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam
Nhãn hiệu là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp,15 được bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.16 Nhãn hiệu ngày nay vơ cùng
phong phú và đa dạng, song việc bảo hộ chỉ đặt ra đối với những nhãn hiệu đáp ứng
được những điều kiện bảo hộ do pháp luật quốc gia quy định. Quyền sở hữu đối với
nhãn hiệu được xác lập thơng qua cơ chế đăng kí bảo hộ với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Một số chủ thể nhất định theo quy định pháp luật17 sẽ thực hiện việc
đăng kí để được cấp văn bằng bảo hộ, quyền sở hữu đối với nhãn hiệu được xác lập
và các chủ thể này sẽ có các quyền đặc thù của chủ sở hữu mà những người khác
khơng có được. Một nhãn hiệu được bảo hộ trước hết phải thỏa mãn các điều kiện
sau:
- Dấu hiện nhìn thấy được
Nhãn hiệu phải là dấu hiệu hoặc tập hợp các “dấu hiệu nhìn thấy được dưới
dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu
tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”.18 Theo như khái niệm được đề

cập tại Điều 4 Luật SHTT thì yêu cầu nhãn hiệu là dấu hiệu mà khơng có sự giới hạn
nào về tính chất của dấu hiệu là hữu hình hay vơ hình, tuy nhiên theo quy định này
thì Luật SHTT Việt Nam chỉ bảo hộ các dấu hiệu ở dạng nhìn thấy được.
Hơn nữa, các dấu hiệu làm nhãn hiệu không được trùng hoặc tương tự đến
mức gây nhầm lẫn với một số đối tượng đặc biệt như hình quốc kì, quốc huy của các
15

Khoản 2 Điều 3 Luật SHTT.
Điều 1 Luật SHTT.
17
Các chủ thể có quyền đăng ký nhãn hiệu được quy định tại Điều 87 Luật SHTT.
18
Khoản 1 Điều 72 Luật SHTT.
16

10


nước; biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế (trừ khi
được các cơ quan này cho phép); tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ,
anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài; dấu chứng nhận, dấu
kiểm tra, dấu chứng nhận của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó u cầu khơng được sử
dụng… hay dấu hiệu có thể làm hiểu sai lệch, gây ra nhầm lẫn hoặc có tính lừa dối
khách hàng. 19
Pháp luật Liên minh Châu Âu đưa ra khái niệm nhãn hiệu là:20 “Một nhãn
hiệu có thể bao gồm bất kì dấu hiệu nào, đặc biệt là từ, kể cả tên người, hình, chữ
cái, chữ số, hình dạng của hàng hóa hoặc bao bì của nó, với điều kiện là dấu hiệu đó
có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với các doanh

nghiệp khác”. Như vậy, quy định về khái niệm nhãn hiệu của Việt Nam cũng gần
như tương đồng với quy định trong pháp luật quốc tế, nhưng quy định của Luật
SHTT Việt Nam có phạm vi hẹp hơn vì giới hạn cụ thể nhãn hiệu phải là dấu hiệu
nhìn thấy được.
Theo Văn phịng Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) thì “Một nhãn
hiệu có thể là một từ, cụm từ, biểu tượng, thiết kế, màu sắc, mùi vị, âm thanh hoặc
bất kì sự kết hợp nào của chúng mà có thể xác định và phân biệt hàng hóa và dịch vụ
của các chủ thể khác nhau. Về cơ bản thì nhãn hiệu có thể là bất kì dấu hiệu nào đáp
ứng được chức năng là một cơ sở nhận dạng cho người tiêu dùng, xác định cả nguồn
gốc và chất lượng của hàng hóa, dịch vụ”.21
Hay quy định trong pháp luật Úc ghi nhận: “Một nhãn hiệu có thể là một
chữ, số, từ, cụm từ, âm thanh, mùi, hình dáng, biểu tượng, hình ảnh, khía cạnh của
bao bì hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của chúng”.22
Như vậy, bên cạnh các dấu hiệu nhìn thấy được, pháp luật ở một số quốc gia
còn mở rộng dấu hiệu được bảo hộ dưới hình thức nhãn hiệu ra cả các dấu hiệu
khơng thể nhìn thấy được như mùi vị, âm thanh... Đây là những tiến bộ của pháp
19

Điều 73 Luật SHTT.
Điều 2, Chỉ thị 2008/95/EC của Nghị viện và Hội đồng Châu Âu, ngày 22/10/2008.
21
Stuart Graham, Galen Hancock, Alan Marco và Amanda Fila Myers (2013), “The USPTO Trademark Case
Files Dataset: Descriptions, Lessons, and Insights”, Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu của Hoa Kỳ, tr.5.
22
“About Trade mark”,tham khảo tại: truy cập ngày 9/6/2014.
20

11



luật quốc tế, song điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển khoa học – công nghệ;
tập quán văn hóa, kinh doanh thương mại của từng quốc gia; cũng như trình độ dân
trí và nhận biết của cộng đồng; cùng với đó là trình độ và khả năng quản lý của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, đây chưa hẳn là một sự hạn chế của pháp luật
Việt Nam, mà là sự phù hợp với các đặc thù của bối cảnh trong nước trong quá trình
nội luật hóa quy định quốc tế. Đó là một quốc gia đang phát triển, trình độ dân trí,
khoa học kỹ thuật chưa tinh xảo, chưa đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật cao.
Dấu hiệu nhìn thấy được là điều kiện để nhãn hiệu được bảo hộ đồng thời
cũng là đặc điểm của nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam. Điều này làm nên sự khác
biệt rõ rệt giữa nhãn hiệu và thương hiệu – đối tượng thường gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu trong thực tiễn. Thương hiệu không được đề cập đến trong các văn bản pháp
luật về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Thương hiệu là thuật ngữ thường được sử dụng ở
góc độ quản trị doanh nghiệp và marketing. 23 Thương hiệu là một khái niệm trừu
tượng, được coi như là tài sản vơ hình, có giá trị to lớn của doanh nghiệp. Thương
hiệu không chỉ đơn thuần là nhãn hiệu,mà còn cả khẩu hiệu, nhạc hiệu như Thương
hiệu Biti’s luôn đi liền với khẩu hiệu “Nâng niu bàn chân Việt”... Thương hiệu được
tạo nên từ cả quá trình kinh doanh lâu dài; gắn liền với chất lượng, danh tiếng, uy
tín của sản phẩm, dịch vụ; đường lối kinh doanh, chiến lược phát triển… tạo nên
niềm tin cho khách hàng khơng chỉ đối với hàng hóa, dịch vụ mà còn đối với chủ thể
sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ đó. Có thể nói thương hiệu là hình tượng về
một cơ sở sản xuất, kinh doanh hoặc về một loại hàng hóa, dịch vụ trong tâm trí
khách hàng.24 Ví dụ như thương hiệu “Viettel – Hãy nói theo cách của bạn” cho ta
hình ảnh về một nhà cung cấp dịch vụ mạng viễn thông hàng đầu Việt Nam với thị
phần rộng lớn, cung cấp các dịch vụ mạng đa dạng chất lượng.
- Khả năng phân biệt
Dấu hiệu làm nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt, hay nói cách khác nó
phải thơng tin cho người tiêu dùng biết được hàng hóa, dịch vụ đó được cung cấp
bởi tổ chức, cá nhân nào. Muốn làm được nhiệm vụ này nhãn hiệu phải mang những
23


“Phân biệt Nhãn hiệu và thương hiệu”, tham khảo tại: truy cập ngày 19/5/2014.
24
“Phân biệt sự khác nhau giữa thương hiệu và nhãn hiệu”, tham khảo tại:
truy cập ngày
19/5/2014.

12


yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ,25 đặc biệt là phải mang tính độc đáo nhất định. Tính
độc đáo thể hiện ở hai yếu tố: “khác biệt” và “không thơng dụng”.26 Có thể nhận
thấy hai yếu tố này thơng qua các quy định về khả năng phân biệt của nhãn hiệu tại
Điều 74 Luật SHTT và Mục 39 về thẩm định nội dung đơn đăng kí nhãn hiệu tại
Thơng tư 01/2007/TT–BKHCN hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ–CP
ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.
Yếu tố “khác biệt” ở đây có thể hiểu là dấu hiệu đó khơng trùng hoặc tương
tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã đăng kí hay nộp đơn đăng kí bảo hộ hoặc
đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi; trùng hoặc gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi
tiếng, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý hay là một hình tượng
được bảo hộ dưới quyền tác giả. Khơng phải là các dấu hiệu mang tính mơ tả hàng
hóa, dịch vụ, mơ tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của các chủ thể.27
Cịn yếu tố “khơng thơng dụng” địi hỏi dấu hiệu đó khơng phải là những
danh từ chung, hình dạng đơn giản, những từ ngữ thông dụng; các dấu hiệu, biểu
tượng được sử dụng rộng rãi, thường xuyên. 28
Tuy nhiên, quy định này có ngoại lệ đối với nhãn hiệu có các dấu hiệu
thơng dụng nhưng có được khả năng phân biệt thơng qua q trình sử dụng lâu dài,
được thừa nhận rộng rãi trước thời điểm đăng kí, thì chúng cũng có thể được bảo
hộ.29 Ví dụ như nhãn hiệu thuốc lá “555” của Tập đoàn British American Tobacco
tại Việt Nam hay bia “333” của Tổng công ty Bia – Rượu – NGK Sài Gịn

SABECO, được cấu thành từ những chữ số thơng dụng, nhưng nó có q trình sử
dụng lâu dài và được nhiều người tiêu dùng ghi nhận nên vẫn đạt được khả năng
phân biệt của nhãn hiệu.
Khả năng phân biệt giúp nhãn hiệu thực hiện được chức năng của mình là
phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác nhau. Một đối tượng khác của
quyền sở hữu trí tuệ, cũng gắn liền với hàng hóa, dịch vụ, nhưng đảm nhiệm một

25

Khoản 1 Điều 74 Luật SHTT.
Lê Nết (2005), “Quyền sở hữu trí tuệ”, Tài liệu bài giảng, NXB.ĐH Quốc gia, tr. 58.
27
Điểm d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n Khoản 2 Điều 74 Luật SHTT.
28
Điểm a, b, c Khoản 1 Điều 74 Luật SHTT.
29
Điểm a, b, c, đ Khoản 2 Điều 74 Luật SHTT; Mục 39.5 Thông tư 01/2007/TT–BKHCN.
26

13


chức năng khác là xác định nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ, đó là đối tượng “chỉ dẫn
địa lý”.
Chỉ dẫn địa lý là một thuật ngữ pháp lý được đề cập đến tại Khoản 22 Điều
4 Luật SHTT.30 Theo đó thì chỉ dẫn địa lý cũng là dấu hiệu, được gắn lên hàng hóa
như nhãn hiệu; song khác nhãn hiệu ở chỗ chỉ dẫn địa lý thể hiện thông tin về nguồn
gốc địa lý của sản phẩm, cho biết hàng hóa, dịch vụ đó có nguồn gốc từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hay thậm chí là quốc gia nào. Ví dụ như chỉ dẫn địa lý Phú
Quốc được cấp cho sản phẩm nước mắm tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang

vào ngày 01/06/2001; hay Xồi cát Hịa Lộc được cấp chỉ dẫn địa lý từ tháng
9/2009; nón lá Huế được cấp chỉ dẫn từ tháng 7/2010…31 Chỉ dẫn địa lý thể hiện
tính đặc trưng của yếu tố tự nhiên và cách thức sản xuất của con người,32 vùng đất
đó làm nên chất lượng, uy tín của hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, do quy trình để
được cấp chỉ dẫn địa lý phức tạp, khó khăn so với việc đăng kí một nhãn hiệu, vì
vậy mà thực tế nhiều trường hợp chỉ dẫn địa lý đã được thay thế bởi nhãn hiệu
chứng nhận hay nhãn hiệu tập thể. Ví dụ Sở Khoa học và Cơng nghệ tỉnh Bình
Thuận đã đăng kí thành cơng nhãn hiệu chứng nhận “Bình Thuận, Dragon Fruit &
Hình” cho quả thanh long của tỉnh này tại Mỹ, và được USPTO cấp giấy chứng
nhận ngày 29/11/2011.33
- Nhãn hiệu phải được đưa vào sử dụng
Điều kiện này không được đề cập trực tiếp trong quy định pháp luật khi chủ
thể quyền thực hiện đăng kí bảo hộ nhãn hiệu. Song trên thực tiễn, nhãn hiệu đã
được đăng kí bảo hộ vẫn có thể đứng trước nguy cơ khơng được bảo hộ nếu nhãn
hiệu đó khơng được đưa vào sử dụng. Sử dụng nhãn hiệu bao gồm hành vi: (i) “gắn
nhãn hiệu lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch
vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh”; (ii) “lưu thông, chào bán, quảng
cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hóa mang nhãn hiệu”; (iii) “nhập khẩu hàng hóa,

30

Khoản 22 Điều 4 Luật SHTT: “Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ san phẩm có nguồn gốc từ khu vực,
địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”.
31
Xem thêm Danh sách chỉ dẫn địa lý được bảo hộ tại Việt Nam, tham khảo tại: />truy cập ngày 20/5/2014.
32
Điều 82 Luật SHTT.
33
Xem thêm “Đăng ký thành công Nhãn hiệu chứng nhận “Bình Thuận, Dragon Fruit & Hình” tại Mỹ”,
tham khảo tại: truy cập ngày 20/5/2014.


14


dịch vụ mang nhãn hiệu”.34 Tức nhãn hiệu phải tồn tại trên thị trường thơng qua
nhiều hình thức khác nhau. Có thể nhận thấy u cầu này thơng qua vụ tranh chấp
giữa hai cơ sở sản xuất thực phẩm chức năng là cơ sở Hinh Hịa và Cơng ty Huỳnh
Ký.35 Hai cơ sở này tranh chấp về nhãn hiệu của các dòng sản phẩm:
Thuốc nước: Hạnh Đức Khu Phong Tê Thấp Thủy.
Thuốc nước: Hạnh Đức Mát Gan Bổ Thận Thủy.
Thuốc nước: Hạnh Đức Khang Nhi Bửu.
Thuốc nước: Hạnh Đức An Phế Thủy.
Cơ sở Hinh Hịa kiện cơng ty Huỳnh Ký sử dụng những nhãn hiệu trên
trùng với nhãn hiệu mà mình đã được cấp giấy chứng nhận.Với sản phẩm Hạnh Đức
Khu Phong Tê Thấp Thủy, nguyên đơn thừa nhận đã bị Cục quản lý dược đình chỉ
lưu hành và rút số đăng ký ra khỏi danh mục dược Việt Nam từ ngày 05/08/2008 mà
khi khởi kiện là vào ngày 18/7/2011. Đồng thời hiện nay bị đơn cũng khơng cịn sản
xuất sản phẩm này. Do đó, Tịa án nhận định:
Xét thấy, nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá
nhân khác nhau. Như vậy, sản phẩm của nguyên đơn và bị đơn phải được đưa ra
thị trường thì mới có thể đánh giá là có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu
dùng về nhãn hiệu hay không. Nhưng trên thực tế nguyên đơn cũng thừa nhận đã
bị Cục quản lý dược đình chỉ lưu hành và rút số đăng ký ra khỏi danh mục dược
Việt Nam từ ngày 05/08/2008 mà khi khởi kiện vào ngày 18/7/2011 nguyên đơn cho
rằng đã vi phạm đối với nhãn hiệu này là khơng có căn cứ vì sản phẩm của ngun
đơn đã khơng được lưu hành thì khơng thể cho rằng gây nhầm lẫn cho người tiêu
dùng. Đồng thời hiện nay bị đơn cũng khơng cịn sản xuất sản phẩm này, nên
nguyên đơn yêu cầu chấm dứt hành vi sử dụng nhãn hiệu hoặc kiểu dáng công
nghiệp là khơng hợp lý.
Tương tự với ba sản phẩm cịn lại, khi mà bị đơn đều khơng cịn sản xuất

chúng thì việc yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm của ngun đơn là khơng phù hợp.
Vì vậy, Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định bác bỏ toàn bộ
yêu cầu của nguyên đơn.

34
35

Khoản 5 Điều 124 Luật SHTT.
Bản án số 52/2013/KDTM-ST ngày 14/01/2013 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.

15


Qua vụ việc thấy rằng, một khi hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu khơng
cịn tồn tại hoặc khơng được lưu thơng trên thị trường, thì nhãn hiệu (gắn trên hàng
hóa, dịch vụ) đã được cấp giấy chứng nhận cũng khơng cịn ý nghĩa. Dễ hiểu điều
này bởi nhãn hiệu sinh ra là gắn liền với sản phẩm nhất định, thể hiện ý định của nhà
sản xuất đối với sản phẩm đó và để phân biệt sản phẩm của họ với các chủ thể khác
Hàng hóa, dịch vụ khơng có mặt trên thị trường thì chức năng của nhãn hiệu cũng
chấm dứt. Đây không phải là điều kiện luật định khi đăng kí bảo hộ nhãn hiệu. Theo
tác giả thì đây là điều kiện để nhãn hiệu đươc bảo hộ một cách triệt để trên thực tế.
Với đặc điểm nhãn hiệu phải được đưa vào sử dụng, trong đó có việc nhãn
hiệu phải được gắn lên hàng hóa, dịch vụ thì đã tạo ra sự khác biệt với “tên thương
mại” – cũng là một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Tên thương mại36 là tên của
doanh nghiệp, dấu hiệu thể hiện ra bên ngồi để cá biệt hóa doanh nghiệp. Trong khi
nhãn hiệu lại là dấu hiệu gắn lên hàng hóa, dịch vụ, nghĩa là nhãn hiệu là “tên” của
hàng hóa, dịch vụ, cá biệt hóa hàng hóa, dịch vụ. Cũng có những doanh nghiệp sử
dụng tên thương mại ngắn gọn của mình để đặt làm nhãn hiệu cho các sản phẩm của
họ như Công ty nệm Kymdan đăng kí bảo hộ nhãn hiệu KYMDAN.37 Dù tên giống
nhau nhưng hai khái niệm này có giá trị pháp lý hoàn toàn khác nhau.

1.2. Nhãn hiệu nổi tiếng
1.2.1. Khái niệm
Coca – Cola, Mc.Donald’s, Apple hay Toyota… là những nhãn hiệu được
sử dụng phổ biến cũng như được biết đến rộng rãi có thể bởi chất lượng, uy tín cũng
có thể sự thông dụng của sản phẩm được tạo nên bởi q trình tồn tại lâu dài. Đó là
các nhãn hiệu nổi tiếng với những đặc thù riêng so với các nhãn hiệu thơng thường.
Khái niệm chính thức về nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam được ghi nhận lần
đầu tiên trong Nghị định 06/2001/NĐ – CP ngày 1/2/2001 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị Định 63/CP của Chính phủ ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về sở
hữu công nghiệp, theo đó: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng
liên tục cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một
36

Được định nghĩa tại Khoản 21 Điều 4 Luật SHTT: “Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng
trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác
trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”.
37
Xem thêm “Lịch sử hình thành”, tham khảo tại: truy
cập ngày 26/5/2014.

16


cách rộng rãi”.38 Khái niệm này đưa ra các tiêu chí xác định một nhãn hiệu nổi tiếng
là: (1) thời hạn sử dụng liên tục; (2) tính chất của sản phẩm là có uy tín; (3) mức độ
nhận biết rộng rãi của người tiêu dùng. Quy định này cũng đã bao hàm cả nhãn hiệu
hàng hóa nổi tiếng và nhãn hiệu dịch vụ nổi tiếng. Tuy nhiên, các dấu hiệu này cịn
ở mức khái qt chung. Và thực tiễn khơng có nhãn hiệu nổi tiếng nào được cơng
nhận bởi quyết định của Cục SHTT,39 do trong suốt thời gian thực hiện Nghị định
này đã khơng có văn bản nào ra đời hướng dẫn việc xác định các tiêu chí do khái

niệm này đưa ra.40
Đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập, Luật SHTT 2005 ra đời. Khái
niệm nhãn hiệu nổi tiếng cũng được quy định lại tại Khoản 20 Điều 4: “Nhãn hiệu
nổi tiếng là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam”. Quy
định này là kết quả nội luật hóa quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam gia
nhập, đưa ra các giới hạn về mức độ nhận biết và phạm vi của sự nhận biết cụ thể
hơn, đó là trên tồn bộ lãnh thổ Việt Nam. Quy định mới này của Việt Nam liệu
rằng đã phù hợp với thông lệ quốc tế? Cùng xem xét nhãn hiệu nổi tiếng được định
nghĩa như thế nào trong pháp luật quốc tế.
Nhãn hiệu nổi tiếng được đề cập đến tại Điều 6bis Công ước Paris, song
điều này chỉ đưa ra nghĩa vụ của các quốc gia trong việc từ chối hoặc huỷ bỏ đăng
ký, ngăn cấm việc sử dụng nhãn hiệu mà nhãn hiệu đó là sự sao chép, bắt chước,
biên dịch, và có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng,41 mà không đưa ra
khái niệm. Tiếp nối quy định này là các quy định trong Hiệp định Trips phần nào
làm rõ về đặc điểm, điều kiện cơng nhận một nhãn hiệu là nổi tiếng.42 Trong đó có
đưa ra một tiêu chí cần xem xét khi xác định nhãn hiệu nổi tiếng, đó là sự nhận biết
nhãn hiệu của một bộ phận cơng chúng có liên quan.43 Như vậy, Hiệp định cũng
không định nghĩa như thế nào là nhãn hiệu nổi tiếng. Cũng tương tự như Trips, Bản
38

Khoản 2 Điều 1 Nghị định 06/2001/NĐ-CP.
Khoản 5 Điều 1 Nghị định 06/2001/NĐ – CP: “Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng phát
sinh trên cơ sở quyết định cơng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng.”
40
Hà Thị Nguyệt Thu, “Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế”, tham khảo tại: truy cập ngày 20/4/2014.
41
Khoản 1 Điều 6 Công ước Paris.
42
Lê Xuân Lộc và Mai Duy Linh, “Nhãn hiệu nổi tiếng, pháp luật và thực tiễn”, Tạp chí khoa học pháp lý, số

6/2013, tr. 61.
43
Khoản 2 Điều 16 Hiệp định Trips.
39

17


khuyến nghị chung của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới cũng không đưa ra khái niệm
về nhãn hiệu nổi tiếng nhưng khuyến cáo một số tiêu chí để xem xét để đánh giá một
nhãn hiệu là nổi tiếng như là nhãn hiệu phải được nhận biết bởi một bộ phận công
chúng liên quan; thời gian, mức độ và phạm vi địa lý của việc sử dụng nhãn hiệu…44
Như vậy, dù đã có những quy định quốc tế từ rất sớm, nhưng chưa có một khái niệm
chính thống nào về nhãn hiệu nổi tiếng được đưa ra.
Tùy theo quan điểm và cách thức đánh giá của từng quốc gia mà khái niệm
về nhãn hiệu nổi tiếng có sự khác biệt. Cho đến nay, khơng có một định nghĩa chính
xác về khái niệm “nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng” ở Hoa Kỳ. Tình trạng này cũng
tương tự ở Châu Âu, cũng như rất nhiều nước khác trên thế giới. Do đó, hầu hết các
quốc gia trên thế giới, đều trao thẩm quyền cho các cơ quan chức năng (thông
thường là Tòa án hoặc các Văn phòng quốc gia về Sở hữu công nghiệp) trong việc
xác định như thế nào là nhãn hiệu nổi tiếng trong từng trường hợp cụ thể.45
Tương tự ở các quốc gia của Châu Á, chẳng hạn như Luật Nhãn hiệu hàng
hóa của Trung Quốc quy định nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hóa được đăng
ký mà nó có một bộ phận khách hàng thực tế và được coi là nổi tiếng trong bộ phận
công chúng liên quan. Như vậy, một nhãn hiệu hàng hóa có thể là nhãn hiệu nổi
tiếng ở các nước khác nhưng chưa được đăng ký ở Trung Quốc thì sẽ không được
xem là nhãn hiệu nổi tiếng để được hưởng chế độ pháp lý về bảo hộ theo Luật Nhãn
hiệu hàng hóa của nước này.46
Bởi sự thiếu vắng một định nghĩa thống nhất về nhãn hiệu nổi tiếng trong
các điều ước quốc tế mà mỗi quốc gia có những cách nhìn riêng của mình trong việc

xác định như thế nào là nhãn hiệu nổi tiếng.47 Tuy nhiên, có một điểm chung có thể
rút ra về nhãn hiệu nổi tiếng đó là được biết đến rộng rãi bởi một bộ phận công
chúng liên quan. Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng trong pháp luật Việt Nam được xây
dựng phù hợp với xu hướng quy định quốc tế, song nó cịn đặt ra yêu cầu cao hơn, ở
44

Quy định về nhãn hiệu nổi tiếng trong các điều ước quốc tế sẽ được đề cập cụ thể trong phần 1.2.3 của
chương này.
45
Phan Ngọc Tâm, “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo Pháp luật Châu Âu và Hoa Kỳ”, Tạp chí Khoa học pháp
lý số 4 (35)/2006, tham khảo tại trang điện tử Trường Đại học Luật TP. HCM, chuyên mục Tạp chí Khoa học
pháp lý:
/>k&catid=106:ctc20064&Itemid=109, truy cập ngày 20/4/2014.
46
Phan Ngọc Tâm, bđd.
47
Phan Ngọc Tâm, Luận án tiến sĩ, tlđd, tr. 60.

18


điểm nhãn hiệu đó phải được biết đến trên tồn bộ lãnh thổ Việt Nam, chứ không
đơn thuần là một bộ phận cơng chúng.
1.2.2. Đặc điểm nhãn hiệu nổi tiếng
Tìm hiểu đặc điểm của nhãn hiệu nổi tiếng giúp ta có cái nhìn sâu sắc hơn
về bản chất của loại nhãn hiệu này, hiểu được những đặc trưng của nó, khác biệt so
với nhãn hiệu thơng thường. Từ đó, có thể lý giải vì sao nhà lập pháp lại dành ra
những quy định riêng biệt cho loại nhãn hiệu này và đánh giá sự phù hợp của chúng
đối với nhãn hiệu nổi tiếng.
Nhãn hiệu nổi tiếng cũng là một nhãn hiệu nên cũng mang những đặc điểm

của một nhãn hiệu. Nhãn hiệu nổi tiếng cũng là những dấu hiệu nhìn thấy được, có
khả năng phân biệt, được lưu thơng ra ngồi thị trường. Ngồi ra, loại hình nhãn
hiệu này cịn mang một số đặc điểm riêng biệt.
- Sự nổi tiếng, được sử dụng phổ biến
Đây là đặc trưng nổi bật của nhãn hiệu nổi tiếng mà ngay từ tên gọi đã tốt
lên được. “Sự nổi tiếng” là tiêu chí đầu tiên, quan trọng mà các cơ quan chức năng
xem xét để đánh giá liệu nhãn hiệu có là nhãn hiệu nổi tiếng hay không. Nếu yêu
cầu này không thỏa mãn thì tất cả các u cầu khác khơng cần phải xem xét nữa.48
Nhãn hiệu nổi tiếng khơng gói gọn ở nơi nó được khai sinh, mà vươn ra nhiều khu
vực, thậm chí tồn cầu như nhãn hiệu thức ăn nhanh Mc.Donald’s của Hoa Kỳ được
cả thế giới biết đến hay Microsoft nổi tiếng trong lĩnh vực công nghệ, Toyota của
Nhật Bản được biết đến tồn cầu trong cơng nghệ xe hơi. Pháp luật Việt Nam cũng
ghi nhận, nhãn hiệu nổi tiếng phải là nhãn hiệu được biết đến trên toàn bộ lãnh thổ
Việt Nam.
- Thời gian tồn tại lâu dài
Xem xét quá trình tồn tại và phát triển của các nhãn hiệu nổi tiếng đều dễ
dàng nhận ra điều này. Hai yếu tố không gian và thời gian tỉ lệ thuận với mức độ nổi
tiếng của một nhãn hiệu hàng hóa,49 bởi khơng một nhãn hiệu nào có thể nổi tiếng
ngay khi nó được tạo ra. Ví như Coca – Cola được đăng kí nhãn hiệu vào năm 1893
tại Mỹ. Khởi điểm loại nước uống này là một loại siro được mọi người biết đến như
một loại thuốc chống đau đầu và mệt mỏi. Ban đầu không ai chịu uống thứ nước
48
49

Phan Ngọc Tâm, Luận án tiến sĩ, tlđd, tr.61.
Trường ĐH Luật TP.HCM, sđd, tr. 262.

19



này, kể từ khi nó được pha chế với soda, tạo ra một thứ nước uống ngon miệng thì
thứ siro Coca – Cola này mới bắt đầu bán được. Nhưng doanh số năm đầu tiên chỉ là
95 lít siro. Từ khi thành lập tập đoàn Coca – Cola, bằng các chiến dịch truyền thơng
tích cực, đi kèm với chất lượng của một thứ nước uống giải khát, tươi mát, Coca –
cola đã dần chiếm lĩnh thị trường, thu hút sự quan tâm của đông đảo người tiêu
dùng. Đến năm 1895, ba năm sau khi Tập đoàn Coca – Cola thành lập, Coca – Cola
đã được sử dụng ở khắp các bang và vùng lãnh thổ của Hoa Kỳ. Hiện nay, nhãn hiệu
này đã có mặt ở khắp các châu lục, được nhận biết bởi hầu như tất cả người tiêu
dùng trên thế giới. Để trở nên nổi tiếng như bây giờ, Coca – Cola đã tồn tại trong
một thời gian rất dài với những hoạt động tích cực khơng ngừng nghỉ của công ty để
đưa nhãn hiệu gần hơn với mọi tầng lớp công chúng. 50
- Giá trị thương mại cao
Giá trị của nhãn hiệu nổi tiếng là kết tinh của quá trình gầy dựng lâu dài,
bao nhiêu chiến lược quảng bá, tiền bạc, công sức của doanh nghiệp. Luôn có mối
liên hệ chặt chẽ giữa mức độ nổi tiếng và giá trị của nhãn hiệu, hay cụ thể hơn là
chúng tỷ lệ thuận với nhau. Các nhãn hiệu hàng đầu thế giới (2013)51 mang trong
mình giá trị cao đáng nể:
Giá trị
Nhãn hiệu
Quốc gia
(triệu USD)
Apple

Hoa Kì

98,316

Google

Hoa Kì


93,291

Coca – cola

Hoa Kì

79,213

IBM

Hoa Kì

78,808

Microsoft

Hoa Kì

59,546

50

Xem thêm “The Chronicle Of Coca-Cola: The Candler Era”, tham khảo tại:
truy cập ngày
20/5/2014.
51
Best Global Brands 2013, tham khảo tại: , truy cập ngày 20/5/2014.

20



GE

Hoa Kì

46,947

McDonald’s

Hoa Kì

41,992

Samsung

Hàn Quốc

39,610

Intel

Hoa Kì

37,257

Toyota

Nhật Bản


35,346

Khi mang trong mình những giá trị về chất lượng, uy tín được tạo nên từ
nhãn hiệu nổi tiếng thì sản phẩm hàng hóa, dịch vụ luôn nhận được sự quý trọng, sự
quan tâm đặc biệt từ phía người tiêu dùng. Bên cạnh giá trị của nhãn hiệu thì doanh
thu từ việc bán hàng, cung cấp dịch vụ mà nhãn hiệu nổi tiếng mang lại luôn cao
hơn rất nhiều so với nhãn hiệu thông thường bởi giá thành các dòng sản phẩm này
thường cao.
Với những đặc điểm nổi bật trên, nhãn hiệu nổi tiếng có những ý nghĩa, vai
trị nhất định khơng chỉ đối với doanh nghiệp – chủ sở hữu nhãn hiệu, mà còn đối
với người tiêu dùng và nền kinh tế của quốc gia.
Đối với doanh nghiệp
Thứ nhất, hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng với chất lượng, uy tín
đem đến nguồn lợi lớn cho doanh nghiệp từ giá trị của nhãn hiệu, cũng như từ doanh
số của việc bán hàng tăng lên bởi giá thành của sản phẩm tăng lên đáng kể nhờ danh
tiếng của nhãn hiệu.
Thứ hai, nguồn lợi kinh tế gia tăng khích lệ doanh nghiệp phát triển, thúc
đẩy sự sáng tạo, đổi mới kỹ thuật đầu tư nhiều hơn vào chất lượng, ngày càng mở
rộng, lớn mạnh, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng.
Thứ ba, nhãn hiệu nổi tiếng góp phần khơng nhỏ mang lại danh tiếng cho
doanh nghiệp, tạo chỗ đứng cho doanh nghiệp trên thị trường, tăng sức cạnh tranh
đối với các doanh nghiệp khác sản xuất, kinh doanh trong cùng lĩnh vực. Đồng thời,
tạo tiền đề cho sự ra đời, phát triển của các nhãn hiệu mới, và tạo điều kiện cho
những nhãn hiệu này tiếp cận với khách hàng.
Đối với người tiêu dùng

21


Nhãn hiệu đóng vai trị quan trọng trong các quyết định chi tiêu của người

tiêu dùng. Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển đa dạng của hàng hóa, dịch vụ
kéo theo tình trạng hàng giả, hàng nhái cũng gia tăng, gây ra nhiều mối lo ngại cho
người tiêu dùng trong mua sắm. Người tiêu dùng cũng ngày càng coi trọng chất
lượng, giá cả khơng cịn là yếu tố hàng đầu khi họ lựa chọn hàng hóa, dịch vụ. Vì lẽ
đó mà nhãn hiệu nổi tiếng giúp ích rất nhiều cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn
các sản phẩm đảm bảo, uy tín khi thơng tin cho người tiêu dùng biết được nguồn
gốc, chất lượng của hàng hóa, dịch vụ.
Đối với kinh tế đất nước
Thứ nhất, nhãn hiệu nổi tiếng giúp doanh thu doanh nghiệp tăng từ nguồn
thu từ việc bán hàng trong nước cũng như xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ ra nước
ngồi. Điều này đóng góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế quốc
gia.
Thứ hai, nhãn hiệu nổi tiếng luôn được gắn liền với mỗi một quốc gia. Vì
vậy, nó tạo ra niềm vinh dự, uy tín cho hàng hóa, dịch vụ của quốc gia trên trường
quốc tế. Qua đó, góp phần quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia ra bạn bè quốc
tế.
Thứ ba, kinh tế phát triển tạo môi trường đầu tư lành mạnh cho các nhà đầu
tư trong và ngồi nước. Khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư, đổi mới công nghệ,
cạnh tranh lành mạnh dựa trên tiến bộ khoa học kỹ thuật.
1.2.3. Khái niệm Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
Để biết được nội dung của chế định “bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp
luật Việt Nam”, trước tiên cần làm sáng tỏ thuật ngữ “bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng” là
gì?
Theo từ điển Tiếng Việt, dưới góc độ xã hội, “bảo hộ” được hiểu là bảo vệ,
bênh vực để khơng tổn thất, thiệt hại. Dưới góc độ khoa học pháp lý, “bảo hộ” được
hiểu là sự cam kết của Nhà nước với các chủ thể về việc sở hữu tài sản của họ thông
qua việc Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật Sở hữu công nghiệp từ
việc xác lập quyền sở hữu, duy trì hiệu lực và xử lý hành vi vi phạm pháp luật quyền
sở hữu có tính chất bắt buộc đối với mọi cơng dân.
Theo Hiệp định Trips thì “bảo hộ” phải bao gồm các vấn đề ảnh hưởng đến

khả năng đạt được, việc đạt được, phạm vi và việc duy trì hiệu lực và việc thực thi

22


×