Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Chính phủ điện tử, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và bài học với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
--------*****--------

NGUYỄN NGỌC TÂM QUYÊN
MSSV: 3250154

CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ, KINH NGHIỆM
CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
VÀ BÀI HỌC VỚI VIỆT NAM
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2007 – 2011

GVHD:Th.S Nguyễn Thị Thiện Trí

TP. HCM – Năm 2011


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................... 3
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ ..................... 6
1.1
Khái qt về Chính phủ điện tử ................................................................... 6
1.1.1
Khái niệm Chính phủ điện tử ............................................................... 6
1.1.2
Đặc điểm của Chính phủ điện tử .......................................................... 7
1.1.3
Vai trị của Chính phủ điện tử trong quản lí nhà nước và trong phát triển
kinh tế xã hội ....................................................................................................... 8


1.1.4
Các hình thức cung cấp dịch vụ chính của Chính phủ điện tử ........... 11
1.2 Tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới ................................. 13
1.3 Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước trên thế giới ......................... 17
1.3.1
Phát triển Chính phủ điện tử ở Mỹ..................................................... 17
1.3.2
Phát triển Chính phủ điện tử ở Hàn Quốc .......................................... 26
1.3.3
Phát triển Chính phủ điện tử ở Singapore .......................................... 33
1.4 Bài học kinh nghiệm trong phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước trên
thế giới .................................................................................................................. 39
1.4.1
Những cơ hội được tạo ra khi phát triển Chính phủ điện tử .............. 39
1.4.2
Những thách thức mà các quốc gia phải giải quyết khi phát triển Chính
phủ điện tử ......................................................................................................... 40
CHƢƠNG 2: CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM ........................................ 42
2.1
Nhu cầu xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt Nam .................................... 42
2.2
Phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam .................................................. 44
2.2.1
Q trình phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam........................... 44
2.2.2
Những thành tựu đạt được ................................................................. 49
2.2.3
Những vướng mắc trong q trình xây dựng và phát triển Chính phủ
điện tử ở Việt Nam ............................................................................................ 54
2.3 Những kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam ............ 62

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 70


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng nghệ thơng tin và truyền thơng đóng vai trị ngày càng quan trọng trong đời
sống hằng ngày của chúng ta, trở thành một cuộc cách mạng thực sự trong công việc,
đời sống và thay đổi các quy tắc trong kinh doanh. Trong xu thế hội nhập hiện nay,
việc sử dụng các ứng dụng của cơng nghệ thơng tin khơng cịn là một khái niệm xa lạ
và thậm chí nó đã trở thành một cơng cụ để nhà nước quản lí xã hội. Việc Nhà nước sử
dụng công nghệ thông tin để thực hiện các hoạt động quản lí được gọi là “Chính phủ
điện tử”.
Cho đến nay, phát triển Chính phủ điện tử đã trở thành xu hướng chung của các
quốc gia phát triển trên thế giới và cũng là một chiến lược với các nước đang phát
triển. Đối với các nước phát triển như Mỹ, Canada, Úc..., khái niệm Chính phủ điện tử
đã trở nên quen thuộc đối với người dân bởi vì mơ hình Chính phủ điện tử của các
nước này đã được đưa vào sử dụng trong hơn thập kỉ qua và ngày càng đáp ứng được
nhu cầu xây dựng một nhà nước hiện đại, dân chủ. Ở Việt Nam, khái niệm này mặc dù
không mới mẻ nhưng vẫn chưa phổ biến và chưa được nhiều ngươi biết đến. Mặc dù
thời gian qua chúng ta cũng đã triển khai các đề án về việc thành lập mơ hình Chính
phủ điện tử (những năm đầu của thế kỉ 21). Rất nhiều dự thảo đã được tiến hành và
nhiều đề án được đưa ra, tuy nhiên đến nay vì nhiều lý do khác nhau mơ hình Chính
phủ điện tử nước ta vẫn chưa thể thực hiện được. Chính phủ điện tử là xu thế chung
của thời đại và là biểu trưng của một nhà nước phục vụ, dân chủ, hiện đại, nghiên cứu
lại một cách cơ bản về Chính phủ điện tử là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết
trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em đã chọn
đề tài “Chính phủ điện tử, kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới và bài học
với Việt Nam” với hy vọng nâng cao hiểu biết của mình về vấn đề này cũng như đề
xuất một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài sẽ bắt đầu bằng việc nghiên cứu khái quát về những nội dung cơ bản về
Chính phủ điện tử nhằm giúp cho người đọc có một cái nhìn tổng quan nhất về Chính
phủ điện tử. Từ đó, đề tài sẽ đi sâu nghiên cứu sự phát triển Chính phủ điện tử ở một
số nước trên thế giới, cụ thể là Mỹ, Hàn Quốc và Singapore. Với Chính phủ điện tử ở
các nước này, tác gia tập trung làm rõ quá trình phát triển và khung pháp lí mà các
nước đã chuẩn bị cho việc phát triển mơ hình Chính phủ điện tử cũng như những thành
tựu mà Chính phủ điện tử mang lại cho nước họ, bên cạnh đó là những hạn chế có thể


có; cuối cùng, đề tài khơng thể khơng đề cập đến q trình phát triển Chính phủ điện
tử ở Việt Nam và hiệu quả của quá trình xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử
trong thời gian qua.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản là duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử với nhiều phương pháp cụ thể ở các chương như:
- Chương 1: ở chương này, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, trong đó chủ yếu là phương pháp so sánh.
- Chương 2: tổng hợp, phân tích và so sánh là ba phương pháp tác
giả sử dụng ở chương này trong đó chủ yếu là phương pháp phân tích
được sử dụng chủ yếu.
4. Kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu là một khóa luận dày 71 trang. Qua nghiên cứu về phát triển
Chính phủ điện tử ở ba nước Mỹ, Hàn Quốc và Singapore, khóa luận đã rút ra được
một số bài học kinh nghiệm cho các nước đang trong giai đoạn chuẩn bị phát triển
Chính phủ điện tử nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ đó tác giả đề xuất một số giải
pháp phát triển Chính phủ điện tử phù hợp với điệu kiện của Việt Nam.
5. Nội dung nghiên cứu
Khóa luận bao gồm hai chương:
 Chương I: Khái quát về Chính phủ điện tử

Trong chương này, tác giả sẽ nêu khái quát chung về Chính phủ điện tử để người
đọc hiểu rõ hơn về thuật ngữ này thông qua các nội dung như khái niệm, đặc điểm, vai
trò và các giao dịch chính của Chính phủ điện tử. Sau phần khái quát chung, tác giả sẽ
giới thiệu tình hình phát triển của Chính phủ điện tử trên thế giới trước khi đi sâu phân
tích về phát triển Chính phủ điện tử ở ba nước cụ thể là Mỹ, Hàn Quốc và Singapore.
 Chương II: Xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt Nam
Ở phần đầu của chương này, tác giả sẽ làm rõ nhu cầu xây dựng Chính phủ điện tử
ở Việt Nam đồng thời phân tích q trình phát triển Chính phủ điện tử qua hai thời kỳ,
từ đó đánh giá các thành tựu đã đạt được cũng như những hạn chế cịn tồn tại. Qua
kinh nghiệm phát triển Chính phủ điện tử của các nước đã phân tích ở chương 1 cùng
với các bài học rút ra trong quá trình xây dựng, tác giả trình bày một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả trong phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam.


Em xin tỏ lịng biết ơn chân thành đến cơ Nguyễn Thị Thiện Trí, người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em hồn thành khóa luận này. Em cũng xin chân thành cảm ơn các
thầy cô và các bạn đã giúp em trong việc thu thập các tài liệu để hồn thành khóa luận.


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
1.1 Khái quát về Chính phủ điện tử
1.1.1
Khái niệm Chính phủ điện tử
Đối với một thuật ngữ vừa ra đời và phát triển trong hơn thập kỉ qua như Chính
phủ điện tử thì thật là khơng dễ dàng để có thể đưa ra một khái niệm thống nhất, rõ
ràng và thỏa mãn tất cả các đối tượng. Thật sai lầm khi cho rằng Chính phủ điện tử là
mạng máy tính trang bị cho các cơ quan Chính phủ và việc sử dụng mạng này của các
quan chức Chính phủ từ cấp cao nhất đến các chuyên viên để thực hiện công việc của
mình.[10-tr.12]. Chính phủ điện tử tuyệt nhiên khơng phải là điện tốn hóa các cơ
quan Chính phủ mặc dù điện tốn hóa các cơ quan Chính phủ là việc cần làm trong

q trình tạo dựng từng bước Chính phủ điện tử, nó chỉ là phương tiện chứ khơng phải
là mục tiêu. Để có được một khái niệm Chính phủ điện tử đúng đắn và thống nhất
nhiều tác giả và nhiều nhà kinh tế học đã đưa ra các khái niệm khác nhau về Chính
phủ điện tử.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, Chính phủ điện tử là khái niệm chỉ các cơ
quan Chính phủ sử dụng cơng nghệ thơng tin như mạng diện rộng, Internet, các
phương tiện di động để giao dịch với người dân, với doanh nghiệp và bản thân các cơ
quan trong Chính phủ. [28]
Theo định nghĩa của ngân hàng thế giới (World Bank) “Chính phủ điện tử là việc
các cơ quan của Chính phủ sử dụng một cách có hệ thống cơng nghệ thơng tin – truyền
thông để thực hiện quan hệ với người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, nhờ đó
giao dịch của các cơ quan Chính phủ với người dân và các tổ chức sẽ được cải thiện,
nâng cao chất lượng. Lợi ích thu được sẽ giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính cơng
khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí”. [29]
Theo Sally Katzen, Phó giám đốc điều hành cơ quan quản lý ngân sách thời Tổng
thống Bill Clinton thì “Chính phủ điện tử là việc người dân và doanh nghiệp có thể
truy cập thơng tin và sử dụng dịch vụ Chính phủ 24/24 giờ, 7 ngày mỗi tuần. Chính
phủ điện tử chủ yếu dựa vào các cơ quan Chính phủ sử dụng Internet và các công nghệ
tiên tiến khác để nhận và cung cấp thông tin, dịch vụ dễ dàng hơn, nhanh hơn, hiệu
quả hơn và rẻ hơn” [31]
Tuy có nhiều khái niệm về Chính phủ điện tử được đưa ra nhưng cách hiểu về
Chính phủ điện tử theo Sally Katzemn như trên đã được nêu trong nhiều chiến lược về
Chính phủ điện tử của các quốc gia và có thể coi đây là khái niệm đúng nhất về Chính
phủ điện tử tính đến thời điểm hiện tại. Khái niệm này đã nêu bật lên được bản chất


của Chính phủ điện tử là sự giao tiếp hai chiều giữa Chính phủ với cơng dân, các
doanh nghiệp và các tổ chức khác thông qua việc sử dụng Internet và các cơng nghệ
tiên tiến. Theo đó, Chính phủ là người cung cấp dịch vụ, cịn cơng dân, các doanh
nghiệp và các tổ chức là người sử dụng dịch vụ, một khi sự giao tiếp này được hiện

thực hóa thì đó chính là Chính phủ điện tử. Đây là điểm tiến bộ so với các khái niệm
khác về Chính phủ điện tử trong khi các khái niệm khác về Chính phủ điện tử chỉ nêu
lên mối quan hệ một chiều trong việc cung cấp dịch vụ của Chính phủ cho người dân
và các doanh nghiệp cũng như các tổ chức khác.
1.1.2
Đặc điểm của Chính phủ điện tử
Mặc dù có rất nhiều khái niệm khác nhau về Chính phủ điện tử và thậm chí cịn có
nhiều cách hiểu khác nhau nhưng chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm chung về
Chính phủ điện tử như sau:
Thứ nhất, Chính phủ điện tử là Chính phủ sử dụng cơng nghệ thơng tin và viễn
thơng để tự động hố và triển khai các thủ tục hành chính. Đây được xem là một trong
những ứng dụng quan trọng của công nghệ thông tin và viễn thơng trong hoạt động
nhà nước, góp phần giảm gánh nặng cho các cơ quan hành chính cũng như tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho công dân khi tiếp xúc với cơ quan cơng quyền.
Thứ hai, Chính phủ điện tử cho phép các cơng dân có thể truy cập các thủ tục hành
chính thơng qua các phương tiện điện tử như Internet, điện thoại di động, truyền hình
tương tác. Qua đó, người dân có thể cập nhật thơng tin về các thủ tục hành chính, giao
dịch với các cơ quan hành chính nhà nước mà khơng cần phải trực tiếp đến các cơ
quan đó.
Thứ ba, Chính phủ điện tử là Chính phủ làm việc với người dân 24/24 giờ, 7 ngày
mỗi tuần và 365 ngày mỗi năm. Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của Chính
phủ điện tử bởi vì người dân có thể thụ hưởng các dịch vụ công bất kể thời gian nào và
dù họ ở bất cứ đâu.
Từ những đặc điểm trên ta thấy rằng Chính phủ điện tử có nhiều điểm khác so với
Chính phủ truyền thống. Với Chính phủ truyền thống, quá trình quản lý hành chính
của các cơ quan nhà nước diễn ra mang tính thủ cơng, tốn nhiều cơng sức, thời gian và
tiền bạc. Người dân không thể liên lạc với Chính phủ ngồi giờ hành chính, khơng thể
ở bất cứ nơi nào ngoài trụ sở của các cơ quan nhà nước, trừ các trường hợp khác được
pháp luật quy định. Người dân không thể đăng ký lấy giấy phép kinh doanh, làm khai
sinh cho con mình hay đóng thuế trước bạ hoặc bất cứ giao dịch nào khác 24/24 giờ,



7/7 ngày và ở bất cứ đâu. Chính phủ điện tử có thể khắc phục được những hạn chế này
của Chính phủ truyền thống.
Ngồi ra, sự khác biệt chủ yếu giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền thống
là sự khác biệt về tốc độ xử lý giữa các thủ tục hành chính được tự động hóa so với các
thủ tục hành chính được xử lý thủ cơng. Việc tự động hố thủ tục hành chính của
Chính phủ điện tử cho phép xử lý các thủ tục nhanh hơn, gọn hơn, đơn giản hơn rất
nhiều. Không những thế, thông tin được cung cấp cho người dân còn đầy đủ, chính xác
và dễ dàng hơn, người dân cũng đỡ mất nhiều chi phí để thu thập các thơng tin
này.[12-tr17]
Như vậy, Chính phủ điện tử là một Chính phủ hiện đại hơn nhiều so với Chính
phủ truyền thống. Chính phủ điện tử là mục tiêu mà các cơ quan hành chính nhà nước
các cấp nói riêng và cơ quan nhà nước nói chung cần hướng đến xây dựng và phát
triển.
1.1.3 Vai trị của Chính phủ điện tử trong quản lí nhà nƣớc và trong phát
triển kinh tế xã hội
Trong thời đại ngày nay, mọi cơng dân có thể được hưởng các dịch vụ của Chính
phủ mọi lúc, mọi nơi, với chi phí thấp hơn và được phục vụ nhiệt tình hơn. Chính phủ
điện tử cũng ảnh hưởng rất lớn lên giới doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
nhỏ. Các công ty giờ đây có thể hồn thành các u cầu của Chính phủ trên mạng, tìm
kiếm các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, thực hiện các giao dịch hoặc nộp thuế
ngay trên mạng. Chính phủ điện tử có thể khiến cho các cá nhân truy cập thông tin và
dịch vụ liên quan đến mình qua một cửa duy nhất. Các thơng tin được cung cấp của
Chính phủ điện tử ln đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu của từng cá nhân riêng lẻ.
Nói chung, Chính phủ điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho cộng đồng bao gồm
người dân và các doanh nghiệp cũng như cho chính Chính phủ của quốc gia đó. Cụ thể
bao gồm các lợi ích sau:
a)
Lợi ích về mặt kinh tế

Về mặt kinh tế, Chính phủ điện tử là một ý tưởng nhằm giảm thiểu chi phí giao
dịch để tăng hiệu quả của nền hành chính cơng quyền. Đồng thời, Chính phủ điện tử là
một cơng cụ giảm thiểu những “chi phí bơi trơn” khơng cần thiết giữa các đối tác trong
quá trình giao dịch.

Đối với cộng đồng
Một trong những mục tiêu quan trọng trong việc xây dựng Chính phủ điện tử là
giúp người dân dễ dàng trong việc tiếp cận với các thông tin cũng như sử dụng các


dịch vụ của Chính phủ. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu trên thì Chính phủ phải để
người dân cũng như các doanh nghiệp thấy rõ lợi ích của Chính phủ điện tử đối với
chính họ bao gồm:
Một là, Chính phủ điện tử giúp giảm thiểu lãng phí thời gian và chi phí của người
sử dụng dịch vụ của Chính phủ. Cùng với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động quản lí và cung cấp các dịch vụ của Chính phủ, người dân và các doanh
nghiệp có thể trực tiếp sử dụng các dịch vụ của Chính phủ thơng qua mạng Internet
một cách nhanh chóng mà khơng cần phải chờ hàng tiếng đồng hồ để được phục vụ tại
các cơ quan công quyền. Việc giảm thiểu thời gian phục vụ người dân, doanh nghiệp
nêu trên khi truy nhập và sử dụng dịch vụ của Chính phủ kéo theo hệ quả tất yếu là
việc giảm chi phí của chính người sử dụng dịch vụ, tránh lãng phí tiền của của nhân
dân.
Hai là, Chính phủ điện tử tăng cường cho sự phát triển kinh tế. Hiệu quả của việc
triển khai dự án Chính phủ điện tử tác động rõ ràng đến nền kinh tế. Tổng khối lượng
mua sắm công của một nền kinh tế quốc dân thường chiếm từ 10-20% GDP. Nếu mua
sắm 10% của tổng số mua sắm công bằng hình thức điện tử với khả năng giảm 10%
giá thành thì có thể tiết kiệm 1% GDP hằng năm. Đây là lợi ích thiết thực nhất về mặt
kinh tế vì Chính phủ điện tử có thể giúp tiết kiệm hàng triệu đơ-la mỗi năm so với hình
thức mua sắm truyền thống.[10-tr21]
 Đối với Chính phủ

Chính phủ điện tử khơng những đem lại những lợi ích thiết thực cho cộng đồng mà
cịn đem lại lợi ích cho cả Chính phủ.
Trước hết, Chính phủ điện tử là giải pháp giúp giảm chi phí cho Chính phủ. Với
một bộ máy hành chính cồng kềnh của Chính phủ truyền thống, hằng năm, Chính phủ
phải chi ra một số tiền lớn cho việc duy trì hoạt động thơng qua đội ngũ cán bộ, cho
việc quản lí và đạo tạo cán bộ thì với Chính phủ điện tử, những chi phí này được giảm
đến mức tối thiểu. Ngồi ra, Chính phủ điện tử cịn giúp hoạt động mua sắm cơng của
Chính phủ hiệu quả hơn nhờ giảm chi phí giao dịch từ 10% - 20% thơng qua hình thức
giao dịch điện tử.
Thứ hai, Chính phủ điện tử cịn được kỳ vọng mang lại lợi ích quan trọng trong
việc nâng cao năng lực quản lý của Chính phủ. Việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào
q trình quản lý nhà nước góp phần làm minh bạch hóa các hoạt động của Chính phủ,
cơng khai hóa thơng tin và làm cho các giao dịch giữa Chính phủ với công dân trở nên


dễ dàng hơn. Thông qua ứng dụng công nghệ thông tin, hoạt động quản lý của Chính
phủ trở nên nhất quán và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc giám sát.
b)
Lợi ích trong hoạt động quản lí nhà nƣớc
Ngồi việc đem lại những lợi ích thiết thực về mặt kinh tế cho cả người dân lẫn
Chính phủ, Chính phủ điện tử cịn đem lại những lợi ích to lớn trong hoạt động quản lý
nhà nước.
Thứ nhất, Chính phủ điện tử giúp tăng cường sự minh bạch trong hoạt động quản
lí nhà nước. Do khơng bị giới hạn bởi khơng gian và thời gian, dự án Chính phủ điện
tử tạo ra luồng thông tin thông suốt và minh bạch cũng như khả năng tiếp cận thông
tin, dịch vụ một cách dễ dàng, thuận tiện. Những thông tin này bao gồm các quy định
của pháp luật, chính sách và hướng dẫn liên quan đến mua sắm công, kế hoạch đấu
thầu, thông báo mời thầu, hồ sơ mời thầu, biên bản đấu thầu và kết quả đấu thầu…
Ngồi các thơng tin trên thì các hoạt động trong quản lí nhà nước cũng được cơng
khai, minh bạch hóa đến mọi người dân. Sự minh bạch trong thông tin sẽ giúp giảm

thiểu cơ hội móc ngoặc, tham nhũng, giúp phát hiện sớm và loại trừ các hành vi này
cũng như làm trong sạch bộ máy hành chính.
Thứ hai, với vai trị là người làm chủ đất nước, là nhân tố chính của xã hội, người
dân ln mong muốn được tham gia, kiểm sốt các hoạt động của Chính phủ. Cùng
với những ưu điểm vượt trội so với Chính phủ truyền thống, Chính phủ điện tử ra đời
góp phần khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động của Chính phủ,
đáp ứng nhu cầu và sự thỏa mãn ngày càng tăng của xã hội nói chung và mọi người
dân nói riêng. Từ đó xây dựng và tăng cường lịng tin giữa Chính phủ và dân chúng.
Đây lợi ích chính trị vơ cùng quan trọng mà bất cứ Chính phủ nào cũng hướng đến.
Bởi lẽ một khi thiếu vắng sự tin tưởng thì vai trò của pháp luật, hiệu quả cưỡng chế
của các quyết định của Chính phủ cũng như các chương trình đổi mới của Chính phủ
thường bị người dân thờ ơ, khơng đón nhận. Nếu sự tương tác của Chính phủ với
người dân tăng lên, kết hợp với hiệu quả và chất lượng dịch vụ cung cấp được cải
thiện thì Chính phủ điện tử sẽ là yếu tố tăng cường lòng tin của nhân dân đối với
Chính phủ. Lợi ích chính trị này có được khi áp dụng Chính phủ điện là động cơ đầu
tiên và mạnh nhất đối với các nhà làm chính sách khi họ muốn cải cách hệ thống quản
lí cơng của mình.[17]


1.1.4

Các hình thức cung cấp dịch vụ chính của Chính phủ

điện tử
Trong xã hội, dù là Chính phủ truyền thống hay Chính phủ điện tử đều có 3 thành
phần có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bao gồm: Chính phủ (Government) viết tắt là
G, doanh nghiệp (Business) viết tắt là B, công dân (Citizen) viết tắt là C. Dù có khác
nhau về phương tiện, phương thức tương tác so với Chính phủ truyền thống thì các
hoạt động của Chính phủ điện tử cũng chính là sự tương tác giữa các đối tượng trên vì
đó cũng chính là các đối tượng sử dụng dịch vụ Chính phủ. Sự tương tác giữa các đối

tượng trên hình thành các hình thức cung cấp dịch vụ chính sau:
a)
Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ G2G (Government to Government)
Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ - G2G (Government to
Government) được hiểu là khả năng phối hợp, chuyển giao và cung cấp các dịch vụ
một cách có hiệu quả giữa các cấp, ngành, tổ chức, bộ máy của Nhà nước trong việc
điều hành và quản lý nhà nước, trong đó chính bản thân bộ máy nhà nước vừa đóng
vai trị là chủ thể và khách thể trong mối quan hệ này.
Giao dịch G2G được triển khai ở hai cấp độ: ở địa phương hoặc Trung ương và ở
cấp độ quốc tế. Các dịch vụ G2G là các giao dịch giữa Chính phủ Trung ương/quốc
gia và các chính quyền địa phương, giữa các vụ và các cơng ty, cơ quan trong bộ máy
Chính phủ, giữa các cơ quan Chính phủ với nhân viên. Đồng thời, các dịch vụ G2G là
các giao dịch giữa các Chính phủ với nhau và có thể được sử dụng như một công cụ
liên lạc, giao dịch hiệu quả trong quan hệ quốc tế và ngoại giao. G2G bao gồm các
hoạt động như:
- Các hệ thống hỗ trợ ra quyết định trong các cấp của chính quyền. Hệ thống hỗ
trợ ra quyết định là các hệ thống thơng tin máy tính hỗ trợ ra quyết định hoạt động
tương tác dựa trên hệ thống máy tính và hệ thống phụ nhằm giúp các nhà quản lý
quyết định sử dụng công nghệ thông tin, dữ liệu, kiến thức và các mơ hình để hồn
thành nhiệm vụ trong quá trình quyết định.
- Các hệ thống thơng tin quản lý trong nội bộ Chính phủ: nhân sự, tài chính, tài
sản, hồ sơ, lưu trữ. Đây là các hệ thống hỗ trợ rất nhiều cho quá trình làm việc của các
cơ quan Chính phủ về lĩnh vực lưu trữ và quản lý thơng tin. Nhờ có các hệ thống thông
tin quản lý mà thông tin được quản lý thống nhất, minh bạch và dễ dàng cho việc tìm
kiếm.


- Thu thập, xử lý các thông tin quản lý như: kinh tế, an ninh, quốc phòng. Đây là
một trong các chức năng của các cơ quan Chính phủ. Hoạt động này nhằm hỗ trợ cho
quá trình ra quyết định và các chính sách của nhà nước.

b)

Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Doanh nghiệp -

G2B (Government to Business)
Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Doanh nghiệp là những dịch vụ trao
đổi giữa Chính phủ với cộng đồng doanh nghiệp bao gồm cả việc phổ biến các chính
sách, biên bản ghi nhớ, các quy định… Các dịch vụ được cung cấp bao gồm truy xuất
các thông tin về kinh doanh, tải các mẫu đơn, gia hạn giấy phép, đăng ký kinh doanh,
xin cấp phép và nộp thuế… Trang Web BusinessLaw.gov của Chính phủ Mỹ là một ví
dụ điển hình về hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến doanh nghiệp. Qua trang
Web này các doanh nghiệp có thể truy cập các thơng tin, các nghị định và các văn bản
pháp luật khác. Cũng trên trang Web này các doanh nghiệp có thể sử dụng ngay các
dụng cụ chuyên ngành để tìm hiểu xem các văn bản luật yêu cầu gì đối với cơng việc
kinh doanh của mình.
Các dịch vụ được cung cấp thơng qua giao dịch từ Chính phủ đến Doanh nghiệp
cũng hỗ trợ việc phát triển kinh doanh, đặc biệt là phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Việc đơn giản hóa các thủ tục xin cấp phép, hỗ trợ quá trình phê duyệt đối với các
yêu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thúc đẩy kinh doanh phát triển. Ở mức
cao hơn, các dịch vụ dạng này còn bao gồm cả việc mua sắm điện tử và trao đổi trực
tuyến giữa Chính phủ với các nhà cung cấp để mua sắm hàng hóa và dịch vụ cho
Chính phủ.
c) Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Cơng dân - G2C
(Government to Citizen)
Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ tới Cơng dân này là để cung cấp dịch vụ
trực tuyến tới mọi người dân, ví dụ tổ chức bầu cử của cơng dân, thăm dị dư luận, tư
vấn, khiếu nại, giám sát và thanh toán thuế… Ngồi ra, G2C cịn bao gồm việc phổ
biến thơng tin tới công chúng các dịch vụ cơ bản như gia hạn giấy phép, cấp giấy khai
sinh/ khai tử/ Đăng kí kinh doanh và kê khai các biểu mẫu nộp thuế thu nhập cá nhân
cũng như việc hỗ trợ người dân đối với các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế, thông

tin bệnh viện, thư viện và rất nhiều dịch vụ khác. Dân chúng có thể thu thập các thông
tin liên quan tới cuộc sống hàng ngày của mình và sử dụng các dịch vụ của Chính phủ
một cách nhanh chóng và tiết kiệm thơng qua việc kết nối vào mạng của Chính phủ.


1.2 Tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới
Theo báo cáo về tình hình phát triển Chính phủ điện tử toàn cầu của Darell
M.West, giáo sư trường đại học Brown ở Providence, Rhode Island, vào tháng 8 năm
2008, tình hình phát triển Chính phủ điện tử các nước trên thế giới tiến tiến bộ hơn rất
nhiều so với những năm trước. Báo cáo này đánh giá tình trạng hiện tại của Chính phủ
điện tử và có những đề xuất thiết thực để cải thiện việc cung cấp thông tin và dịch vụ
qua mạng Internet. Những dữ liệu phân tích chi tiết được thực hiện năm 2008 lấy từ
1667 trang Web của Chính phủ ở 198 quốc gia khác nhau cho thấy:

Một phát hiện quan trọng của báo cáo này là có sự khác biệt lớn
trong trong việc thực hiện Chính phủ điện tử ở các quốc gia. Trong việc sử
dụng công nghệ, Hoa Kỳ đã tụt xuống sau Hàn Quốc và Đài Loan. Các quốc
gia đứng đầu hiện nay trong phát triển Chính phủ điện tử là Hàn Quốc, Mỹ,
Xin-ga-po, Ca-na-đa, Úc, Đức… Ngược lại, cũng có những quốc gia như
Tuvalu, Mauritania, Guinea, Công gô, Comoros, Macedonia, Kiribati,
Samoa và Tanzania hầu như khơng có sự hiện diện các trang web.

Trên thế giới có 50% trang web của Chính phủ đã thực hiện cung
cấp dịch vụ trực tuyến, tăng 28% so với năm 2007.

96% trang web cung cấp các ấn phẩm và 75% trang web cho phép
kết nối với các cơ sở dữ liệu khác.

Chỉ 30% trang web của Chính phủ có đưa ra chính ra bảo mật và
17% có chính sách an ninh.


Chỉ có 16% của các trang web của Chính phủ có một số hình
thức tiếp cận cho người tàn tật, trong khi 57% cung cấp bản dịch tiếng nước
ngồi cho độc giả khơng phải là bản địa.

Mười bốn phần trăm cung cấp khả năng cá nhân hố các trang
web của chínhphủ đến khu vực của khách hàng truy cập quan tâm, trong
khi ba phần trăm cung cấp khả năng truy cập PDA.[30]
Theo khảo sát của Liên Hợp Quốc về Chính phủ điện tử trên thế giới 2010, chỉ số
phát triển Chính phủ điện tử trung bình thế giới giảm nhẹ so với những năm trước. Tuy
nhiên, sự giảm nhẹ này không được xem như sự suy thối của Chính phủ điện tử trên
quy mơ tồn cầu bởi vì chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của các quốc gia trong một
năm chỉ mang tính tương đối khi so sánh với các năm khác. Quan trọng hơn, sự sụt
giảm của một quốc gia trong bảng xếp hạng chỉ số phát triển Chính phủ điện tử có thể


xem như một sự nhắc nhở cho quốc gia đó về việc cần thiết dành các nguồn lực lớn
hơn để cải thiện các dịch vụ trực tuyến và mở rộng truy cập cơ sở hạ tầng viễn thông.
Tuy nhiên, công dân các quốc gia lại được hưởng lợi nhiều hơn từ việc được cung
cấp những dịch vụ điện tử tiên tiến, tiếp cận thơng tin tốt hơn, quản lý Chính phủ hiệu
quả hơn và cải thiện tương tác với Chính phủ các quốc gia. Những tiến bộ trên là kết
quả chủ yếu của việc sử dụng ngày càng tăng công nghệ thông tin và truyền thông
trong lĩnh vực công. Hầu hết các nước đã đưa vào sử dụng một số lượng lớn thông tin
trực tuyến, nhiều trang web được thiết kế để cung cấp cổng thông tin quốc gia phục vụ
như đầu mối khởi đầu quan trọng kết nối người sử dụng với các cơ quan của Chính
phủ
Theo bảng xếp hạng chỉ số phát triển Chính phủ của Liên Hợp quốc năm 2010,
phần lớn các quốc gia có thu nhập cao đứng ở các vị trí đầu trong bảng xếp hạng như
những năm trước đây. Trong số năm quốc gia dẫn đầu trong khảo sát chỉ số phát triển
Chính phủ điện tử, Hàn Quốc nhận được số điểm cao nhất (0.8785), tiếp theo là Hoa

Kỳ (0.8510), Canada (0.8448), Vương quốc Anh (0.8147), Hà Lan (0.8097).
Bảng: 20 quốc gia dẫn đầu trong phát triển Chính phủ điện tử
Xếp hạng

Quốc gia

Chỉ số phát
triển Chính

Xếp hạng

Quốc gia

phủ điện tử

Chỉ số phát
triển Chính
phủ điện tử

1

Hàn Quốc

0.8785

11

Singapore

0.7476


2

Hoa Kỳ

0.8510

12

Thụy Điển

0.7474

3

Canada

0.8448

13

Bahrain

0.7363

4

Vương
quốc Anh


0.8147

14

New Zealand

0.7311

5

Hà Lan

0.8097

15

Đức

0.7309

6

Na Uy

0.8020

16

Bỉ


0.7225

7

Đan Mạch

0.7872

17

Nhật

0.7152

8

Úc

0.7863

18

Thụy Sĩ

0.7136

9

Tây Ban
Nha


0.7516

19

Phần Lan

0.6967

10

Pháp

0.7510

20

Estonia

0.6965

(Nguồn: />Phần lớn các vị trí dẫn đầu trong bảng xếp hạng trên đây đều thuộc về các quốc gia
có thu nhập cao, đây khơng phải là điều đáng ngạc nhiên bởi vì đó đều là những quốc


gia có nguồn lực tài chính mạnh để phát triển và triển khai Chính phủ điện tử cũng như
tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc tham gia của cơng dân mình. Những quốc gia
phát triển có lợi thế hơn hẳn trong việc đạt được thứ hạng cao trong cuộc khảo sát, gần
hai phần ba tỷ trọng trong đánh giá chỉ số phát triển Chính phủ điện tử được phân bổ
cho cơ sở hạ tầng viễn thông và nguồn nhân lực mà cả hai yếu tố trên đều đòi hỏi sự

đầu tư dài hạn. Đối với các quốc gia đang phát triển, thách thức được đặt ra là phải đầu
tư cả ba chiều: các dịch vụ trực tuyến, cơ sở hạ tầng viễn thơng và giáo dục để có thể
thu hẹp khoảng cách trong lĩnh vực kỹ thuật số hiện nay. Nói cách khác, việc cung cấp
một trang wed cung cấp dịch vụ trực tuyến tuyệt vời cũng không có ý nghĩa gì nhiều
nếu đa số người dân trong đất nước đó khơng biết đọc, viết hay khơng thể truy cập vào
Internet.
Các quốc gia trên thế giới có tốc độ phát triển Chính phủ điện tử khác nhau phụ
thuộc vào từng khu vực. Theo báo cáo của Liên Hợp quốc về chỉ số phát triển Chính
phủ điện tử trung bình từng khu vực, châu Âu nhận được số điểm cao nhất (0.6227),
tiếp theo là châu Mỹ (0.4790). Châu Phi tiếp tục tụt xa so với mức trung bình thế giới
(0.446) vì đây là khu vực tập trung hầu hết các quốc gia kém phát triển nhất thế giới và
các nước này thiếu nguồn tài chính cũng như nhân lực đủ để thực hiện Chính phủ điện
tử. Khu vực châu Á chỉ trên mức trung bình một chút nhưng Hàn Quốc lại là một
ngoại lệ vì đứng đầu trong bảng xếp hạng chỉ số phát triển Chính phủ điện tử
2010.[45]
Biểu đồ: Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử trung bình các khu vực trên thế
giới[45]


Nhiều Chính phủ đã nâng cao các trang web thuộc bộ và quốc gia của mình để kết
hợp với các công cụ tương tác nhằm tăng cường sự tham gia sử dụng những ứng dụng
điện tử của công dân.
Các công cụ web 2.01 và kết nối mạng xã hội cho phép công dân trở nên chủ động
hơn trong việc bày tỏ quan điểm của mình về nhiều vấn đề, đặc biệt là về các vấn đề
liên quan đến môi trường, y tế, giáo dục và các lĩnh vực khác về chính sách của Chính
phủ.
Cơng dân sử dụng cơng cụ web 2.0 và kết nối mạng xã hội sẽ có tác dụng kích
thích các cơng dân cùng chí hướng khác chia sẻ ý tưởng và phát triển những phương
pháp hợp tác giải quyết các vấn đề quan trọng của xã hội. Vì vậy, các chính trị gia và
những người ra quyết định cần phải biết tận dụng nguồn thông tin và kiến thức giàu có

này.
Xu hướng tồn cầu đối với việc lắng nghe tiếng nói của cơng dân và khuyến khích
sự tham gia của họ ngày càng tăng. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục và mở rộng trong vài
năm tới và xa hơn nữa vì các cơng dân đang ngày càng sử dụng nhiều công cụ tham
gia điện tử. Thêm nữa, các chính trị gia và người ra quyết định dường như đã thiên về
lắng nghe tiếng nói cơng dân. Mặc dù phong trào này chủ yếu được phát triển tại các
quốc gia có thu nhập cao nhưng những quốc gia thu nhập trung bình cũng khơng cịn
cách xa nhiều lắm.
Bảng: Nhóm 20 quốc gia dẫn đầu về tỷ lệ tham gia điện tử (Khảo sát về Chính
phủ điện tử của Liên Hợp Quốc năm 2010)[45]
Thứ hạng

1

Quốc gia

Chỉ số tham gia
điện tử

Thứ hạng
năm 2010

Thứ hạng
năm 2011

1

Hàn Quốc

1.0000


1

2

2

Úc

0.9143

2

5

3

Tây Ban Nha

0.8286

3

34

4

New Zealand

0.7714


4

6

5

Anh

0.7714

5

25

6

Nhật

0.7571

6

11

7

Hoa Kỳ

0.7571


7

1

8

Canada

0.7286

8

11

9

Estonia

0.6857

9

8

Cụm từ web 2.0 được nói tới như là một xu hướng trong thiết kế và phát triển web


10


Singapore

0.6857

10

10

11

Bahrain

0.6714

11

36

12

Malaysia

0.6571

12

41

13


Đan Mạch

0.6429

13

3

14

Đức

0.6143

14

74

15

Pháp

0.6000

15

3

16


Hà Lan

0.6000

16

16

17

Bỉ

0.5857

17

28

18

Kazakhstan

0.5571

18

98

19


Lithuania

0.5286

19

20

20

Slovenia

0.5143

20

55

Chỉ số tham gia Chính phủ điện tử ở bảng trên cho thấy Chính phủ các quốc gia
thực hiện như thế nào trong năm 2010 so với năm 2008. Khảo sát năm 2010 bao gồm
sự đánh giá toàn diện về việc Chính phủ các quốc gia tính đến cơng dân của mình
trong q trình ra quyết định như thế nào, Chính phủ đang cung cấp thơng tin và kiến
thức cũng như tư vấn cho cơng dân để có thông tin và ý kiến phản hồi như thế nào.
Hơn một phần ba trong số 35 nước dẫn đầu về chỉ số tham gia Chính phủ điện tử đều
là những nước mới phát triển Chính phủ điện tử và đa phần trong số đó là những nước
có thu nhập trung bình. Từ năm 2008, những nước có thu nhập trung bình đã điều
chỉnh các trang web của mình để có được nhiều phản hồi và bắt đầu quá trình đối thoại
với cơng dân.
1.3 Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nƣớc trên thế giới
1.3.1 Phát triển Chính phủ điện tử ở Mỹ

a) Mục tiêu phát triển Chính phủ điện tử ở Mỹ
Dự án phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ nhằm mục đích ứng dụng cơng nghệ
thơng tin để tiết kiệm hàng triệu đơ-la lãng phí trong chi tiêu của Chính phủ, giảm
gánh nặng lên người dân và doanh nghiệp khi phải làm việc với Chính phủ, rút ngắn
thời gian trả lời những câu hỏi của người dân từ hàng tuần xuống cịn vài phút. Mục
đích quan trọng trong dự án này là phải làm sao cho người dân có thể truy cập thơng
tin và sử dụng dịch vụ Chính phủ chỉ bằng ba lần nhấn chuột khi sử dụng Internet. Để
thực hiện dự án trên, Chính phủ Mỹ đã cam kết thúc đẩy các chiến lược phát triển
Chính phủ điện tử bằng cách hỗ trợ các cơ quan nhà nước nhiều dự án cải thiện dịch
vụ công và tăng hiệu quả thực hiện. Với mục tiêu đó, nhóm thực hiện do Mitchell


E.Daneils2 thành lập đã phát triển một lộ trình phát triển Chính phủ điện tử đồng thời
khởi xướng một liên cơ quan phát triển Chính phủ điện tử nhằm xác định các kế hoạch
hành động cho việc thực hiện dự án Chính phủ điện tử của Tổng thống đương nhiệm
George Bush. Các mục tiêu trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của nhóm
thực hiện bao gồm:
 Các mục tiêu chung:
- Các cơ quan Chính phủ tập trung vào việc hiện đại hóa thơng tin ứng dụng cơng
nghệ thơng tin.
- Các hệ thống cơng nghệ thơng tin chính phải được cơng chúng thừa nhận là tuyệt
đối an tồn.
- Chính phủ điện tử bước đầu phải đạt được những lợi ích thiết thực như tiết kiệm
chi phí, rút ngắn thời gian mà dân chúng phải chờ đợi để có được sự hồi âm từ phía
Chính phủ, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp, cải thiện dịch vụ Chính phủ…
- Đề ra những giải pháp giảm thiểu chi phí đầu tư cho công nghệ thông tin không
cần thiết trong sáu lĩnh vực kinh doanh của Chính phủ.
 Từ mục tiêu chung, Chính phủ Mỹ đặt ra các mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất, đối với loại hình Chính phủ - cơng dân (Government to Citizen) thì mục
tiêu đề ra là xây dựng các cơng cụ giúp cơng dân dễ dàng tìm kiếm, dễ sử dụng và tiếp

cận với các dịch vụ chất lượng cao của Chính phủ. Rút ngắn thời gian truy cập thông
tin về các khoản vay, tăng số lượng cơng dân trình văn bản thuế và nộp thuế cũng như
rút ngắn thời gian cho người dân khi phải tìm kiếm các thơng tin giải trí.
Thứ hai, đối với loại hình Chính phủ - doanh nghiệp (Government to Business) thì
mục tiêu chính của loại hình này là giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp bằng cách
loại bỏ việc thu thập các dữ liệu không cần thiết, tận dụng tốt công nghệ doanh nghiệp
điện tử và cho phép các doanh nghiệp có thể trình văn bản thuế và nộp thuế qua mạng.
Ngồi ra cịn tăng khả năng tìm kiếm, tiếp cận các quy tắc và các văn bản pháp luật.
Thứ ba, đối với loại hình Chính phủ - Chính phủ (Government to Government) thì
mục tiêu chủ yếu của loại hình này là làm sao cho chính quyền các cấp làm việc với
nhau dễ dàng hơn để phục vụ người dân ngày càng tốt hơn. Để đạt được yêu cầu này
phải có các biện pháp để chính quyền Liên bang và chính quyền các bang cũng như
chính quyền các bang với nhau dễ dàng nhận được thông tin và đáp ứng yêu cầu của
nhau.
2

Một nghị sĩ của bang Indianna và là giám đốc của Văn phòng quản lý và Ngân sách dưới thời Tổng thống
George Bush.


Cuối cùng, đối với nội bộ Chính phủ thì mục tiêu là làm cho việc sử dụng cộng
nghệ hiện đại có hiệu quả hơn để giảm chi phí và nâng cao chất lượng các cơ quan
hành chính bằng cách sử dụng các ứng dụng công nghiệp trong các lĩnh vực như quản
lí chuỗi cung ứng, quản lí tài chính và quản lí tri thức.
Với những mục tiêu đã đề ra trên đây và với mong muốn Chính phủ điện tử sẽ
cung cấp dịch vụ ngày càng tốt hơn tới người dân với chi phí thấp hơn, các cơ quan
Chính phủ điện tử và công nghệ thông tin đã thực hiện những chính sách sau:
Một là đơn giản hóa q trình hoạt động của Chính phủ nhằm cải thiện chất lượng
dịch vụ.
Hai là sử dụng ngân sách hàng năm để hỗ trợ cho việc thực hiện dự án Chính phủ

điện tử.
Ba là đẩy nhanh tình hình thực hiện dự án thơng qua phát triển, tuyển dụng và giữ
chân lực lượng cán bộ cơng nghệ thơng tin có trình độ.
Bốn là tiếp tục hiện đại hóa quản lí thơng qua ứng dụng Cơng nghệ thơng tin trong
các cơ quan Chính phủ, bao gồm quản lí chi phí, quản lí các báo cáo tài chính, quản lí
sổ sách, cung cấp thơng tin và dữ liệu liên quan tới tình hình đất nước, quản lí nguồn
nhân lực,…
Liên kết lãnh đạo các cơ quan Chính phủ để hỗ trợ cho việc thực hiện dự án Chính
phủ điện tử.
b) Q trình phát triển Chính phủ điện tử ở Mỹ
Bộ máy hành chính hiện tại của Mỹ là sản phẩm của các xung đột chính trị trong
suốt hai thập kỷ qua. Cho đến nay hệ thống hành pháp của Liên bang Mỹ được đánh
giá là khá tản mạn. Hệ thống này bao gồm Tổng thống, các trợ lý, Bộ trưởng, 14 bộ và
hàng loạt các cơ quan khác với khoảng ba triệu công chức. Với một bộ máy chính
quyền khá cồng kềnh như vậy thì sự ra đời Chính phủ điện tử thực sự là một cuộc cách
mạng. Người Mỹ đã sớm biết rằng khi công nghệ, khả năng sáng tạo và lãnh đạo hợp
nhất thì sẽ tạo ra những kết quả mạnh mẽ. Điều gì sẽ xảy ra nếu Chính phủ nắm lấy
cơng nghệ thơng tin với trí sáng tạo và sự lãnh đạo táo bạo? Điều gì sẽ xảy ra nếu tất
cả người Mỹ đều nhận thức được Chính phủ điện tử là cách để thay đổi thế giới một
cách có ý nghĩa? Và điều gì sẽ xảy ra nếu căn bệnh thâm niên của Chính phủ là sự mất
liên lạc giữa người dân và Chính phủ được nối lại? Khích lệ bởi những câu hỏi này,
Chính phủ cùng hàng trăm nhà lãnh đạo trong các ngành, các nhà nghiên cứu và các tổ
chức phi lợi nhuận đã bắt đầu hợp tác làm việc vào tháng 11/1999 để chính thức phát
triển Chính phủ điện tử. Công việc của họ được phát động, hướng dẫn và điều phối bởi


tổ chức phi lợi nhuận và phi Chính phủ CEG (Council for Excellence in Government).
Theo dự án này, hai chuyên gia tư vấn Peter Hart và Robert Teeter đã thực hiện hai
cuộc điều tra vào tháng 8/2000 và tháng 1/2001.
Cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 1/2001 của P.Hart và R.Teeter cho thấy trong 3

người Mỹ thì có 1 người nói Chính phủ điện tử nên được Tổng thống mới ưu tiên. Hai
phần ba số người được trưng cầu ý kiến ủng hộ công việc của cơ quan công nghệ Nhà
Trắng nhằm đổi mới Chính phủ và cải thiện dịch vụ thông qua mạng Internet. Hai
phần ba cho rằng sự tồn tại mối liên hệ giữa nhà nước và khu vực tư nhân bao giờ
cũng tốt hơn là để hai khu vực này hoạt động độc lập với nhau. Cũng 2/3 số người
được hỏi ủng hộ việc sử dụng quỹ Chính phủ để giúp các bang hiện đại hố hệ thống
bầu cử, ví dụ như lắp đặt các máy bỏ phiếu điện tử tương tự như các máy rút tiền tự
động đang được sử dụng rộng rãi ở các ngân hàng. [34]
Năm 2001, tổng thống George Bush đã bắt đầu một vài nỗ lực cải cách Chính phủ
nhằm giúp cho Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn và lấy dân làm trọng tâm. Một trong
những nỗ lực này là tạo lập nên một Chính phủ điện tử ở Mỹ. Vì vậy vào ngày
18/7/2001, giám đốc cơ quan Quản lý và Ngân sách (OMB: Office of Management
and Budget), ông Mitchell E.Daneils đã thành lập nhóm thực hiện Chính phủ điện tử
vạch kế hoạch hành động để thực hiện những bước khởi đầu cho Chính phủ điện tử.
Đến 27/02/2002 Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử đã hồn thành để chuẩn bị
nền tảng cho việc thực hiện các công đoạn sau này.[10-tr.202]
Để tạo điều kiện cho việc thực hiện các chính sách đã đề ra và đạt được các mục
tiêu ban đầu, Chính phủ Mỹ phải tạo được một nền tảng pháp lí vững chắc cho việc
thực hiện Chính phủ điện tử. Đáp ứng nhu cầu bức thiết trên, tháng 12 năm 2002, luật
Chính phủ điện tử đã chính thức được Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Mỹ thông
qua với những quy định đáng chú ý sau:
 Vấn đề về Quỹ phát triển Chính phủ điện tử:
Mục a §3604 luật Chính phủ điện tử 2002 quy định về việc thành lập quỹ Chính
phủ điện tử: “Quyết định thành lập quỹ Chính phủ điện tử trong ngân khố Chính phủ
Mỹ. Quỹ này được quản lí bởi quản trị viên của tổng cục quản lí dịch vụ và sự hỗ trợ
của quản trị viên văn phịng Chính phủ để ủng hộ các dự án được phê chuẩn mà cho
phép Chính phủ Liên bang mở rộng khả năng điều hành các hoạt động điện tử thông
qua việc phát triển và sử dụng Internet cũng như các phương pháp liên quan đến điện
tử khác”.



Theo quy định tại §3604 tiêu đề I luật Chính phủ điện tử 2002, Quỹ Chính phủ
điện tử chỉ có thể được sử dụng sau khi đã thông qua một trình tự thủ tục nghiêm ngặt,
trước tiên là thủ tục khi xem xét các đề xuất sử dụng Quỹ và việc quản lí quỹ theo
§3604(b)(2) “Khi xem xét các đề xuất và quản lí Quỹ, người quản lí phải thực hiện và
kết hợp các thủ tục sau đây:
(A) Một dự án lớn địi hỏi có sự tham gia hoặc tài trợ của một cơ quan được
chấp thuận bởi một quan chức cao cấp với chuyên gia của cơ quan đó thay
mặt cho người đứng đầu của cơ quan va cũng là người báo cáo trực tiếp
cho người đứng đầu cơ quan đó
(B) Các dự án sẽ phải tuân thủ kế hoạch vốn cơ bản và các quy trình kiểm sốt
đầu tư
(C) Các cơ quan phải nhận biết các cam kết về nguồn lực từ các cơ quan có
liên quan và các nguồn lực này được phối hợp với sự hỗ trợ từ Quỹ như thế
nào, và bao gồm cả các kế hoạch cho việc tiếp tục dự án sau khi tất cả các
quỹ có sẵn từ Quỹ đã được chi tiêu.
(D) Sau khi xem xét các khuyến nghị của các hội đồng liên ngành, Giám đốc,
với sự hỗ trự của người quản lí, có quyền ra quyết định cuối cùng xác định
các dự án được đề cử nào sẽ được Quỹ tài trợ.
(E) Các cơ quan sẽ phải đánh giá kết quả của các dự án được tài trợ. ”
Ngoài ra §3604(e) cịn quy định về thủ thục chuyển giao để sử dụng Quỹ “Khơng
có bất cứ nguồn kinh phí nào từ Quỹ có thể được chuyển giao tới bất cứ cơ quan nào
đến sau 15 ngày kể từ ngày người quản lí của Tổng cục quản lí dịch vụ trình Các ủy
ban sau: Ủy ban về phân bổ ngân sách của Thượng viện và Hạ viện, Ủy ban về các
vấn đề của Chính phủ của Thượng viện, Ủy ban Cải cách Chính phủ của Hạ viện, một
thơng báo và mơ tả chi tiết về việc phân bổ kinh phí và cách thức chi tiêu cũng được
đệ trình.”
Như vậy, Luật Chính phủ điện tử Mỹ 2002 đã quy định hết sức chặt chẽ về Quỹ
phát triển Chính phủ điện tử bởi đây là một trong những yếu tố rất quan trọng trong
việc phát triển Chính phủ điện tử.

 Các quy định về bảo mật
Các quy định về bảo mật là một phần khơng thể thiếu trong phát triển Chính phủ
điện tử bởi lẽ một Chính phủ điện tử hoạt động hiệu quả không chỉ là việc cung cấp
các dịch vụ trực tuyến cho người dân đảm bảo mối quan hệ hai chiều giữa cơng dân
với Chính phủ mà cịn phải đáp ứng các yêu cầu về bảo mật thông tin - cơ sở để tạo


dựng lịng tin và khuyến khích cơng dân tham gia Chính phủ điện tử. Đáp ứng yêu cầu
trên Luật Chính phủ điện tử Mỹ 2002 đã dành nhiều phần để quy định về vấn đề này
mà chủ yếu tập trung tại tiêu đề III, phần 301 tiểu chương III và phần 208 tiêu đề II.
Trước tiên, phần 208 Luật Chính phủ điện tử 2002 quy định:
“(a) Mục đích: mục đích của phần này là đảm bảo sự bảo vệ có hiệu quả thông tin
cá nhân khi các cơ quan thực hiện Chính phủ điện tử.
(b) Nội dung của đánh giá tác động bảo mật:
(A) Giám đốc sẽ ban hành hướng dẫn cho các cơ quan quy định cụ thể về nội
dung của đánh giá tác động bảo mật.
(B) Hướng dẫn của giám đốc sẽ:
(i) Đảm bảo một đánh giá tác động bảo mật tương xứng với quy mô hệ thống
thông tin được đánh giá, sự nhạy cảm của thông tin trong hệ thống đó, các
tác hại từ việc phát hành trái phép các thơng tin đó và
(ii) u cầu một đánh giá tác động bảo mật bao gồm:
(I) Những thông tin nào được thu thập
(II) Tại sao những thông tin đó lại được thu thập
(III) Mục đích sử dụng các thơng tin đó
(IV) Thơng tin đó được chia sẽ với những ai
(V) Những thông báo nào sẽ được cung cấp cho các cá nhân về việc
thông tin nào được thu thập và thơng tin đó được chia sẽ như thế nào.
(VI) Thơng tin đó sẽ được bảo vệ như thế nào và
(VII) Liệu có một hệ thống hồ sơ được tạo ra theo phần 552a tiêu đề số
5, theo mã của Mỹ, (thường được gọi là “Luật bảo mật”)”.

Ngoài ra, Luật Chính phủ điện tử Mỹ năm 2002 cịn dành hẳn một chương để quy
định về an ninh thông tin tại tiêu đề III, phần 301 tiểu chương III, bao gồm các quy
định sau:
Đầu tiên là về thuật ngữ “hệ thống an ninh quốc gia” quy định tại 3542(2)(A)(ii):
“Thuật ngữ “hệ thống an ninh quốc gia” có nghĩa là bất kì hệ thống thơng tin nào
(bao gồm cả hệ thống viễn thông) được sử dụng hoặc điều hành bởi một cơ quan hoặc
tổ chức đại diện cho cơ quan đó, luôn luôn được bảo vệ bởi các thủ tục được thiết lập
cho các thông tin mà đã được ủy quyền một cách cụ thể theo các tiêu chuẩn được lập
ra bởi một lệnh điều hành hoặc một Đạo luật của Quốc hội.”
Bên cạnh đó, tất cả các cơ quan đang hoạt động trong hệ thống an ninh quốc gia
phải tuân thủ chế độ bảo mật quốc gia theo quy định tại §3546(b): “Hệ thống an ninh


quốc gia - Mỗi cơ quan đang điều hành hoạt kiểm soát một hệ thống an ninh quốc gia
phải chia sẻ thơng tin về sự cố an tồn thơng tin, những mối đe dọa cũng như các lỗ
hổng với trung tâm sự cố an tồn thơng tin Liên bang ở mức độ phù hợp với các tiêu
chuẩn và hướng dẫn cho hệ thống an ninh quốc gia, được ban hành theo quy định của
pháp luật và theo chỉ dẫn của Tổng thống ”. Đồng thời §3547 cịn quy định rõ hơn về
hệ thống an ninh quốc gia như sau: “Người đứng đầu của mỗi cơ quan điều hành hoạt
kiểm soát một hệ thống an ninh quốc gia có trách nhiệm đảm bảo rằng cơ quan đó
(1) Cung cấp các chế độ bảo vệ an ninh thông tin tương xứng
với các rủi ro và mức độ thiệt hại từ việc truy cập trái phép, sử dụng,
tiết lộ, làm gián đoạn hay phá hủy các thơng tin có trong hệ thống
đó.
(2) Thực hiện các chính sách an ninh thơng tin theo u cầu
của các tiêu chuẩn và hướng dẫn cho các hệ thống an ninh quốc gia,
được ban hành theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Tổng
thống; và
(3)


Tuân thủ theo các yêu cầu của Tiểu chương này”.

 Về phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin liên bang
Vấn đề nguồn nhân lực cũng hết sức quan trọng trọng phát triển Chính phủ điện tử
bởi vì muốn quản lí và phát triển Chính phủ điện tử địi hỏi phải có những nhà quản lí
tốt và các nhân viên chun mơn có năng lực cao, vì vậy quy định về tuyển dụng và
các hình thức đào tạo nhân viên làm việc trong lĩnh vực này là yêu cầu không thể
thiếu. Vấn đề này được quy định trong phần 209 tiêu đề II luật Chính phủ điện tử Mỹ
2002:
“(a) Mục đích: mục đích của phần này là cải thiện kĩ năng của lực lượng lao động
Liên bang trong việc sử dụng công nghệ thông tin để cung cấp các thông tin và
dịch vụ Chính phủ.
(b) Phát triển nhân lực:
Chính phủ Mỹ đã quy định việc phát triển nguồn nhân lực công nghệ thơng tin
thơng qua các quy định sau:
(A) Phân tích, trên cơ sở liên tục, nhu cầu về nhân sự của Chính phủ Liên bang
liên quan đến cơng nghệ thơng tin và quản lí nguồn thơng tin.
(B) Xác định những nơi đào tạo cơng nghệ thơng tin và quản lí nguồn thông tin
hiện tại không đáp ứng được nhu cầu về nhân sự mà được mô tả trong đoạn
(A).


(C) Giám sát việc phát triển các chương trình giảng dạy, phương pháp đào tạo
và ưu tiên đào tạo tương ứng với nhu cầu nhân sự dự kiến của Chính phủ
Liên bang liên quan đến công nghệ thông tin và quản lí nguồn nhân lực, và;
(D) Đánh giá việc đào tạo các nhân viên Liên bang trong các ngành công nghệ
thông tin để đảm bảo rằng các nhu cầu quản lí nguồn thơng tin của Chính
phủ Liên bang được giải quyết.”
Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹ cịn có các quy định về các chương trình đào tạo cơng
nghệ thơng tin quy định tại phần 209 (2) và các chương trình đào tạo như vậy sẽ:

“(A) có chương trình giảng dạy bao gồm một loạt các môn công nghệ thông tin
tương ứng với nhu cầu quản lí nguồn thơng tin và công nghệ thông tin của các cơ
quan liên quan,
(B) được phát triển và ứng dụng theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt, và
(C) được thiết kế để tối đa hóa hiệu quả, thơng qua việc sử dụng các khóa học tự
chọn, các khóa học trực tuyến, đào tạo tại chỗ, và sử dụng các giáo viên đào tạo từ xa,
ở bất cứ nơi nào mà các khóa học như thế có thể được áp dụng mà không làm giảm
hiệu quả của việc đào tạo hay có tác động tiêu cực đến các tiêu chuẩn học thuật.”[37]
Ngồi Luật Chính phủ điện tử là đạo luật riêng quy định về phát triển Chính phủ
điện tử ở Mỹ, cịn có một số đạo luật khác hỗ trợ cho việc phát triển Chính phủ điện tử
như Luật tự do thơng tin có hiệu lực năm 2008, Luật bảo mật năm 1974… Với một hệ
thống pháp lí vững chắc như trên, Chính phủ điện tử ở Mỹ đã có những bước tiến vượt
bậc trong hơn 10 năm qua và đạt được những thành tựu nhất định.
c) Các thành tựu đạt đƣợc của Chính phủ điện tử Mỹ
Hiện nay, Chính phủ Mỹ đã xây dựng trên 30,000 trang web Chính phủ trên phạm
vi tồn quốc. Các trang mạng của Chính phủ Mỹ đứng đầu thế giới về sự hoàn thiện,
điều này chủ yếu được thể hiện ở chỗ: các cơ quan thuộc cấp Chính phủ Liên bang
tồn bộ truy cập mạng Internet, tất cả các chính quyền bang cũng đều lên mạng, và gần
như tất cả các huyện, thị đã xây dựng các trang web cho mình. Nội dung của các trang
web của Chính phủ rât phong phú, vừa có thơng tin trong lĩnh vực king tế, chính trị,
qn sự; vừa có các thơng tin về tiêu dùng… Hầu như tất cả những việc trong đời sống
thường nhật có liên quan đến Chính phủ, đều có các trang mạng tương ứng cung cấp
dịch vụ.
Xét về cấp độ, các trang web của Chính phủ Mỹ có thể chia làm ba cấp: Liên
bang, bang, thành phố (huyện), các trang web ở mỗi cấp được phân công rõ ràng, cung
cấp các dịch vụ có nội dung khác nhau. Chính quyền ở mỗi bang và mỗi thành phố đều


xây dựng trang web độc lập cho riêng mình, doanh nghiệp hoặc người dân có thể căn
cứ vào nội dung nghiệp vụ, thông qua truy cập các trang mạng của bang hoặc huyện,

thị sở tại là có thể nhận được các dịch vụ khác nhau. Mỗi trang web của Chính phủ đều
mạng những nét đặc sắc cho riêng mình, nội dung bao gồm thu thuế, giấy phép kinh
doanh, đăng kí kinh doanh, hộ chiếu và mọi thông tin đáp ứng các nhu cầu cụ thể của
mỗi người dân ở các khu vực khác nhau.
Ở cấp liên bang, Mỹ đã xây dựng trang mạng www.firstgov.gov, trang web này
bao hàm tất cả mọi dịch vụ của Chính phủ Liên bang. Đây là trang web có tới 186
triệu trang thơng tin kết nối với hơn 22.000 trang web của chính quyền Liên bang và
chính quyền các bang. www.Firstgov.gov là một trong 50 trang web tiện ích nhất do
yahoo thiết kế vào tháng 7/2002 và hiện thời, trang web này đã và đang được cải tiến
để cung cấp dịch vụ Chính phủ chỉ trong vịng “ba nháy chuột”.
Ngồi ra Chính phủ Mỹ cũng đã xây dựng được một số trang web tiện ích khác đã
được đưa vào sử dụng và được người dân Mỹ hưởng ứng tham gia rộng rãi bao gồm:
Hệ thống trả lương điện tử (E-Payroll): đây là hệ thống trả lương nhằm rút gọn
các cơ quan quản lý tiền lương cho nhân viên Chính phủ từ con số 22 xuống cịn 2, đó
là DoD/GSA và USDA/DOI. Hệ thống này đã giúp Chính phủ tiết kiệm được gần 1 tỷ
đơ la trong 10 năm qua.
Trang web www.Business.gov: đây là trang web chuyên cung cấp cho các doanh
nghiệp nhỏ khả năng truy cập thông tin về các quy tắc pháp luật, các công cụ hỗ trợ và
khả năng thực hiện các giao dịch trên mạng. Trang web này cũng là một cổng thông
tin được kết nối với các trang web của chính quyền Liên bang, chính quyền bang và
chính quyền địa phương.
Dịch vụ trình văn bản thuế (IRS free Filling): đây là dịch vụ cho phép hơn 78
triệu người Mỹ có thể trình văn bản thuế trên mạng miễn phí. Theo ước tính, đã có
khoảng 3,5 triệu người Mỹ sử dụng dịch vụ này vào năm 2003 và dự đoán con số này
sẽ ngày càng tăng.
Dịch vụ Integrated Acquistition Environment: dịch vụ này đã cho ra đời một số
trang web và các công cụ quan trọng như www.PPIRS.gov, đây là hệ thống phục hồi
thơng tin được dùng để tìm cũng như phục hồi lại những thông tin đã mất và
www.FedTeDS.gov là trang web hệ thống dữ liệu kĩ thuật Liên bang.
Trang web www.GoLearn.gov: đây là một trong những trang web đào tạo điện tử

được sử dụng nhiều nhất trên thế giới. Trang web có thể cho phép đến hơn 45.000


×